Đọc quá khứ – những cách tiếp cận
lý giải Khảo cổ học hiện nay (VI)
Ian Hodder
Người dịch: Hà Hữu Nga
Phê phán
Mặc dù cuốn
sách này muốn tìm cách lý giải đầy đủ về mối liên hệ giữa duy tâm và duy vật,
trong khi đó đóng góp của Levi-Strauss trước hết là hướng tới một lý thuyết về
siêu cấu trúc. Các mối liên hệ với hạ tầng cơ sở không phải là tiêu điểm nghiên
cứu.
Theo cách
tiếp cận ký hiệu học đối với ngôn ngữ trong công trình của Saussure, một công
trình có ảnh hưởng chủ yếu đối với cấu trúc luận thì mối quan tâm nghiên cứu là
xem xét việc tổ chức các ký hiệu sao cho chúng có nghĩa. Vì vậy từ “cái bình”
là một vật biểu nghĩa võ đoán của khái niệm được biểu nghĩa.
Người ta
nghiên cứu mối liên hệ giữa vật biểu nghĩa và vật được biểu nghĩa, nhưng lại ít
quan tâm đến bản thân cái “vật” đó – trong trường hợp này thì là một chiếc bình
bằng vật thật. Những cách tiếp cận như vậy không giúp cho chúng ta tìm kiếm
những mối tương liên giữa duy tâm và duy vật. Cần có sự vận động từ mã “ngôn
ngữ” được cấu trúc trừu tượng đến diễn ngôn hoặc việc “giao tiếp tình huống”
(Ricoeur 1971; Barrett 1987; Hodder 1989a).
Việc phân tích trừu tượng các dấu hiệu và ý nghĩa đặc biệt là một vấn đề
trong KCH, vì trước hết nó liên quan đến văn hoá vật chất. Chúng ta đào bới các
hiện vật cũng nhiều như chúng ta đào bới các ý tưởng vậy. Và chúng ta muốn xem
mỗi đối tượng vừa với tư cách là một vật, kết quả của những quá trình sản xuất
và hành động, lại vừa như một ký hiệu, vì hiện vật đó (chiếc bình) tự thân nó
là vật biểu nghĩa cho những khái niệm khác (chẳng hạn bộ lạc “x”, hoặc các hoạt
động của phụ nữ). Việc nghiên cứu văn hoá vật chất mời gọi chúng ta bắc cây cầu
qua con sông ngăn cách giữa duy tâm và duy vật, nhưng cấu trúc luận lại ít trợ
giúp được cho chúng ta trong lĩnh vực này.
Khi tìm kiếm
các mối quan hệ giữa cấu trúc và quá trình (có nghĩa là tính đệ qui của cấu
trúc và hành động) thì cấu trúc luận đóng một vai trò cần, nhưng chưa đủ. Từ “cái bình” có thể là vật biểu nghĩa cho khái niệm về một
cái bình. Nhưng cũng tương tự như vậy, bản thân hiện vật này cũng có thể là vật
biểu nghĩa cho ý niệm về một cái gì đó là một chiếc bình – có những ảnh hưởng
tới cả hai cách. Người ta thừa nhận các cấu trúc là trung gian cho hành động
trong thế giới, nhưng chúng cũng bị biến đổi bởi những hành động đó. Bình luận
mang tính phê phán như vậy có thể được thực hiện theo một cách nào đó
khác. Hơn nữa trong cấu trúc luận và trong hậu cấu trúc luận (Bapty và Yates
1990) thì cá nhân chỉ là thụ động. Ngoài ra lại còn bị điều tiết bởi các qui
luật thích nghi, giờ đây cá nhân bị quyết định bởi các cấu trúc và/ hoặc các
qui luật phổ biến của tư duy. Sự khiếm khuyết của quan điểm này có thể thấy rõ
bằng cách đặt câu hỏi “một phong cách tốt là gì?” trong mối liên hệ với mẫu
trang trí hoặc bất kỳ lĩnh vực có cấu trúc nào của hành động. Tính “phong cách”
không đơn giản là vấn đề tuân thủ các qui tắc một cách bền bỉ. O’Neale (1932)
đã chỉ rõ những người đan giỏ Anh điêng ven biển Bắc Clifornia nói rằng các mẫu
thiết kế là “tốt” nếu chúng dễ chịu và được sắp xếp hợp lý, trong khi những mẫu
thiết kế có sắp xếp lộn xộn thì bị cho là “xấu”. Nhưng bằng chứng khẩu ngữ như
vậy chỉ hỗ trợ cho quan niệm về một phong cách được cấu trúc tồn tại-trong cấu
trúc, hoặc thậm chí vượt khỏi giới hạn của mình, nó vẫn có thể được coi là “có
phong cách”. Một ngôi sao nhạc pop như Boy George có thể tạo ra một phong cách
mới, và được cho là có phong độ cao, mặc dù không hề có một ngữ pháp thiết kế
nào tạo ra những lựa chọn quần áo, trang sức và những ẩn ý. Hơn nữa, Boy George
lại tạo ra phong cách bằng việc sử dụng, tận dụng và biến đổi các nguyên tắc
cấu trúc liên quan đến việc trang sức. Anh sử dụng cấu trúc về phương diện xã
hội để tạo ra cấu trúc và xã hội mới.
Vì vậy các
lý thuyết của chúng ta về cấu trúc phải tạo điều kiện cho vai trò của các cá
nhân năng động. Trong hầu hết KCH cấu trúc thì các vai trò có vẻ như tạo ra một
tập hợp các chuẩn mực chung: mỗi cá nhân trong xã hội đều được xác định là có
cùng cấu trúc để nhận ra chúng từ cùng một góc độ và để gán cho chúng cùng một
ý nghĩa. Đây là một quan điểm rất định chuẩn (như đã đề cập ở chương 1) mà cuốn
sách này muốn xem xét lại.
Một khía
cạnh mang tính phê phán khác là cấu trúc luận là phi lịch sử theo hai nghĩa.
Trước hết Saussure nhấn mạnh đến tính chất võ đoán của ký hiệu. Bất cứ từ nào
cũng có thể được sử dụng để biểu thị nghĩa cho khái niệm về một chiếc bình, và
bất cứ một hiện vật hoặc không gian nào cũng có thể được sử dụng để biểu nghĩa
cho tính giới hạn, giới tính, nhóm bộ lạc, mùa hè và mùa đông. Rõ ràng là còn
thiếu những tiếp cận như vậy trong một bộ môn có thể sử dụng cách đó để các ký
hiệu trở nên có ý nghĩa, không võ đoán thông qua những chuỗi lịch sử dài hạn.
Thứ hai, chúng ta chưa biết rõ các biến đổi cấu trúc đã diễn ra như thế nào.
Chắc là người ta có thể dễ dàng nói rằng biến đổi liên quan đến sự chuyển hoá
cấu trúc, và đây là một quan niệm quan trọng; nhưng trong các phân tích cấu
trúc, tự thân chúng có ít nhu cầu biến đổi, và khó mà biết được tại sao các
biến đổi ấy lại xảy ra và tại sao chúng lại xảy ra theo một đường hướng như
vậy, và tại sao hoặc như thế nào mà tự thân cấu trúc có thể thay đổi một cách
triệt để. Vấn đề này nảy sinh từ mối quan hệ không đầy đủ giữa cấu trúc
và quá trình và từ cách đánh giá quá thấp vai trò cá nhân năng động trong việc
sáng tạo ra các cấu trúc.
Một loại phê
phán rất khác nữa liên quan đến hậu cấu trúc luận (chẳng hạn như Tilley 1990a
và b; Bapty và Yates 1990; Derrida 1976). Trong cấu trúc luận vật biểu nghĩa có
được ý nghĩa nhờ những khác biệt của chúng với các vật biểu nghĩa khác. Nhưng
tự thân những vật biểu nghĩa khác đó cũng chỉ có nghĩa bằng cách đối lập với
chính những vật biểu nghĩa khác trong một chuỗi biểu thị ý nghĩa vô tận. Vì vậy
luôn luôn có thể giải cấu trúc bất cứ phân tích cấu trúc nào giả định một hệ
thống đối lập thuần tuý chặt chẽ. Thực ra thì có thể giải cấu trúc bất cứ phân
tích nào đòi hỏi một tổng thể tính, một tổng thể hoặc một ý nghĩa gốc, một chân
lý, vì những “nguồn gốc” ý nghĩa này luôn luôn phải tuỳ thuộc vào những vật
biểu nghĩa khác. Những cách tiếp cận như vậy có giá trị lớn trong việc phê phán
những tuyệt đối tính mà người ta vẫn đòi hỏi phải có trong một bài viết về KCH.
Việc phân tích nội tại bất cứ văn bản KCH nào cũng đều cho thấy cái ở bên ngoài
thì cũng rất cần thiết cho cái “bên trong”. Phân tích hậu cấu trúc cũng có giá
trị phổ biến các quan niệm như quyền lực và chân lý (Foucault 1979; 1981) và
làm phân mảnh khái niệm văn hoá (tr. 159). Tuy nhiên hậu cấu trúc luận cũng đã
cơ bản giải cá nhân trung tâm luận, vì vậy mà đánh bẫy cá nhân trong chuỗi biểu
hiện ý nghĩa. Tương tự như vậy, trong nhiều phiên bản, hậu cấu trúc luận đã
không quan tâm đầy đủ đến các hiệu ứng của thế giới thực tại do các diễn ngôn
tạo ra (Eagleton 1983). Vì vậy mà nó không thể thoát khỏi những phê phán chủ
yếu được thực hiện trong cuốn sách này.
Tính minh xác
Có lẽ sự chỉ
trích chủ yếu cấu trúc luận tập trung xung quanh quan niệm về sự minh xác. Làm
thế nào để có được một KCH cấu trúc luận một cách nghiêm nhặt? Cấu trúc luận
liên kết một cách mật thiết với trí tưởng tượng bay bổng, với những lý lẽ không
có cơ sở, vì với trí tưởng tượng thì toàn bộ dữ liệu có thể được coi như là
những chuyển đổi lẫn nhau và đều thuộc vào những cấu trúc cơ sở. Nhiều phân
tích cấu trúc luận tỏ ra nghiêm nhặt và đã được chấp nhận một cách rộng rãi.
Việc nhận thức rằng người ta có thể điều chỉnh các phân tích cấu trúc và xác
quyết một số phân tích nào đó có thể tốt hơn những phân tích khác, hàm ý rằng
có thể tìm thấy các thao tác để tạo ra những lý lẽ hợp lý (Wylie 1982).
Thao tác có
giá trị phổ biến nhất được KCH cấu trúc chấp nhận dường như thể hiện rằng những
cấu trúc tương đồng thường ẩn sau nhiều loại khác biệt dữ liệu trong cùng một
ngữ cảnh lịch sử. Càng nhiều dữ liệu có thể cài vào cùng những nguyên tắc tổ
chức thì càng đạt được tính hợp lý bằng tổ chức tự thân của các nguyên tắc đó.
Như với trường hợp phân tích các hệ thống, phân tích cấu trúc sẽ có sức thuyết
phục nếu nó có thể tập hợp được hoặc tạo được nghĩa của những dữ liệu tản mát
không liên hệ gì với nhau từ trước. Khi chúng ta đã thấy việc đơn giản tìm kiếm
một mô hình (phân vùng theo chiều ngang và theo chiều dọc, đối xứng và ...vv)
là chưa đủ - thì chúng ta cũng cần tạo ra một trừu tượng hoá nào đó về ý nghĩa
của mô hình. Vì vậy trong một phân tích thuyết phục của Deetz (1977) về việc
thải bỏ đồ thừa, về táng thức và phong cách gốm trong các di chỉ Mỹ thời lịch
sử, sự đối lập về thời gian giữa các trừu tượng hoá được ông gọi là đạo đức học
cá nhân và cộng đồng có thể được coi là sợi dây xuyên suốt các nghiên cứu của
ông, và có thể được sử dụng để giải thích một loạt khác biệt về các kiểu dữ
liệu.
