Kinh tế học
Phật giáo - Trung đạo trong Thương trường (IV)
Ven. P.A. Payutto
Người dịch: Hà Hữu Nga
Chương III: Quan điểm Phật giáo về các
Khái niệm kinh tế
Những mô hình cơ bản về hoạt động kinh tế thường
được trình bày trong các sách giáo khoa kinh tế như sau: các nhu cầu vô hạn được
kiểm soát bởi sự khan hiếm; tính khan hiếm đòi hỏi phải lựa chọn; lựa chọn lại
kéo theo chi phí cơ hội (tức là chọn cái này có nghĩa là phải từ bỏ cái khác);
và mục đích cuối cùng là thoả mãn tối đa [1]. Các khái niệm cơ bản xuất hiện
trong mô hình này – nhu cầu, lựa chọn, tiêu thụ và thoả mãn – miêu tả các hoạt
động cơ bản cuộc sống của chúng ta từ một viễn cảnh kinh tế học. Các khái niệm
này dựa trên một định đề nhất định về thực chất của con người. Không may là các
định đề mà các nhà Kinh tế học hiện đại xác lập về bản chất con người lại là những
thứ rất lộn xộn.
Khác thế, Phật giáo đưa ra một bức tranh nhất
quán và minh bạch về bản chất của con người: một quan điểm bao gồm vai trò của
đạo đức và hai lần bản chất khát vọng của con người. Giờ đây chúng ta có thể
xem xét một số khái niệm kinh tế dưới ánh sáng của tư duy Phật giáo.
Giá trị
Trong chương trước chúng ta đã thảo luận hai
loại khát vọng chanda và tanha. Hai loại khát vọng đó kéo theo
hai loại giá trị mà chúng ta có thể gọi là giá trị thật và giá trị giả. Gía trị
thật được tạo ra bởi chanda. Nói cách
khác, giá trị thật của một loại hàng hoá được xác định bằng sự thoả mãn nhu cầu
hạnh phúc của nó. Ngược lại, giá trị giả được tạo bởi tanha - đó là khả năng thoả mãn khát vọng khoái lạc của hàng hoá.
Để xác định giá trị của một vật chúng ta cần
phải tự hỏi mình xem loại khát vọng nào – tanha
hay chanda – qui định nó. Các bộ quần
áo đúng mốt, trang sức đắt tiền, các loại xe xa xỉ và các biểu tượng vị thế
khác hàm chứa giá trị giả ở mức độ cao vì chúng chỉ phục vụ cho tính chất phù
hoa và dục vọng khoái lạc của con người. Một chiếc xe xa xỉ có thể cũng có cùng
một chức năng với một chiếc xe rẻ tiền, nhưng nó lại đòi hỏi một cái giá cao
hơn chủ yếu vì giá trị giả của nó. Nhiều khoái lạc trong xã hội tiêu thụ ngày
nay được cho là đương nhiên – các môn thể thao, những thứ ly kỳ, giật gân và đủ
các hình thức tạp nham không kể hết được - được tạo ra chỉ với mục đích thoả
mãn tanha, mà không hề có một mục
đích thực tiễn nào và thường hết sức tai hại đối với hạnh phúc thật sự của con
người. Hầu hết các trường hợp quảng cáo cũng khích động cho các giá trị giả. Những
người quảng cáo kích thích khát vọng bằng cách đưa ra các hình ảnh khoái lạc đối
với các sản phẩm mà họ rao bán. Họ cố gắng làm cho chúng ta tin rằng bất cứ người
nào mua một chiếc xe đắt tiền cũng sẽ vượt lên khỏi đám đông và trở thành thành
viên của xã hội thượng lưu, hoặc bằng cách dùng bất kỳ đồ uống nhẹ nào chúng ta
cũng sẽ có vô số bạn bè và sẽ là người hạnh phúc.
Gía trị thật của một vật thường bị làm lu mờ bởi
giá trị giả của nó. Thèm khát, ngã mạn và dục vọng về sự cám dỗ nhục dục và thị
dục làm che mờ mọi xét đoán về giá trị thật của mọi vật. Chẳng hạn bao nhiêu
người suy ngẫm về giá trị thật hoặc các nguyên do của việc ăn và mặc?
Tiêu dùng
Vấn đề tiêu dùng cũng hệt như vấn đề giá trị.
Chúng ta phải phân biệt sự tiêu dùng của mình có mục đích thoả mãn loại khát vọng
nào: đó có phải là nhu cầu về những thứ có giá trị thật, hay nó chỉ chiều theo
các khoái lạc được tạo bởi các giá trị giả? Tiêu dùng được coi là một trong những
mục tiêu của hoạt động kinh tế. Tuy nhiên, lý thuyết kinh tế và Phật giáo định
nghĩa tiêu dùng hoàn toàn khác nhau.
Mọi người đều đồng ý rằng tiêu dùng là việc
làm giảm nhẹ đi hoặc để thoả mãn dục vọng hoặc khao khát. Kinh tế học hiện đại
định nghĩa tiêu dùng đơn giản là việc sử dụng các loại hàng hoá và dịch vụ để
thoả mãn nhu cầu. Tuy nhiên Phật giáo lại phân biệt giữa hai loại tiêu dùng có
thể coi là tiêu dùng “đúng” và tiêu dùng “sai”. Tiêu dùng đúng là việc sử dụng
các hàng hoá và dịch vụ để thoả mãn khát vọng về một niềm an lạc thật sự. Đó là
tiêu dùng có mục tiêu và đúng mục đích. Tiêu dùng sai nảy sinh từ tanha; đó là việc tiêu dùng các loại
hàng hoá và dịch vụ nhằm thoả mãn dục vọng hoặc tự thưởng.
Trong khi điểm nhìn Phật giáo dựa vào dòng
quan hệ nhân quả thì tư duy kinh tế chuyên môn hoá lại chỉ đồng nhất một bộ phận
của mối quan hệ đó: nhu cầu hướng dẫn tiêu dùng, còn tiêu dùng thì dẫn đến thoả
mãn nhu cầu. Đối với hầu hết các nhà kinh tế thì đó là cứu cánh, họ không cần
biết cái gì xảy ra sau đó. Theo quan điểm đó thì tiêu dùng là bất cứ cái gì, miễn
là nó tạo ra sự thoả mãn. Rất ít khi người ta nghĩ đến liệu niềm an lạc có bị ảnh
hưởng bởi lối tiêu dùng đó không.
Tiêu dùng có thể thoả mãn các khát vọng khoái
lạc, nhưng mục đích thực sự của tiêu dùng phải đem lại sự an lạc. Chẳng hạn cơ
thể chúng ta cần nuôi nấng bằng đồ ăn thức uống. Vì vậy việc tiêu thụ thực phẩm
là một đòi hỏi cho sự an lạc đó. Tuy nhiêm đối với đa số người thì ăn cũng là một
phương tiện để trải nghiệm khoái lạc. Nếu khi ăn người ta trải nghiệm được vị
ngon thì người ta nói rằng như vậy là đã cơn thèm. Các nhà kinh tế có xu hướng
tư duy theo cách đó khi cho rằng việc trải nghiệm sự thoả mãn là cùng đích của
tiêu thụ. Nhưng vấn đề cốt tử lại là: Mục đích thật của tiêu thụ đồ ăn là gì:
đã thèm hay đảm bảo sự an lạc?
Theo quan điểm Phật giáo thì khi tiêu dùng làm
tăng tiến sự an lạc, thì đó là thành công. Mặt khác, nếu tiêu dùng chỉ sản sinh
ra các cảm giác đã thèm thì như vậy là thất bại. Trong trường hợp tồi tệ nhất,
tiêu dùng thông qua tanha sẽ huỷ hoại
mục tiêu đích thực của nó là làm tăng tiến an lạc. Việc nuông chiều dục vọng bất
chấp hậu quả thì thường dẫn đến cái hại và làm mất đi sự an lạc. Hơn nữa tiêu
dùng mang tính ép buộc tràn lan trong các xã hội tiêu thụ lại làm nảy sinh sự
không thoả mãn. Rất lạ là kinh tế học, khoa học về sự an lạc và thoả mãn của
con người lại chấp nhận và thực sự tán dương loại tiêu dùng làm thất bại việc
thực hiện các mục tiêu của riêng nó.
Ngược lại, tiêu dùng đúng đắn luôn luôn đóng
góp cho sự an lạc và tạo dựng cơ sở cho sự phát triển thêm các tiềm năng của
con người. Điều này thực sự quan trọng, nhưng lại thường bị các nhà kinh tế học
bỏ qua. Tiêu dùng được hướng dẫn bởi chanda sẽ thực sự làm thoả mãn khát vọng của
con người; nó đóng góp cho sự an lạc và phát triển tinh thần. Điều này là đúng
trên phạm vi toàn cầu. Nếu mọi hoạt động kinh tế đều được hướng dẫn bởi chanda thì người ta sẽ gặt hái được nhiều
hơn một nền kinh tế mạnh mẽ và một sự tiến bộ vật chất – các hành vi như vậy sẽ
đóng góp vào toàn thể sự phát triển con người và tạo điều kiện cho nhân loại hướng
đến một cuộc sống an lạc hơn và được hưởng thụ một niềm hạnh phúc chín muồi
hơn.
