Powered By Blogger

Thứ Sáu, 12 tháng 12, 2014

Haiku Bìm bìm của Kaga Chiyo




Haiku Bìm bìm của Kaga Chiyo

Hà Hữu Nga


Tác giả: 加賀の千代, Kaga no Chiyo [Phúc Điền Thiên Đại Ni], 1703-1775

朝顔
 

に つるべ
取られて もらい水

Asagao 
Ni tsuru be
Tora rete morai mizu

1. Bản dịch tiếng Nga của Vera Markova (nhà thơ Nga 1907-1995, dịch giả tiếng Nhật Bản, tiếng Hán, tiếng Anh, nhà ngữ văn học, học giả chuyên về văn học cổ điển Nhật Bản):

За ночь вьюнок обвился        
Вокруг бадьи моего колодца 
У соседа воды возьму! 

            
[HHNGA dịch ý: Qua đêm dây bìm bìm cuốn quýt - Ôm chiếc gầu bên giếng - Thôi, xin nước bên hàng xóm vậy!]

được Thái Bá Tân dịch ra tiếng Việt như sau:

"Từ rạng sáng,
Tôi cầm chiếc xô như cầm con tin,
Xin nước"

2. Nhật Chiêu [một học giả tài danh] dịch từ tiếng Nhật:

Hoa triêu nhan
dây gầu vương hoa bên giếng
đành xin nước nhà bên

3. Còn tôi dịch liều như dưới đây:

Ơ Bìm bìm
Cuốn lấy gầu rồi
Xin nước hàng xóm vậy. 

GHI CHÚ I: Vì Chiyo là ni Phật giáo, tôn trọng tính như thị, bất tranh nên một buổi sáng kia ra giếng lấy nước, thấy bụi dây bìm cuốn lấy chiếc gầu múc nước thì bà tôn trọng Phật tính Như thị đó, không gỡ bỏ dây hoa để tranh lấy chiếc gầu. Đối với bà, chiếc gầu không còn là phương tiện, là vật sở hữu của bà, mà nó có cuộc đời, nó gắn với vạn vật, và bà tôn trọng quyền ấy của nó và của lũ bìm bìm. Hai Ku này rất đời thường, bình dị, không có gì phải quá mong manh, tinh tế ghê gớm cả, vì sự vật vốn như vậy: तथता Tathatā, 真如  Chân như.

GHI CHÚ 2:
朝顔 Triêu Nhan [bìm bìm, rau muống], tên khoa học do người Hy Lạp xác định: Ιπομοία - Ipomoea είναι πόα και αναρριχώμενο φυτό, ετήσιο και πολυετές. Ευδοκιμεί σε θέσεις με άπλετο ηλιακό φως και μέτριο έδαφος. Ο πολλαπλασιασμός γίνεται με σπόρους, ριζώματα και καταβολάδες και το μέγιστο ύψος του φτάνει τα 5μ. [Bìm bìm Ιπομοία – Ipomoea là loài thân thảo hoặc dây leo tuổi đời hàng năm hoặc lâu năm, phát triển ở những địa hình ôn hòa, nhiều ánh mặt trời. Nhân giống bằng hạt, thân rễ và thân bò lan, dài tới 5m].

Tên thông dụng trong tiếng Anh là Morning Glories [sáng nở trưa tàn], tiếng Hán gọi là
牽牛花 Khiên ngưu hoa [dây chạc, chão dùng để dắt trâu/bò], còn Danh pháp học Calonyction có nguồn gốc tiếng Hy Lạp là καλός [kalos] = tốt đẹp và νύκτα [nycta] = đêm [chỉ đẹp về đêm] và được gọi là moonflowers - nguyệt hoa, tên chung ipomoea - từ tiếng Hy Lạp là ιπς, hoặc ιπος có nghĩa là run, và όμοιος homoios = giống, tương tự, có đặc tính dây leo cuốn, tương tự như loài run bò ngoằn nghèo, loằng ngoằng. Ở Việt Nam bìm bìm có nhiều loại như bìm bìm dại, rau muống, rau khoai lang, và nhiều loại hoa dại khác.

Năm 1972, ở chiến trường Quảng Trị, chúng tôi đã cùng đồng đội suốt ngày lê lết dưới bom đạn lôi dây bìm bìm về ngụy trang hầm kèo và sài món canh bìm bìm dại này, nấu với mắm tôm cô đặc, hoặc chỉ có tý muối trắng, nếu không có nó chắc cũng đã nghẻo rồi. Còn ơn rau muống rau lang thì khỏi nói rồi, chỉ sau ơn đảng bác thôi.


Chủ Nhật, 7 tháng 12, 2014

Trách nhiệm giải trình xã hội*



Trách nhiệm giải trình xã hội*

 

Hà Hữu Nga

 

 

1. Trách nhiệm giải trình xã hội là gì?

 

Trách nhiệm giải trình xã hội là những hành động do các nhóm công dân khởi xướng nhằm đảm bảo rằng các quan chức nhà nước, các nhà lãnh đạo, và các nhà cung cấp dịch vụ phải giải trình về tư cách và hành động của họ trong khuôn khổ chuyển giao các dịch vụ, cải thiện phúc lợi của người dân và bảo vệ các quyền của họ. Các cuộc bàu cử và việc thực hiện quyền lực của người dân là những hành động điển hình của người công dân. Nhưng việc tiếp cận trách nhiệm giải trình xã hội lại đại diện cho một kiểu hành động khác – và điều đó thể hiện cấp độ cam kết và tham gia của người dân ở mức cao hơn. Trách nhiệm giải trình xã hội đòi hỏi người dân, nhất là những người nghèo tham gia vào các hoạt động: i) thu thập thông tin về các chương trình, dự án của chính phủ để có được một tập hợp các dữ liệu vững chắc; ii) phân tích các thông tin đã thu thập được; và iii) sau đó sử dụng các thông tin đã được thu thập, phân tích một cách thận trọng để đảm bảo rằng các quan chức nhà nước, các nhà lãnh đạo, các nhà quản lý, các nhà cung cấp dịch vụ phải thực sự phục vụ cho lợi ích của người dân một cách hiệu quả, và công bằng. [Edwards and Hulme 1996].

Trách nhiệm giải trình theo nghĩa hẹp là phương tiện mà các cá nhân và tổ chức sử dụng để báo cáo lên cấp có thẩm quyền và phải chịu trách nhiệm về các hành động của họ [Mulgan 2000a].

Định nghĩa này bao gồm một số khái niệm sau: i) có tính bên ngoài: giải trình với một cấp thẩm quyền bên ngoài nào đó; ii) liên quan đến các tương tác và trao đổi xã hội: “có thể trả lời cho ai đó và chấp nhận thưởng phạt, phê chuẩn”; và iii) hàm ý về các quyền của cấp có thẩm quyền: gọi một người nào đó đến để giải trình, yêu cầu trả lời và buộc phải chấp nhận hình phạt hoặc khen thưởng. 

Trách nhiệm giải trình theo nghĩa rộng biểu hiện mối quan hệ giữa một cá nhân/nhóm, tổ chức có các quyền hoặc một yêu cầu pháp lý mà các cá nhân, hoặc tổ chức phải chịu trách nhiệm thực hiện đầy đủ hoặc nói về đến quyền đó bằng cách đưa ra hành động cụ thể hoặc từ bỏ các hành động đặc biệt (người chịu trách nhiệm). Theo ngôn ngữ về các quyền thì trách nhiệm giải trình liên quan đến tính chất phải trả lời của người chịu trách nhiệm và tiếng nói của người có quyền nhằm kết nối các nhu cầu và đòi hỏi các quyền của họ [Lipsky, M. and Smith, S. R. 1990; Mulgan, R. 2000b].

Tiếng nói là thế mạnh của sự thúc bách mà người ra quyết định hoặc người chịu trách nhiệm nhận được từ người có quyền. Việc có trách nhiệm trả lời là nói về cách thức mà một cá nhân, tổ chức hiểu về các nhu cầu và trả lời cho các yêu cầu của các nhóm đặc biệt nào đó, ví dụ như nhóm người nghèo chẳng hạn.

Trách nhiệm giải trình dọc biểu hiện mối quan hệ trực tiếp giữa công dân và các đại biểu nắm giữ cơ quan công quyền trước hết là thong qua bàu cử nhưng cũng có thể thông qua nhiều hình thức tham gia trực tiếp và các hoạt động của các tổ chức công dân khác.

Trách nhiệm giải trình ngang thuộc về các cơ chế được các thể chế nhà nước sử dụng để buộc người ta phải giải trình nhân danh người dân. Trách nhiệm giải trình ngang trước hết hàm ý là người thực hiện có trách nhiệm trả lời với luật pháp, toà án, và các cơ quan đặc trách, chẳng hạn như các uỷ ban về quyền con người; những người bảo vệ luật pháp/các thanh tra, kiểm tra;  tổng kiểm toán, các uỷ ban bàu cử độc lập; các ngân hàng trung ương độc lập; các nhà cầm quyền; và các tổ chức chống tham nhũng.

Trách nhiệm giải trình ngược là trách nhiệm phải trả lời của các cấp thấp cho cấp cao hơn, chẳng hạn một cơ quan hành chính địa phương phải có trách nhiệm giải trình với một cơ quan trung ương quản lý cơ quan đó.

Trách nhiệm giải trình xuôi là trách nhiệm phải trả lời của các cấp cao hơn  cho một cấp thẩm quyền thấp hơn, ngược lại với trường hợp giải trình ngược, một cơ quan cấp trung ương có trách nhiệm trả lời cho cơ quan cấp dưới của mình những vấn đề có liên quan nhằm hỗ trợ cho các hoạt động của cấp dưới được trôi chảy.

Trách nhiệm giải trình xã hội thể hiện trách nhiệm trả lời của các tổ chức đối với người dân. Trách nhiệm này trước hết liên quan đến quản trị công, nhưng cũng còn có nghĩa là trách nhiệm giải trình của các đối tác phát triển cho những người hưởng lợi cuối cùng trong các dự án phát triển.

Trách nhiệm giải trình chung thể hiện mối liên quan trách nhiệm giải trình dựa trên khái niệm hợp đồng. Nó đã trở thành một khái niệm quan trọng đặc biệt là trong quan hệ trợ giúp phát triển. Tuyên bố Paris quy định rằng “Các nhà tài trợ và các đối tác có trách nhiệm giải trình về các kết quả phát triển: một ưu tiên chính cho các nước đối tác và các nhà tài trợ là tăng cường trách nhiệm giải trình chung và tính minh bạch trong việc sử dụng các nguồn lực phát triển. Trách nhiệm đó cũng giúp củng có sự hỗ trợ của công chúng cho các chính sách quốc gia và sự trợ giúp phát triển”.

Trách nhiệm giải trình ngoài thể hiện trách nhiệm giải trình của các cơ quan phát triển quốc nội đối với các nhà tài trợ và các đối tác ngoại quốc, và thường là không hoàn toàn giống với các trách nhiệm giải trình quốc nội.

Trách nhiệm giải trình trong thể hiện hàng loạt mối quan hệ giải trình trách nhiệm thuộc cơ cấu hành chính, luật pháp, truyền thống của một quốc gia, bao gồm các trách nhiệm giải trình dọc, trách nhiệm giải trình ngang, trách nhiệm giải trình xuôi, trách nhiệm giải trình ngược, và trách nhiệm giải trình xã hội [Lipsky, M. and Smith, S. R. 1990; Mulgan, R. 2000b].
 

2. Các chiến lược tham gia bằng trách nhiệm giải trình xã hội 


Trách niệm giải trình xã hội được xây dựng dựa trên bốn trụ cột là:

(1) tổ chức những người dân có năng lực lại thành các nhóm;
(2) tạo dựng được môi trường với những con người thực sự hoạt động vì lợi ích của người dân
(3) đảm bảo tính thích hợp về văn hoá; và,
(4) tiếp cận được với các nguồn thông tin.

 

2.1. Cách tiếp cận trách nhiệm giải trình xã hội


Các hành động được coi là những cách tiếp cận trách nhiệm giải trình xã hội bao gồm việc hoạch định chính sách công bằng phương pháp tham gia, xây dựng ngân sách tham gia, theo dõi việc chi tiêu công cộng, thực hiện giám sát đánh giá có sự tham gia. Bên cạnh đó giải trình trách nhiệm xã hội còn bao gồm các nỗ lực nhằm nâng cao sự hiểu biết của người dân và sử dụng các cơ chế truyền thống giải trình chẳng hạn như thông qua giáo dục công cộng về các quyền lợi hợp pháp của người dân và các dịch vụ mà người dân có quyền được tiếp cận; trách nhiệm giải trình xã hội còn là những nỗ lực cải thiện tính hiệu quả của các cơ chế giải trình nội tại, chẳng hạn như sự tham gia của người dân vào các nhiệm vụ, các phiên toà công cộng, các tổ chức tư vấn công dân, và các ban giám sát [Lipsky, M. and Smith, S. R. 1990; Mulgan, R. 2000b].

2.2. Trách nhiệm giải trình xã hội thể hiện như thế nào?


Trách nhiệm giải trình xã hội phát triển từ khái niệm tham gia của người dân vào công việc quản trị công. Khi các cơ chế của chính phủ và các lực lượng thị trường không thể cải thiện tình hình một cách toàn diện đặc biệt là trong việc thanh toán các tệ nạn như tham nhũng, xoá bỏ nghèo đói thì cần phải có thêm sự tham gia trực tiếp của người dân vào các hoạt động đó.

2.3. Ai đóng vai trò quan trọng nhất trong trách nhiệm giải trình xã hội?


Người đóng vai trò quan trọng nhất trong trách nhiệm giải trình xã hội là cả các nhóm công dân và các quan chức nhà nước. Các cơ quan nhà nước có trách nhiệm tạo điều kiện cho người dân có thể tiếp cận được với tất cả các nguồn thông tin trong khi người dân phải khẳng định được các quyền của mình trong việc tham gia vào công việc quản trị công cộng. Công dân phải được tổ chức lại để có thể tham gia tốt hơn vào tất cả các hoạt động có liên quan [Lipsky, M. and Smith, S. R. 1990; Mulgan, R. 2000b].

 

2.4. Khi nào thì người dân tham gia vào trách nhiệm giải trình xã hội?


Cần phải tiến hành hoạt động trách nhiệm giải trình xã hội ở mọi giai đoạn trong toàn bộ các khâu của dự án. Quyền công dân không chỉ được thực hiện trong bàu cử là nơi người dân bỏ phiếu bầu các đại biểu của mình. Cách tiếp cận giải trình trách nhiệm xã hội còn kêu gọi người dân tham gia vào việc giám sát tư cách và các hành động của những người đại diện cho quyền lợi của mình, và của những người cung cấp cách dịch vụ xã hội cho mình.

Cách tiếp cận trách nhiệm giải trình xã hội trước hết có thể được coi là: i) nhà nước đảm bảo mở cửa cho người dân tham gia vào các hoạt động của dự án; và ii) người dân mong muốn và sẵn sàng tham gia vào các hoạt động của dự án. Động thái của mối quan hệ giữa nhà nước và người dân là một quá trình tham gia mang tính xây dựng [Lipsky, M. and Smith, S. R. 1990; Mulgan, R. 2000b].

Tại sao trách nhiệm giải trình lại có tính chất sống còn đối với việc phát triển năng lực? Khi đề cập đến phát triển năng lực người ta thường nghĩ ngay đến loại hoạt động hướng đến củng cố tổ chức. Người ta đương nhiên thừa nhận rằng nguồn nhân lực được đào tạo tốt và được trang bị kỹ thuật tiên tiến thì sẽ có được những dịch vụ chất lượng cao. Kinh nghiệm cho thấy không hoàn toàn như vậy. Trong khi việc đầu tư vào nhân sự, các quy trình và các hệ thống trong khu vực công (bên cung) là rất quan trọng thì các tổ chức lại thường thực hiện tốt hơn khi các tổ chức đó có hệ thống giải trình trách nhiệm vận hành thông suốt bởi các chủ sở hữu, các bên liên quan hoặc các khách hàng (bên cầu).

Áp lực trách nhiệm giải trình mà các nhóm này phải làm tạo ra các động cơ cho việc hoàn thành nhiệm vụ. Điều đó thể hiện rất rõ ràng trong khu vực tư nhân, trong đó các công ty luôn sẵn sàng đáp ứng các nhu cầu của các khách hàng để đảm bảo sự sống còn của mình. Ngược lại khi không có cạnh tranh thì chất lượng của các dịch vụ công thường không đáng ứng được như mong đợi mặc dù người ta đã đầu tư rất nhiều cho việc phát triển nhân lực và cung cấp đầy đủ các trang thiết bị hiện đại. Khái niệm “người có quyền” và “người có nghĩa vụ” có thể sẽ minh hoạ rất hữu hiệu cho mối quan hệ giữa những người cung cấp dịch vụ (bên cung) và những người sử dụng dịch vụ (bên cầu), và tầm quan trọng của các cơ chế giải trình trách nhiệm gắn kết cả bên cung lẫn bên cầu lại với nhau [Lipsky, M. and Smith, S. R. 1990; Mulgan, R. 2000b].

Người có nghĩa vụ, chẳng hạn các Bộ thuộc chính phủ cung cấp các dịch vụ công cộng.

Người có quyền là những người hưởng lợi hợp pháp các hoạt động của những người có nghĩa vụ. Chẳng hạn như các công dân là người có quyền đối với các dịch vụ công do chính phủ cung cấp.

Các cơ chế trách nhiệm giải trình ràng buộc cả hai bên bằng các quy định, các quyền và các trách nhiệm đã được xác định. Các cơ chế này giúp cho những người có quyền nói lên các nhu cầu của mình và xác lập trách nhiệm của người có nghĩa vụ phải đáp ứng các nhu cầu đó. 

Trách nhiệm đáp ứng là cách thức mà “người có nghĩa vụ” nhận thức và thấu hiểu được nhu cầu của “người có quyền” và phải có trách nhiệm đáp ứng các nhu cầu của các nhóm riêng biệt, chẳng hạn như nhóm người nghèo trong xã hội, hoặc các bên tiếp nhận một dịch vụ đặc biệt nào đó [Rhodes, R. A. W. 1997; Scott, C. 2000].

Các cơ chế trách nhiệm giải trình giúp chỉ đạo, giám sát, và điều chỉnh hành vi trong toàn bộ hệ thống xã hội, bao gồm: gia đình, các nhóm người, các tổ chức, và các xã hội nói chung. Trong các xã hội tiên tiến, chính phủ được tổ chức để giải trình chỉ ở mức tối thiểu vì họ đã được bàu và có thể bị thay thế bằng hòm phiếu. Vì điều đó đơn giản là không đủ, hàng loạt cơ chế đã được dựng lên để kiểm tra khu vực hành chính công từ địa phương đến cấp quốc gia. Trong khu vực tư nhân, người giám đốc có trách nhiệm giải trình với các cổ đông. Các cơ quan quốc tế được tổ chức để có trách nhiệm giải trình thông qua các bộ phận quản trị của các cơ quan này. Các hội đoàn địa phương và các tổ chức phi chính phủ có các bộ phận hoặc các hội đồng để đảm bảo rằng họ phục vụ cho các mục tiêu mà họ đã được uỷ nhiệm. Vì vậy việc coi trách nhiệm giải trình là tiêu điểm trong các hoạt động củng cố xã hội có thể trở thành một lối tiếp cận chiến lược nhằm thúc đẩy sự phát triển năng lực xã hội. Tối thiểu cũng có năm lý do để khẳng định giải trình trách nhiệm là tiêu điểm trong các hoạt động củng cố xã hội [Barrett, P. 1999; Leat, D. 1990; Mulgan, R. 2000a; Uhr, J. 1993]:

Các động cơ – Các cơ chế trách nhiệm giải trình tạo điều kiện cho các sức ép của bên cầu phải được bên cung đáp ứng.

Tính hợp pháp – Trách nhiệm giải trình tạo dựng tính hợp pháp trong việc ra quyết định, trong các quá trình thực hiện và giám sát, và vì vậy nó có thể đẩy mạnh khả năng của các cá nhân và các nhóm hành động nhân danh quyền lợi hợp pháp của nhóm. 

Tăng cường quyền lực – Các cơ chế trách nhiệm giải trình có thể được sử dụng để tăng cường quyền lực cho người dân nhằm đảm bảo các quyền hợp pháp của họ theo cách tiếp cận “từ dưới lên”, để rèn luyện một nền văn hoá dân chủ thông qua phương thức tham gia và nhập cuộc của người dân, và để bảo vệ người dân khỏi tình trạng lạm dụng quyền lực.

Xây dựng chính sách – Chuỗi trách nhiệm giải trình cho phép kiểm tra và đảm bảo cân bằng trong các quá trình đưa ra các quyết định nhằm tăng cường tính minh bạch và hạn chế các tác động tiêu cực của các nhóm lợi ích đối với việc xây dựng và thực hiện các chính sách công.

Hành động phát triển – Các cơ chế trách nhiệm giải trình có thể được thiết kế, được tuyên truyền, được thực hiện và được đo lường bằng các thước đo cụ thể. Có thể thấy rằng các cơ chế trách nhiệm giải trình hữu hiệu là một phần quan trọng của bất cứ hệ thống quản lý xã hội nào được vận hành trôi chảy. Giống như các cơ thể sống, và các hệ sinh thái vận hành bằng chuỗi hồi tiếp, các hệ thống xã hội cũng có các chức năng điều tiết. Các cơ chế trách nhiệm giải trình là một bộ phận của các hệ thống đó và tạo thuận lợi cho các hệ thống xã hội học tập, tự điều chỉnh mà vẫn thích hợp với các cử tri của mình, và đạt được các mục đích tương ứng. Vì vậy mà khả năng của một quốc gia trong việc quản lý các hoạt động của quốc gia đó không chỉ tuỳ thuộc vào “người có nghĩa vụ” chuyển giao các dịch vụ liên quan, mà nó còn tuỳ thuộc vào các cơ chế tạo điều kiện cho “người có quyền” đảm bảo có được các dịch vụ thích hợp với nhu cầu của mình [Barrett, P. 1999; Leat, D. 1990; Mulgan, R. 2000a; Uhr, J. 1993].

 

3. Các nguyên tắc của trách nhiệm giải trình xã hội 


3.1. Các nguyên tắc nền tảng phải đáng tin cậy và hợp pháp

Về cơ bản trách nhiệm giải trình được thực thi khi người dân nhất trí cam kết với nhau bằng sức mạnh ràng buộc mang tính đạo đức. Sự nhất trí đó có thể được thực hiện dựa trên cơ sở các nguyên tắc phi chính thức hoặc thông qua một hợp đồng chính thức. Nếu các nguyên tắc không rõ ràng thì người dân có thể hiểu lầm về các vai trò và trách nhiệm có liên quan và tác động tiêu cực đến các nỗ lực tập thể. Các nguyên tắc cơ bản được soạn thảo trong sáng, dễ hiểu giúp làm nổi bật mục đích chung [Barrett, P. 1999; Leat, D. 1990; Mulgan, R. 2000a; Uhr, J. 1993].

3.2. Tính minh bạch, khả năng tiếp cận thông tin và nhận thức

Tính minh bạch là một trụ cột của niềm tin và tính hợp pháp trong các hệ thống xã hội. Người dân (người có quyền) chỉ có thể khẳng định được các quyền của mình khi họ nhận thức rõ các quyền mà họ có, khi các quy trình đó thực sự  minh bạch, và khi người dân người dân tiếp cận được với các nguồn thông tin chủ yếu. Hơn nữa việc tiếp cận được các nguồn thông tin đảm bảo cho người dân tăng thêm năng lực tham gia của mình vào các quá trình củng cố và phát triển xã hội. Một bộ luật về quyền tiếp cận thông tin có thể có ý nghĩa quyết định trong việc tạo lập môi trường và dẫn đến công khai minh bạch trong các hoạt động của khu vực công [Rhodes, R. A. W. 1997; Scott, C. 2000]
 
3.3. Các sự kiện, bằng chứng và tính khách quan

Ngay cả ở những nơi người ta chưa hoàn toàn nhất trí với các quy tắc cơ bản thì những sáng kiến nhằm xác lập các bằng chứng vẫn là những phương tiện đầy sức thuyết phục để thu hút sự quan tâm của các bên liên quan. Các đánh giá kết quả thực hiện, đánh giá chức năng, đánh giá chi tiêu công cộng, phân tích giới, đánh giá chương trình, dự án và các đánh giá của các nhà chuyên môn đều là những phương tiện hữu ích cho việc tạo dựng mức độ đáng tin cậy của thông tin liên quan. Mức độ độc lập của tổ chức chịu trách nhiệm đánh giá cũng như trình độ hiểu biết của các nhóm khách hàng hoặc các bên liên quan sẽ làm tăng tình hợp pháp của bất kỳ đánh giá nào về dự án. [Lipsky, M. and Smith, S. R. 1990]

3.4. Thường xuyên kiểm soát, giám sát

Trong các xã hội tiên tiến, có hàng loạt cơ chế thể chế hoá việc kiểm soát và giám sát. Chẳng hạn các thực thể bất kỳ nào đó, chẳng hạn như Tổng kiểm toán hoặc Uỷ ban Bầu cử độc lập được uỷ nhiệm buộc các cơ quan nhà nước khác phải có trách nhiệm giải trình – và hành động đó chính là gián tiếp thay mặt người dân để kiểm soát và giám sát các dịch vụ công. Các cơ chế và các thực thể như vậy có thể giám sát các mối liên hệ trách nhiệm giải trình theo thời gian. Tương tự như vậy, các tổ chức độc lập đánh giá các hoạt động của mình, và các dự án thường được giám sát, đánh giá định kỳ để điều chỉnh và cải thiện các yếu kém. [Lipsky, M. and Smith, S. R. 1990; Mulgan, R. 2000b;  Rhodes, R. A. W. 1997; Scott, C. 2000]
 

3.5. Cải thiện khả năng tiếp cận các nguồn lực và  trọng tài phân xử

Việc tiếp cận với hệ thống luật pháp và hành pháp, đặc biệt là đối với người nghèo ở nhiều nơi trên thế giới vẫn còn rất hạn chế. Ngay cho dù có quyền và có các thể chế công, nhưng các quyền và các thể chế này có thể bị thiên lệch theo quyền lợi của các nhóm lợi ích khác nhau. Nhiều cơ quan, tổ chức đã sử dụng một cách thành công hoạt động của toà án để thực hiện các quyền, và sử dụng toà án để thúc đẩy một cách có ý thức việc cải thiện khả năng hưởng lợi của những người yếu thế và những người dễ bị tổn thương. Thể chế thanh tra, kiểm tra được thành lập ở nhiều nước đều ít nhiều là các thể chế độc lập xem xét các khiếu kiện của người dân và tìm kiếm các giải pháp và tạo lập một môi trường công bằng trong xã hội.

3.6. Đưa trách nhiệm giải trình đến với người dân

Khi người sử dụng các dịch vụ thực sự có cơ hội để tác động ảnh hưởng đến các chính sách và các dịch vụ công thì họ sẽ tăng cường kết nối các nhu cầu của mình lại với nhau. Giải tập trung hoá không nhất thiết đảm bảo rằng các dịch vụ được chính quyền địa phương cung cấp luôn luôn hiệu quả, thoả đáng và đảm bảo khả năng giải trình trách nhiệm. Tuy nhiên việc củng cố các kênh truyền thông và các cuộc đối thoại giữa người dân với các thể chế chính quyền địa phương thường hiệu quả trong việc cải thiện trách nhiệm giải trình trực tiếp và các hoạt động cung cấp dịch vụ cho người dân địa phương.

3.7. Tạo dựng cách kênh và các môi trường tham gia

Cách tiếp cận này tập trung vào các kênh thể chế và môi trường mà người dân có thể tham gia vào các quá trình ra quyết định. Các cơ chế tham gia có nhiều hình thức khác nhau, bao gồm các cơ chế tham vấn công chúng, các cuộc hội họp với công chúng, lắng nghe các hội đồng địa phương, thực hiện các cuộc tham vấn về các lựa chọn của các dự án, hoặc các diễn đàn trên các phương tiện truyền thông đại chúng. Cách tiếp cận tham gia trong xây dựng kế hoạch, dự thảo ngân sách và đánh giá tham gia đều là các cơ chế có thể được sử dụng thành công nhằm tăng tiếng nói của người dân. Các cơ chế thanh tra, kiểm tra xã hội đều có thể và phải được sử dụng để đảm bảo các hoạt động trách nhiệm giải trình xã hội. Tuy nhiên công việc tham vấn nặng nhọc đã trở thành một hiện tượng thông thường và là nhu cầu không thể thiếu để đảm bảo các quyền của người dân và để đảm bảo rằng người dân hiểu rõ các vấn đề được tham vấn và sẵn sàng tham dự một cách hiệu quả vào các cuộc tham vấn vì các lợi ích của bản thân họ. [Edwards and Hulme 1996; McDonald, C. 1999; Milward, H. B. and Provan, K. G. 2000.].

3.8. Tiếng nói của người dân và khả năng kết nối tham gia

Các cách tiếp cận đã được đề cập đều nhấn mạnh các thay đổi cấu trúc và việc mở ra các cơ hội bằng cách thay đổi các yếu tố trong mối quan hệ trách nhiệm giải trình. Cách tiếp cận này nhằm trực tiếp tăng cường khả năng của những người có quyền, đặc biệt là người nghèo và những người ủng hộ họ để họ có thể nói ra, có thể tổ chức, hiểu biết các quyền của mình và khẳng định các quyền đó. Các tổ chức xã hội dân sự thường gắn bó với các bên liên quan địa phương và hiểu rõ những khó khăn, hạn chế mà người dân gặp phải trong việc nói ra được các nhu cầu của họ đối với việc tham gia vào các quá trình xây dựng và thực hiện chính sách. Việc tiếp cận với giáo dục có chất lượng, các chiến dịch truyền thông nâng cao nhận thức của người dân, việc hỗ trợ cho sự phát triển khả năng lãnh đạo của các cấp địa phương hoặc những cách tiếp cận khác để tăng cường năng lực tham gia của người dân đều cần đến việc củng cố các phương thức kết nối nhu cầu của người dân [Barrett, P. 1999; Leat, D. 1990; Mulgan, R. 2000a; Uhr, J. 1993]

Phần trên đã cố gắng làm rõ những cách tiếp cận khác nhau đối với việc củng cố năng lực của một hệ thống xã hội để vận hành một cách hiệu quả bằng cách sàng lọc các cấu trúc xã hội. Việc đầu tư vào trách nhiệm giải trình có thể duy trì sức khoẻ của hệ thống, củng cố quyền sở hữu và tính hợp pháp và ươm mầm cho sự phát triển các năng lực bền vững ở tất cả các cấp độ xã hội. Các câu hỏi sau đây tóm tắt các khía cạnh mà các nhà hoạt động thực tiễn có khuynh hướng xem là các lựa chọn trong bối cảnh các thách thức cụ thể mà họ phải đối mặt: 

1. Các nguyên tắc cam kết cơ bản nào hữu ích cho việc phát triển năng lực xã hội? 

2. Các thước đo nào có thể làm tăng tính minh bạch và quyền tiếp cận với các nguồn thông tin?

3. Người ta có thể xác lập các sự kiện và mở rộng việc tập hợp bằng chứng như một cơ sở công bằng cho hành động tập thể như thế nào?  

4. Có nên thể chế hoá các cơ chế trách nhiệm giải trình và giám sát thường xuyên không?

5. Cần phải cải thiện quyền tiếp cận chính thức và không chính thức đối với các nguồn và quyền làm trọng tài phân xử như thế nào?

6. Nên đưa những chuỗi  trách nhiệm giải trình nào đến với người dân địa phương?

7. Cần phải mở ra những kênh tham gia và truyền thông nào?

8. Có thể hỗ trợ năng lực của người dân và các tổ chức dựa trên cơ sở cộng đồng để kết nối các nhu cầu và khẳng định các quyền của người dân như thế nào?
__________________________________________________

* Tài liệu Hướng dẫn “Trách nhiệm giải trình của các bên liên quan trong các Dự án lớn và các Chương trình Trợ giúp Phát triển” được chuẩn bị theo yêu cầu của World Bank - Ngân hàng Thế giới tại Hà Nội, và tác giả trực tiếp tham gia tập huấn điểm cho các bên liên quan tại các tỉnh Lào Cai, Cao Bằng, Hải Phòng, Quảng Nam, Gia Lai, Kiên Giang năm 2010.

Tài liệu tham khảo

Barrett, P. 1999. Auditing in Contemporary Public Administration, Discussion Paper No 66 Canberra: Graduate Program in Public Policy, Australian National University) Industry Commission (1995) Charitable Organisations in Australia. (Melbourne: AGPS)

Edwards and Hulme 1996. Accountability In Practice: Mechanisms for NGOs. World DevelopmentVol. 31, No. 5, pp. 813–829, 20.

Leat, D. 1990. Voluntary organizations and accountability: theory and practice. In H. K. Anheier and W. Seibel (eds) The Third Sector: Comparative Studies of Nonprofit Organizations: 141-53. Berlin: Walter de Gruyter.

Lipsky, M. and Smith, S. R. 1990. Nonprofit organizations, government and the welfare state, Political Science Quarterly, 104: 625-48.

McDonald, C. 1999. Internal control and accountability in non-profit human organisations, Australian Journal of Public Administration, 58 (1): 11-22.

Milward, H. B. and Provan, K. G. 2000. Governing the hollow state, Journal of Public Administration and Theory 10 (2), 359-79.

Mulgan, R. 1997. Accountability and contracting out, Australian Journal of Public Administration 56 (4) (1997), 106-17

Mulgan, R. 2000a. Comparing accountability in the public and private sectors, Australian Journal of Public Administration 59(1), 87-97

Mulgan, R. 2000b. ”Accountability”: an ever-expanding concept?, Public Administration 78, 555-74

Rhodes, R. A. W. 1997. Understanding Governance. Public Networks, Governance, Reflexivity and Accountability (Buckingham: Open University Press).

Scott, C. 2000. Accountability in the regulatory state, Journal of Law and Society 27 (1), 38-60

Uhr, J. 1993. Redesigning accountability, Australian Quarterly 65 (Winter), 1-16.