Khi nghiên
cứu về các mối liên hệ cấu trúc trong thời đại đồ sắt tại di chỉ Glastonbury,
Davis Clarke (1972) đã biện hộ cho trường hợp của mình bằng cách chỉ ra sự lặp
lại của cùng một cấu trúc đàn ông: đàn bà trong các khuôn viên sống khác nhau,
vào những thời kỳ khác nhau. Fritz (1978) đã tìm cách để phát hiện cùng một cấu
trúc ở cấp vùng và cấp tiểu vùng. Tilley (1984) đã chỉ ra cách thức quan sát
một trừu tượng hoá gọi là “tính giới hạn” để thay đổi đồng thời ở cả trang trí
gốm và táng thức. Khi phân tích về thời đại Đá mới Orkney, tôi đã cố thử chứng
tỏ rằng các cấu trúc trong cư trú, mộ táng và việc sử dụng các nghi thức không
gian có thể tương liên với nhau, mặc dù rất khó có đủ dữ liệu (Hodder 1982a).
Câu hỏi về
vấn đề minh xác cấu trúc – có phải các cấu trúc liên quan đến dữ liệu không? –
là một câu hỏi mang tính qui ước. Toàn bộ các phân tích KCH đều liên quan đến
việc lý giải cái thế giới thực tại trong quá trình quan sát, và sau đó làm cho
các lý thuyết thích ứng với các quan sát để tạo ra một lý lẽ thích hợp – ngoài
ra khó mà đòi hỏi được gì hơn nữa. Việc phân tích cấu trúc bắt nguồn từ chính
những nguyên tắc như vậy. Ví dụ trong việc phân tích nghệ thuật Nuba (xem tr.
39 ở trên) cho thấy tính nghệ thuật càng cao thì càng khác biệt nhau, và cái mà
ngữ pháp tạo sinh có thể tạo ra, thì ngữ pháp lại càng hợp lý. Chúng ta có thể
hỏi liệu bất cứ mẫu trang trí nào xuất hiện cũng không tương hợp với các qui
tắc không. Chẳng hạn có phải “các từ” vẫn kết hợp với nhau theo cạnh chứ không
phải theo góc không? Sự thực thì ® là hiếm nếu nó đã từng xuất hiện trong nghệ thuật đó.
Tương tự như vậy có thể áp dụng cho một ký hiệu khác. Các motif đó không được
thừa nhận về phương diện ngữ pháp và việc chúng vắng mặt trong nghệ thuật đã hỗ
trợ cho bản thân ngữ pháp.
Việc thừa
nhận các cấu trúc phải không được phổ quát là một điều quan trọng, và
tính chất phổ quát của chúng không được phép làm thành một bộ phận chính của
cái thao tác được hợp lý hoá đó. Tự thân các cấu trúc ấy là hoàn toàn riêng
biệt (như trong trường hợp người Nuba sử dụng các mẫu trang trí cắt chéo).
Nhưng đó là nội dung ý nghĩa đặc biệt, có thể có tầm quan trọng lịch sử riêng.
Vì vậy hình chữ thập Nuba không chỉ là một cấu trúc trang trí – mà nó còn là
một biểu tượng gây xúc cảm cao, với một tầm quan trọng lịch sử đặc thù, và tác
động mạnh mẽ tới việc sử dụng nghệ thuật Nuba về phương diện xã hội (Hodder
1982a). Vì vậy một phần giá trị của các phân tích cấu trúc trong KCH phải quan
tâm tới sự trừu tượng hoá các ý nghĩa riêng biệt gắn liền với các cấu trúc đó.
Trong một
vài trường hợp, có sự liên tục lịch sử với hiện tại thì các ý nghĩa được ấn
định cho quá khứ tỏ ra có sức thuyết phục. Vì vậy định nghĩa của Glassie (1975)
về các loại công trình xây dựng, các mặt tiền nhà, các không gian trong phòng
là “công cộng” hoặc “tư nhân”, hoặc sự liên tưởng của ông về tính bất đối xứng
giữa “tự nhiên” và “hữu cơ” là có sức thuyết phục, vì nước Mỹ thế kỷ XVIII còn
gần gũi với chúng ta. Về phương diện cá nhân, tôi lại càng không tin nếu sự
không đối xứng được liên hệ với “cái hữu cơ” ở Kenya hoặc ở Hungari tiền sử. Đó
là khi các ý nghĩa được áp dụng theo cách so sánh văn hoá, không có sự qui
chiếu vào ngữ cảnh, thì sẽ nảy sinh những bất ổn. Vì vậy trong công trình mới
đây, Leroi-Gourhan (1982) đã rất cẩn thận khi xác định các trang trí trong các
hang động đá cũ là “đàn ông” hay “đàn bà”. Nhưng giai đoạn tiền sử nào có các
dữ liệu mang tính liên tưởng và ngữ cảnh nhiều hơn, thì việc gán nghĩa cần phải
được cấu trúc cẩn thận. Vì vậy trong thời đại đá mới châu Âu, tôi đã cho rằng
các ngôi mộ có nghĩa là những ngôi nhà dựa trên cơ sở tám điểm tương đồng giữa
chúng (Hodder 1984a).
Các liên
tưởng chức năng và ngữ cảnh cũng cho phép suy luận về tính chất tương đồng ý
nghĩa. Rõ ràng chúng ta không thể ấn định với một niềm tin tưởng chắc chắn rằng
nếu một hiện vật được phát hiện trong một ngôi mộ đàn ông thì nó có những “phẩm
chất” đàn ông, hay là một hiện vật được phát hiện tại một nơi hành lễ thì nó
phải mang ý nghĩa “nghi lễ”, thế mà những ấn định như vậy lại thường được các
nhà KCH thực hiện. Các ý nghĩa có thể được lý giải một cách hợp lý khi ngữ cảnh
được xem xét cẩn thận và có phê phán. Chẳng hạn như Arnold đã gợi ý rằng việc
phân vùng môi trường và trang trí theo mảng trên đồ gốm được liên tưởng với cái
ngữ cảnh văn hoá riêng đó, vì cả những chiếc bình lẫn môi trường được phân vùng
đều có chung những chức năng quản lý và dự trữ nguồn nước. Bằng cách xây dựng
những liên tưởng ngữ cảnh như vậy, Arnold đã làm tăng tính hợp lý trong
lập luận của ông, và những lý lẽ đó sẽ được củng cố thêm nếu có thể chứng tỏ
được rằng các bình nước chỉ là những thứ được sử dụng trong các môi trường phân
vùng theo chiều ngang, hoặc những chiếc bình được sử dụng cho những mục đích
khác không hề được trang trí theo cách như vậy.
Vậy là sự
phân đôi phải được thể hiện bằng cả lý giải chức năng và cấu trúc, khi ủng hộ
cho một lý thuyết nào đó thì cần phải chỉ ra các dữ kiện đã không được lý giải
một cách đầy đủ bằng các dữ kiện khác. Chắc chắn McGhee đã biện hộ cho trường
hợp của ông khi cho rằng không hề có nhu cầu chức năng trong việc phân biệt ngà
voi và gạc hươu thành các loại công cụ và vũ khí khác nhau. Loại lý lẽ này là
bất chắc ở chỗ là nó thường giả định tính chất thống trị của thuộc tính chức
năng, vật chất: các chức năng được lý giải trước tiên, và tất cả những gì còn
lại thì đều là “tư duy”. Loại lý lẽ đó cũng xác quyết một cách ảo tưởng rằng có
sự phân đôi giữa chức năng và ý nghĩa biểu tượng. Như ví dụ của McGhee đã chỉ
rõ, một hiện vật có thể là một phần của một bộ công cụ, nhưng đồng thời nó cũng
có thể là một phần của một tập hợp các loại đối tượng được cấu trúc. Là các nhà
KCH chúng ta cần phải tính đến các yếu tố trầm tích và hậu trầm tích mà vẫn
phát hiện ra các liên tưởng chức năng giữa các đối tượng trong di chỉ của chúng
ta. Những liên kết chức năng như vậy đóng một phần vai trò trong ý nghĩa được
ấn định cho các đối tượng – phần ý nghĩa nhận thức và biểu tượng của đối tượng
xuất phát từ việc sử dụng chúng. Ở chương 2 chúng ta đã thấy rằng việc ấn định
chức năng phụ thuộc vào việc ấn định ý nghĩa biểu tượng. Một lần nữa chúng ta
quay trở lại với các khái niệm văn hoá vật chất vừa là hiện vật, vừa là ký
hiệu, khái niệm ảnh hưởng hai chiều, khái niệm về một sự thống nhất cần thiết.
Vấn đề này
có thể được làm sáng tỏ thông qua một ví dụ thuần tuý giả thuyết. Hãy tưởng
tượng rằng một số ngôi nhà dài tiền sử được phát hiện trong một khu vực. Tất cả
các ngôi nhà này đều được làm theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, cửa mở về hướng
Đông Nam. Thế là đã xuất hiện hai giả thuyết “xung đột nhau”: việc sắp xếp
hướng nhà như vậy là vì gió luôn luôn thổi từ hướng Tây Bắc, hoặc trục Tây Bắc
- Đông Nam có ý nghĩa biểu tượng. Cả hai giả thuyết này đều có thể đúng theo
những cách khác nhau, trong đó một giả thuyết thì chỉ ra rằng gió thực sự thổi
mạnh từ hướng Tây Bắc, còn giả thuyết kia thì bằng cách xác định cùng một cấu
trúc nhưng lại thuộc lĩnh vực khác. Chẳng hạn trục Tây Bắc - Đông Nam cũng có
thể được người ta chọn đặt hướng mộ, và hướng các công trình nghi lễ. Trục ấy
còn phổ biến trong cả những xắp đặt khác khi sử dụng không gian cư trú. Nhưng
thực ra thì cả hai giả thuyết này đều không mâu thuẫn với nhau. Khi gán nghĩa
cho thế giới xung quanh mình, chúng ta thường sử dụng các vị trí của mặt trời,
mặt trăng, các dòng sông, các quả núi, và hướng gió; tương tự như vậy, ý nghĩa
biểu tượng gắn liền với gió và hướng gió thổi mạnh nhất sẽ tác động đến quyết
định bố trí hướng nhà và nơi cư trú như thế nào. Vậy là việc sử dụng chức năng
và các đặc điểm môi trường đều là những bộ phận của quá trình gán ý nghĩa cho
thế giới, và thang giá trị của các cấu trúc ý nghĩa có lẽ không tuỳ thuộc vào
việc giải quyết các yếu tố như vậy.
Chúng ta đã
nhận ra rằng các luận giải cấu trúc hợp lý có thể được thực hiện bằng cách chỉ
ra các cấu trúc đó lý giải nguyên do cho nhiều loại dữ liệu khác nhau. Cũng cần
phải đặt các cấu trúc vào nội dung ý nghĩa của chúng và trong ngữ cảnh sử dụng
chúng. Bằng những cách thức khác nhau ấy, dựa vào dữ liệu người ta có thể chỉ
ra rằng bất kỳ lý lẽ nào cũng không đứng vững được. Vì vậy một loại hiện vật
nào đó được giả định là “đàn ông” lại được phát hiện trong một mộ phụ nữ, hoặc
một giai đoạn của các hoạt động “cộng đồng” lại có nhiều đặc trưng “cá nhân”,
hoặc quá nhiều đầu mũi tên được làm bằng ngà voi. Tất nhiên người ta có thể lập
luận rằng đã xuất hiện “chuyển đổi” cấu trúc trong các trường hợp không “thích
hợp”, nhưng ở một giai đoạn nào đó thì tính chất khéo léo trí thức lại trở
thành bất hợp lý, chí ít là đối với những trường hợp khác, và những cấu trúc
khác nhau đã tìm được cách để lý giải dữ liệu.
Kết luận: Tầm vóc của Khảo cổ học Cấu trúc
Trong chương
này, chúng ta đã chuyển trọng tâm sang các mã biểu tượng và cấu trúc của tư
duy. Chương tiếp theo sẽ mô tả những kiểu cấu trúc, xã hội và công nghệ khác.
Tầm vóc chủ yếu của toàn bộ công trình như vậy trong KCH là ở chỗ nó đưa chúng
ta tới những cấp độ phân tích khác. Chúng ta không còn bị giới hạn vào việc
lượng hoá những gì hiện diện, mà còn có thể tiếp cận với việc lý giải cả những
gì không hiện diện. Hệ thống không còn là tất cả những gì có ở đó – còn có cả
những cấu trúc, thông qua chúng mà hệ thống có được hình thức của nó. Chúng ta
vẫn chưa phát hiện đủ cái cá nhân trong một ngữ cảnh lịch sử và văn hoá, như
phê phán ở trên đã làm sáng tỏ, nhưng trên con đường đi tới, chúng ta cũng đã
đạt được một phương cách nào đó, đặc biệt là trong việc tìm hiểu văn hoá như là
một hệ thống được cấu thành để có ý nghĩa.
Cấu trúc
luận cung cấp cho chúng ta một phương pháp và một lý thuyết để phân tích các ý
nghĩa văn hoá vật chất. Các nhà KCH quá trình đã quan tâm nhiều đến các chức
năng của các biểu tượng. Như chúng ta đã thấy, chức năng là một thuộc tính quan
trọng của ý nghĩa: việc sử dụng và liên tưởng chiếc bình với những thứ mà nó
chứa đựng, với ngọn lửa nấu những thứ đồ ăn trong bình, với đồng nhất tính của
bộ lạc,và với hệ thống tôn ty xã hội, tất cả đều quan trọng, mặc dù không phải
là những nhân tố quyết định về những ý nghĩa biểu trưng của chiếc bình. Nhưng
các nhà KCH quá trình đã không quan tâm đến việc tổ chức các liên tưởng chức
năng đó thành các cấu trúc ý nghĩa. Bất kể những hạn chế của cấu trúc luận, nó
vẫn đưa lại cho chúng ta một bước đi đầu tiên hướng về một cách tiếp cận rộng
lớn hơn.
Tuy nhiên,
cấu trúc luận trong bất kỳ cái lốt nào cũng vẫn đóng góp cho KCH, về bất kỳ đặc
trưng, quan niệm biến đổi nào. Schiffer (1976) đương nhiên đã lưu ý đến tầm
quan trọng của các biến đổi văn hoá, nhưng cấu trúc luận lại đem đến cho chúng
ta một phương pháp và một cấp độ phân tích sâu hơn. Như Faris (1983) đã chỉ ra,
văn hoá vật chất của chúng ta không đại diện cho các mối quan hệ xã hội – nhưng
nó lại đại diện cho một lối nhìn chủ quan vào các mối quan hệ xã hội. Từ việc
nghiên cứu những đồ phế thải bằng cách chỉ rõ những quan niệm về “cứt” đã nảy
sinh từ đồ phế thải và các xã hội (Okely 1979; Moore 1982) đến việc chỉ rõ táng
thức là một biến đổi nhận thức của xã hội (Parker Pearson 1982), đã chứng tỏ
đóng góp của cấu trúc luận là rất rõ ràng. Có thể tiếp cận các qui luật biến
đổi, và điều đó được khẳng định thông qua phân tích hệ thống.
Một đóng góp quan trọng tương tự và có liên quan là ở chỗ những lĩnh vực
văn hoá vật chất và hành động của con người (mai táng, cư trú, nghệ thuật, trao
đổi) có thể là những chuyển đổi của cùng một sơ đồ cơ bản, hoặc có thể là những
chuyển đổi lẫn nhau. Hơn nữa, khi coi mỗi lĩnh vực là một phụ hệ thống riêng
biệt, thì mỗi phụ hệ thống đó lại có thể gắn kết với phụ hệ thống khác với tư
cách là những biểu hiện vẻ ngoài khác nhau của cùng những hệ thống mã như nhau.
Quan niệm văn hoá được tạo thành bởi ý nghĩa có tầm quan trọng to lớn trong
việc tập hợp các khuynh hướng khác nhau của các dữ liệu và phân tích KCH.
_________________________________________
Còn nữa…
Tác giả: GS. Ian Hodder sinh năm 1949, tốt
nghiệp cử nhân tại Đại học London năm 1971, nhận học vị tiến sĩ tại Đại học
Cambridge năm 1975, trở thành giáo sư Đại học Cambridge từ năm 1977.
Nguyên bản: Reading the Past – Current
approaches to Interpretation in Archaeology. Second Edition. Cambridge
University Press 1991.
Tài liệu Tham khảo
Barrett, J. C.,1987. Contextual Archaeology. Antiquity 61, 468–73.
Bapty, I.,
and Yates, T. (eds.), 1990. Archaeology
after Structuralism: Introductory Readings in Post-Structuralism and Archaeology,
London: Routledge.
Clarke, D.
L., 1972. A Provisional Model of an Iron Age Society and its
Settlement System. In D. L. Clarke (ed.), Models in Archaeology, London: Methuen.
Deetz,
James, 1977. In Small Things Forgotten. NewYork: Anchor Books.
Derrida, J.,
1976. Of Grammatology. Baltimore: Johns Hopkins University
Press.
Eagleton,
T., 1983. Literary Theory. Oxford: Blackwell.
Faris, J.,
1983. From Form to Content in the Structural Study of
Aesthetic Systems. In D. Washburn (ed.). Structure and Cognition in Art, Cambridge University Press.
Foucault,
Michel, 1979. What is an Author?. In J. Harari (ed.), Textual Strategies: Perspectives in
Post-Structuralist Criticism. Ithaca: Cornell University Press.
Foucault,
Michel, 1981a. The History of Sexuality. Volume 1: An Introdution, London:
Penguin.
Fritz, J.,
1978. Paleopsychology Today: Ideational
Systems and Human Adaptation in Prehistory. In C. Redman et al. (eds.), Social Archaeology: Beyond Dating and
Subsistence, New York: Academic Press.
Glassie, J.,
1975. Folk Housing of Middle Virginia. Knoxville:
University of Tennessee Press.
Hodder, I., 1982a. Symbols in Action. Cambridge University Press.
Hodder, I.,
1984a. Burials, Houses, Women and Men in
the European Neolithic. In D. Miller and C. Tilley (eds.), Ideology, Power and Prehistory,
Cambridge University Press.
Hodder, I.,
1984b, ‘Archaeology in 1984’, Antiquity 58, 25–32.
Hodder, I.,
1989a. This is not an Article about
Material Culture as Text. Journal of Anthropological Archaeology 8, 250–69.
Leroi-Gourhan, A., 1982. The Dawn of European Art, Cambridge
University Press.
Moore, H.,
1982. The Interpretation of Spatial Patterning in Settlement
Residues. In I. Hodder
(ed.), Symbolic and Structural
Archaeology, Cambridge University Press.
Okely, J.,
1979. An Anthropological Contribution to the History and
Archaeology of an Ethnic Group. In B. C. Burnham and J. Kingsbury
(eds.), Space, Hierarchy and Society,
Oxford: British Archaeological Reports International Series, 59.
O'Neale,
Lila M.1932. Yurok-Karok Basket Weavers.
Berkeley: University of California Press.
Parker
Pearson, M. 1982. Mortuary Practices,
Society and Ideology: An Ethno-archaeological Study. In I. Hodder (ed.). Symbolic and Structural Archaeology, Cambridge University Press.
Ricoeur, P.,
1971. The Model of the Text: Meaningful
Action Considered as a Text. Social Research 38, 529–62.
Schiffer, M.
B., 1976. Behavioural Archaeology.
New York: Academic Press.
Tilley, C.,
1984. Ideology and the Legitimation of
Power in the Middle Neolithic of Southern Sweden. In D. Miller and C.
Tilley (eds.), Ideology, Power and
Prehistory, Cambridge University Press.
Tilley,
C., (ed.), 1990a. Reading
Material Culture. Oxford: Blackwell.
Wylie, M. A., 1982. Epistemological Issues Raised by a
Structuralist Archaeology. In I. Hodder (ed.,), Symbolic and Structural Archaeology, Cambridge University Press.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét