Powered By Blogger

Thứ Ba, 31 tháng 3, 2015

Nhân học cấu trúc (II)



Nhân học cấu trúc (II)

Claude Lévi-Strauss

Người dịch: Hà Hữu Nga

Thay vào đó, nắm bắt được những yếu tố một cấp độ đủ sâu để đảm bảo chúng vẫn y nguyên, bất kể bối cảnh văn hóa mà chúng vận hành (chẳng hạn như các gen, những yếu tố tương tự có thể xuất hiện trong các kết hợp khác nhau, là kết quả của các loại chủng tộc, có nghĩa là, các mô hình thống kê). Cuối cùng, điều cần thiết là chúng ta có thể vẽ lên hàng loạt thống kê dài. Vì vậy Boas và trường phái của ông đã thách thức một cách đúng đắn quan niệm tiến hóa: không có nghĩa gì trong khuôn khổ các mô hình cơ giới mà họ sử dụng độc quyền, còn ông White thì đòi hỏi một cách sai lầm trong việc khôi phục lại quan niệm tiến hóa, khi tiếp tục sử dụng cùng loại các mô hình so với đối thủ của mình. Các nhà tiến hóa luận sẽ khôi phục lại vị trí của họ dễ dàng hơn nếu họ thay thế các mô hình thống kê bằng các mô hình cơ giới, có nghĩa là các yếu t độc lập với sự kết hợp của chúng, và vẫn giữ nguyên trong suốt một khoảng thời gian đủ dài.

Sự khác biệt giữa mô hình cơ giới và mô hình thống kê đem đến một lợi thế: nó giúp minh định vai trò của phương pháp so sánh trong nghiên cứu cấu trúc. Radcliffe-Brown và Lowie tổ chức một mô hình thống kê một mô hình cơ học để đánh giá quá cao vai trò của phương pháp so sánh. Do đó, văn bản đầu tiên (1952, p 14.) viết:

"Xã hội học lý thuyết thường được thực hiện cho một khoa học quy nạp. Phép quy nạp, thực ra, là quá trình logic cho phép suy diễn để gán tính chất hay quan hệ cho một phạm trù tổng quát dựa trên các ví dụ của phạm trù đó. GS. Evans-Pritchard ... đôi khi dường như nghĩ rằng logic của phương pháp quy nạp, bằng cách sử dụng phép so sánh, phân loại và tổng hợp, có thể được áp dụng cho các hiện tượng của con người và đời sống xã hội ... Còn đối với tôi thì dân tộc học lại dựa vào việc nghiên cứu so sánh và có hệ thống về một số lượng lớn các xã hội”.

Trong một nghiên cứu trước đó, Radcliffe-Brown nói về tôn giáo (1945, p 1.): "Các phương pháp thực nghiệm áp dụng cho xã hội học về tôn giáodạy rằng  chúng ta phải đưa các giả thiết của mình vào thử nghiệm với đủ số lượng các tôn giáo khác nhau hoặc các giáo phái cụ thể, mà mỗi tôn giáo hoặc giáo phái đối mặt với cái xã hội cụ thể mà chúng xuất hiện trong đó. Một cam kết như vậy vượt quá khả năng của một nhà nghiên cứu, nó đòi hỏi sự hợp tác của nhiều người.

Trong tinh thần này, Lowie bắt đầu bằng cách chỉ ra (1948, p 38.) rằng "các tài liệu dân tộc học có đầy đủ các mối tương liên được viện dẫn mà không có cơ sở thực nghiệm"; và nhấn mạnh sự cần thiết phải "phát triển cơ sở quy nạp" cho các khái quát hóa của chúng ta (1948, p. 68). Như vậy cả hai tác giả này đều đồng ý xây dựng cơ sở quy nạp cho dân tộc học; ở khía cạnh nào đó, họ không chỉ tách khỏi Durkheim: "Khi một quy luật được chứng minh bằng một kinh nghiệm đã được thực hiện tốt, thì bằng chứng này giá trị phổ quát" (1912, 593 p.), mà còn cả Goldstein nữa. Như đã lưu ý, điều đó chứng tỏ một cách rõ ràng nhất những gì có thể được gọi là "các quy tắc của phương pháp cấu trúc luận" bằng cách tự đặt mình vào một mức độ khá tổng quát cho các giá trị, vượt khỏi lĩnh vực hạn chế, mà ông ta đã tưởng tượng ban đầu. Goldstein lưu ý rằng cần phải có một nghiên cứu chi tiết đối với từng trường hợp liên quan, kết quả là, hạn chế số lượng các trường hợp chúng ta có thể xem xét theo cách này. Vậy thì phải chăng là một nguy cơ khi tập trung vào trường hợp quá đặc biệt, trên cơ sở hạn chế như vậy, để chúng ta có thể đưa ra các kết luận có giá trị cho tất cả những trường hợp khác? Ông trả lời (1951, p 25.): "Sự phản đối này hoàn toàn bỏ qua tình huống thực tế: trước hết, sự tích lũy các sự kiện - thậm chí rất nhiều sự kiện - là vô dụng nếu chúng được chứng minh một cách không đầy đủ, thì sẽ không bao giờ dẫn đến sự hiểu biết về những sự kiện trên thực tế đã bị bỏ qua…Bạn phải chọn những trường hợp có thể mang lại các năng lực phán đoán quyết định. Nhưng sau đó những gì sẽ được chứng minh trong một trường hợp thì cũng sẽ được áp dụng cho những trường hợp khác.

Có lẽ rất ít nhà nhân học đồng ý với kết luận này. Tuy nhiên, nghiên cứu cấu trúc luận sẽ là vô ích nếu nó nhận thức đầy đủ được cái nan đề của Goldstein: hoặc nghiên cứu rất nhiều trường hợp vẫn theo cách hời hợt và không có nhiều thành công; hoặc quyết định giới hạn vào phân tích chuyên sâu một số ít trường hợp, để rồi cuối cùng chứng minh một kinh nghiệm tốt thực sự là một phương pháp thể hiện mới.

Làm thế nào để giải thích được sự gắn bó của quá nhiều nhà dân tộc học với phương pháp so sánh? Một lần nữa, liệu đó phải là họ nhầm lẫn giữa các kỹ thuật để tạo dựng và nghiên cứu các mô hình giới các mô hình thống kê? Vị trí của Durkheim Goldstein bất khả xâm phạm, liên quan đến những điều đầu tiên: ngược lại, rõ ràng chúng ta có thể xây dựng một mô hình thống kê mà không có các số liệu thống kê, nghĩa là không rất nhiều sự kiện tích lũy. Nhưng ngay cả trong trường hợp này, thì phương pháp ấy không thể được gọi là phương pháp so sánh: các dữ kiện thu thập được sẽ chỉ giá trị nếu tất cả đều thuộc cùng một loại. Cần luôn luôn quay trở lại với cùng một lựa chọn, đó là nghiên cứu sâu một trường hợp, sự khác biệt duy nhất là cách thức cắt "các trường hợp", các thành phần của nó (theo người bảo trợ được chấp nhận) dựa vào quy mô của mô hình được đề xuất, hoặc vào một quy mô khác nhau.

Cho đến giờ, chúng tôi đã cố gắng làm rõ một số vấn đề về nguyên tắc liên quan đến bản chất của khái niệm cấu trúc xã hội, để dễ dàng hơn cho việc tạo ra một kho dữ liệu các loại hình nghiên cứu chính, thảo luận về một số kết quả. 

II. Hình thái xã hội hay nhóm các cấu trúc

Trong phần thứ hai, thuật ngữ "nhóm" không đề cập đến các nhóm xã hội, nhưng nói chung, lại đề cập đến cách thức các hiện tượng được nhóm lại với nhau. Mặt khác, để tiếp nối phần đầu của tác phẩm này là nghiên cứu cấu trúc tập trung vào việc nghiên cứu các mối quan hệ xã hội bằng cách sử dụng các mô hình.

Tuy nhiên, sẽ không thể quan niệm được về các mối quan hệ xã hội bên ngoài một phương tiện phổ biến dùng cho hệ thống tham chiếu của chúng. Không gian và thời gian là hai hệ thống tham chiếu để tư duy về các mối quan hệ xã hội, bằng cách kết hợp với nhau hoặc tách biệt nhau. Các chiều góc của không gian và thời gian ấy không giống với những chiều góc được sử dụng bởi các ngành khoa học khác. Chúng bao gồm một không gian "xã hội" và thời gian "xã hội", có nghĩa là chúngnhững thuộc tính khác so với các thuộc tính của các hiện tượng xã hội sinh ra trong đó. Theo cấu trúc cụ thể của chúng, các xã hội loài người đã phát triển những chiều kích rất khác nhau. Do đó các nhà nhân học không nên lo lắng về các nghĩa vụ hoặc ông ta có thể sử dụng các loại chiều kích bất thường, thậm chí còn phát minh ra để phục vụ cho các nhu cầu của thời điểm này.

Chúng tôi đã lưu ý rằng tính liên tục thời gian tỏ ra là có thể hồi phục hoặc định hướng theo cấp độ đưa ra giá trị chiến lược lớn nhất ở nơi mà người ta phải chấp nhận quan điểm nghiên cứu liên tục. Cũng có thể tồn tại các khả năng khác: thời gian độc lập của người quan sát, và hạn; thời gian, chức năng của thời gian thích hợp (về sinh học) của người quan sát, và hữu hạn; thời gian có thể phân tích hoặc không phân tích được thành các bộ phận tự thân chúng đồng đẳng đối với nhau, hoặc có tính cụ thể,vv. Evans-Pritchard đã cho thấy rằng chúng ta có thể buộc phải quay trở lại với các thuộc tính hình thức của loại tính chất không đồng nhất về chất lượng, như cảm nhận bề ngoài của người quan sát, từ thời gian riêng của mình và thời gian và các loại thời gian phù hợp với các loại hình khác: lịch sử, truyền thuyết hay huyền thoại (1939 1940). Loại phân tích này, lấy cảm hứng từ những công trình nghiên cứu về một xã hội châu Phi, có thể được mở rộng đến xã hội của chúng ta (Bernot và Blancard, 1953).

Về không gian, Durkheim và Mauss là những người đầu tiên mô tả các đặc tính khả biến mà chúng ta sẽ nhận ra để giải thích cấu trúc của một số lượng lớn của những cái gọi là xã hội nguyên thủy (1901-1902). Nhưng chính Cushing - giờ đây bị ảnh hưởng bởi thái độ khinh thị - lại là người đầu tiên truyền cảm hứng cho họ. Công trình của Frank Hamilton Cushing đã chứng tỏ hiệu quả của sự thâm nhập và sáng tạo mang tính xã hội học, cần phải khẳng định vị trí tác giả của nó là bên phải của Morgan, một trong những tiền thân chủ yếu của nghiên cứu cấu trúc. Những khoảng trống, những điều không chính xác bộc lộ trong các mô tả của ông, cùng một lời phàn nàn là ông "siêu diễn giải" các quan sát của mình, điều đó được quy giản thành các tỷ lệ hợp lý hơn khi ta hiểu rằng Cushing đã ít tìm cách mô tả cụ thể xã hội Zuni để phát triển một mô hình (cách chia thành bảy phần nổi tiếng) nhằm giải thích cấu trúc và cơ chế hoạt động của nó.

Thời gian và không gian xã hội cũng phải được phân biệt theo quy mô. Nhà dân tộc học sử dụng một "thời gian vĩ mô" và một "thời gian vi mô", một “không gian vĩ mô” và một không gian "vi mô". Hoàn toàn hợp thức, các nghiên cứu cấu trúc vay mượn các hạng mục phân loại của cả tiền sử, khảo cổ học, và lý thuyết truyền bá luận, cho đến phép cấu hình liên kết tâm lý do Lewin sáng lập, hoặc phép đo lường các quan hệ xã hội do Moreno tạo dựng. Đối với cùng một loại cấu trúc có thể tái diễn các cấp độ thời gian và không gian rất khác nhau, và không gì có thể loại bỏ một mô hình thống kê (ví dụ, những mô hình được phát triển bằng phép đo lường các quan hệ xã hội) có thể chứng tỏ là hữu ích hơn cho việc tạo dựng một mô hình loại suy, có thể ứng dụng cho môn thông sử về các nền văn minh, một loại mô hình khác trực tiếp lấy cảm hứng từ các sự kiện có nguồn gốc từ lĩnh vực này.

Vì vậy khác với chúng tôi, khi người ta cho rằng các nghiên cứu về lịch sử và địa lý thì không có giá trị cho các nghiên cứu cấu trúc, họ chính là những người chẳng hạn như, vẫn tin rằng mình là "nhà chức năng luận". Nhà chức năng luận có thể chỉ là người đối lập với nhà cấu trúc luận, ví dụ về Malinowski  có để thuyết phục được chúng ta. Ngược lại, công trình của Dumézil và ví dụ cá nhân A.L. Kroeber (về mặt tinh thần giá như là cấu trúc luận, mặc dù đã từ lâu được dành cho việc nghiên cứu phân bố không gian) cho thấy phương pháp lịch sử không phải không tương thích với một vị thế cấu trúc.

Nhưng các hiện tượng đồng đại lại cho thấy tính tương đối đồng nhất tạo điều kiện dễ dàng hơn cho việc nghiên cứu các hiện tượng lịch đại. Do vậy không có gì ngạc nhiên khi các nghiên cứu tiếp cận hơn, trong thực tế, là phương pháp hình thái học, lại là những nghiên cứu liên quan đến các thuộc tính định tính, không thể đo lường được, không gian xã hội, có nghĩa là, cái cách mà các hiện tượng xã hội được phân bố trên bản đồ, và các hằng số xuất hiện từ loại phân bố này. Về phương diện này, cái gọi là "trường phái Chicago" và các công trình đô thị sinh thái của nó đã làm dấy lên hy vọng rất lớn, nhưng lại quá nhanh chóng gây vỡ mộng. Các vấn đề sinh thái học được thảo luận trong một chương khác của hội nghị chuyên đề này, vì vậy tôi sẽ minh định cách thức quan hệ giữa các khái niệm về sinh thái và cấu trúc xã hội. Trong cả hai trường hợp, chúng tôi quan tâm đến sự phân bố của các hiện tượng xã hội trong không gian, nhưng các nghiên cứu cấu trúc luận lại hoàn toàn tập trung vào các khung không gian mà các đặc trưng của nó các đặc trưng xã hội học, có nghĩa là, chúng không phụ thuộc vào các nhân tố tự nhiên như những đặc trưng của địa chất học, khí hậu học, địa văn học, vv. Do đó, các nghiên cứu được gọi là đô thị sinh thái đặc biệt thu hút mối quan tâm của các nhà dân tộc học: không gian đô thị đủ nhỏ và đủ đồng nhất (trong tất cả các khía cạnh khác với khía cạnh xã hội) cho các thuộc tính định tính của nó có thể được trực tiếp quy vào các nhân tố nội tại, nguồn gốc của cả hình thái và xã hội.

Thay vì nhắm vào các cộng đồng phức tạp, nơi khó làm cho phần tác động tương ứng từ bên ngoài và từ bên trong, thì có lẽ khôn ngoan hơn bằng cách giới hạn lại - như Marcel Mauss (1924-1925 ) - đã làm đối với những cộng đồng nhỏ và tương đối độc lập, một cách m phổ biến nhất trong kinh nghiệm của các nhà n tộc học. Có một vài nghiên cứu dạng này, nhưng họ hiếm khi vượt khỏi cấp độ mô tả; hoặc, khi thực hiện, người ta vẫn còn đôi chút e dè. Chưa có ai thực sự nghiêm túc tìm kiếm những mối tương quan tồn tại giữa các cấu hình không gian của các nhóm, và các thuộc tính hình thái thuộc v các khía cạnh khác của đời sống xã hội của họ.

Tuy nhiên, nhiều tài liệu đã chứng thực cho thực tiễn và tầm quan trọng của mối tương quan như vậy, chủ yếu, một mặt liên quan đến cấu trúc xã hội, và mặt khác, liên quan đến cấu hình không gian của các khu định cư của con người: các thôn làng, hoặc các khu dân cư. Khi tự giam mình ở Mỹ, tôi nhớ lại rằng hình thái của các khu định cư của người Indians ở các bình nguyên khác với cách tổ chức xã hội của mỗi bộ lạc. Đó là sự phân bố giống nhau của những cái lều tròn trong các làng người Gé thuộc miền trung và miền đông Brazil. Trong cả hai trường hợp, đó là các khu vực khá đồng nhất về ngôn ngữ và văn hóa, và nơi có một loạt các biến đổi đồng thời rất rõ ràng. Các vấn đề khác nảy sinh khi so sánh các vùng hoặc các loại địa vị xã hội khác nhau, gắn liền với các cấu trúc xã hội khác nhau; do đó, trước hết, là loại cấu hình tròn của các ngôi làng người Gé, và sau đó, là các  đường phố song song, của các khu phố của thành phố Pueblo. Trong trường hợp sau, thậm chí chúng ta có thể thực hiện một nghiên cứu lịch đại, qua các tài liệu khảo cổ học, cho thấy các biến đổi rất đáng quan tâm. Một mặt, liệu có mối liên hệ giữa lối đi của các cấu trúc bán nguyệt cổ với các cấu trúc song song hiện nay; và mặt khác, liệu có việc chuyển rời của các làng dưới đáy các thung lũng đến các vùng cao nguyên? Và sự thay đổi cách thức khôi phục những nơi cư trú giữa các thị tộc khác nhau đã diễn ra như thế nào; còn các huyền thoại mô tả rất có hệ thống, như bây giờ còn thấy thì đó phải là một trùng hợp ngẫu nhiên không?.

Tôi không dám chắc các cấu hình không gian của các ngôi làng vẫn phản ánh được các tổ chức xã hội như một tấm gương, hoặc nó phản ánh cái tổng thể. Đó có thể một khẳng định vô cớ đối với nhiều xã hội. Nhưng lại không một cái gì đó chung cho tất cả các tổ chức xã hội - rất khác nhau ở những nơi khác nhau - nơi có một mối quan hệ (thậm chí mơ hồ) giữa cấu hình không gian và cấu trúc xã hội sao? thậm chí hơn nữa, ở những nơi mà cấu hình không gian "đại diện cho" cấu trúc xã hội, giống như một sơ đồ được vẽ trên bảng đen? Trong thực tế, những điều này hiếm khi lại đơn giản như chúng có vẻ là thế. Tôi đã cố gắng chỉ ra rằng bình đồ của ngôi làng Bororo không thể hiện cấu trúc xã hội thực sự, nhưng là một mô hình thể hiện ý thức bản địa, mặc dù đó là bản chất ảo tưởng và trái ngược với sự thật.

Vì vậy nó là phương tiện để nghiên cứu các hiện tượng xã hội và tinh thần từ những biểu hiện khách quan của chúng, trong một hình thái ngoại tại và - được cho là - đã kết tinh. Nhưng cơ hội đó không chỉ được cung cấp bởi các cấu hình không gian ổn định, chẳng hạn như các bình đồ làng. Các cấu hình không ổn định nhưng có tính hồi quy, có thể được phân tích và phê bình theo cùng một cách như vậy.  Những được quan sát trong vũ điệu, trong nghi lễ, vv cũng hệt như vậy. Người ta cũng tiếp cận với biểu thức toán học để giải quyết các thuộc tính của các con số của các nhóm, là cách tiếp cận hình thành nên lĩnh vực truyền thống của nhân khẩu học. Tuy nhiên trong những năm gần đây, các nhà nghiên cứu từ các bộ môn khác nhau - các nhà nhân khẩu học, các nhà xã hội học, các nhà dân tộc học - xu hướng liên kết, để đặt các nền tảng cho một cách tiếp cận nhân khẩu học mới, có thể được gọi là cách tiếp cận định tính: ít quan tâm đến các biến đổi liên tục trong các nhóm người tự ý biệt lập vì những lý do thực nghiệm, mà các gián đoạn đáng kể giữa các nhóm được coi như là các tổng thể, và được phác họa vì những gián đoạn này. Môn "xã hội-nhân khẩu học" này, theo cô Lestrange, đã cùng cấp độ với nhân học xã hội rồi. Có thể là một ngày nào đó, cô sẽ trở thành khởi điểm bắt buộc đối với nghiên cứu của chúng ta.

Các ndân tộc học phải tập trung nhiều hơn nữa vào nghiên cứu nhân khẩu học gợi hứng từ cấu trúc luận so với những gì cho đến nay họ đã làm được: những gì mà Livi nói về các thuộc tính chính thức của mức độ biệt lập tối thiểu mà nó có thể tự duy trì lâu dài; hoặc những người thân, hàng xóm của Dahlberg. Số lượng cư dân mà chúng tôi đang nghiên cứu có thể là rất gần với số lượng cư dân tối thiểu của Livi, và đôi khi thậm chí ít hơn. Ngoài ra, có một mối quan hệ nhất định giữa phương thức hoạt động và tính bền vững của một cấu trúc xã hội, và kích cỡ của cư dân. Phải chăng không có các thuộc tính chính thức của các nhóm, có chức năng trực tiếp lập tức của số lượng tuyệt đối của dân, bất kể một nghiên cứu nào khác? Nếu vậy, chúng ta nên bắt đầu bằng cách xác định các thuộc tính nàybằng cách tạo ra một vị trí, trước khi tìm các cách diễn giải khác. Sau đó xem xét các thuộc tính số lượng không thuộc về nhóm như một toàn thể, mà thuộc vào các tập con của nhómthuộc vào các mối quan hệ của chúng chừng nào mà thuộc tính này hoặc thuộc tính khác thể hiện các gián đoạn đáng kể. Trong khía cạnh này, hai hướng nghiên cứu là thuộc về mối quan tâm lớn của nhà dân tộc học:

1. Những có liên quan đến quy tắc nổi tiếng của môn xã hội học đô thị được gọi là phân phối thang bậc - kích cỡ, đối với một tập hợp nhất định, cho phép thiết lập một mối tương quan giữa kích thước tuyệt đối của các thành phố (tính theo số dân) và vị trí mỗi thành phố trong một tập hợp được sắp đặt, thậm chí, có vẻ để khấu tr một yếu tố khỏi một bộ phận khác.

Phân phối, hoặc quy tắc thang bậc - kích cỡ mô tả tính quy tắc đáng chú ý trong nhiều hiện tượng, bao gồm cả sự phân phối kích cỡ các thành phố, kích cỡ của các doanh nghiệp, kích cỡ của các hạt (chẳng hạn như hạt cát), chiều dài của các con sông, các tần suất sử dụng từ ngữ, và sự thịnh vượng của các cá nhân. Tất cả là đều là những quan sát thế giới hiện thực theo các định luật năng lượng, chẳng hạn như luật Zipf’s law, phân phối Yule, hoặc phân phối Pareto. Nếu một người xếp hạng quy mô dân số của các thành phố trong một quốc gia nhất định hoặc trên toàn thế giới và tính toán logarit tự nhiên về cấp bậc và về cư dân thành phố, thì đồ thị kết quả sẽ hiển thị một mô hình logarit tuyến tính. Đây là phân  phối thang bậc.

2. Các công trình của một số nhà nhân khẩu học của Pháp, dựa trên sự chứng minh của Dahlberg cho rằng các kích cỡ tuyệt đối của một nhóm tộc biệt lập có thể được tính toán theo tần số của các cuộc hôn nhân đồng huyết (Dahlberg, 1948). Sutter và Tabah (1951) đã nỗ lực tính toán kích cỡ trung bình của các nhóm biệt lập cho toàn bộ các tỉnh của chúng ta, trong cùng một thời gian giúp cho nhà dân tộc học có thể tiếp cận với hệ thống hôn nhân phức tạp của một xã hội hiện đại. Kích cỡ trung bình của nhóm tộc người biệt lập Pháp thay đổi từ dưới 1000 đến hơn 2800 người. Các số liệu cho thấy mạng lưới các cá nhân được xác định bởi các mối quan hệ hôn nhân đồng tộc - ngay trong một xã hội hiện đại - rất nhỏ so với những gì có thể đã được dự kiến: chỉ lớn hơn mười lần so với số lượng nhỏ nhất của các xã hội được gọi là xã hội nguyên thủy, có nghĩa là cùng một trật tự kích cỡ. Liệu chúng ta có thể kết luận rằng các mạng hôn nhân đồng tộc là tương đối ổn định về kích cỡ tuyệt đối trong tất cả các xã hội loài người? Nếu vậy, tính chất phức tạp của một xã hội sẽ cho kết quả trừ khi sự mở rộng của nhóm biệt lập nguyên thủy, sự tích hợp của các tộc biệt lập tương đối ổn định trong các tập hợp ngày càng lớn hơn, nhưng đặc trưng bởi các loại gắn kết xã hội khác (kinh tế, chính trị, trí tuệ), Sutter và Tabah cũng cho thấy các tộc biệt lập nhỏ hơn không chỉ tìm thấy ở các vùng xa xôi, chẳng hạn như khu vực miền núi, mà còn (và thậm chí nhiều hơn) ở các trung tâm đô thị lớn hoặc trong vùng lân cận: các vùng Rhone (với Lyon), Gironde (với Bordeaux), và sông Seine (với Paris) thuộc diện dưới cùng của bản danh sách với các tộc biệt lập tương ứng có 740, 910 và 930 người. Trong vùng sông Seine, gần như trùng với khu vực Paris, tỷ lệ hôn nhân đồng huyết cao hơn so với bất kỳ quận nào trong số 15 quận huyện nông thôn xung quanh đó.

Tất cả điều này cần thiết bởi vì nhà nhân học có thể hy vọng, thông qua công trình này, tự tìm ra, trong một xã hội hiện đại phức tạp, các đơn vị nhỏ hơn, có cùng bản chất, như những đơn vị mà ông ta đã nghiên cứu nhiều nhất. Tuy nhiên, phương pháp nhân khẩu học cần phải được hoàn thành từ quan điểm dân tộc học. Các kích cỡ tuyệt đối của các tộc biệt lập không làm cạn kiệt vấn đề; cũng sẽ xác định độ dài của các chu kỳ hôn nhân. Nói một cách tương đối, một tộc biệt lập nhỏ có thể là một mạng chu kỳ lan rộng (cùng trật về kích cỡ như tộc cô lập tự thân); một tộc biệt lập lớn có thể thực hiện (đôi chút giống với chiếc áo giáp lưới sắt) các chu kỳ ngắn. Nhưng lại trở nên cần thiết cho việc tạo lập các phả hệ, có nghĩa , nhà nhân khẩu học, thậm chí cả nhà cấu trúc luận, không thể thực hiện mà không có nhà dân tộc học.

Sự cộng tác này có thể giúp làm sáng tỏ một vấn đề khác, một vấn đề lý thuyết. Đó phạm vi và hiệu lực của khái niệm văn hóa, dẫn đến các cuộc thảo luận sôi nổi giữa các nhà dân tộc học Anh và Mỹ trong những năm gần đây. Bằng cách tập trung chủ yếu vào việc nghiên cứu văn hóa, các nhà dân tộc học bên kia Đại Tây Dương đã thực hiện - như Radcliffe-Brown viết rằng - nó "cụ thể hóa một trừu tượng"? Đối với bậc thầy người Anh này, "ý tưởng về văn hóa châu Âu một khái niệm trừu tượng, cũng như ý tưởng về nền văn hóa cụ thể đối với bất kỳ bộ lạc châu Phi cụ thể nào đó vậy. Không hề có chuyện con người quan hệ với nhau bởi các mối quan hệ xã hội không giới hạn” (Radcliffe-Brown, 1940 b). "Cãi giả," Lowie trả lời (1942, tr. 520-521). Tuy nhiên, nếu không giả, thì nó cũng là cuộc cãi vã định kỳ lặp lại.

Từ quan điểm này, chúng tôi sẽ chỉ quan tâm đến việc đưa khái niệm văn hóa vào cùng một bình diện với khái niệm di truyền và nhân khẩu học của tộc biệt lập. Chúng tôi gọi là văn hóa toàn bộ tập hợp dân tộc học mô tả mà, từ quan điểm của cuộc điều tra, bằng mối quan hệ với cuộc điều tra khác, có các khác biệt đáng kể. Nếu ta tìm cách xác định các khác biệt đáng kể giữa Bắc Mỹ và châu Âu, chúng tôi sẽ xử lý chúng như những nền văn hóa khác nhau; nhưng bằng cách giả định rằng cần phải tập trung vào những khác biệt đáng kể giữa Paris và Marseille, cả hai khu phức hợp đô thị có thể được tạm thời xác lập như là hai đơn vị văn hóa. Đối tượng cuối cùng nghiên cứu cấu trúc là các hằng số liên quan đến sự khác biệt như vậy, chúng ta thấy rằng quan niệm về văn hóa có thể tương ứng với một thực tiễn khách quan, trong khi vẫn còn lại các loại hình nghiên cứu dự kiến. Cùng bộ sưu tập của các cá nhân, miễn là được xuất trình một cách khách quan trong thời gian và không gian, đồng thời tùy thuộc vào các hệ thống văn hóa phổ quát hơn, lục địa, quốc gia, tỉnh, địa phương, vv ; và gia đình, nghề nghiệp, tôn giáo, chính trịvv.

Mặc dù, trong thực tế, duy danh luận có thể không được đẩy đến hoàn thành. Thực ra, thuật ngữ văn hóa được sử dụng để nhóm một tập các sự khác biệt đáng kể mà kinh nghiệm cho thấy rằng các ranh giới tương đối trùng khớp. Sự trùng hợp này là không bao giờ tuyệt đối, và nó không bao giờ xảy ra ở tất cả các cấp độ cùng một lúc, điều đó không cho phép chúng ta sử dụng khái niệm văn hóa; đó là vấn đề cơ bản trong dân tộc học và có giá trị đúng như nhân khẩu học của các tộc biệt lập có tính phát hiện tài liệu vậy. Về phương diện logic, hai khái niệm đó là cùng loại. Hơn nữa, bản thân các nhà vật lý cũng khuyến khích chúng ta bảo lưu khái niệm văn hóa, như N. Bohr đã viết: "Các khác biệt truyền thống (các nền văn hóa của con người) đều giống nhau ở nhiều khía cạnh, những cách khác biệt nhưng tương đương, dựa vào đó có thể mô tả cá kinh nghiệm vật lý" (1939, p. 9)
____________________________________

Nguồn: Claude Lévi-Strauss 1958. Anthropologie structurale. Paris, Plon, Agora, 1958 et 1974, pp. 328-378. 

References 

Bernot L. et Blancard, R. 1953. Nouville, une village francais, Paris: Institut d'Ethnologie. 
Bohr, Niels, 1939. Natural Philosophy and Human Cultures, Nature 143, 268-272 (18 February 1939). 
Dahlberg G. 1948. Mathematical Methods for Population Genetics. Karger, Basle, London, New  York, Interscience Pub., 1 vol. in-8°, 182 p.
Durkheim, E. 1912. Les formes élémentaires de la vie religieuse. Le système totémique en Australie. Paris.
Goldstein Kurt 1920 (1951). (con Adhemar Gelb), Psychologische Analysen hirnpathologischer Falle. 2 voll., Liepzig, Barth. 
Lestrange, Monique De 1950. Région de la population de la française Youkounkoun en Guinée, Paris.
Lowie, Robert H. 1942. Studies In Plains Indian Folklore. Berkeley and Los Angeles, University of California press.
Lowie, Robert H. 1948. Social Organization. Rinehart and Co., New York,. 1948.)
Mauss, Marcel 1924. Rapports réels et pratiques de la psychologic et de la sociologie. Pages 281–310 in Marcel Mauss, Sociologie et anthropologie. 2d ed. Paris: Presses Universitaires de France. Journal de psychologic normale et pathologique.
Mauss, Marcel 1925. Essai sur le don: Forme et raison de I’échange dans les sociétés archaïiques. Paris.
Radcliffe-Brown A.R., 1940. On Social Structure. Journal of the Royal Anthropological Institute of Great Britain and Ireland 70(1): 3.
Sutter J.  et  L. Tabah. Les notions  d'isolat et  de  population minimum.  Population,  1951,  6,  483-498. Le notion d’isolat