Sự điều độ
Vấn đề trung tâm của Phật giáo là trí tuệ điều độ. Khi
mục đích của hoạt động kinh tế được coi là để thoả mãn các nhu cầu thì hoạt
động kinh tế lại kết mở và không được định nghĩa rõ ràng – khát vọng không có
tận cùng. Theo cách tiếp cận Phật giáo, hoạt động kinh tế phải được kiểm soát
bằng chất lượng hoá nhắm tới đạt được an lạc chứ không phải là “thoả mãn tối
đa” được tìm ra bởi tư duy kinh tế truyền thống. An lạc với tư cách là một mục
tiêu hoạt động với chức năng kiểm soát các hành vi kinh tế. Chúng ta không còn
phải đấu tranh với nhau để thoả mãn các khát vọng không cùng nữa. Thay vào đó,
các hành vi của chúng ta được định hướng nhằm đạt được an lạc. Nếu hoạt động
kinh tế được định hướng như vậy thì các mục tiêu của nó sẽ rõ ràng và các hành
động của nó sẽ được kiểm soát. Như vậy sẽ đạt được sự cân bằng. Không còn sự
thái quá, không còn tiêu thụ quá mức hoặc sản xuất quá mức. Trong mô hình kinh
tế cổ điển các khát vọng không cùng được kiểm soát bởi sự khan hiếm, nhưng
trong mô hình Phật giáo chúng được kiểm soát bởi một sự nhận thức sâu sắc về
tính điều độ và mục tiêu an lạc. Cân bằng kết quả sẽ tự nhiên loại bỏ được các
tác động có hại của các hoạt động kinh tế không có kiểm soát.
Các ni sư Phật giáo trì giới trước mỗi bữa ăn bằng cách
đọc đoạn Kinh sau đây: “Khi nội quán chúng ta thụ trai không phải vì mục đích
hưởng lạc, không phải vì ham mê hoặc thích thú với hương vị, mà chỉ đơn giản là
để duy trì cơ thể, để tiếp tục tồn tại, để chấm dứt cơn đói, để được sống một
cuộc sống cao thượng hơn. Khi thụ trai chúng ta làm nguôi đi cảm giác hành hạ
của cái đói và cũng ngăn ngừa cái cảm giác đau đớn khác của bội thực. Vì vậy mà
chúng ta có thể sống một cuộc đời tự tại, không ân hận, và thực sự thanh thản
[M.I.10; Nd.496].
Mục đích của sự điều độ không hạn chế trong phạm vi các
tu viện: ở bất kỳ nơi nào mà chúng ta sử dụng các vật, chẳng hạn như đồ ăn,
quần áo mặc, thậm chí ngay cả giấy và điện năng chúng ta cũng cần phải mất thời
gian để cân nhắc về mục đích thực sự của việc sử dụng chúng chứ không phải chỉ
sử dụng chúng một cách tác trách. Bằng việc suy ngẫm về phương pháp ấy, chúng
ta có thể tránh được việc tiêu dùng vô trách nhiệm và vì vậy mà hiểu được “con
đường trung đạo”, hiểu được “một lượng vừa đủ”.
Chúng ta cũng bắt đầu coi tiêu dùng như một phương tiện
cho một cứu cánh là sự phát triển của tiềm năng con người. Khi coi sự phát
triển con người là mục đích, chúng ta sử dụng đồ ăn không chỉ đơn giản vì sự
khoái khẩu mà đồ ăn đem lại, mà còn để cung cấp năng lượng tinh thần và vật
chất cần thiết cho sự phát triển của tinh thần và tri thức hướng đến một cuộc
sống an lạc.
Không tiêu thụ
Thiếu vắng phương tinh thần, tư duy kinh tế học hiện đại
ra sức cổ vũ cho một sự tiêu thụ tối đa. Nó tán dương người ta ăn nhiều – mỗi
ngày 3- 4 lần hoặc hơn nữa. Nếu ai mà ăn được 10 lần một ngày thì lại càng tốt.
Ngược lại, một kinh tế Phật giáo hiểu rằng không tiêu thụ mới có thể đóng góp
cho sự an lạc. Cho dù các nhà sư chỉ ăn một bữa mỗi ngày, nhưng họ lại phấn đấu
để đạt được sự an lạc ít phụ thuộc vào việc ăn uống.
Trong những tuần chay, một số người tu tại gia cũng nhịn
ăn sau bữa trưa, bằng cách làm như vậy họ đã đóng góp vào sự an lạc. Việc bỏ
không ăn bữa tối giúp họ dành thời gian cho thiền định và suy ngẫm về những
giáo lý của Đức Phật. Thân thể được nhẹ nhàng và tâm ý cũng bình thản khi cái
dạ dày không bị căng đầy. Vì vậy Phật giáo nhận ra rằng bất kỳ nhu cầu nào cũng
có thể được thoả mãn dù không tiêu thụ, một lập trường mà tư duy kinh tế học
truyền thống sẽ thấy là không dễ gì hiểu nổi. Việc nhịn ăn cũng có vai trò
trong việc thoả mãn các nhu cầu tinh thần và phi vật chất của chúng ta.
Tất nhiên mục đích của ta không phải là giảm ăn chỉ còn
mỗi ngày một bữa. Giống như tiêu thụ, không tiêu thụ cũng chỉ là một phương
tiện để đạt tới mục đích mà tự thân nó không phải là mục đích. Nếu việc chay
tịnh trong ăn uống không dẫn đến an lạc thì nó sẽ là vô nghĩa, chẳng khác nào
chúng ta tự ngược đãi bản thân mình vậy. Vấn đề không phải là tiêu thụ hay
không tiêu thụ mà là những lựa chọn của chúng ta có dẫn đến sự phát triển bản
thân mình không.
Tiêu thụ quá mức
Xã hội ngày nay cổ vũ cho sự tiêu thụ quá mức. Trong cuộc
tranh đấu không có hồi kết thúc để tìm kiếm sự thoả mãn thông qua tiêu thụ, rất
nhiều người đã huỷ hoại sức khoẻ của bản thân mình và làm hại người khác. Hành
động uống rượu chẳng hạn, thoả mãn được một cơn thèm khát, nhưng lại là nguyên
nhân gây nên bệnh tật, làm cho gia đình bất hạnh và gây nên nhưng tai nạn không
thể tránh khỏi. Những người ăn cho sướng miệng thì thường hay ăn quá nhiều và
làm cho mình bị đau yếu, bệnh tật. Những người khác thì lại không suy nghĩ gì
về các giá trị mà vung tiền vào những thứ vớ vẩn để thoả mãn ham muốn. Một số
người thậm chí còn trở nên thiếu vitamins và một số loại khoáng chất mặc dù
hàng ngày họ ăn rất nhiều. (Thật khó tin là tình trạng thiếu dinh dưỡng lại
thường xuyên được thông báo). Ngoại trừ những hành động tự thân không tốt, thì
việc ăn quá nhiều là tước đoạt khẩu phần của người khác.
Vì vậy chúng ta không thể nói rằng một thứ có giá trị chỉ
đơn giản là vì nó đem lại khoái lạc và mãn nguyện. Nếu tìm kiếm sự thoả mãn
trong đồ vật thì không bao giờ chúng ta có thể làm giàu được chất lượng cuộc
sống, kết quả sẽ là huỷ hoại phúc lợi thực sự, dẫn đến ảo tưởng và tình trạng
nhiễm độc, làm hại sức khoẻ và sự an lạc.
Một nguyên tắc kinh tế học cổ điển tuyên bố rằng giá trị
thực chất của hàng hoá nằm ở khả năng đem lại sự thoả mãn cho người tiêu dùng.
Trong trường hợp này chúng ta có thể chỉ ra bằng những ví dụ ở trên, nơi mà
tiêu thụ thái quá và thoả mãn thái quá có cả những kết quả tích cực lẫn tiêu
cực. Quan điểm Phật giáo là: lợi ích của hàng hoá và dịch vụ nằm ở chính khả
năng đem lại cho người tiêu thụ ý nghĩa của sự thoả mãn bằng việc làm tăng tiến
chất lượng sống của người tiêu dùng. Mệnh đề phụ này lại rất thiết yếu. Tất cả
những định nghĩa dù là về hàng hoá, dịch vụ hoặc sự thịnh vượng xã hội hay cá
nhân đều phải được thay đổi theo cách đó.
Sự mãn nguyện
Trong khi không đề cập đến vấn đề kinh tế học về phương
diện kỹ thuật, tôi muốn thêm vào một số ý kiến về chủ đề sự mãn nguyện. Sự mãn
nguyện là một đức hạnh thường bị hiểu lầm và vì nó gắn liền với tiêu dùng và sự
thoả mãn nên dường như nó xứng đáng được thảo luận.
Mục tiêu ngầm ẩn của kinh tế học là một nền kinh tế năng
động mà trong đó mọi nhu cầu và khao khát đều được đáp ứng và không ngừng đổi
mới trong một chu trình không bao giờ ngừng và tăng trưởng mãi mãi. Toàn bộ cơ
chế đó được cung cấp năng lượng bằng tanha.
Từ cái nhìn Phật giáo, sự tìm kiếm không mệt mỏi để thoả mãn các ham muốn tự
thân nó đã là một loại khổ ải. Phật giáo cho rằng việc dứt bỏ các ham muốn ấy
hoặc trạng thái mãn nguyện là một mục tiêu khôn ngoan hơn.
Các nhà kinh tế học truyền thống có lẽ sẽ phản đối rằng
nếu không có ham muốn thì toàn bộ nền kinh tế sẽ trở nên trì trệ và đông cứng
lại. Tuy nhiên điều đó dựa trên một sự hiểu lầm về thực chất của tình trạng mãn
nguyện. Người ta hiểu lầm tình trạng này vì họ không phân biệt được hai loại
khát vọng khác nhau là tanha và chanda. Chúng ta lẫn lộn chúng với nhau
và trong khi đưa ra tình trạng mãn nguyện thì lại bỏ mất cả hai. Một con người
mãn nguyện phải được coi như là một người không hề ham muốn bất cứ điều gì.
Hiểu như vậy là lầm lẫn.
Rõ ràng là những con người mãn nguyện sẽ có ít nhu cầu
hơn những người bất mãn nguyện. Tuy nhiên một định nghĩa đúng đắn về sự mãn
nguyện phải được xác định phẩm chất bằng các điều kiện mà nó ngụ ý về sự vắng
mặt của nhu cầu giả, đó là tanha; còn
chanda, khát vọng an lạc thì vẫn luôn
còn đó. Nói cách khác, con đường đi đến sự mãn nguyện thực sự kéo theo sự giảm
thiểu khát vọng giả về khoái lạc nhục cảm, trong khi cần phải cổ vũ tích cực và
ủng hộ cho khát vọng về chất lượng sống.
Hai quá trình này – giảm thiểu tanha và khuyếch trương chanda
– luôn tương hỗ nhau. Khi chúng ta dễ dàng thoả mãn với các món vật chất, thì
chúng ta lại dành thời gian và năng lượng để phung phí vào việc săn lùng các
đối tượng tanha. Thời gian và năng
lượng mà chúng ta dành dụm đến lượt mình có thể được sử dụng vào việc phát
triển niềm an lạc, đó chính là mục tiêu của chanda.
Tuy nhiên khi bắt đầu phát triển các điều kiện khôn ngoan, sự mãn nguyện vẫn
không phải là một phẩm chất có lợi. Các điều kiện thiện xảo phải được hiện thực
hoá thông qua cố gắng. Quá nhiều mãn nguyện liên quan đến chanda đã dễ dàng trở thành tính tự mãn và vô cảm. Trong mối quan
hệ này Đức Phật đã chỉ ra rằng việc đạt tới giác ngộ của ông phần nhiều là kết
quả của hai phẩm chất: sự cố gắng không ngừng nghỉ và không bằng lòng với các
điều kiện thiện xảo [D.III.214; A.I.50; Dhs. 8, 234].
Còn nữa...
Nguồn: Buddhist Economics – A Middle Way for the Market place by Ven. P.A.
Payutto. Translated into English by Dhammavijaya and Bruce Evans; Compiled by
Bruce Evans and Jourdan Arenson. http://www.buddhanet.net/cmdsg/payutto.htm.
Ghi chú:
1. Trong tạp chí "Economics '73-'74,"
Nhiều tác giả, 1973, The Dushkin Publishing Group, Inc., Guildford,
Connecticut.
D. = Digha Nikaya (3
vols.) (Trường bộ kinh – 3 tập)
A. = Anguttara Nikaya (5
vols.) (Tăng nhất A hàm, Tăng nhất bộ kinh 5 tập)
S. = Samyutta Nikaya (5
vols.) (Kinh A hàm bộ 5 tập)
Vin. = Vinaya Pitaka (5 vols.) (Luật tạng, 5 tập)
Vism. = Visuddhimagga (Thanh tịnh đạo luận)
Comp. = Compendium of Philosophy (Abhidhammatthasangaha) (A tì đạt ma bát tăng già luận)
Vin. = Vinaya Pitaka (5 vols.) (Luật tạng, 5 tập)
Vism. = Visuddhimagga (Thanh tịnh đạo luận)
Comp. = Compendium of Philosophy (Abhidhammatthasangaha) (A tì đạt ma bát tăng già luận)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét