Powered By Blogger

Thứ Hai, 18 tháng 6, 2012

Tiền sử Việt Nam (VI)


Tiền sử Việt Nam (VI)
 
Người viết: Hà Hữu Nga

Theo đặt hàng của GS. Phan Huy Lê (2005)


Lưu ý đầu trang: Đây là bản draft đầu tiên tôi [Hà Hữu Nga] viết theo đặt hàng của GS. Phan Huy Lê, dưới sự hướng dẫn của GS. Trần Quốc Vượng. Vì vậy xin có ba lưu ý quan trọng:

1. Bản draft này được lưu ở đây với tư cách cá nhân và là bản draft chưa được chỉnh sửa.
2. Mọi hình thức sử dụng như: sao chép, trích dẫn v.v…là không hợp lệ.  
3.Vì GS. Trần Quốc Vượng ốm nặng và mất trước khi đọc bản draft này vào năm 2005 nên mọi sai sót có trong draft đều thuộc về người viết; nhiều quan điểm trong bài viết không chắc đã được GS. Trần Quốc Vượng đồng ý. 


Các cư dân thời đại kim khí ở vùng đồng bằng Bắc Trung Bộ

Khu vực Thanh Hóa: con đường phát triển của các cư dân thời đại kim khí tại vùng đồng bằng sông Mã có nguồn gốc từ văn hóa hậu kỳ đá mới ở đây, thuộc giai đoạn Gò Trũng của con đường đá mới Đa Bút. Trong số các cư dân hậu duệ của người hậu kỳ đá mới khu vực này, trước tiên phải kể đến người Hoa Lộc. Họ còn để lại các di tích văn hóa sơ kỳ kim khí quí giá tại khu vực bắc Thanh Hóa, gồm có Hoa Lộc, Liên Lộc, Cồn Nghè, Bái Man, Bái Cù, Bãi Trung, Thành Nghi, Ngọc Thuận. Vào đến khu vực ngã ba Sông Mã, Sông Chu có nhóm di tích Cồn Chân Tiên - Đông Khối. Người Hoa Lộc cư trú trên các dải cồn cát ven sông biển thuộc huyện Hậu Lộc. Họ sử dụng những chiếc rìu và cuốc đá có vai. Trong các di chỉ thuộc văn hóa Hoa Lộc còn tìm thấy cả dấu Bắc Sơn, bàn mài lòng máng kiểu Hạ Long. Đồ gốm Hoa Lộc đặc biệt phong phú về các motif hoa văn trang trí, trong đó phải kể đến văn trổ lỗ kiểu Hạ Long. Hoa văn gốm Hoa Lộc rất gần gũi với hoa văn gốm Mả Đống. Vì sự tương đồng đó mà niên đại C14 của Mả Đống cũng được sử dụng để tham khảo niên đại Hoa Lộc, nó có tuổi là 4145 ± 60 năm cách ngày nay, thuộc sơ kỳ kim khí. Người Hoa Lộc là các nhóm cư dân làm nông dùng cuốc canh tác trên vùng đất cát ven biển kết hợp với săn bắt thú hoang và đánh cá [Lê Văn Thuế, Vũ Thế Long 1976].

Người Hoa Lộc có những mối quan hệ văn hóa gần gũi với các nhóm cư dân Cồn Chân Tiên - Đông Khối, là đại diện của các nhóm sơ kỳ kim khí thuộc khu vực đồng bằng sông Mã. Các nhóm này chuyên chế tác công cụ đá cung cấp cho các nhóm sơ kỳ kim khí khác trong vùng, kể cả các nhóm di tích Bái Man, Qùi Chử. Người dân Bái Man đã phát triển kỹ thuật chế tác đá đến trình độ cao. Giống như các cư dân Phùng Nguyên, người Bái Man cũng làm ra những chiếc rìu bôn tứ giác và chế tác các sưu tập đồ trang sức bằng ngọc bích hoặc đá Nephrite. Gốm của họ về chất liệu có gốm thô, gốm mịn, gốm xốp, được trang trí văn thừng, văn cuống rạ, trổ lỗ, chấm dải, văn chải, sóng nước và khắc vạch. Niên đại của nhóm cư dân Bái Man muộn hơn đôi chút so với các cư dân Đông Khối và Cồn Chân Tiên. Và nó là khâu nối từ cư dân sơ kỳ đồng thau qua Bái Man lên giai đoạn hậu kỳ và trở thành Đông Sơn. Nhóm cư dân Bái Man còn bao gồm cư dân Cồn Cấu (lớp dưới), Đồng Ngầm (lớp dưới), Thiệu Dương (lớp dưới). Nhóm cư dân Qùi Chử thuộc huyện Hoàng Hóa, cư trú ở tả ngạn sông Mã. Các nhà nghiên cứu cho rằng đây là nhóm tiền Đông Sơn và trực tiếp phát triển thành Đông Sơn. Bộ công cụ của cư dân Qùi Chử đã hiếm thấy chế tác bằng nguyên liệu đá, xuất hiện công cụ và vũ khí bằng đồng như giáo búp đa, dao, kéo, rìu xòe cân. Cư dân Qùi Chử còn để lại các di tích Qùi Chử lớp dưới, Xóm Rú, Đông Sơn (lớp mộ sớm), Thiệu Dương (lớp dưới), Núi Nấp (lớp dưới). Nhóm cư dân này thuộc giai đọan trung và hậu kỳ thời đại đồng thau, tương đương với các giai đọan Đồng Đậu và Gò Mun ở Bắc Bộ.

Khu vực Thanh Hóa còn có nhóm cư dân thời đại kim khí phân bố trên các địa điểm miền núi phía tây. Đó là các di chỉ Na Tham, Thẩm Tiên, Chòm Pheo, Hang Anh Rồ, Pha Ké...vv. Đa số các di tích này đều phân bố trong các hang động, mái đá thuộc miền Tây của tỉnh. Công cụ lao động của cư dân nơi đây thường là những chiếc rìu tứ giác và rìu có vai mài toàn thân gần giống với các sưu tập rìu mài hậu kỳ đá mới – sơ kỳ kim khí Nghệ Tĩnh, Hòa Bình, Sơn La...vv. Đồ gốm của các cư dân thời kim khí Tây Thanh Hóa giống với đồ gốm của các cư dân Cồn Chân Tiên, Hậu Lộc, Phú Lộc. Các nhà nghiên cứu cho rằng cư dân thời đại kim khí Tây Thanh Hóa là những nhóm hậu Hòa Bình vẫn còn trụ lại trên vùng đất này [Hà Văn Tấn (chủ biên) 1999, 188-189]. Chắc chắn họ đã có một nền kinh tế sản xuất đã bước đầu phát triển. Bộ sưu tập cuốc tại Chòm Pheo là minh chứng cho nhận định đó. Ngoài ra họ còn là những người khai thác các nguồn tự nhiên trên vùng núi, trao đổi với các cư dân đồng bằng và ven biển. Họ là những người góp phần làm phong phú bộ mặt văn hóa và lịch sử của người Việt Cổ, đặc biệt là những tri thức về môi trường rừng núi.

Khu vực Nghệ An – Hà Tĩnh: tổ tiên trực tiếp của các cư dân thời đại kim khí Nghệ – Tĩnh chí ít bao gồm hai nguồn: đó là các nhóm cư dân văn hóa Thạch Lạc và các nhóm cư dân Quỳnh Văn muộn. Trong thời đại kim khí, các nhà nghiên cứu phát hiện được ba nhóm: i) Nhóm Đền Đồi; ii) Nhóm Rú Trăn; iii) Nhóm cư dân vùng núi. Nhóm Đền Đồi phân bố chủ yếu tại khu vực Quỳnh Hậu, Quỳnh Lưu (Nghệ An). Nhóm cư dân này sử dụng các công cụ đá mài là những chiếc rìu và bôn hình thang có kích thước nhỏ. Người Đền Đồi chế tạo gốm bằng kỹ thuật bàn xoay với các loại hình vò, bát, bình, mâm bồng, và các đồ dùng để đun nấu. Đặc biệt tại Đền Đồi cũng phát hiện được gốm tô màu đỏ, tô ánh chì. Điều đó cho thấy những mối liên hệ nguồn gốc với cư dân Thạch Lạc giai đọan sớm, dù có ý kiến xếp Thạch Lạc vào sơ kỳ kim khí [Hà Văn Tấn (chủ biên) 1999, 199 – 201]. Tại di chỉ hậu kỳ đá mới Rú Ta, Diễn Châu cũng phát hiện được các loại gốm này. Nhóm cư dân Đền Đồi được các nhà nghiên cứu cho là cùng thời với các cư dân Phùng Nguyên (Bắc Bộ), Cồn Chân Tiên (đồng bằng Sông Mã). Cùng nhóm Đền Đồi còn có các cư dân thuộc những di chỉ sau: Rú Ta lớp trên, Thạch Lâm lớp trên, Bãi Thình Thình, Bãi Điền Điền, Rú Nài, Rú Nghèn, Cồn Bến Lội.

Nhóm cư dân Rú Trăn gồm có người Rú Trăn và người Rú Cật (Nam Đàn, Nghệ An). Không giống Đền Đồi, bộ sưu tập Rú Trăn rất phong phú. Riêng đồ đá có cuốc vai lệch, bàn mài, hòn ghè, mũi nhọn, mảnh đá có vết cưa...vv. Ngoài ra tại đây còn phát hiện được một số đồ đồng, gồm có hai chiếc cuốc, 1 mũi nhọn, 1 nhẫn đồng và một miếng xỉ đồng. Gốm Rú Trăn bao gồm bình, lọ, nồi, bát...vv, được trang trí bằng văn thừng, chấm dải, khắc vạch, sóng nước, chấm tròn, hoa văn đắp nổi. Đặc biệt còn phát hiện được 5 mảnh nồi nấu đồng, 29 mảnh chân giò. Rú Trăn được xem là muộn hơn và phát triển cao hơn Đền Đồi. Họ là những cư dân đã biết nấu đồng [Hà Văn Tấn (chủ biên) 1999, 199 – 201]. Cư dân Rú Trăn sống cùng thời với cư dân Gò Mun và sau đó trực tiếp phát triển thành giai đọan văn hóa Đông Sơn trong khu vực đồng bằng sông Cả.

Nhóm cư dân vùng núi Nghệ An – Hà Tĩnh còn để lại di tích của họ tại các hang Ké Sang, Mé Muôn, Hà Tham, Thẩm Tiên, Bản Pun, Hang Pông (Qùi Châu). Ngoài ra còn có các hang Hoong Còn, Piếng Pò, Pò Cung...vv. Tại các di chỉ này đã tìm được rìu có vai và rìu tứ diện được mài toàn thân. Hiện vật đá khác gồm có vòng tay, vòng tai, hạt chuỗi bằng đá ngọc. Đồ gốm được trang trí bằng hoa văn khắc vạch, chấm dải bằng cách in cuống dạ, hoa văn hình chữ S. Đó là các dấu hiệu cho thấy những cư dân nơi đây đã sống trong thời đại kim khí. Tuy nhiên việc phân định được rõ ràng các nhóm cư dân kim khí miền núi Nghệ Tĩnh về mặt không gian và thời gian không phải là công việc dễ dàng, vì tư liệu hiện nay còn khá nghèo nàn.

3.3. Các cư dân thời đại kim khí ở Nam Trung Bộ
           
Cư dân Xóm Cồn: các nhóm cư dân tiền Sa Huỳnh thuộc văn hóa Xóm Cồn phân bố chủ yếu tại khu vực Phú Yên và Khánh Hòa. Cho đến nay đã phát hiện được 8 di chỉ của cư dân này, và các nhà nghiên cứu đã phân thành hai loại hình cư trú. Đó là các khu định cư trong đất liền gồm có Xóm Cồn, Gò ốc, Giồng Đồn. Nhóm định cư ngoài đảo gồm có Bình Hưng, Bình Ca, Bích Đầm, Bãi Trủ và Đầm Gìa. Tuy nhiên dù cư trú ở loại hình nào thì môi trường thân thuộc của người Xóm Cồn vẫn là các cồn cát và biển khơi. Hiện đã có 2 niên đại C14 của di tích người Xóm Cồn, đó là một mẫu vỏ ốc ở lớp cuối di chỉ Xóm Cồn có tuổi 4140 ± 80 năm cách ngày nay, và một mẫu thuộc di chỉ Bích Đầm có tuổi 2935 ± 65 năm cách ngày nay. Người Xóm Cồn sống trong thời đại kim khí cách ngày nay từ 3500 – 3000 năm [Vũ Quốc Hiền, Chu Văn Vệ 1996], họ dùng các công cụ đá, trong đó có cả công cụ ghè đẽo, các công cụ đá mài gồm có rìu, bôn, đục. Cư dân Xóm Cồn cũng sử dụng xương và vỏ nhuyễn thể để chế tác công cụ. Đặc biệt ốc tai tượng được dùng để chế tác đồ trang sức. Tại một số nước trong khu vực như Nhật Bản, Đài Loan, Philippines, và Thái Lan đã tìm thấy các loại hiện vật có cùng chất liệu. Người Xóm Cồn chế tạo gốm bằng kỹ thuật dải cuộn hòn kê. Kỹ thuật bàn xoay thường được sử dụng ở công đọan cuối, để hoàn thiện hình dáng gốm. Đặc biệt họ đã biết trang trí hoa văn bằng kỹ thuật tô màu, văn chắp thêm, trong đó có loại đĩa mâm bồng được tô màu đỏ rất đẹp. Chưa có nhiều tư liệu về thành phần nhân chủng của chủ nhân Xóm Cồn, nhưng việc giám định chiếc răng ở Bình Ba cho thấy nhóm người này thuộc chủng Australo-Mongoloid, trong đó nét Mongoloid đậm hơn. Các nhà nghiên cứu cho rằng cư dân Xóm Cồn đã tạo nên chiếc cầu nối văn hóa giữa miền Trung – Tây Nguyên và khu vực sông Đồng Nai, và người xóm Cồn là một trong số các tiền nhân trực tiếp của người Sa Huỳnh [Hà Văn Tấn (chủ biên) 1999, 314-315].

Cư dân Long Thạnh: nhóm cư dân tiền Sa Huỳnh tạo nên giai đoạn Long Thạnh trong tiền sử khu vực duyên hải Nam Trung Bộ, cư trú dọc các dải đồng bằng ven các dòng sông và bờ biển. Giống như người Phùng Nguyên, Đồng Đậu đã chiếm lĩnh dần dần khu vực Bắc Bộ, cư dân giai đoạn Long Thạnh cũng đã nhanh chóng phát triển các di chỉ cư trú của mình suốt dọc khu vực đồng bằng ven biển. Niên đại C14 ở di chỉ Long Thạnh II là 1420 ± 40 năm trước Công nguyên, và 925 ± 60 năm trước công nguyên. Người Long Thạnh chế tác công cụ sản xuất bằng đá rất độc đáo. Đó là những chiếc cuốc to bản, lưỡi hình vòng cung, rất tiện lợi cho việc canh tác nông nghiệp trên đất cát. Bên cạnh đó, bộ công cụ sản xuất của họ còn bao gồm những chiếc rìu tứ giác, những chiếc bôn “răng trâu” rất quen thuộc đối với khu vực miền Trung – Tây Nguyên. Người Long Thạnh cũng sử dụng loại rìu mài đốc hẹp, không vai, lưỡi xòe, có dáng hình tam giác. Loại hình công cụ này rất phổ biến trong các địa điểm sơ kỳ kim khí khu vực sông Đồng Nai. Người Long Thạnh không chỉ dùng đá ngọc làm đồ trang sức, mà họ còn sử dụng cả vỏ sò vào mục đích này. Trong một ngôi mộ chum thuộc di tích Mỹ Tường đã phát hiện được 800 vỏ ốc có xuyên lỗ. Đồ gốm của cư dân Long Thạnh, tại khu vực Quảng Ngãi, Bình Định được các nhà nghiên cứu đánh giá là độc đáo và đẹp nhất trong số các sưu tập gốm cùng thời. Trong đó nổi bật là loại hoa văn gốm tô ánh chì (graphite) láng bóng. Nét văn hóa đặc trưng khác của người Long Thạnh là chôn người chết bằng mộ chum ngay tại nơi cư trú với các đồ tùy táng được xếp đặt có chủ ý. Sự chênh lệch về số lượng và chất lượng của đồ tùy táng cho thấy đã có sự phân biệt đáng kể về thân phận của người chết. Nguồn gốc cư dân sơ kỳ kim khí thuộc giai đọan tiền Sa Huỳnh miền Trung được các nhà nghiên cứu lần tìm từ văn hóa Bàu Tró, dựa trên sự tương đồng của bôn răng trâu, gốm tô ánh chì [Hà Văn Tấn 1982].

Cư dân Bình Châu: nhóm cư dân này thuộc vào giai đọan phát triển hậu kỳ đồng thau Nam Trung Bộ, đã để lại các di tích của họ dọc ven biển các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi và thành phố Đà Nẵng. Đó là các di tích Bình Châu, Bàu Trám, Bàu Hòe, Xóm ốc (đảo Lý Sơn), Gò Miếu. Giai đọan Bình Châu còn được phát hiện rải rác tại Ninh Thuận, Bình Thuận (Phú Trường). Người Bình Châu chủ yếu sống ở các đồi cát ven các cửa sông sát biển, tuy nhiên một số nhóm Bình Châu cũng đã vượt biển định cư tại các hòn đảo ngoài khơi, trong đó có đảo Lý Sơn. Người Bình Châu vẫn sử dụng phổ biến công cụ đá, trong đó có chiếc cuốc đá là công cụ canh tác hữu hiệu trên đất cát. Các nhà khảo cổ học coi chiếc cuốc này là tiêu chí xác định đặc trưng tiền Sa Huỳnh cho các di tích ven biển Nam Trung Bộ. Ngoài ra, tuy đã xuất hiện công cụ đồng, nhưng những chiếc rìu bôn đá vẫn còn đóng một vai trò đáng kể trong đời sống của cư dân Bình Châu. Trong giai đọan này, đồ trang sức bằng đá ngọc có phần giảm đi, nhưng lại xuất hiện đồ trang sức bằng gốm, đó là loại khuyên tai gốm hình con đỉa tìm thấy ở Bình Châu và Bàu Trám. Trung tâm điểm của hiện vật gốm Bình Châu vẫn là những mộ bằng gốm, trong đó thường có đồ tùy táng gốm, đó là 3-5 chiếc nồi, vò hoặc bát bồng. Người Bình Châu cũng chôn theo người chết các món đồ trang sức như khuyên tai, quả cân gốm. Loại đồ tùy táng không thể thiếu của giai đoạn này là những hiện vật bằng đồng như đục, lao, lưỡi câu, mũi tên...vv. Giống như người Long Thạnh, cư dân Bình Châu cũng có những mối quan hệ nguồn gốc văn hóa rất gần gũi với các nhóm cư dân phía Bắc như Hoa Lộc và Bàu Tró. Loại khuyên tai gốm hình con đỉa, hiện vật gốm hình quả cân và gốm tô ánh chì, mộ vò ...vv, là những bằng chứng chắc chắn cho mối quan hệ đó. Các nhà khảo cổ học cho rằng “Trong một số di tích ở Đông Nam á cũng có hiện tượng trang trí trên gốm với các màu trắng vôi, màu đen ánh chì và màu đỏ...Có thể phong cách trang trí này của Bình Châu, Phôi Phối đã tham gia vào quá trình thành tạo văn hóa của cư dân vùng hải đảo khu vực Đông Nam Á” [Hà Văn Tấn (chủ biên) 1999, 336].

3.4. Các cư dân thời đại kim khí ở Nam Bộ

Với tư liệu hiện biết, hầu hết cư dân thời đại kim khí Nam Bộ đều phân bố trên các bậc thềm cổ tiếp nối các cao nguyên phía bắc, thấp dần về phía đông nam. Đó là khu vực miền Đông Nam Bộ, thuộc các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước và thành phố Hồ Chí Minh nằm ở hạ lưu sông Đồng Nai. Họ sống trên các khu vực cao ráo ven các sông suối lớn và vùng ven biển, với mật độ cư trú cao, tạo thành các làng xóm có một diện tích rộng từ vài vạn (di chỉ Cầu Sắt, Bến Đò) đến vài chục vạn mét vuông (di chỉ Cái Vạn), bao gồm cả các di chỉ cư trú, nghĩa địa, công xưởng chế tác vật dụng (Bưng Bạc, Suối Linh, Mỹ Lộc...vv). Tuy thuộc phạm trù thời đại kim khí, nhưng sơ kỳ kim khí Đông Nam Bộ vẫn tiếp nối truyền thống hậu kỳ đá mới rất đậm nét, với đủ các loại hình công cụ đá như rìu có vai, rìu tứ giác, bàn mài, bôn, đục, cuốc, mai, dao, hái...vv, trong đó loại hình rìu bôn có vai chiếm tỷ lệ lớn nhất [Phạm Quang Sơn 1978]. Đồ trang sức chất liệu đá của cư dân nơi đây gồm có vòng tay, khuyên tai có mấu, khuyên tai hai đầu thú bằng đá ngọc [Nguyễn Thị Kim Dung, Đặng Văn Thắng...1995]. Loại di vật đá quan trọng nhất ở Đông Nam Bộ, là khuôn đúc đồng. Tại địa điểm Dốc Chùa đã tìm được 73 chiếc, địa điểm Bưng Bạc tìm thấy 38 chiếc [Nguyễn Duy Tỳ, Đào Linh Côn 1985]. Các hiện vật bằng đồng của cư dân thời kim khí Đông Nam Bộ xuất hiện trong các di chỉ thuộc giai đoạn muộn như Cái Vạn, Hàng Gòn, An Hưng, Võ Đông, Dốc Chùa, Suối Chồn. Cư dân Dốc Chùa đã sản xuất được đồng thau gồm có các hợp kim đồng - thiếc - chì.

Bên cạnh nghề thủ công làm đá và đúc đồng, cư dân thời đại kim khí Đông Nam Bộ vẫn phát triển mạnh nghề gốm với các loại hình rất thông dụng như nồi, vò, bình, bát. Tương tự với loại hình gốm “chân giò” ở lưu vực đồng bằng sông Hồng, sông Mã, tại lưu vực sông Đồng Nai, cư dân ở đây đã sáng tạo ra loại sản phẩm gọi là chiếc cà ràng gốm, dùng để đun nấu rất tiện lợi trong điều kiện sông nước Nam Bộ. Giống như cư dân tiền Sa Huỳnh ở Nam Trung Bộ, cư dân thời đại kim khí Đông Nam Bộ cũng sản xuất nhiều chum, vò gốm phục vụ cho táng thức. Tại các địa điểm Hàng Gòn, Dầu Giây, Phú Hòa, Suối Chồn phát hiện được những mộ chum hay mộ vò gốm có kích thước lớn. Tuy nhiên chúng có niên đại khá muộn, với các hiện vật tùy táng gồm có giáo, rìu, kiếm, khuyên tai, hạt chuỗi, trong đó đã có sản phẩm được chế tác từ sắt. Trong số những đồ tùy táng, các nhà nghiên cứu đã phát hiện được cả thủy tinh. Cư dân nơi đây đã chế tạo loại vòng tay thủy tinh có mặt cắt hình tròn, hoặc làm khuyên tai hai đầu thú, khuyên tai ba mấu. Đồ thủy tinh ở đây được chế tạo bằng phương pháp đúc [Nguyễn Trường Kỳ 1983]. Trong giai đọan thời đại sắt các cư dân tiền óc Eo và óc Eo cũng đã sử dụng vàng, bạc một cách phổ biến. Ngoài ra các nhà khảo cổ học đánh giá rất cao trình độ phát triển của cư dân thời đại kim khí Đông Nam Bộ, đặc biệt là bộ qua đồng Long Giao, gồm có 19 chiếc nguyên vẹn và 12 mảnh vỡ, được phát hiện tại xã Xuân Tân, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai. Nhóm qua này thể hiện nghệ thuật đúc đồng hoàn thiện của cư dân thời đại kim khí Đông Nam Bộ [Phạm Đức Mạnh 1985].

Cho đến nay lịch sử cư dân thời kim khí Đông Nam Bộ được xem xét qua bốn giai đoạn phát triển. Đại diện cho giai đọan đầu tiên là các cư dân thuộc địa điểm Cầu Sắt. Các cư dân này sống cùng thời với các cư dân thuộc giai đọan Phùng Nguyên đồng bằng Bắc Bộ. Trong giai đoạn này cư dân Cầu Sắt sản xuất và sử dụng những công cụ đá mài có kích thước nhỏ hoặc vừa phải. Người ta vẫn sử dụng các loại dao hái chế tác bằng kỹ thuật ghè đẽo đá, hoặc kỹ thuật mài cùng với các mũi nhọn cũng được làm từ mảnh tước. Bên cạnh đó cư dân Cầu Sắt chế tạo gốm bằng kỹ thuật bàn xoay, một số loại hình gốm được làm bằng tay. Người Cầu Sắt chưa làm được các công cụ và vật dụng bằng kim loại. Giai đoạn phát triển tiếp theo do cư dân Bến Đò làm đại diện. Họ đã phát triển những công cụ lao động có kích thước lớn như cuốc, mai, các loại rìu có vai. Cư dân Bến Đò hoàn toàn chế tác gốm bằng kỹ thuật bàn xoay. Tuy nhiên giai đọan này vẫn chưa thấy cư dân ở đây sử dụng kim loại. Niên đại C14 tại địa điểm Bến Đò có tuổi 3040 ± 140 năm cách ngày nay và 3000 ± 110 năm cách ngày nay (tính đến năm 1950). Tiếp theo Bến Đò là giai đọan do cư dân Cù Lao Rùa làm đại diện. Trong giai đoạn này người dân không còn sử dụng dao hái và đục đá như trước nữa. Loại công cụ lớn có vai như cuốc, mai cũng giảm mạnh, trong khi đó người dân lại ưa dùng loại công cụ không có vai. Đặc biệt cư dân giai đọan này đã biết đúc đồng và sử dụng công cụ đồng, những hiện vật này đã được phát hiện tại di chỉ Cù Lao Rùa. Các niên đại C14 tại địa điểm Dốc Chùa có thể sử dụng để tham khảo niên đại của của cư dân Cù Lao Rùa, đó là hai mẫu có tuổi 3145 ± 105 năm cách ngày nay và 2990 ± 105 năm cách ngày nay. Tiếp theo là người Dốc Chùa với các nhóm tiêu biểu như Long Giao, Suối Chồn và Dốc Chùa lớp trên. Cư dân giai đoạn Dốc Chùa đã rất thành thạo trong việc chế tác công cụ, vũ khí và vật dụng bằng đồng thau, bao gồm rìu, giáo, lao, đồ trang sức vòng đồng, tượng động vật. Điển hình nhất là loại rìu đồng lưỡi cân, một mặt phẳng, một mặt lồi và bộ qua đồng Long Giao. Ngoài ra không nơi nào trên đất nước chúng ta lại tìm thấy nhiều khuôn đúc đồng nhiều như đã tìm thấy tại các địa điểm của cư dân Dốc Chùa [Hà Văn Tấn (chủ biên) 1999, 384-387; Lê Xuân Diệm – Phạm Quang Sơn – Bùi Chí Hoàng 1991].


Còn nữa…


Tài liệu Tham khảo

Aung-Thwin, Michael 1985. Pagan: the Origins of Modern Burma. Honolulu: University of Hawaii Press., p. 87.

Bellwood P. 1997. Prehistory of the Indo-Malaysian Archipelago. 2nd Edition. Honolulu: University of Hawaii Press.

Bentley, G. Carter 1986. Indigenous States of Southeast Asia. Annual Review of Anthropology 15: 275 – 305.

Bowler, Sandra 2001. Nguồn gốc Châu Á Khảo cổ học và Nhân học, trong Bức khảm văn hoá Châu Á - Tiếp cận Nhân học (Grant Evans chủ biên), bản tiếng Việt, do Cao Xuân Phổ dịch, Nhà xuất bản Văn hoá Dân tộc, Hà Nội 2001. Trang 51.

Bùi Vinh 1993. Khai quật di chỉ Làng Còng (Thanh Hoá) – 1992. Trong Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1992, Hà Nội, trang 50 -51.

Bùi Vinh 2003. Cư dân văn hoá Đa Bút trong các đợt biển tiến (Nhận thức qua tư liệu Địa - Khảo cổ học ở Làng Còng và Hang Sáo). Tạp chí Khảo cổ học, số 2 (122) (III-IV), trang 3-15.

Chử Văn Tần 1976. Tìm hiểu quá khứ xa xưa của Tây Bắc. Khảo cổ học, số 18-1976, trang 40-53.

Ciochon R.L, 1988. Gigantopithecus the King of all apes. Animal Kingdom, Vol. 91, No. 2, 1988.

Colani, M. 1928. Notice sur la préhistoire du Tonkin, BSGI, vol. XVIIIV, 1, pp. 71-72.

Diệp Đình Hoa 1978: Về những hiện vật kim loại ở buổi đầu thời đại đồ đồng thau Việt Nam, Tạp chí Khảo cổ học số 2, trang 11-20.

Donald, M. 1991. Origins of the Modern Mind: Three Stages in the Evolution of Culture and Cognition. Cambridge, MA: Harvard University Press.

Đào Quí Cảnh 2004. Vấn đề nông nghiệp trong văn hoá Hoà Bình ở Việt Nam. Trong Một thế kỷ Khảo cổ học Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội. Trang 64.

Đào Thế Tuấn 1988.   trang 44. Về những hạt gạo cháy phát hiện ở Đồng Đậu (Vĩnh Phú) năm 1984. Tạp chí Khảo cổ học, số 4, trang 44-46.

Earle, Timothy, ed. 1991. Chiefdom: Power, Economy and Ideology. New York: Cambridge University Press.

Eblen, Ruth A. and William R. Eblen, Editors 1994. The Encyclopedia of the Environment. The René Dubos Center for Human Environments. Huston Mifflin Company, Boston New York 1994. p. 4.

Eisler R. 1987. The Chalice and The Blade: Our History, Our Future. New York, Harper & Row, 1987.

Gardner, H. 1997. Thinking about thinking. New York Review of Books. 9-10-1997.

Gorman C.E. 1970. Excavations at Spirit Cave, North Thailand: some interim interpretations. Asian Perspectives 13: 79-107.

Gorman C.E. 1971. The Hoabinhian and after: subsistence patterns in Southeast Asia during the late Pleistocene and early Recent periods. World Archaeology 2 (3): 300 – 320.

Grenier, Louise 1998. Working with Indigenous Knowledge, a Guide for Researchers. International Development Research Centre, Ottawa, Canada.  pp. 1-9.

Hà Hữu Nga 1982. Thời đại đá mới Việt Nam: Môi trường – Văn hóa và một mô hình tổng quát. Trong Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 1982. Hà Nội.
         
Hà Hữu Nga, Nguyễn Cường, và Bùi Vinh 1996. Báo cáo Khai quật di chỉ Mai Pha (Lạng Sơn). Tư liệu Viện Khảo cổ học.

Hà Hữu Nga 1998. Có một nền văn hoá Soi Nhụ tại khu vực vịnh Hạ Long. Kỷ yếu Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 1997. Hà Nội 1998, trang 91.

Hà Hữu Nga, Nguyễn Văn Hảo 1999. Hạ Long thời tiền sử. Nhà xuất bản Thế giới, Hà Nội 1999.

Hà Hữu Nga 2000. Soi Nhụ – Nền văn hoá cổ nhất hiện biết trên vịnh Hạ Long.  Hội thảo Vịnh Hạ Long 5 năm di sản Thế giới, do UBND Tỉnh Quảng Ninh – Bộ Văn hoá Thông tin và Uỷ ban UNESCO Việt Nam tổ chức, Hạ Long 4-2000, trang 72-80.

Hà Hữu Nga 2004. Khảo cổ học Đông Bắc Việt Nam từ những hệ thống sinh thái nhân văn tới các cấu trúc xã hội tiền nhà nước. Trong Một thế kỷ Khảo cổ học Việt Nam, Tập I, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, năm 2004. Trang 117-139.

Hà Văn Tấn 1962. Về vấn đề người Indonesian và loại hình Indonesian trong thời đại nguyên thuỷ Việt Nam. Thông báo Khoa học Đại học Tổng hợp, Sử học I, trang 168 – 202.

Hà Văn Tấn 1976. Nguồn gốc văn hóa Phùng Nguyên và vấn đề Tiền Việt Mường (một giả thiết công tác mới).

Hà Văn Tấn 1982. Từ Bàu Tró đến Sa Huỳnh. Trong Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1980, Hà Nội, trang 142-144.

Hà Văn Tấn 1984. Lớp dăm đá vôi ở Ngườm với khí hậu cuối Pleistocene ở Đông Nam Á. Kỷ yếu Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1984, trang 18-20.

Hà Văn Tấn 1986. Kỹ nghệ Ngườm trong một phối cảnh rộng hơn. Tạp chí Khảo cổ học, số 3, 1986, trang 3-10.

Hà Văn Tấn (chủ biên) 1998. Khảo cổ học Việt Nam. Tập I. Thời đại đá Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội. Trang 76.

Hà Văn Tấn (chủ biên) 1999. Khảo cổ học Việt Nam. Tập II. Thời đại kim khí Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội. 

Hà Văn Tấn, Nguyễn Xuân Mạnh,...1985. Khai quật lần thứ hai di chỉ Thành Dền (Hà Nội), trong Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 1984, trang 95.

Hà Văn Tấn (chủ biên) 1998. Khảo cổ học Việt Nam. Tập I. Thời đại đá Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội. Trang 60 – 63.

Hà Văn Tấn, Bùi Vinh và Võ Qúi 1990. Những dấu hiệu về một nền văn hoá khảo cổ mới ở Hà Tuyên. Tạp chí Khảo cổ học, số 1-2-1990. trang 34-38.

Hall, Keneth R. 1985. Maritime Trade and State Development in Early Southeast Asia. Honolulu: University of Hawaii Press.

Higham, Charles F. W. 1989. The later Prehistory of Mainland Southeast Asia. Journal of World Prehistory 3: 235 – 282.

Hoàng Xuân Chinh và Nguyễn Văn Bình 1978. Điều tra khảo cổ học thời đại đá cũ ở Đồng Nai và Sông Bé. Kỷ yếu Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1978.

Hodder, Ian 1991. Reading the Past – Current Approaches to Interpretations in Archaeology. Second Edition. Cambridge University Press. pp. 121-149.

Lê Văn Thuế, Vũ Thế Long 1976. Nghiên cứu di tích xương răng động vật ở di chỉ Hoa Lộc (Thanh Hóa). Trong Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1976, Hà Nội, trang 145.

Lê Văn Thuế – Vũ Thế Long 1986. Di cốt động vật ở Hang Dơi (Lạng Sơn). Trong Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1985, Hà Nội 1986, trang 49.

Lê Xuân Diệm – Phạm Quang Sơn – Bùi Chí Hoàng 1991. Khảo cổ học Đồng Nai thời Tiền sử. Nhà xuất bản Đồng Nai.

Lưu Tỳ, Nguyễn Thế Tiệp, Nguyễn Tứ Dần ... 1985. Đặc điểm địa mạo thềm lục địa Việt Nam và các vùng lân cận, Tạp chí Khảo cổ học, số 2-1985, trang 16 – 18.

Mansuy H. 1924. Stations préhistoriques dans les carvenes du massif calcaire de Bacson (Tonkin). MSGI. Vol. 11,No. 2.

Mansuy H. 1925. Stations préhistoriques de Keo Phay (suit) de Khac Kiem (suit) de Lai Ta (suit) et Bang Mac dans le massif calcaire de Bac Son (Tonkin). MSGI. Vol. 12, No. 2.

Mansuy H. et M. Colani 1925. Néolithique inferieur (Bacsonien) et néolithique superieur dans les Haut Tonkin. MSGI. 12, f.3.

Mansuy, H. 1925. Nouvelles de cauvertes dans les carvens du massif calcaire de Bac Sơn (Tonkin). MSGI. Vol. 12, N0 1, p. 34.

Mithen, Steven J. 1996. The Prehistory of the Mind: The Cognitive Origins of Art, Religion and Science. Cambridge: Cambridge University Press.

Nguyễn Cường 2002. Văn Hoá Mai Pha. Sở Văn hoá Thông tin Lạng Sơn, trang 90.

Nguyễn Duy và Nguyễn Quang Quyền 1966. Nghiên cứu về hai sọ cổ ở Quỳnh Văn – Nghệ An. Trong Một số báo cáo về Khảo cổ học Việt Nam. Hà Nội, trang 351-366.

Nguyễn Duy Tỳ, Đào Linh Côn 1985. Kỹ thuật luyện kim đồng thau ở địa điểm Dốc Chùa. Tạp chí Khảo cổ học, số 3, trang 24-30.
   
Nguyễn Đình Khoa 1986. Con người thuộc văn hoá Hoà Bình. Tạp chí Khảo cổ học số 1-1986.

Nguyễn Khắc Sử 1983. Sự phát triển kinh tế và tổ chức xã hội của cư dân cổ Cúc Phương, Tạp chí Khảo cổ học, số 1 - 1983, trang 20.

Nguyễn Khắc Sử 1995. Văn hóa Biển Hồ ở Tây Nguyên. Tạp chí Khảo cổ học, số 3- 1995, trang 7 – 16.

Nguyễn Khắc Sử và cộng sự 1998. Báo cáo điều tra khảo cổ học vùng ngập nước tỉnh Lai Châu (chủ biên). Tư liệu Viện Khảo cổ học.

Nguyễn Kim Thuỷ 2004. Cư dân Đa Bút qua tài liệu Sinh khảo cổ. Tạp chí Khảo cổ học, số 1 (127) (I-II), trang 15-23.

Nguyễn Lân Cường 1977. Di cốt người cổ ở hang Con Moong. Kỷ yếu Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1976. Hà Nội 1977. Trang 112

Nguyễn Lân Cường 1988a. Trở lại vấn đề niên đại của hoá thạch người ở Việt Nam. Tạp chí Khảo cổ học số 1-2, 1988, trang 4-11.

Nguyễn Lân Cường 1988b. Di cốt người cổ trên đất Lạng Sơn. Tuyển tập luận văn Hội nghị khoa học Xứ Lạng, Lạng Sơn 1988, trang 39.

Nguyễn Lân Cường 1992. Những hoá thạch người cổ ở Việt Nam và Đông Nam Á trong thời kỳ Pleistocene. Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam á, số 1, trang 5-12.

Nguyễn Lân Cường 1996. Đặc điểm nhân chủng cư dân văn hoá Đông Sơn
ở Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội 1996.

Nguyễn Thị Kim Dung 1986. Báo cáo khai quật công xưởng Tràng Kênh lần thứ hai. Tư liệu Viện Khảo cổ học.

Nguyễn Thị Kim Dung, Đặng Văn Thắng...1995. Đồ trang sức trong mọ chum ở Cần Giờ. Trong Khảo cổ học, số 2, trang 27-45.

Nguyễn Trung Chiến 2003. Mối quan hệ và liên hệ ở bình tuyến đá mới hậu Hoà Bình – Bắc Sơn ven biển Đa Bút – Quỳnh Văn – Cái Bèo – Bàu Dũ. Tạp chí Khảo cổ học, số 4 (124) (VII-VIII), 2003, trang 11 - 12.

Nguyễn Trường Kỳ 1983. Bước đầu tìm hiểu nghề thủy tinh ở nước ta. Tạp chí Khảo cổ học, số 1, trang 47-54.

Nguyễn Văn Long và Lê Trung Khá 1977. Về những hiện vật đá cũ mới tìm được ở Vườn Dũ (Sông Bé) và Gia Tân (Đồng Nai). Tạp chí Khảo cổ học, số 4-1977.

Patte E. 1932. Le Kjokkenmodding néolithique de Dabut et ses sépultures (province de Thanh Hoa, Indochine). BSGI, Vol. XIX, pt.3, 1932.

Phạm Đức Mạnh 1985. Qua đồng Long Giao. Tạp chí Khảo cổ học, số 1, trang  37 – 68.

Phạm Quang Sơn 1978. Bước đầu tìm hiểu sự phong phú văn hóa hậu kỳ đá mới, sơ kỳ đồng thau ở lưu vực sông Đồng Nai. Tạp chí Khảo cổ học, số 1, trang 35-40. 

Phạm Thị Ninh 1995. Văn hoá Bàu Tró - đặc trưng và loại hình. Luận án Phó tiến sĩ, Khoa học lịch sử, Hà Nội, trang 9 – 11.

Sahlins. M.D., and E. R. Service, eds. 1960. Evolution and Culture. Ann Arbor: University of Michigan Press.

Saurin E. 1939. Les cranes préhistoriques inédit de Lang Cuom. Far Eastern Association of Tropical Medicine 10ème Congrès. T. I. Hanoi.

Saurin E. 1956. Outilage Hoabinhien à Giap Khau, Port Courbet (Nord Vietnam). BEFEO. Vol. XLVIII, No. 2, 1956.

Sharer, Robert J. and Wendy Ashmore 1992. Archaeology Discovering Our Past. Second Edition. Mayfield Publishing Company, Mountain View, California. London . Toronto. Pp. 561-562.

Taylor, Keith W. 1992. The early Kingdoms. Pp. 137 - 182 in The Cambridge History of Southeast Asia, N. Tarling, ed. Cambridge: Cambridge University Press. P. 181. 

Tỉnh uỷ, Uỷ ban Nhân dân tỉnh Quảng Ninh 2001. Địa chí Quảng Ninh. Tập I, Nhà xuất bản Thế giới, Hà Nội, trang 421.

Trần Quốc Vượng 1974. Vài suy nghĩ tản mạn về trống đồng. Trong Khảo cổ học, số 14, Hà Nội, tr. 71-81.

Trần Quốc Vượng 1986. Văn hoá Hoà Bình, văn hoá Thung lũng. Tạp chí Khảo cổ học, số 2-1986, trang 1- 6.

Trần Quốc Vượng 1993. Mấy nét khái quát lịch sử cổ xưa về cái nhìn về biển của Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 1, 1993.

Trần Quốc Vượng 1996. Mấy ý kiến về trống đồng và Tâm thức Việt cổ. Trong Theo dòng lịch sử - Những vùng đất, thần và tâm thức người Việt. Nxb. Văn hóa, Hà Nội, tr 39-65.

Trần Quốc Vượng 2000. Việt Nam và biển Đông, Tạp chí Văn hoá dân gian, số 3(71), 2000.

Trình Năng Chung 1991. Kỹ nghệ Ngườm và văn hoá Bắc Sơn, Tạp chí Khảo cổ học, số 2, trang 16 – 21.

Verneau R. 1909. Les cranes humains du gisement de Pho Binh Gia (Tonkin). L’Anthropologie. No. 20: 545-549.

Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam 1969. Những hiện vật tàng trữ tại Viện Bảo tàng Việt Nam về văn hoá Bắc Sơn, Hà Nội, trang 140.

Vũ Quốc Hiền, Chu Văn Vệ 1996. Công cụ đá và đồ trang sức bằng vỏ nhuyễn thể ở di chỉ Bích Đầm (Khánh Hòa). Trong Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1976, Hà Nội, trang 90.

Vũ Thế Long, Lê Trung Khá, và Hoàng Văn Dư 1977. Khai quật Thẩm ồm (Nghệ An) đợt I. Trong Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1977, trang 13.

Vũ Thế Long 1982. Về những chiếc răng vượn khổng lồ. Trong Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1982, trang 67-69.

Vũ Thế Long 1984. Người Hoà Bình và thế giới động vật. Tạp chí Khảo cổ học, số 1-2, 1984. Trang 126.

Vũ Thế Long, Hà Hữu Nga 2004. Phát hiện công cụ thời đại đá cũ ở Đak Lak. Kỷ yếu Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 2003. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội.

Wheatley, Paul 1979. Urban genesis in mainland South East Asia. Pp. 288 – 303 in Early South East Asia: Essays in Archaeology, History and Historical Geography. R. B. Smith and W. Watson, eds. New York: Oxford University Press.

Weidenreich, F. 1943 “The skull of Sinanthropus pekinensis”, Palaeontologica Sinica (n.s. D), Vol. 10, pp. 1 – 298.

Welch, David and Rudith R. McNeill 1991. Settlement, agriculture and population changes in the Phi Mai region, Thailand. Pp. 210 – 228 in Indo-Pacific Prehistory 1990: Proceedings of the 14th Congress of the Indo-Pacific Prehistory Association, Yogyakarta, Indonesia, vol. 2. Bulletin of the Indo-Pacific Prehistory Association 11.

Wisseman C. Jan 1985. Theater States and Oriental Despotisms: Early Southeast Asia in the Eyes of the West. Hull: University of Hull Center for South-East Asian Studies Occasional Paper no. 10., p.9.

Wisseman C. Jan 1992. Trade and settlement in early Java: integrating the epigraphic and archaeological data. Pp. 181 – 197 in Early Metallurgy, Trade and Urban Centers in Thailand and Southeast Asia. I. Glover, P. Suchitta, and J. Villiers, eds. Bankok: White Lotus.

White C. Joyce. 1995. Incorporating Heterarchy into Theory on Socio-Political Development: The Case from Southeast Asia. In Heterarchy and the Analysis of Complex Societies. Robert. M. Ehrenreich, Carole L. Crumley, and Janet E. Levy, eds. Archaeological Papers of the American Anthropological Association, Number 6. Arlington, Va.: American Anthropological Association. Pp. 101 – 123.

Wolter, O. W. 1982. History, Culture, and Region in Southeast Asian Perspectives. Singapore: Institute of Southeast Asian Studies.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét