Powered By Blogger

Thứ Năm, 28 tháng 6, 2012

Đọc quá khứ – những cách tiếp cận lý giải Khảo cổ học hiện nay (VI)


Đọc quá khứ – những cách tiếp cận
lý giải Khảo cổ học hiện nay (VI)


Ian Hodder

Người dịch: Hà Hữu Nga

Phê phán 
Mặc dù cuốn sách này muốn tìm cách lý giải đầy đủ về mối liên hệ giữa duy tâm và duy vật, trong khi đó đóng góp của Levi-Strauss trước hết là hướng tới một lý thuyết về siêu cấu trúc. Các mối liên hệ với hạ tầng cơ sở không phải là tiêu điểm nghiên cứu.

Theo cách tiếp cận ký hiệu học đối với ngôn ngữ trong công trình của Saussure, một công trình có ảnh hưởng chủ yếu đối với cấu trúc luận thì mối quan tâm nghiên cứu là xem xét việc tổ chức các ký hiệu sao cho chúng có nghĩa. Vì vậy từ “cái bình” là một vật biểu nghĩa võ đoán của khái niệm được biểu nghĩa.

Người ta nghiên cứu mối liên hệ giữa vật biểu nghĩa và vật được biểu nghĩa, nhưng lại ít quan tâm đến bản thân cái “vật” đó – trong trường hợp này thì là một chiếc bình bằng vật thật. Những cách tiếp cận như vậy không giúp cho chúng ta tìm kiếm những mối tương liên giữa duy tâm và duy vật. Cần có sự vận động từ mã “ngôn ngữ” được cấu trúc trừu tượng đến diễn ngôn hoặc việc “giao tiếp tình huống” (Ricoeur 1971; Barrett 1987; Hodder 1989a).

Việc phân tích trừu tượng các dấu hiệu và ý nghĩa đặc biệt là một vấn đề trong KCH, vì trước hết nó liên quan đến văn hoá vật chất. Chúng ta đào bới các hiện vật cũng nhiều như chúng ta đào bới các ý tưởng vậy. Và chúng ta muốn xem mỗi đối tượng vừa với tư cách là một vật, kết quả của những quá trình sản xuất và hành động, lại vừa như một ký hiệu, vì hiện vật đó (chiếc bình) tự thân nó là vật biểu nghĩa cho những khái niệm khác (chẳng hạn bộ lạc “x”, hoặc các hoạt động của phụ nữ). Việc nghiên cứu văn hoá vật chất mời gọi chúng ta bắc cây cầu qua con sông ngăn cách giữa duy tâm và duy vật, nhưng cấu trúc luận lại ít trợ giúp được cho chúng ta trong lĩnh vực này.

Khi tìm kiếm các mối quan hệ giữa cấu trúc và quá trình (có nghĩa là tính đệ qui của cấu trúc và hành động) thì cấu trúc luận đóng một vai trò cần, nhưng chưa đủ. Từ “cái bình” có thể là vật biểu nghĩa cho khái niệm về một cái bình. Nhưng cũng tương tự như vậy, bản thân hiện vật này cũng có thể là vật biểu nghĩa cho ý niệm về một cái gì đó là một chiếc bình – có những ảnh hưởng tới cả hai cách. Người ta thừa nhận các cấu trúc là trung gian cho hành động trong thế giới, nhưng chúng cũng bị biến đổi bởi những hành động đó. Bình luận mang tính phê phán như vậy có thể được thực hiện theo một cách nào đó khác. Hơn nữa trong cấu trúc luận và trong hậu cấu trúc luận (Bapty và Yates 1990) thì cá nhân chỉ là thụ động. Ngoài ra lại còn bị điều tiết bởi các qui luật thích nghi, giờ đây cá nhân bị quyết định bởi các cấu trúc và/ hoặc các qui luật phổ biến của tư duy. Sự khiếm khuyết của quan điểm này có thể thấy rõ bằng cách đặt câu hỏi “một phong cách tốt là gì?” trong mối liên hệ với mẫu trang trí hoặc bất kỳ lĩnh vực có cấu trúc nào của hành động. Tính “phong cách” không đơn giản là vấn đề tuân thủ các qui tắc một cách bền bỉ. O’Neale (1932) đã chỉ rõ những người đan giỏ Anh điêng ven biển Bắc Clifornia nói rằng các mẫu thiết kế là “tốt” nếu chúng dễ chịu và được sắp xếp hợp lý, trong khi những mẫu thiết kế có sắp xếp lộn xộn thì bị cho là “xấu”. Nhưng bằng chứng khẩu ngữ như vậy chỉ hỗ trợ cho quan niệm về một phong cách được cấu trúc tồn tại-trong cấu trúc, hoặc thậm chí vượt khỏi giới hạn của mình, nó vẫn có thể được coi là “có phong cách”. Một ngôi sao nhạc pop như Boy George có thể tạo ra một phong cách mới, và được cho là có phong độ cao, mặc dù không hề có một ngữ pháp thiết kế nào tạo ra những lựa chọn quần áo, trang sức và những ẩn ý. Hơn nữa, Boy George lại tạo ra phong cách bằng việc sử dụng, tận dụng và biến đổi các nguyên tắc cấu trúc liên quan đến việc trang sức. Anh sử dụng cấu trúc về phương diện xã hội để tạo ra cấu trúc và xã hội mới.

Vì vậy các lý thuyết của chúng ta về cấu trúc phải tạo điều kiện cho vai trò của các cá nhân năng động. Trong hầu hết KCH cấu trúc thì các vai trò có vẻ như tạo ra một tập hợp các chuẩn mực chung: mỗi cá nhân trong xã hội đều được xác định là có cùng cấu trúc để nhận ra chúng từ cùng một góc độ và để gán cho chúng cùng một ý nghĩa. Đây là một quan điểm rất định chuẩn (như đã đề cập ở chương 1) mà cuốn sách này muốn xem xét lại.

Một khía cạnh mang tính phê phán khác là cấu trúc luận là phi lịch sử theo hai nghĩa. Trước hết Saussure nhấn mạnh đến tính chất võ đoán của ký hiệu. Bất cứ từ nào cũng có thể được sử dụng để biểu thị nghĩa cho khái niệm về một chiếc bình, và bất cứ một hiện vật hoặc không gian nào cũng có thể được sử dụng để biểu nghĩa cho tính giới hạn, giới tính, nhóm bộ lạc, mùa hè và mùa đông. Rõ ràng là còn thiếu những tiếp cận như vậy trong một bộ môn có thể sử dụng cách đó để các ký hiệu trở nên có ý nghĩa, không võ đoán thông qua những chuỗi lịch sử dài hạn. Thứ hai, chúng ta chưa biết rõ các biến đổi cấu trúc đã diễn ra như thế nào. Chắc là người ta có thể dễ dàng nói rằng biến đổi liên quan đến sự chuyển hoá cấu trúc, và đây là một quan niệm quan trọng; nhưng trong các phân tích cấu trúc, tự thân chúng có ít nhu cầu biến đổi, và khó mà biết được tại sao các biến đổi ấy lại xảy ra và tại sao chúng lại xảy ra theo một đường hướng như vậy, và tại sao hoặc như thế nào mà tự thân cấu trúc có thể thay đổi một cách triệt để. Vấn đề này  nảy sinh từ mối quan hệ không đầy đủ giữa cấu trúc và quá trình và từ cách đánh giá quá thấp vai trò cá nhân năng động trong việc sáng tạo ra các cấu trúc.

Một loại phê phán rất khác nữa liên quan đến hậu cấu trúc luận (chẳng hạn như Tilley 1990a và b; Bapty và Yates 1990; Derrida 1976). Trong cấu trúc luận vật biểu nghĩa có được ý nghĩa nhờ những khác biệt của chúng với các vật biểu nghĩa khác. Nhưng tự thân những vật biểu nghĩa khác đó cũng chỉ có nghĩa bằng cách đối lập với chính những vật biểu nghĩa khác trong một chuỗi biểu thị ý nghĩa vô tận. Vì vậy luôn luôn có thể giải cấu trúc bất cứ phân tích cấu trúc nào giả định một hệ thống đối lập thuần tuý chặt chẽ. Thực ra thì có thể giải cấu trúc bất cứ phân tích nào đòi hỏi một tổng thể tính, một tổng thể hoặc một ý nghĩa gốc, một chân lý, vì những “nguồn gốc” ý nghĩa này luôn luôn phải tuỳ thuộc vào những vật biểu nghĩa khác. Những cách tiếp cận như vậy có giá trị lớn trong việc phê phán những tuyệt đối tính mà người ta vẫn đòi hỏi phải có trong một bài viết về KCH. Việc phân tích nội tại bất cứ văn bản KCH nào cũng đều cho thấy cái ở bên ngoài thì cũng rất cần thiết cho cái “bên trong”. Phân tích hậu cấu trúc cũng có giá trị phổ biến các quan niệm như quyền lực và chân lý (Foucault 1979; 1981) và làm phân mảnh khái niệm văn hoá (tr. 159). Tuy nhiên hậu cấu trúc luận cũng đã cơ bản giải cá nhân trung tâm luận, vì vậy mà đánh bẫy cá nhân trong chuỗi biểu hiện ý nghĩa. Tương tự như vậy, trong nhiều phiên bản, hậu cấu trúc luận đã không quan tâm đầy đủ đến các hiệu ứng của thế giới thực tại do các diễn ngôn tạo ra (Eagleton 1983). Vì vậy mà nó không thể thoát khỏi những phê phán chủ yếu được thực hiện trong cuốn sách này.

Tính minh xác

Có lẽ sự chỉ trích chủ yếu cấu trúc luận tập trung xung quanh quan niệm về sự minh xác. Làm thế nào để có được một KCH cấu trúc luận một cách nghiêm nhặt? Cấu trúc luận liên kết một cách mật thiết với trí tưởng tượng bay bổng, với những lý lẽ không có cơ sở, vì với trí tưởng tượng thì toàn bộ dữ liệu có thể được coi như là những chuyển đổi lẫn nhau và đều thuộc vào những cấu trúc cơ sở. Nhiều phân tích cấu trúc luận tỏ ra nghiêm nhặt và đã được chấp nhận một cách rộng rãi. Việc nhận thức rằng người ta có thể điều chỉnh các phân tích cấu trúc và xác quyết một số phân tích nào đó có thể tốt hơn những phân tích khác, hàm ý rằng có thể tìm thấy các thao tác để tạo ra những lý lẽ hợp lý (Wylie 1982).

Thao tác có giá trị phổ biến nhất được KCH cấu trúc chấp nhận dường như thể hiện rằng những cấu trúc tương đồng thường ẩn sau nhiều loại khác biệt dữ liệu trong cùng một ngữ cảnh lịch sử. Càng nhiều dữ liệu có thể cài vào cùng những nguyên tắc tổ chức thì càng đạt được tính hợp lý bằng tổ chức tự thân của các nguyên tắc đó. Như với trường hợp phân tích các hệ thống, phân tích cấu trúc sẽ có sức thuyết phục nếu nó có thể tập hợp được hoặc tạo được nghĩa của những dữ liệu tản mát không liên hệ gì với nhau từ trước. Khi chúng ta đã thấy việc đơn giản tìm kiếm một mô hình (phân vùng theo chiều ngang và theo chiều dọc, đối xứng và ...vv) là chưa đủ - thì chúng ta cũng cần tạo ra một trừu tượng hoá nào đó về ý nghĩa của mô hình. Vì vậy trong một phân tích thuyết phục của Deetz (1977) về việc thải bỏ đồ thừa, về táng thức và phong cách gốm trong các di chỉ Mỹ thời lịch sử, sự đối lập về thời gian giữa các trừu tượng hoá được ông gọi là đạo đức học cá nhân và cộng đồng có thể được coi là sợi dây xuyên suốt các nghiên cứu của ông, và có thể được sử dụng để giải thích một loạt khác biệt về các kiểu dữ liệu.

Khi nghiên cứu về các mối liên hệ cấu trúc trong thời đại đồ sắt tại di chỉ Glastonbury, Davis Clarke (1972) đã biện hộ cho trường hợp của mình bằng cách chỉ ra sự lặp lại của cùng một cấu trúc đàn ông: đàn bà trong các khuôn viên sống khác nhau, vào những thời kỳ khác nhau. Fritz (1978) đã tìm cách để phát hiện cùng một cấu trúc ở cấp vùng và cấp tiểu vùng. Tilley (1984) đã chỉ ra cách thức quan sát một trừu tượng hoá gọi là “tính giới hạn” để thay đổi đồng thời ở cả trang trí gốm và táng thức. Khi phân tích về thời đại Đá mới Orkney, tôi đã cố thử chứng tỏ rằng các cấu trúc trong cư trú, mộ táng và việc sử dụng các nghi thức không gian có thể tương liên với nhau, mặc dù rất khó có đủ dữ liệu (Hodder 1982a).

Câu hỏi về vấn đề minh xác cấu trúc – có phải các cấu trúc liên quan đến dữ liệu không? – là một câu hỏi mang tính qui ước. Toàn bộ các phân tích KCH đều liên quan đến việc lý giải cái thế giới thực tại trong quá trình quan sát, và sau đó làm cho các lý thuyết thích ứng với các quan sát để tạo ra một lý lẽ thích hợp – ngoài ra khó mà đòi hỏi được gì hơn nữa. Việc phân tích cấu trúc bắt nguồn từ chính những nguyên tắc như vậy. Ví dụ trong việc phân tích nghệ thuật Nuba (xem tr. 39 ở trên) cho thấy tính nghệ thuật càng cao thì càng khác biệt nhau, và cái mà ngữ pháp tạo sinh có thể tạo ra, thì ngữ pháp lại càng hợp lý. Chúng ta có thể hỏi liệu bất cứ mẫu trang trí nào xuất hiện cũng không tương hợp với các qui tắc không. Chẳng hạn có phải “các từ” vẫn kết hợp với nhau theo cạnh chứ không phải theo góc không? Sự thực thì ® là hiếm nếu nó đã từng xuất hiện trong nghệ thuật đó. Tương tự như vậy có thể áp dụng cho một ký hiệu khác. Các motif đó không được thừa nhận về phương diện ngữ pháp và việc chúng vắng mặt trong nghệ thuật đã hỗ trợ cho bản thân ngữ pháp.

Việc thừa nhận các cấu trúc phải không được phổ quát là một điều quan trọng, và  tính chất phổ quát của chúng không được phép làm thành một bộ phận chính của cái thao tác được hợp lý hoá đó. Tự thân các cấu trúc ấy là hoàn toàn riêng biệt (như trong trường hợp người Nuba sử dụng các mẫu trang trí cắt chéo). Nhưng đó là nội dung ý nghĩa đặc biệt, có thể có tầm quan trọng lịch sử riêng. Vì vậy hình chữ thập Nuba không chỉ là một cấu trúc trang trí – mà nó còn là một biểu tượng gây xúc cảm cao, với một tầm quan trọng lịch sử đặc thù, và tác động mạnh mẽ tới việc sử dụng nghệ thuật Nuba về phương diện xã hội (Hodder 1982a). Vì vậy một phần giá trị của các phân tích cấu trúc trong KCH phải quan tâm tới sự trừu tượng hoá các ý nghĩa riêng biệt gắn liền với các cấu trúc đó.

Trong một vài trường hợp, có sự liên tục lịch sử với hiện tại thì các ý nghĩa được ấn định cho quá khứ tỏ ra có sức thuyết phục. Vì vậy định nghĩa của Glassie (1975) về các loại công trình xây dựng, các mặt tiền nhà, các không gian trong phòng là “công cộng” hoặc “tư nhân”, hoặc sự liên tưởng của ông về tính bất đối xứng giữa “tự nhiên” và “hữu cơ” là có sức thuyết phục, vì nước Mỹ thế kỷ XVIII còn gần gũi với chúng ta. Về phương diện cá nhân, tôi lại càng không tin nếu sự không đối xứng được liên hệ với “cái hữu cơ” ở Kenya hoặc ở Hungari tiền sử. Đó là khi các ý nghĩa được áp dụng theo cách so sánh văn hoá, không có sự qui chiếu vào ngữ cảnh, thì sẽ nảy sinh những bất ổn. Vì vậy trong công trình mới đây, Leroi-Gourhan (1982) đã rất cẩn thận khi xác định các trang trí trong các hang động đá cũ là “đàn ông” hay “đàn bà”. Nhưng giai đoạn tiền sử nào có các dữ liệu mang tính liên tưởng và ngữ cảnh nhiều hơn, thì việc gán nghĩa cần phải được cấu trúc cẩn thận. Vì vậy trong thời đại đá mới châu Âu, tôi đã cho rằng các ngôi mộ có nghĩa là những ngôi nhà dựa trên cơ sở tám điểm tương đồng giữa chúng (Hodder 1984a).

Các liên tưởng chức năng và ngữ cảnh cũng cho phép suy luận về tính chất tương đồng ý nghĩa. Rõ ràng chúng ta không thể ấn định với một niềm tin tưởng chắc chắn rằng nếu một hiện vật được phát hiện trong một ngôi mộ đàn ông thì nó có những “phẩm chất” đàn ông, hay là một hiện vật được phát hiện tại một nơi hành lễ thì nó phải mang ý nghĩa “nghi lễ”, thế mà những ấn định như vậy lại thường được các nhà KCH thực hiện. Các ý nghĩa có thể được lý giải một cách hợp lý khi ngữ cảnh được xem xét cẩn thận và có phê phán. Chẳng hạn như Arnold đã gợi ý rằng việc phân vùng môi trường và trang trí theo mảng trên đồ gốm được liên tưởng với cái ngữ cảnh văn hoá riêng đó, vì cả những chiếc bình lẫn môi trường được phân vùng đều có chung những chức năng quản lý và dự trữ nguồn nước. Bằng cách xây dựng những liên tưởng ngữ cảnh như vậy, Arnold đã làm tăng tính  hợp lý trong lập luận của ông, và những lý lẽ đó sẽ được củng cố thêm nếu có thể chứng tỏ được rằng các bình nước chỉ là những thứ được sử dụng trong các môi trường phân vùng theo chiều ngang, hoặc những chiếc bình được sử dụng cho những mục đích khác không hề được trang trí theo cách như vậy.

Vậy là sự phân đôi phải được thể hiện bằng cả lý giải chức năng và cấu trúc, khi ủng hộ cho một lý thuyết nào đó thì cần phải chỉ ra các dữ kiện đã không được lý giải một cách đầy đủ bằng các dữ kiện khác. Chắc chắn McGhee đã biện hộ cho trường hợp của ông khi cho rằng không hề có nhu cầu chức năng trong việc phân biệt ngà voi và gạc hươu thành các loại công cụ và vũ khí khác nhau. Loại lý lẽ này là bất chắc ở chỗ là nó thường giả định tính chất thống trị của thuộc tính chức năng, vật chất: các chức năng được lý giải trước tiên, và tất cả những gì còn lại thì đều là “tư duy”. Loại lý lẽ đó cũng xác quyết một cách ảo tưởng rằng có sự phân đôi giữa chức năng và ý nghĩa biểu tượng. Như ví dụ của McGhee đã chỉ rõ, một hiện vật có thể là một phần của một bộ công cụ, nhưng đồng thời nó cũng có thể là một phần của một tập hợp các loại đối tượng được cấu trúc. Là các nhà KCH chúng ta cần phải tính đến các yếu tố trầm tích và hậu trầm tích mà vẫn phát hiện ra các liên tưởng chức năng giữa các đối tượng trong di chỉ của chúng ta. Những liên kết chức năng như vậy đóng một phần vai trò trong ý nghĩa được ấn định cho các đối tượng – phần ý nghĩa nhận thức và biểu tượng của đối tượng xuất phát từ việc sử dụng chúng. Ở chương 2 chúng ta đã thấy rằng việc ấn định chức năng phụ thuộc vào việc ấn định ý nghĩa biểu tượng. Một lần nữa chúng ta quay trở lại với các khái niệm văn hoá vật chất vừa là hiện vật, vừa là ký hiệu, khái niệm ảnh hưởng hai chiều, khái niệm về một sự thống nhất cần thiết.

Vấn đề này có thể được làm sáng tỏ thông qua một ví dụ thuần tuý giả thuyết. Hãy tưởng tượng rằng một số ngôi nhà dài tiền sử được phát hiện trong một khu vực. Tất cả các ngôi nhà này đều được làm theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, cửa mở về hướng Đông Nam. Thế là đã xuất hiện hai giả thuyết “xung đột nhau”: việc sắp xếp hướng nhà như vậy là vì gió luôn luôn thổi từ hướng Tây Bắc, hoặc trục Tây Bắc - Đông Nam có ý nghĩa biểu tượng. Cả hai giả thuyết này đều có thể đúng theo những cách khác nhau, trong đó một giả thuyết thì chỉ ra rằng gió thực sự thổi mạnh từ hướng Tây Bắc, còn giả thuyết kia thì bằng cách xác định cùng một cấu trúc nhưng lại thuộc lĩnh vực khác. Chẳng hạn trục Tây Bắc - Đông Nam cũng có thể được người ta chọn đặt hướng mộ, và hướng các công trình nghi lễ. Trục ấy còn phổ biến trong cả những xắp đặt khác khi sử dụng không gian cư trú. Nhưng thực ra thì cả hai giả thuyết này đều không mâu thuẫn với nhau. Khi gán nghĩa cho thế giới xung quanh mình, chúng ta thường sử dụng các vị trí của mặt trời, mặt trăng, các dòng sông, các quả núi, và hướng gió; tương tự như vậy, ý nghĩa biểu tượng gắn liền với gió và hướng gió thổi mạnh nhất sẽ tác động đến quyết định bố trí hướng nhà và nơi cư trú như thế nào. Vậy là việc sử dụng chức năng và các đặc điểm môi trường đều là những bộ phận của quá trình gán ý nghĩa cho thế giới, và thang giá trị của các cấu trúc ý nghĩa có lẽ không tuỳ thuộc vào việc giải quyết các yếu tố như vậy.

Chúng ta đã nhận ra rằng các luận giải cấu trúc hợp lý có thể được thực hiện bằng cách chỉ ra các cấu trúc đó lý giải nguyên do cho nhiều loại dữ liệu khác nhau. Cũng cần phải đặt các cấu trúc vào nội dung ý nghĩa của chúng và trong ngữ cảnh sử dụng chúng. Bằng những cách thức khác nhau ấy, dựa vào dữ liệu người ta có thể chỉ ra rằng bất kỳ lý lẽ nào cũng không đứng vững được. Vì vậy một loại hiện vật nào đó được giả định là “đàn ông” lại được phát hiện trong một mộ phụ nữ, hoặc một giai đoạn của các hoạt động “cộng đồng” lại có nhiều đặc trưng “cá nhân”, hoặc quá nhiều đầu mũi tên được làm bằng ngà voi. Tất nhiên người ta có thể lập luận rằng đã xuất hiện “chuyển đổi” cấu trúc trong các trường hợp không “thích hợp”, nhưng ở một giai đoạn nào đó thì tính chất khéo léo trí thức lại trở thành bất hợp lý, chí ít là đối với những trường hợp khác, và những cấu trúc khác nhau đã tìm được cách để lý giải dữ liệu.

Kết luận: Tầm vóc của Khảo cổ học Cấu trúc

Trong chương này, chúng ta đã chuyển trọng tâm sang các mã biểu tượng và cấu trúc của tư duy. Chương tiếp theo sẽ mô tả những kiểu cấu trúc, xã hội và công nghệ khác. Tầm vóc chủ yếu của toàn bộ công trình như vậy trong KCH là ở chỗ nó đưa chúng ta tới những cấp độ phân tích khác. Chúng ta không còn bị giới hạn vào việc lượng hoá những gì hiện diện, mà còn có thể tiếp cận với việc lý giải cả những gì không hiện diện. Hệ thống không còn là tất cả những gì có ở đó – còn có cả những cấu trúc, thông qua chúng mà hệ thống có được hình thức của nó. Chúng ta vẫn chưa phát hiện đủ cái cá nhân trong một ngữ cảnh lịch sử và văn hoá, như phê phán ở trên đã làm sáng tỏ, nhưng trên con đường đi tới, chúng ta cũng đã đạt được một phương cách nào đó, đặc biệt là trong việc tìm hiểu văn hoá như là một hệ thống được cấu thành để có ý nghĩa.

Cấu trúc luận cung cấp cho chúng ta một phương pháp và một lý thuyết để phân tích các ý nghĩa văn hoá vật chất. Các nhà KCH quá trình đã quan tâm nhiều đến các chức năng của các biểu tượng. Như chúng ta đã thấy, chức năng là một thuộc tính quan trọng của ý nghĩa: việc sử dụng và liên tưởng chiếc bình với những thứ mà nó chứa đựng, với ngọn lửa nấu những thứ đồ ăn trong bình, với đồng nhất tính của bộ lạc,và với hệ thống tôn ty xã hội, tất cả đều quan trọng, mặc dù không phải là những nhân tố quyết định về những ý nghĩa biểu trưng của chiếc bình. Nhưng các nhà KCH quá trình đã không quan tâm đến việc tổ chức các liên tưởng chức năng đó thành các cấu trúc ý nghĩa. Bất kể những hạn chế của cấu trúc luận, nó vẫn đưa lại cho chúng ta một bước đi đầu tiên hướng về một cách tiếp cận rộng lớn hơn.

Tuy nhiên, cấu trúc luận trong bất kỳ cái lốt nào cũng vẫn đóng góp cho KCH, về bất kỳ đặc trưng, quan niệm biến đổi nào. Schiffer (1976) đương nhiên đã lưu ý đến tầm quan trọng của các biến đổi văn hoá, nhưng cấu trúc luận lại đem đến cho chúng ta một phương pháp và một cấp độ phân tích sâu hơn. Như Faris (1983) đã chỉ ra, văn hoá vật chất của chúng ta không đại diện cho các mối quan hệ xã hội – nhưng nó lại đại diện cho một lối nhìn chủ quan vào các mối quan hệ xã hội. Từ việc nghiên cứu những đồ phế thải bằng cách chỉ rõ những quan niệm về “cứt” đã nảy sinh từ đồ phế thải và các xã hội (Okely 1979; Moore 1982) đến việc chỉ rõ táng thức là một biến đổi nhận thức của xã hội (Parker Pearson 1982), đã chứng tỏ đóng góp của cấu trúc luận là rất rõ ràng. Có thể tiếp cận các qui luật biến đổi, và điều đó được khẳng định thông qua phân tích hệ thống.

Một đóng góp quan trọng tương tự và có liên quan là ở chỗ những lĩnh vực văn hoá vật chất và hành động của con người (mai táng, cư trú, nghệ thuật, trao đổi) có thể là những chuyển đổi của cùng một sơ đồ cơ bản, hoặc có thể là những chuyển đổi lẫn nhau. Hơn nữa, khi coi mỗi lĩnh vực là một phụ hệ thống riêng biệt, thì mỗi phụ hệ thống đó lại có thể gắn kết với phụ hệ thống khác với tư cách là những biểu hiện vẻ ngoài khác nhau của cùng những hệ thống mã như nhau. Quan niệm văn hoá được tạo thành bởi ý nghĩa có tầm quan trọng to lớn trong việc tập hợp các khuynh hướng khác nhau của các dữ liệu và phân tích KCH.
_________________________________________ 

Còn nữa…

Tác giả: GS. Ian Hodder sinh năm 1949, tốt nghiệp cử nhân tại Đại học London năm 1971, nhận học vị tiến sĩ tại Đại học Cambridge năm 1975, trở thành giáo sư Đại học Cambridge từ năm 1977. 

Nguyên bản: Reading the Past – Current approaches to Interpretation in Archaeology. Second Edition. Cambridge University Press 1991.


Tài liệu Tham khảo

Barrett, J. C.,1987. Contextual Archaeology. Antiquity 61, 468–73.

Bapty, I., and Yates, T. (eds.), 1990. Archaeology after Structuralism: Introductory Readings in Post-Structuralism and Archaeology, London: Routledge.

Clarke, D. L., 1972. A Provisional Model of an Iron Age Society and its Settlement System. In D. L. Clarke (ed.), Models in Archaeology, London: Methuen.

Deetz, James, 1977. In Small Things Forgotten. NewYork: Anchor Books.

Derrida, J., 1976. Of Grammatology. Baltimore: Johns Hopkins University Press.

Eagleton, T., 1983. Literary Theory. Oxford: Blackwell.

Faris, J., 1983. From Form to Content in the Structural Study of Aesthetic Systems. In D. Washburn (ed.). Structure and Cognition in Art, Cambridge University Press.

Foucault, Michel, 1979. What is an Author?. In J. Harari (ed.), Textual Strategies: Perspectives in Post-Structuralist Criticism. Ithaca: Cornell University Press.

Foucault, Michel, 1981a. The History of Sexuality. Volume 1: An Introdution, London: Penguin.

Fritz, J., 1978. Paleopsychology Today: Ideational Systems and Human Adaptation in Prehistory. In C. Redman et al. (eds.), Social Archaeology: Beyond Dating and Subsistence, New York: Academic Press.

Glassie, J., 1975. Folk Housing of Middle Virginia. Knoxville: University of Tennessee Press.

Hodder, I., 1982a. Symbols in Action. Cambridge University Press.

Hodder, I., 1984a. Burials, Houses, Women and Men in the European Neolithic. In D. Miller and C. Tilley (eds.), Ideology, Power and Prehistory, Cambridge University Press.

Hodder, I., 1984b, ‘Archaeology in 1984’, Antiquity 58, 25–32.

Hodder, I., 1989a. This is not an Article about Material Culture as Text. Journal of Anthropological Archaeology 8, 250–69.

Leroi-Gourhan, A., 1982. The Dawn of European Art, Cambridge University Press.

Moore, H., 1982. The Interpretation of Spatial Patterning in Settlement Residues. In I. Hodder (ed.), Symbolic and Structural Archaeology, Cambridge University Press.

Okely, J., 1979. An Anthropological Contribution to the History and Archaeology of an Ethnic Group. In B. C. Burnham and J. Kingsbury (eds.), Space, Hierarchy and Society, Oxford: British Archaeological Reports International Series, 59.

O'Neale, Lila M.1932. Yurok-Karok Basket Weavers.  Berkeley: University of California Press.

Parker Pearson, M. 1982. Mortuary Practices, Society and Ideology: An Ethno-archaeological Study. In I. Hodder (ed.). Symbolic and Structural Archaeology, Cambridge University Press.

Ricoeur, P., 1971. The Model of the Text: Meaningful Action Considered as a Text. Social Research 38, 529–62.

Schiffer, M. B., 1976. Behavioural Archaeology. New York: Academic Press.

Tilley, C., 1984. Ideology and the Legitimation of Power in the Middle Neolithic of Southern Sweden. In D. Miller and C. Tilley (eds.), Ideology, Power and Prehistory, Cambridge University Press.

Tilley, C.,  (ed.), 1990a. Reading Material Culture. Oxford: Blackwell.

Wylie, M. A., 1982. Epistemological Issues Raised by a Structuralist Archaeology. In I. Hodder (ed.,), Symbolic and Structural Archaeology, Cambridge University Press.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét