Powered By Blogger

Thứ Ba, 27 tháng 5, 2014

Nghiên cứu phát triển vùng ở Quebec, Canada



Nghiên cứu phát triển vùng ở Quebec, Canada

Hà Hữu Nga

Trên thế giới cũng như tại Canada và Quebec, nghiên cứu vùng đã có một lịch sử phát triển rất lâu dài. Trước hết phải nói đến trường phái địa lý học Pháp do Paul Vidal de la Blache đặt nền móng bằng phương pháp mô tả để xác định các vùng tự nhiên có những đặc trưng cảnh quan gắn liền với các lối sống tạo ra. Cách tiếp cận ấy tương đối phù hợp với xã hội nông thôn Pháp vào đầu thế kỷ 20, nhưng khi các xã hội công nghiệp hóa phát triển mạnh và nhà nước ngày càng can thiệp mạnh vào các quá trình quản lý, kế hoạch hóa và phát triển vùng thì việc nghiên cứu vùng đã trở nên phức tạp hơn nhiều. Sau một thời kỳ không thỏa mãn với các nghiên cứu địa lý học định lượng về vùng của những năm 1970s, đã xuất hiện những cách tiếp cận mới về nghiên cứu vùng, trong đó mối quan tâm chủ yếu của các nhà nghiên cứu tập trung vào môn địa lý học mới về vùng. Đó là một tập phương pháp được tổng hợp từ kinh tế học, lịch sử, nhân học và xã hội học.

Trong một công trình phân tích về những nghiên cứu địa lý mới về vùng, Anne Gilbert (1988: 209-213) đã xác định vấn đề nghiên cứu gồm ba khía cạnh chủ yếu. Trước hết là việc tập trung vào tầm quan trọng của các phương tiện sản xuất và coi vùng như là một phản ứng địa phương đối với các quá trình của chủ nghĩa tư bản. Cách tiếp cận thứ hai mô tả vùng như một trung tâm điểm để định dạng. Trong ngữ cảnh đó, văn hóa được coi là một tập hợp ngữ nghĩa gắn với một không gian nhất định và là đối tượng chính của các công trình nghiên cứu vùng. Khía cạnh thứ ba coi vùng như một trung gian cho các tương tác xã hội. Ảnh hưởng của lý thuyết cấu trúc hóa được Anthony Giddens (1984) và Pierre Bourdieu (1980) đề xuất thể hiện rất rõ ràng trong các nghiên cứu theo khuynh hướng này. Đối với những người ủng hộ lý thuyết cấu trúc hóa thì các mối quan hệ xã hội và quan hệ không gian là độc lập với nhau. Tương tự như vậy, nhà địa lý học người Pháp Claude Raffestin (1982) đã đưa ra một lý thuyết tính lãnh thổ, được định nghĩa là một mạng quan hệ không gian.

Nhiệm vụ phân biệt giữa các qui mô vùng ở Canada nhất thiết phải liên quan đến cách tiếp cận về vùng như là một sự tổng hợp cả cách tiếp cận văn hóa thuộc về các biểu hiện bản sắc và cách tiếp cận các tác nhân xã hội tương tác trong các mạng quan hệ được lãnh thổ hóa. Về nhiều phương diện, hai quan điểm này tương đồng với khái niệm về các qui mô địa lý cần phải được phân tích kỹ lưỡng. Vấn đề ở đây không đơn thuần chỉ là những qui mô về bản đồ hay về phương pháp luận. Một qui mô địa lý là một sản phẩm xã hội, là kết quả của những tương tác giữa các tác nhân khác nhau trong một không gian nhất định, trong một khoảng thời gian nhất định của lịch sử [Smith 1992]. Vì vậy mà việc tái dựng các mô hình các qui mô bản sắc vùng là rất cần thiết theo những giai đoạn lịch sử khác nhau được công trình nghiên cứu xem xét.

Nhà địa lý học Phần Lan Anssi Paasi (1986) đã xác định rất chính xác về tính chất phức tạp của việc phân tích vùng qua cách tiếp cận thể chế hóa về vùng. Qúa trình này vận động qua bốn bước: i) giả định về việc tạo hình lãnh thổ; ii) quá trình hình thành hình ảnh biểu trưng; iii) sự tạo thành khuôn mẫu thể chế; iv) sự xác lập như một thực thể trong hệ thống vùng và ý thức xã hội về cái xã hội đó. Vài năm sau Paasi đã khẳng định lại lý thuyết của ông và kiên trì vai trò thiết yếu của cách tiếp cận lịch sử để tìm hiểu về các quá trình ẩn sau sự thể chế hóa các vùng. Nhiều chuyên gia nghiên cứu vùng có vẻ như đã bỏ qua bước đi lịch sử cần thiết này trong các phân tích của họ. Với tư cách là những hiện tượng thể hiện theo thời gian, các vùng vẫn được coi là những đơn vị không gian luôn luôn xuất hiện và biến đổi; vùng cũng có thể biến mất vì những phương thức phân chia lãnh thổ theo những cung cách thể chế hóa khác.  Tuy nhiên không thể đơn giản qui giản vùng vào một đơn vị hành chính hoặc “một cấp độ vùng mà không hề đếm xỉa gì đến các mối tương liên không gian xã hội rộng lớn hơn” [Paasi 1991: 243]. Kích cỡ của các vùng thể chế hóa cũng có thể khác nhau đáng kể, từ một làng và khu vực xung quanh cho đến một quận, một tỉnh. Theo Paasi, bản sắc vùng không thể bị qui giản vào ý thức vùng của những con người sống trong khu vực đó. “Trên thực tế thì sẽ rất hữu ích nếu như chúng ta gắn liền nó với một quá trình thể chế hóa bao gồm việc sản xuất và tái sản xuất ý thức vùng trong các cư dân sống ở đó (và những cư dân khác sống xung quanh) và các đặc điểm vật chất và biểu trưng của vùng như là những bộ phận của quá trình tái sản xuất xã hội đang diễn ra” [Paasi 1991: 244].

Quá trình thể chế hóa các không gian vùng thể hiện như là một quá trình trong sự tiến hóa vĩnh hằng theo thời gian liên quan đến những tác nhân xã hội khác nhau. Trong công trình phân tích của mình, nhà nghiên cứu Fernand Harvey của Viện nghiên cứu Khoa học Quốc gia Quebec (INRS) đã xác định 5 nhóm tác nhân chính đóng góp vào việc mô hình hóa và tái mô hình hóa các đại diện vùng của cư dân: i) các cấp chính quyền từ quốc gia đến tỉnh, đến vùng (quận, hạt, huyện) hoặc cấp địa phương (xã, tổng); ii) các tác nhân vùng của xã hội dân sự can thiệp với tư cách là những người lãnh đạo các hội, các tổ chức hoặc các phong trào vùng; iii) các phương tiện truyền thông vùng và quốc gia; iv) các nhà văn và các nghệ sĩ; v) và cuối cùng là các nhà nghiên cứu hàn lâm: các nhà địa lý, các sử gia, các nhà xã hội học, các nhà kinh tế và các chuyên gia thuộc cách lĩnh vực khác của vùng. Cần phải chỉ ra một điều rất quan trọng là việc sản xuất ý thức vùng của hai nhóm cuối trong các nhóm tác nhân vùng - những người sáng tạo và các nhà nghiên cứu hàn lâm - đã giúp để tái củng cố hoặc làm biến đổi bản sắc của các cư dân vùng. Vai trò của các nhà văn và các sử gia có vẻ như đặc biệt có ý nghĩa, cần phải tiếp tục làm sáng tỏ.

Canada là một trường hợp nghiên cứu hữu ích về mức độ biến đổi của các qui mô không gian của các bản sắc vùng vì diện tích đất nước này mênh mông mà cư dân lại thưa thớt. Các bản sắc vùng ấy chính là sản phẩm của lịch sử và vì vậy mà không phải là những đương lượng đơn giản của các biên giới lãnh thổ nổi lên từ việc chia cắt về phương diện hành chính một vùng lãnh thổ nhất định. Một số nhân tố kinh tế, văn hóa, và xã hội đóng góp vào việc cấu trúc hóa các vùng của Canada. Sau đây chúng ta sẽ xem xét vai trò riêng biệt của các tác nhân học thuật và văn hóa trong việc cấu trúc diễn ngôn vùng của Canada, đặc biệt là việc xuất bản các sản phẩm địa lý lịch sử. Thực sự thì các phân tích lịch sử và các diễn ngôn xuất hiện như một hậu quả về vấn đề là các vùng có khuynh hướng tái củng cố bản sắc vùng. Hơn nữa một diễn ngôn như vậy có thể gây ra một tác động chính trị đến mức mà sự cố kết vùng có thể cạnh tranh hoặc xung đột với sự thống nhất quốc gia. Các cuộc tranh cãi của các sử gia Canada đã để lộ ra sự căng thẳng đó. Điều đó được thể hiện khá rõ trong cách tiếp cận vùng như đã thực hiện ở Quebec. Nó rất khác với cách tiếp cận vùng của những tỉnh khác ở Canada.

Sự phát triển khoa nghiên cứu vùng ở Canada

Trong một báo cáo quan trọng về tình hình nghiên cứu của Canada được công bố năm 1975, GS. Thomas H.B. Symons đã giành cả một phần cho tình hình nghiên cứu vùng trong các chương trình nghiên cứu của các đại học toàn Canada. Phản đối quan điểm coi nghiên cứu vùng là phải được giới hạn hoặc thậm chí có một ý nghĩa rất hẹp và quan điểm cho rằng nghiên cứu vùng thiếu tính nghiêm nhặt khoa học, bản báo cáo đã khẳng định tầm quan trọng và tính cấp thiết của những nghiên cứu như vậy nhằm phục vụ cho sự hiểu biết chung về lịch sử Canada: “Chúng ta phải làm việc trên một cơ sở tri thức chắc chắn, có gốc rễ sâu trong thực tại của các hoàn cảnh, điều kiện vùng và địa phương để đưa lại những vấn đề cốt lõi cho các lý thuyết được xây dựng nên trong các điều kiện và các sự kiện có tầm quốc gia” [Symons 1975: 109].

Điều đó có vẻ như không trùng hợp với ý kiến cho rằng các nghiên cứu vùng bắt đầu phát triển trên phạm vi toàn quốc bắt đầu từ những năm 1970s với tư cách là một lĩnh vực nghiên cứu trong môn Canada học vốn bùng phát trong thời gian đó. Các nhà sử học vùng Duyên hải, miền Tây, British Columbia, Ontario và Quebec đều đã tham gia vào việc phát triển môn địa lý lịch sử vùng. Song song với hàng lọat công trình nghiên cứu về những lĩnh vực khác nhau về trào lưu vùng được công bố, một số tạp chí nghiên cứu hàn lâm với cách tiếp cận vùng cũng đã ra mắt người đọc, chẳng hạn như: Acadiensis (1971+), BC Studies (1967+), Prairie Forum (1976+), cộng với một số tạp chí cũ như Saskatchenwan History, Alberta History, Manitoba History, Ontario History, …vv. Quebec cũng nằm trong trạng huống phát triển đó với các tạp chí lịch sử vùng, cộng với các tạp chí quốc gia bằng tiếng Pháp như La Revue d’Histoire de l’Amérique francaise, Recherches Sociỏgaphiques, La Revue de géographie du Québec, …vv.

Các mối quan hệ vùng và bản sắc quốc gia

Sau khi đọc các nghiên cứu dành cho địa lý lịch sử vùng ở khu vực Canada tiếng Anh, thì người ta thấy rất rõ là chủ đề thường gợi lên những cuộc tranh luận kịch liệt giữa những người ủng hộ một lịch sử quốc gia và những người chủ chương lịch sử vùng, trong đó nhóm đầu thường là những người Ontario ở Toronto và nhóm thứ hai là các sử gia vùng Duyên hải và miền Tây. Sự thể hiện “các bản sắc hạn chế” cụm từ do Ramsey Cook đặt ra và được dùng lại trong một bài viết của J.M.S. Careless (1969) đã được coi là một cột mốc cho cuộc tranh luận bằng cách tăng cường cách tiếp cận vùng trong lịch sử Canada. Tuy nhiên cả hai sử gia này đều xem lại lập trường của mình về sau này bằng cách nghĩ rằng vấn đề hệ trong của môn địa lý lịch sử từ những năm 1970s đã liều lĩnh tạo ra hiểm họa cho sự thống nhất của Canada bằng cách quá nhấn mạnh vào các khác biệt.

Cuộc chiến giữa các sử gia quốc gia và sử gia vùng đã đạt tới xung lực vào những năm 1990s như P.A. Buckner đã chỉ ra trong một bài viết cho tạp chí Acadiensis năm 2000. Trong cuộc tranh luận đó các sử gia quốc gia đã kết tội các sử gia vùng và các sử gia xã hội về việc góp phần hủy hoại nhà nước Canada bằng cách củng cố các nhu cầu riêng của từng tỉnh hoặc bằng việc chuyên hóa một cách thái quá vào những lĩnh vực chung của địa lý lịch sử Canada như lịch sử phụ nữ, lịch sử lao động, lịch sử đô thị và lịch sử bản địa [Bliss 1991; Granatstein 1998]. Một số đã tỏ ra lung lay không đứng vững bởi quan điểm cho rằng nhất thiết phải tìm hiểu và lý giải tổng thể, nói cách khác là “kinh nghiệm quốc gia” chứ không nên là những mảnh vụn dựa trên sự phân vùng hay khu vực [Owran 1997]. Các sử gia vùng Duyên hải về phần mình đã tìm cách để thể hiện sự bất diệt của những khác biệt vùng từ khi thành lập Liên bang bằng cách yêu cầu thừa nhận sự đóng góp của các vùng vào việc tạo dựng Canada. Một tình trạng tương tự cũng có thể dễ dàng nhận thấy trong các sử gia ở miền Tây. Trong một bài viết về địa lý lịch sử của các tỉnh Đồng cỏ, R. Douglas Francis đã xác định bốn chủ đề chính liên quan đến các sử gia vùng, đó là: bản sắc vùng, phản kháng vùng, cải cách xã hội và hình tượng vùng [Francis 1992: 20-21]. Vì vậy cuộc chiến giữa các sử gia ấy cơ bản có vẻ là cuộc chiến mang màu sắc chính trị; hai ý tưởng va chạm nhau: ý tưởng về một Canada liên bang tìm kiếm “những nguyên do chung” để lý giải sự cố kết và xây dựng quốc gia; trong khi đó ý tưởng về một Canada của các vùng thì coi tính đa dạng như là một phản ánh hiện thực và không thể thích hợp với sự thống nhất của đất nước.

Vấn đề định nghĩa vùng 

Cho dù có coi là một thực tại hay không thì cũng không thể bỏ qua được hoặc chẳng khác nào một mối đe dọa, vùng vẫn là một khái niệm mơ hồ được nhiều tác giả khai thác mà vẫn chưa được định nghĩa. Cái khái niệm vùng mà chúng ta đang nói là vùng nào? Sử gia Gerald Friesen thuộc đại học Manitoba đã đưa ra ba loại vùng: i) vùng hình thức (formal region), vùng chức năng (functional region) và vùng tưởng tượng (imagined region). Vùng hình thức có đặc trưng địa hình. Vì vậy “vùng Đồng cỏ giống như là một khu vực đồng nhất, độc đáo và biệt lập”. Cách tiếp cận này được các du khách, các nhà địa lý sử dụng từ đầu thế kỷ 20 lâu nay đã bị mang tiếng xấu mặc dù ảnh hưởng của môi trường trong các cộng đồng là không thể chối cãi. Loại vùng thứ hai là vùng chức năng. Theo quan điểm này, vùng được nhìn nhận trong mối quan hệ của nó với các vùng khác. Vì vậy chúng ta nói về các vùng xa (hoặc các vùng sâu) vì có các vùng trung tâm hoặc các vùng đô thị. Cũng vậy, khái niệm vùng chức năng cũng ẩn chứa một mối quan hệ. Như vậy có nghĩa là nói “các vị trí địa lý này [đã được] tạo thành bởi tổng thể cố kết của những gì mà người ta phân biệt thành bộ phận cũng như bởi tính chất nhất quán nội tại hoặc những ranh giới rõ ràng” [Freisen 1996: 166-168]. Tiến thêm một bước nữa, phân tích của Friesen về vùng chức năng đã chỉ ra rằng một không gian vùng có thể được xác định một cách rõ ràng là nhờ ở những quá trình lịch sử tạo nên các họat động kinh tế, các ranh giới chính trị, các đơn vị hành chính hoặc thậm chí các phong trào đối kháng. Loại thứ ba là vùng tưởng tượng. Theo Friesen “một vị trí phải được tưởng tượng ra trước khi nó có thể xuất hiện”. Trong trường hợp này các nghệ sĩ, các nhà văn, các trí thức giữ địa vị chủ chốt trong việc dự phóng và sáng tạo ra một hình tượng về cái vùng sẽ trở thành một không gian cư trú. Trong trường hợp này chúng ta có thể nói trong phạm vi của một biểu trưng không gian như một cấu trúc tinh thần. Từ viễn cảnh đó, Eli Mandel đã khẳng định rằng “có một nền văn học vùng đồng cỏ độc đáo tạo ra một thế giới đồng cỏ huyền thoại” [Mandel 1973: 169]. Loại vùng thứ ba này về cơ bản là vùng giành cho bản sắc vùng nói chung và các trào lưu vùng nói riêng. Vì ở đây vùng ẩn chứa một sự gắn bó tự nguyện theo cách mà nhà triết học Pháp Ernest Renan hoặc nhà xã hội học Quebec Fernand Dumont coi là quốc gia. Theo Dumont, các vùng, giống các quốc gia “đối với chúng ta đều là chiêu bài của những đại diện tập thể” [Renan 1882; Dumont 1979: 19].

Ba loại vùng được Friesen xác định ấy đều tương thích với các định nghĩa về vùng mà các nhà nghiên cứu ở Quebec đã xây dựng nên. Hơn nữa, rõ ràng là có sự tương tác giữa vùng hình thức, vùng chức năng và vùng tưởng tượng, và sử gia phải xem xét sự kiện này bằng cách giải thích các hiện tượng gắn liền với bản sắc vùng và các phong trào phản kháng về phương diện chính trị - xã hội. Tuy nhiên cũng cần phải chỉ ra rằng nhiều sử gia, nhà địa lý và các nhà kinh tế đã chia tách không gian một cách võ đoán theo đối tượng nghiên cứu của họ trong khi đó những không gian này lại không nhất thiết tương hợp với các không gian bản sắc. Trong trường hợp này không gian nên được coi như một cơ sở hơn là một cấu phần họat động của việc phân tích như là đối với chức năng của các vùng tưởng tượng.

Vấn đề biên soạn lịch sử vùng ở Canada

Trong khi các nghiên cứu về vùng đã được phát triển ngay từ những năm 1970s thì người ta vẫn cần phải suy nghĩ về các qui mô vùng được các sử gia đưa ra và sử dụng. Canada với diện tích 9.976.139 km2 lớn hơn hai lần diện tích của 25 quốc gia Châu Âu (4.134.300km2). Chúng ta cũng có thể thấy Ba Lan (312.677km2) chỉ bằng một nửa Saskatchewan (651.900km2) và Pháp (547.026km2) nhỏ hơn ba lần Quebec (1.540.680km2). Nhân tiện nói thêm, diện tích Quebec bằng 78% diện tích Mexico. New Brunswick (73.436 km2) được coi là một tỉnh nhỏ cũng ngang với Bỉ, Hà Lan và Luxembourg (73.930km2) (Canadian Encyclopedia 1985). Trong khi mật độ dân cư ở Canada và Châu Âu lại không giống nhau. Dân số Canada rải rác trên một lãnh thổ rộng đến mức bức khảm vùng đã là một sự kiện địa lý trước khi trở thành một thực tại trong khuôn khổ lịch sử, kinh tế hoặc xã hội - chính trị.

Mọi người đều thừa nhận rằng trong khi việc nghiên cứu địa lý lịch sử vùng ở Canada tùy thuộc vào từng trường hợp thì những nghiên cứu này đôi khi lại được qui vào những qui mô vùng khác nhau. Ở vùng Duyên hải chẳng hạn, một số sử gia than vãn về vấn đề là các nghiên cứu nói chung đều hạn chế vào một trong ba tỉnh - New Brunswwikc, Nova Scotia, Prince Edward Island - trong khi Thông sử vùng Duyên hải lại rất cần được biên soạn. Tuy nhiên khát vọng về một cách tiếp cận nhất quán đối với vùng Duyên hải lại đã đưa P.D. Clarke đi đến một kết luận là các sử gia thực hiện các nghiên cứu vùng Duyên hải vẫn ngập ngừng không đi đến kết luận về địa lý học lịch sử Acadia vì cách tiếp cận văn hóa học của nó (vùng tưởng tượng) không phù hợp với cách tiếp cận vùng chức năng [Clarke 2000: 87-89]. Ở bất cứ mức độ nào thì việc phân chia này trong địa lý lịch sử vùng duyên hải đều phản ánh về hiện thực vùng trong ba tỉnh đã được Đại Anh quốc tạo ra như những thực thể tách biệt vì những lý do chính trị vào cuối thế kỷ 18. Khái niệm tạo dựng một lịch sử các tỉnh Atlantic bao gồm cả vùng Newfoundland và Labrador vẫn có vẻ là một đặc trưng viễn tưởng phương bắc của Labrador chứ không phải là đặc trưng vùng Duyên hải (Hiller 2000).

Trong các tỉnh vùng Đồng cỏ thì lịch sử văn hóa đã cho thấy một sự phát triển hoàn toàn khác. Theo Gerald Friesen những mạng giao tiếp khác nhau được thiết lập trong những năm 1920s và 1930s đã giải thích cho “sức mạnh của ý thức vùng Đồng cỏ rộng lớn” đã trở nên rõ ràng trong giai đoạn đó. Ý thức vùng về các vùng đồng cỏ ấy có vẻ như đã được thay thế vào nửa sau của thế kỷ 20 bằng một ý thức vùng riêng biệt cho Manitoba, Saskatchewan và Alberta vì những mạng lưới giao tiếp mới và những thể chế tỉnh mới được thực hiện gần đây [Freisen 1996: 178-179].

Hai ví dụ này được lấy ra từ lịch sử vùng của vùng Duyên hải và vùng Đồng cỏ đã cho thấy rằng về chủ đề vùng ở Canada các sử gia cũng như các nhà báo, các nhà kinh tế học và các chính trị gia đều thường viện đến một nhóm tỉnh. Vì vậy chúng ta có thể gọi đây là một cách tiếp cận vùng vĩ mô Canada (Canadian macro regional) hoặc cách tiếp cận xuyên tỉnh (trans-provincial). Về vấn đề lịch sử đã được thực hiện trong giới hạn của một tỉnh, các sử gia Canada viết tiếng Anh thường viện vào kiểu nghiên cứu lịch sử địa phương hơn là lịch sử vùng.

Vẫn còn một cấp độ nghiên cứu thứ ba về lịch sử vùng có vẻ ít phát triển ở khu vực Canada tiếng Anh: lịch sử vùng được thực hiện trong giới hạn một tỉnh và được Fernand Harvey gọi là lịch sử vùng nội tỉnh (intra-provincial regional history). Tất nhiên trong tỉnh nào của Canada cũng có thể tìm thấy vùng, nhưng cần phải có những nghiên cứu thêm trước khi kiên trì rằng một số đã tạo nên những không gian có thể xác định về phương diện bản sắc. Có vẻ như đối với các sử gia Canada tiếng Anh lịch sử nội tỉnh hình như tương đương với lịch sử địa phương. Trong một bài viết nhan đề “Lịch sử Địa phương Canada” Paul Voisey đã chỉ rõ các sử gia chuyên nghiệp ít quan tâm đến lịch sử địa phương do các sử gia nghiệp dư biên soạn. Ông cũng chỉ ra rằng Lịch sử Xã hội Mới hoặc Biên niên sử theo trường phái Pháp (Annales) chậm được sử dụng trong các nghiên cứu địa phương ở khu vực Canada tiếng Anh trái ngược với tình hình ở Quebec. Sự ngập ngừng như vậy đã dẫn các sử gia Canada tiếng Anh chấp nhận cách tiếp cận xác định bằng lịch sử đô thị chứ không phải là lịch sử địa phương [Voisey 1985 & 1989].

Vậy là người ta có thể phân biệt bốn cấp độ lịch sử vùng ở Canada: i) lịch sử vùng xuyên tỉnh; ii) lịch sử tỉnh; iii) lịch sử vùng nội tỉnh; iv) lịch sử địa phương hoặc lịch sử tiểu vùng. Có thể là sai lầm khi nhóm hai loại cuối vào với nhau vì kích cỡ của một số vùng nhất định trong các tỉnh. Liệu đó có phải là lịch sử địa phương khi người ta nghiên cứu Bắc Ontario, vùng Saguenay ở Quebec, hoặc nam Saskatchewan khi những lãnh thổ này cũng rộng ngang với bất cứ quốc gia nhỏ nào của châu Âu?. Cộng thêm vào bốn cấp độ lịch sử vùng, cấp độ thứ 5 dường như đã xuất hiện trong những năm gần đây gắn liền với nhu cầu thiết yếu về một lối lý giải tổng hợp các đô thị hiện đại: vùng đô thị (the city-region). Một ví dụ về cách tiếp cận mới này là dự án về lịch sử vùng đô thị Montreal mới được IRNS (Viện nghiên cứu khoa học quốc gia) thực hiện (Collin, Dagenais & Poitras 2003). Cách tiếp cận này có thể đóng góp vào việc hòa giải lịch sử đô thị và lịch sử vùng, lịch sử địa phương.

Các vùng trong phạm vi Quebec

Nhìn từ bên ngoài, Quebec đã tạo nên một vùng kinh tế của Canada, đôi khi cùng với Ontario và được goị là Trung tâm Canada. Tên gọi này thường có một nghĩa xấu trong vùng duyên hải và  miền Tây. Về phía họ, người Quebec không tự coi mình là đã tạo ra một vùng văn hóa đơn giản của Canada. Các sử gia Quebec xây dựng các công trình bao gồm toàn bộ lãnh thổ Quebec vẫn kiên trì cái mà họ đang viết về lịch sử quốc gia chứ không phải là lịch sử tỉnh hoặc vùng. Không nghi ngờ gì nữa, chính vì vậy mà cuộc tranh luận ở khu vực Canada nói tiếng Anh giữa các sử gia quốc gia và các sử gia vùng đã ít tác động đến các sử gia Quebec; các sử gia Quebec đã phát triển những cách tiếp cận khác chủ yếu liên quan đến tính lưỡng của Canada. Trước khi nhận xét về các cách thức mà sử gia Quebec xây dựng lịch sử, có một vấn đề rất quan gtrọng là gợi lại một số dấu mốc chính trong sự phát triển của các vùng trong lãnh thổ Quebec.

Trục đông tây của dòng sông Saint Lawrence cắt qua lãnh thổ rộng lớn của Quebec. Về phía Nam các cửa sông chính là các sông Richelieu, Saint-Francois và Chaudière, về phía bắc là các sông Ottawa, Saint-Maurice, và Saguenay. Vì vậy chính điều kiện địa lý đã tạo thuận lợi cho sự xuất hiện của các vùng hình thức đa dạng hóa. Vào cuối thời thuộc Pháp năm 1760, lãnh thổ có người cư trú trùng hợp với vùng Lãnh chúa thuộc thung lũng sông Saint-Lawrence, từ Kamouraska đến phía tây của đảo Montreal, bao gồm cả Quebec và Trois-Rivières (có nghĩa là một dải thực dân địa dài 400km) trải dọc theo sông Chaudière (vùng Beauce) và sông Richelieu (vùng lưu vực sông Richelieu).

Bắt đầu vào năm 1830, sức ép về dân số đã nảy sinh vì tỷ lệ sinh cao của những người Canada gốc Pháp đã buộc người ta phải khai phá một vùng cư trú mới đầu tiên là các thị trấn miền Đông – Eastern Townships - được xây dựng bởi các gia đình Pháp, sau đó là vùng Saguenay và Lac Saint-Jean vào những năm 1850s. Có những sánh kiến thực dân địa của cha cố hạt, Antoine Labelle ở Laurentians bắc Montreal trong những năm 1870s - 1880s. Các vùng bình nguyên xung quanh lưu vực sông Saint-Lawrence cũng được khai thác làm nơi cư trú vào nửa sau thế kỷ 19, từ bán đảo Gaspé ở phía Đông đến Témiscamingue ở phía Tây. Vào đầu thế kỷ 20 và trong thời ký Đại Suy thoái của những năm 1930s, thực dân địa đã vươn đến vùng Abitibi xa hơn về phía Bắc cũng như các vùng đảo thuộc Hạ lưu sông Saint-Lawrence và bán đảo Gaspé. Miền Bắc và Bắc Quebec do các cộng đồng Mỹ Da đỏ hoặc người Inuit khai phá trong suốt mấy thế kỷ đã được người da trắng định cư trong nửa sau thế kỷ 20 để khai mỏ, làm lâm nghiệp và phát triển thủy điện [Harvey 1996]. Vì vậy lịch sử và địa lý đã góp phần vào việc sáng tạo ra các vùng văn hóa và kinh tế riêng biệt trong lòng Quebec.  Các sử gia thậm chí còn ghi chú về sự phát triển của ý thức trào lưu vùng ở bất cứ khu vực nào tại Quebec như Mauricie và Eastern Townships vào đầu những năm 1930s mặc dù các trào lưu này được gợi hứng về phương diện văn hóa do một nhóm nhỏ các tinh hoa vùng cầm đầu không thể so sánh được với các trào lưu vùng mạnh mẽ ở Tây Canada [Verette 1993; Harvey 2001].

Các nhân tố mới đã xuất hiện góp phần nhấn mạnh tính chất khẳng định về vùng trong lòng Quebec. Mặc dù đã tạo ra 10 vùng hành chính vào năm 1966, nhưng chính phủ Quebec vẫn chủ mưu một quá trình giải tập trung hóa hành chính trong nhiều năm đã chuyển đổi thành phong trào khẳng định vùng đối lập với sự tập trung hóa quan liêu xuất phát từ thành phố Quebec. Hơn nữa các cuộc nhập cư mới vào Montreal trong những năm 1970s đã tạo ra một phân chia văn hóa giữa khu vực đô thị đa văn hóa và các vùng văn hóa đồng nhất khác của Quebec. Cuối cùng là sự phân chia giữa các vùng tăng trưởng kinh tế và dân số chẳng hạn như các vùng ngoại vi Montreal và thành phố Quebec với các vùng xa thể hiện một sự thiếu hụt khả năng di trú. Toàn bộ các nhân tố này giúp lý giải vị trí trung tâm của các vùng trong cuộc luận chiến chính trị mới đây ở Quebec. Nhìn từ bên ngoài, Quebec có thể có một xã hội đồng nhất tương đối nhưng đó chỉ là một ảo tưởng. Điều đó không chỉ đúng cho quá khứ mà còn đúng cho cả tương lai.

Cần phải lưu ý là còn có một mối liên hệ lịch sử giữa quá trình thực dân địa các vùng ngoại vi Quebec và quá trình thực dân địa các tỉnh miền Tây Canada. Trên thực tế thì để phản ứng với phong trào di cư của người Canada gốc Pháp đến các nhà máy dệt của New England trong khoảng thời gian từ 1850 đến 1930 giới tăng lữ và các nhóm tinh hoa thời đó đã kêu gọi những người này hồi hương trở về Canada mặc dù họ cũng bị chia rẽ liên quan đến các tìm ra giải pháp tốt nhất cho vấn đề. Các cha cố nói tiếng Pháp ở miền Tây muốn những người Canada gốc Pháp ở New England và các khu vực nông thôn Quebec đã quá đông dân cư di cư đến những vùng dân cư mới ở Saskatchewan và Alberta trong khi giới tăng lữ ở Quebec lại kêu gọi định cư ở các vùng ngoại vi Quebec để tránh dàn mỏng đội ngũ và tránh bị đồng hóa [Painchaud 1986].

Tầm quan trọng của nghiên cứu vùng ở Quebec

Có một truyền thống nghiên cứu vùng rất lâu dài ở Quebec có thể tìm lại căn cội vào tận cuối thế kỷ 19. Những cuốn sách mỏng của nhà báo Arthur Buies và những người cổ vũ cho thực dân địa khác đã xác định niên đại nghiên cứu học thuật về vùng muộn hơn. Trong khoảng thời gian từ 1930-1960 nhà địa lý học Pháp Raoul Blanchard, một học trò của Vidal de la Blache đã viết một lọat tác phẩm khảo tả về vùng Quebec (Cahiers de Géographie 1986). Các nhà địa lý khác và một số nhà kinh tế cũng đã công bố một số nghiên cứu về vùng Quebec, trong đó có Esdras Minville và những bản tóm tắt kinh tế của ông về các quận của Quebec. Các nhà xã hội học và nhân học cũng bắt đầu quan tâm đến các nghiên cứu vùng ngay từ những năm 1950s-1960s [Harvey 1994]. Tuy nhiên các sử gia chuyên nghiệp đã chậm trong việc chấp nhận thách thức về lịch sử vùng vì nó đã được coi là lĩnh vực nghiên cứu của các sử gia nghiệp dư.

Tại Quebec cũng như các khu vực Canada nói tiếng Anh, việc đổi mới môn địa lý học lịch sử vùng bắt đầu từ những năm 1970s. Tuy nhiên bối cảnh khoa học và chính trị của mối quan tâm nghiên cứu đổi mới về vùng ấy là rất khác nhau. Mạng lưới trường Đại học Quebec thành lập năm 1969 với các trường đại học thành viên ở vùng Trois-Rivières, Chicoutimi, Rimouski, Hull và Rouyn được phép xây dựng những chương trình mới về lịch sử và địa lý. Các sử gia của các đại học này cũng như các sử gia của các đại học Montreal, thành phố Quebec, và Sherbrooke bắt đầu nghiên cứu một cách hệ thống các vùng có liên quan. Một số khuynh hướng khoa học và xã hội đã ảnh hưởng đến bộ môn lịch sử mới của vùng, trong đó có trường phái xã hội học của đại học Laval, trường phái Biên niên sử Pháp, các lý thuyết kinh tế kém phát triển của Thế giới thứ Ba và trường phái địa lý văn hóa Pháp của những năm 1980s. Các công trình theo trường phái kinh nghiệm chủ nghĩa đã cố thay thế cho việc cóp nhặt một khung lịch sử được hiểu biết rất ít về các vùng khác nhau của Quebec. Lịch sử vùng tham gia vào một bối cảnh liên ngành với các nhà địa lý, xã hội học, các nhà kinh tế học quan tâm đến các vấn đề đương đại về tình trạng kém phát triển ở các khu vực ngoại viu Quebec. Vì vậy môn địa lý học lịch sử được thực hiện ở Quebec dường như đã chỉ nhấn mạnh vào các vấn đề kinh tế và xã hội hơn là những vấn đề về bản sắc và chính trị. Hơn nữa, môn địa lý lịch sử của vùng Quebec lại tương đối mới ngay cho dù vấn đề về bản sắc vùng được phát hiện trên nền tảng của nhiều nghiên cứu trước đó [Harvey 2002].

Những khác biệt được nhận ra trong địa lý học lịch sử vùng Quebec và vùng Canada nói tiếng Anh đã được Gaffield [1991: 64] mô tả là những “trạng thái hiu quạnh truyền thống” cũng được nhận ra trong các tài liệu xã hội học về nghiên cứu vùng. Theo Chris Southcott, “Các nhà xã hội học Quebec gốc Pháp nghiên cứu những khác biệt vùng có khuynh hướng hiểu đơn vị phân tích của họ như là những lãnh thổ nội tỉnh”, trong khi các nhà xã hội học Canada nói tiếng Anh thì lại tập trung khá nhiều vào những bất bình đẳng liên tỉnh. Hơn nữa diễn ngôn thống trị trong xã hội học Canada nói tiếng Anh trong những năm 1970s-1980s coi bất bình đẳng vùng có  hơi hướng số phận là “một quá trình cấu trúc bình thường của chủ nghĩa tư bản chứ không phải là kết quả của một sự vận hành kém về phương diện thể chế”. Các nhà xã hội học Quebec một mặt chịu ảnh hưởng các tiếp cận cấu trúc (constructivist approach) của Alain Touraine về vai trò của các tác nhân và các phong trào xã hội và họ đã phát triển một cách tiếp cận dựa trên những khả năng thay đổi kinh tế xã hội đối với các vùng còn khó khăn [Southcott 1994: 345-346; Làontaine 1989].

Dự án Lịch sử vùng xuyên Quebec

Một số dự án chính về lịch sử vùng đã được thực hiện tại Quebec trong suốt 30 năm qua. Các chủ đề chẳng hạn như tiến hóa của cư dân vùng, các mối quan hệ giữa nông nghiệp, lâm nghiệp và các họat động thương mại ở lưu vực sông Saint-Lawrence đã được một số nhóm nghiên cứu chủ chốt thực hiện [Harvey 1993]. Một trong số các dự án đó là Dự án Lịch sử vùng liên Quebec được INRS (Institut nationale de la recherche scientifique) và Đại học Quebec tài trợ. Dự án tham vọng này bắt đầu từ năm 1980 đã tìm cách xây dựng một tổng hợp lịch sử từng vùng trong 24 vùng văn hóa Quebec. Cuộc kiểm kê các vùng này đã đực xây dựng bằng cách xem xét các đơn vị hành chính của Tỉnh bang Quebec (Provincial State of Quebec) cũng như những thực tiễn cổ hơn của một bản chất địa lý và văn hóa. Và nó cũng giải thích thuật ngữ vùng lịch sử để mô tả bất cứ vùng nào là kết quả của một sự kết hợp của vùng hình thức, vùng chức năngvùng tưởng tượng đã đề cập ở trên.

Giống như những bộ thông sử của Canada hoặc của các tỉnh, những tổng hợp này bao quát các đề tài liên quan đến sự ra đời và tiến hóa của mỗi vùng từ cội nguồn đến tận bây giờ, bao gồm môi trường địa lý, sự hiện diện của người Anhdiêng, công cuộc thực dân địa và định cư, sự phát triển kinh tế, phát triển các thể chế giáo dục và chăm sóc y tế, sự tiến hóa của các họat động văn hóa và nghệ thuật. Mỗi dự án trung bình được biên soạn trong vòng ba năm và được một nhóm các nhà sử học chuyên nghiệp lãnh đạo cùng với các trợ lý nghiên cứu thuộc các đại học trong khu vực được nghiên cứu. Toàn bộ các nghiên cứu đã có về vùng đều dược xem xét kỹ, nhưng nhiều chương cần phải được nghiên cứu lại dựa trên các hồ sơ lưu trữ hoặc các tài liệu đã công bố. Công việc tổng hợp tuân thủ một phương pháp luận lịch sử nghiêm nhặt, nhưng lại được trình bày bằng một ngôn ngữ mà đại chúng dễ dàng tiếp cận.

Trong vòng 26 năm qua các dự án tổng hợp này đã huy động các nguồn tài chính và nhân lực to lớn. Trong số 24 bộ tổng hợp thì 17 bộ đã được công bố và 7 dự án nữa sẽ được hoàn thành vào năm 2010. Chi phí đã lên tới 10 triệu đô la trong đó 78% được huy động từ các chiến dịch gây quĩ vùng (regional fundraising campaigns). Việc công bố các nghiên cứu này là một thành công về thương mại; một số bộ với 2000 bản copi đã được biên tập lần thứ hai [Perron 2004]. Dự án Lịch sử vùng xuyên Quebec đã tạo ra những hiệu ứng tích cực cho việc phổ biến tri thức. Các bộ lịch sử vùng ấy đã được sử dụng làm tài liệu nghiên cứu các khóa trình lịch sử Quebec trong các nhà trường, các trường địa học; các hội du lịch và các tổ chức kinh tế xã hội và các nhà báo đã tìm được những thông tin bổ ích trong các bộ sử đó. Bên cạnh đó, ba tiểu dự án cũng đã được xây dựng: tập hợp các bộ sử tóm tắt từ các công trình đã được công bố cho công chúng, một loạt tư liệu video về lịch sử các vùng Quebec đã có như các băng video cassettes cho các nhà trường và mới đây là website Encyclobec cung cấp thông tin về nhiều sự kiện lịch sử được khai thác từ các bộ sử vùng.

Về tổng thể các tổng hợp lịch sử vùng này đã đóng góp cho sự hiểu biết sau sắc thêm về thông sử Quebec. Còn lâu mới là một xã hội đồng nhất vì vậy Quebec được nhìn nhận thông qua toàn bộ những khác biệt của nó. Các tổng hợp thông sử Quebec tương lai sẽ phải xem xét cẩn thận hơn nữa những khác biệt này. Hơn nữa việc hiểu biết kỹ lưỡng hơn về vùng như vậy sẽ cho phép phát triển những so sánh giữa các vùng. Việc phân tích những tác động đang tăng lên của toàn cầu hóa ở các cấp địa phương hoặc tiểu vùng cũng sẽ trở nên dễ dàng hơn. Quay trở lại với vấn đề ban đầu, chúng ta có thể hỏi liệu việc chia tách giữa lịch sử vùng và lịch sử quốc gia có còn chính đáng không. Vì lịch sử vùng không phải được tạo ra trong chân không mà là trong một khuôn khổ tổng quát hơn: Quebec, các tỉnh khác, Canada và thậm chí cả Bắc Mỹ đều có khả năng làm giầu thêm hiểu biết của chúng ta về quá khứ chung của tất cả khu vực này. Trong thực tế các công trình lịch sử vùng đang bắt đầu được thống nhất vào những công trình tổng hợp mới xuyên Canada [Condrad & Finkel 2003; Francis & al., 2000; Cardin & al., 1996]. Lịch sử Canada là một phức hợp các lịch sử ở các cấp độ khác nhau – quốc gia, xuyên tỉnh, tỉnh, nội tỉnh, đô thị và địa phương. Một điều rất cần thiết là phải thừa nhận tầm quan trọng của tất cả các cấp độ này để lý giải cho tính đa dạng của các mối quan hệ xã hội và không chỉ quá trình chính trị mới gia nhập vào cấu trúc của nhà nước Canada. Theo nghĩa này lịch sử vùng nội tỉnh như được thực hiện ở Quebec có thể được phát triển ở đâu đó khác trong đất nước và đóng góp cho sự hiểu biết tốt hơn về quá khứ. 

Trong bối cảnh hiện tại của quá trình toàn cầu hóa đang tăng tốc thì các nhà nước quốc gia tỏ ra là ít sức mạnh để giải quyết bất cứ vấn đề kinh tế, văn hóa và môi trường vượt khỏi các ranh giới của nó. Các công dân của các quốc gia này đang longại về tác động của các thách thức này đối với cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Ngược lại, khuynh hướng này gợi ra một phản ứng trái ngược, một loại hiệu ứng đối trọng cổ vũ sự phát triển của cấp độ địa phương hoặc vùng được coi là gần gũi với mọi người và vì vậy mà dẽ kiểm soát hơn. Hơn bao giờ hết, các cá nhân đều thấy rất rõ nhu cầu kết nối vùng và phát triển ý nghĩa về vị trí. Tuy nhiên, sự phát triển của các công nghệ thông tin truyền thông mới và mở rộng các trao đổi kinh tế văn hóa đã giúp cho việc mở mang nhiều vùng đô thị và nông thôn và đặt dấu chấm hết cho tình trạng cô lập. Trong nhiều vùng của Canada và những quốc gia khác, nhất là ở Châu Âu, chúng ta đã được chứng kiến sự phát triển của những mối quan hệ quốc tế trực tiếp giữa các thành phố hoặc các vùng khác nhau trong khi trước đây những mối quan hệ này là sự tự vệ (preserve) đơn độc của các thủ đô hoặc các trung tâm đô thị ở cấp quốc gia. Nhiều festival quốc gia và quốc tế được tổ chức bởi các thành phố cỡ nhỏ hoặc trung bình là một ví dụ về hiện tượng này gắn liền với quá trình toàn cầu hóa. Những sáng kiến này đã giúp củng cố bản sắc vùng và năng lực vùng cho quá trình đổi mới. Uy tín ngày càng tăng của một vùng làm cho nó nhận biết rõ ràng hơn về nhu cầu lịch sử nhằm hiểu biết tốt hơn những cơ sở bản sắc của mình.

Chừng nào Canada còn được mọi người quan tâm thì cách tiếp cận vùng vẫn rất cần thiết cho việc lý giải về quá khứ kinh tế, chính trị và văn hóa của đất nước, cũng như việc lý giải các nhân tố đó trong tương lai. Ở cấp độ khu vực Bắc Mỹ rất cần phải có một phân tích so sánh quá trình thể chế hóa vùng ở những qui mô khác nhau tùy thuộc vào những phương thức hành chính, chính trị, và lịch sử khác nhau. Điều đó lại càng cần thiết trong bối cảnh liên kết ngày càng tăng của các quốc gia trong hiệp ước NAFTA. Theo hình mẫu các vùng được xác lập ở Châu Âu, có thể nói rằng bất cứ vùng nào của Canada, Mỹ và Mexico đều cùng phát triển các mối quan hệ trực tiếp về kinh tế hoặc văn hóa mà không nhất thiết phải gia nhập các nhà nước ở cấp quốc gia.
_______________________________

Đề tài cấp Bộ: Nghiên cứu cơ sở lý thuyết cho việc xác định các ưu tiên trong phát triển bền vững vùng kinh tế (2006-2008). Viện Nghiên cứu Phát triển Bền vững Bắc Bộ, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam.


TÀI LIỆU THAM KHẢO

Bliss, Michael 1991. Privatizing the Mind: The Sundering of Canada, the Sundering of Canadian History. Journal of Canadian Studies, 26 (Winter), pp.5-17.

Bourdieu Pierre 1980. L’identité et la représentation. Éléments pour une réflexion critique sur l’idée de région. Actes de la recherché en Scienes sociales, 35(nov.) pp. 63-72.

Buckner, P.A. 2000. Limited identities Revited: Regionalism and Nationalism in Canadian History, Acadiensis, 30, 1 (Aut.) pp.8-10.

Canadian Encyclopedia 1985. Edmonton, Hurtig Publishers, 3 vols.

Cardin, Jean-Francois, Claude Couture et Gratien Allaire 1996. Histoire du Canada. Espace et differences, Quebec, Presses de l’Universite Laval, p. 397.

Careless, J.MS. 1969. Limited Identities in Canada. Canadian Historical Review, 50, 1. pp.1-10.

CGQ 1986. La geographie au Quebec cinquante ans apres Raoul Blanchard, Cahiers de geographie du Quebec, 30, 80 (Sept.) p. 298.

Clarke, P.D. 2000. L’Acadie perdue; Or Maritimes History’s Other. Acadiensis, 30, 1 (Aut.) pp. 87-89.

Collin, Jean-Pierre, Michele Dagenais and Claire Poitras 2003. From City to City-Region: Historical Perspective on the Cententious Definitions of the Montreal Metropolitan Area. Canadian Journal of Urban Research, 12, 1 (Summer) pp.16-43.

Conrad, Margaret and Alvin Finkel 2003. Canada: a national history. Toronto, Longman, p. 567.

Douglas, Francis R. 1992. In Search of a Prairie Myth: a Survey of the Intellectual and Cultural Historography of Prairie Canada. George Melnyk, ed., Riel to Reform. A History of Protest in Western Canada, Saskatoon, Fifth House Publishers. Pp.20-21.

Dumont, Fernand 1979. Ethnies, cultures, nations. Mouvements nationaux et régionaux d’aujourd’hui. Cahier internationaux de sociologie, 66: pp.5-17.

Francis, Douglas R., Richard Jones and Donald B. Smith 2000. Destinies: Canadian History since Confederation. Toronto, Harcout, p. 597.

Friesen, Gerald 1996. River Road – Essays on Manitoba and Prairie History. Winnipeg, the University of Manitoba Press, p.246.

Gaffield, Chad 1991. The New Regional History: Rethinking the History of the Outaouais. Journal of Canadian Studies, 26, 1 (Spring). Pp. 64-79.

Gilbert, Anne 1988. The new regional geography in English and French-speaking countries. Progress in Human Geography, 12,2: pp.208-228.

Giddens, Anthony 1984. The Constitution of Society: Outline of the Theory of Structuration. Berkeley and Los Angeles, University of California Press, p.402.

Granatstein, Jack L. 1998. Who Killed Canadian History? Toronto, p.156.

Harvey, Fernand 1993. L’histoire régionale, rurale et urbaine. In Jacques Rouillard, éd., Guide d’histoire du Quebec, 2e ed., Montréal, Éditions du Méridien, pp.229-252.

Harvey, Fernand 1994. La région culturelle. Problématique interdisciplinaire, Québec, Éditions de l’Institut québécois de recherche sur la culture, p.231.

Harvey, Fernand 1996. Histoire des régions du Québec, des origines à la Révolution tranquille in Marc-Urbain Proulx, Le phénomène régional au Québec (Québec, Presses de l’Université du Québec), pp. 13-132.

Harvey, Fernand 2001. L’historiographie regionaliste des annees 1920 et 1930 au Quebec. Les Cahiers des Dix, 55, pp. 53-102.

Harvey, Fernand 2002. La région culturelle et la culture en région. In Denise Lemieux, éd.,Traité de la culture, Québec, Éditions de l’IQRC Presses de l’Université Laval, pp.135-161.

Hiller, James K. 2000. Is Canadian History Possible? Acadiensis, 30, 1 (Autumn) pp.16-22.

Lafontaine, Danielle 1989. Les études régionales québécoises. Canadian Journal of Regional Science, 12, pp. 111-139.

Mandel, Eli 1973. Imagines of Prairie Man. In A region of the Mind: Interpreting the Western Canadian Plains. Richard Allen ed., (Regina, Canadian Plains Research Center).

Owram, Doug 1997.Narrow Circles: the Historiography of Recent Canadian Historiography. National History, 1,1 (Winter), pp.11-19.

Paasi, Anssi 1986. The institutionalization of regions: theoretical framework for understanding the emergence of regions and the constitution of regional identity. Fennia, 164 pp.105-146.

Paasi, Anssi 1991. Deconstructing regions: notes on the scales of spatial life. Environment and Planning, 23, pp. 239-256.

Painchaud, Robert 1986. Un rêve de peuplement francais dans la Prairie, Saint-Boniface, Éditions des Plaines, p.303.

Perron, Normand 2003. Regions et affirmation culturelles depuis le milieu du XIXe siecle. In Michel Venne, ed,. L’Annuaire du Quebec 2004, Montreal, Fides, pp. 789-796.

Raffestin, Claude 1982. Remarques sur les notions d’espace, de territoire et de territorialite. Espaces et Societes, 41, pp.167-171.

Renan, Ernest 1882. Qu’est-ce qu’une nation? New Edition, Paris, Bordas 1992, p.126.

Southcott, Chris 1994. Sociology and Regional Science in Canada. Canadian Journal of Regional Science, 17, 3 (Autumn) pp.329-349.

Smith, N 1992. Geography, difference and the politics of scale. In J.Doherty, E. Graham and M. Malek, eds., Postmodernism and the social sciences, London, Macmillan, pp.57-79.

Symons, T.H.B. 1975. To Know Ourselves. Ottawa, Association of Universities and Community Colleges, p. 205.

Verrette, Rene 1993. Rural Local History and the Prairie West. Prairie Forum, 10, 2 (Autumn), pp. 327-338.

Vidal de la Blache, Paul 1908. La France. Tableau geographie, Paris, Hachette, vii, p.365. 


Thứ Ba, 13 tháng 5, 2014

Ngân hàng Thế giới và Phát triển Bền vững



Ngân hàng Thế giới và Phát triển Bền vững

 

Hà Hữu Nga – Đoàn Minh Huấn

 

Vai trò của Ngân hàng Thế giới trong trợ giúp phát triển

Ngân hàng Thế giới không chuyên vào lý thuyết Phát triển Bền vững, nhưng phương châm và hoạt động thực tiễn của nó lại bao gồm cả phát triển bền vững. Ngân sách hoạt động hành chính của nó vào khoảng 1.4 tỷ trong năm tài chính 2001, khoảng một nửa được sử dụng trực tiếp để hỗ trợ cho các hoạt động quốc gia (các vùng). Nếu bỏ sang một bên khoản tổng chi phí về hành chính, hợp tác quản lý, v.v…thì phần chi cho các hoạt động quốc gia thậm chí còn cao hơn. Trong phạm vi các hoạt động đa quốc gia, thì nghiên cứu và phổ biến kết quả nghiên cứu (các đề mục ngân sách của Kinh tế học Phát triển và Viện Ngân hàng Thế giới) chiếm khoảng 100 triệu USD trong tổng ngân sách hành chính. Quỹ Tài trợ Phát triển (Development Grant Facility) tài trợ cho hàng loạt hoạt động trên phạm vi toàn cầu là vào khoảng 150 triệu USD trong năm tài chính 2001. Hoạt động Mạng lưới vào khoảng 120 triệu USD – trong đó không rõ bao nhiêu trong số này được phân chia cho các hoạt động đa quốc gia và bao nhiêu cho việc hỗ trợ các hoạt động đơn quốc gia. Nhưng nếu chúng ta chia thành 8 (đại khái là tỷ lệ nghiên cứu và phổ biến nghiên cứu, phố biến thông tin và các hoạt động ở cấp quốc gia) của tổng này cho các hoạt động ở cấp quốc gia thì chúng ta có 265 triệu (100 triệu USD + 150 triệu USD + 15 triệu USD) là việc phân bổ ngân sách hành chính thành loại như vậy so với 805 triệu USD (700 triệu + 105 triệu) cho các hoạt động cấp quốc gia riêng biệt [Joshi, A. 2011; Kim, P.S., Halligan, J., Cho, N., Oh, C. and Eikenberry, A. 2005; Tisné, M. 2010; World Bank 2004].

Điều quan trọng cần phải thừa nhận là trong nhiều năm bất cứ đánh giá nào của Ngân hàng Thế giới cũng đều vừa đứng vững vừa đổ nhào bởi hiệu quả của các hoạt động cụ thể cấp quốc gia. Tuy nhiên trước hết hãy tập trung vào các hoạt động riêng biệt không phải ở cấp quốc gia. Điều bất ngờ là ở chỗ các hoạt động đa quốc gia liên nhóm các nước đang phát triển đối mặt với các ngoại ứng xuyên biên giới là ít và thưa thớt. Ở mức độ hiện tồn thì nói chung chúng nằm ngoài phạm vi thông thường của các công cụ của Ngân hàng, bằng cách dựa vào các khoản tài trợ từ thu nhập của mạng lưới Ngân hàng chứ không phải là các khoản vay từ IBRD (International Bank for Reconstruction and Development)  hay IDA (International Development Agency). Dự án thành công lớn có tên là Bệnh mù Sông (River Blindness - worm Onchocerca volvulus) là một ví dụ điển hình về việc Ngân hàng Thế giới (phối hợp với các nhà tài trợ khác) cung cấp một loại hàng hoá công cộng quốc tế dưới hình thức một dự án đa quốc gia chống lại loại côn trùng gây bệnh mù - một ngoại ứng âm điển hình liên quốc gia về phương diện địa lý bằng cách giảm nhẹ gánh nặng cho các quốc gia được hưởng lợi này theo cách thức không gây đối địch và không ai bị loại trừ [Joshi, A. 2011; World Bank 2004].

Quay trở lại với việc điều phối đa quốc gia, có thể xem xét trường hợp cần phải có sự phối hợp giữa các quốc gia đã phát triển và các quốc gia đang phát triển, nói cách khác là cơ chế điều phối toàn cầu thực sự mà bên cung được coi là một loại hàng hoá quốc tế công cộng. Ngân hàng Thế giới tham gia vào một số loại hoạt động thuộc lĩnh vực này. Điều phối toàn cầu (phối hợp với Quỹ tiền tệ Quốc tế) về việc giảm nợ cho các quốc gia nghèo nhất (sáng kiến HIPC - Heavily Indebted Poor Countries) là một ví dụ điển hình. Rõ ràng là ngay cả khi một quốc gia mắc nợ với nhiều chủ nợ thì vẫn có một vấn đề điều phối chủ yếu trong việc giảm nợ, vì đó là lợi ích của tất cả các chủ nợ, họ phải được các chủ nợ khác trả nợ. Các cơ chế điều phối như vậy tồn tại trong lĩnh vực nợ thương mại (Câu lạc bộ London) và nợ song phương chính thức (Câu lạc bộ Paris) nhưng vẫn cần một cơ chế điều phối tất cả các loại nợ này cũng như đối với bản thân các khoản nợ đa phương. Một số vấn đề nợ thực sự là rất rắc rối - điển hình là các con nợ châu Phi của Liên Xô dưới thời Xô Viết trong khi bản thân nước Nga lại là một con nợ của các quốc gia phương Tây [Tisné, M. 2010; World Bank 2004].

Một ví dụ điển hình khác của việc điều phối liên quốc gia đã phát triển và đang phát triển là hoạt động của Ngân hàng trong lĩnh vực môi trường, đặc biệt là ô nhiễm không khí. Các vấn đề điều phối toàn cầu về việc sử dụng biển, về việc tranh chấp các ngư trường, v.v…đều liên quan đến các cơ quan chuyên trách của Liên hợp quốc và nhiều tổ chức thương mại khác, còn bản thân Ngân hàng thì lại không có vai trò chủ yếu. Tuy nhiên đối với trường hợp khí thải carbon dioxide hoặc tầng ozone bị xâm hại thì Ngân hàng lại đóng vai trò đầu tàu cùng với các cơ quan Liên hợp quốc chẳng hạn như UNDP (Chương trình Phát triển Liên hợp quốc) và UNEP (Chương trình Năng lượng Liên hợp quốc).    

Quỹ Môi trường Toàn cầu (GEF - Global Environmental Facility) được Ngân hàng gây dựng nhưng hiện nay lại là một thực thể tách biệt với Ngân hàng vốn được coi là một cơ quan thực hiện mặc dù vẫn có các hoạt động cấp quốc gia của nó trong các nước tham gia Quỹ Môi trường Toàn cầu. Điều đó cho thấy một khía cạnh hoạt động thực tiễn khác đó chính là lợi ích. Công việc điều phối toàn cầu thường cần các dự án cụ thể cấp quốc gia. Ở mức độ nhất định các chương trình cấp quốc gia của Ngân hàng có mục đích tài trợ cho các dự án ấy (chẳng hạn như Dự án Bảo tồn Đa dạng Sinh học nước ở Bangladesh là một phần của mục tiêu tổng thể bảo vệ đa dạng sinh học toàn cầu).

Đâu là sự đánh đổi các nguồn lực để được các dự án như vậy trong khi các nguồn đó lại thuần tuý cần thiết cho phát triển quốc gia? Và liệu việc sử dụng các công cụ vay nợ hoặc các công cụ tài trợ cho các dự án như vậy có tốt hơn không? Từ đó cần xem xét một ngoại ứng dương đơn phương không gây thù nghịch và không có tính loại trừ từ các hoạt động chủ yếu là ở các quốc gia đã phát triển, hoặc ở các định chế tài chính quốc tế đến các quốc gia đang phát triển như một tổng thể. Một ví dụ sẽ được khái quát hoá bằng cách tháo gỡ các rào cản thương mại hoặc các điều khoản hạn chế nhập cư của các nước đã phát triển chống lại các nước đang phát triển. Nhưng các ví dụ hay được nhắc đến thường xuyên nhất chính là các nghiên cứu cơ bản về nông nghiệp nhiệt đới, các loại bệnh nhiệt đới, hoặc về bản thân quá trình phát triển [Tisné, M. 2010; World Bank 2004].

Hoạt động của Ngân hàng còn thể hiện rõ ở vai trò nghiên cứu bản thân quá trình phát triển. Ngân hàng, đặc biệt là các dự án “Ngân hàng Tri thức” có vai trò tổng hợp kinh nghiệm phát triển ở cấp quốc gia cụ thể vì lợi ích của tất cả các quốc gia chính là một mặt hàng công cộng quốc tế. Trong khi Quỹ tiền tệ Quốc tế không tự đặt kế hoạch cho bản thân mình theo phương thức này thì nó lại đem kinh nghiệm chung của Quỹ ở hàng loạt quốc gia đến cho các nhà hoạch định chính sách của các quốc gia riêng biệt, và bản thân nó cũng có một bộ phận nghiên cứu lớn. Đặc biệt đối với trường hợp Ngân hàng Thế giới có hai vấn đề chính cần được quan tâm. Trước hết là cơ chế vận hành để tổng hợp được một khối lượng thông tin to lớn mà chủ yếu là nhờ ở vai trò của công nghệ thông tin mới thuộc quá trình này. Thứ hai là vấn đề về việc tổng hợp được thực hiện như thế nào, và theo khuôn khổ nào.

Gác lại một bên các vấn đề thể chế và kỹ thuật phức tạp của việc quản lý dòng tri thức thì vấn đề trọng tâm là ở chỗ các khuôn khổ tạo điều kiện cho việc tìm hiểu và lý giải thông tin và tri thức trong quá trình phát triển là vấn đề còn đang tranh cãi. Trong bối cảnh đó Ngân hàng có thể giữ một lập trường mở tạo điều kiện cho việc tranh luận và thảo luận về hàng loạt vấn đề kể cả những tiếng nói chống đối và đặt nó vào các vị trí thích hợp, hoặc nó có thể xuất trình một tổng hợp riêng biệt và đứng đằng sau nó, trừ những quan điểm khác. Trong thực tế thì thành quả nằm ở đâu đó ở trung tâm với một lập trường giới hạn về các vấn đề chính sách nào đó (chẳng hạn như việc tự do hoá tài khoản vốn cho đến tận mấy năm trước đây, và bây giờ là tự do hoá thương mại) phản ánh và được phản ánh trong các hoạt động ở cấp quốc gia riêng biệt, nhưng là một lập trường mở về các vấn đề khác, chẳng hạn như về giảm phân biệt đối xử theo giới [Joshi, A. 2011; Kim, P.S., Halligan, J., Cho, N., Oh, C. and Eikenberry, A. 2005; Tisné, M. 2010; World Bank 2004].

Ngân hàng đã thực hiện một công việc tốt là phổ biến rộng rãi các phát hiện của công việc nghiên cứu đó. Hành động nghiên cứu đó cũng có tính chất không loại trừ vì bất cứ ai mong muốn tiếp cận với nghiên cứu của Ngân hàng về mặt nguyên tắc đều có thể thực hiện được công việc đó. Nhưng vẫn có một vấn đề là việc đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật này là chưa đủ - chúng ta phải nhìn sâu hơn vào các hệ quả của việc phổ biến rộng rãi các nghiên cứu này. Các hệ quả ấy tuỳ thuộc vào việc liệu công trình nghiên cứu đó có được khách hàng tin tưởng không, và đó là ai. Ở một mức độ nhất định thì có một quá trình nhận thức và quá trình đó là cái có ý nghĩa quan trọng mà công trình nghiên cứu là phiến diện và được thực hiện để chỉ rõ các kết quả riêng biệt, thì nó sẽ không có một tác động phổ quát. Trong bối cảnh đó các cơ chế hiệu quả của việc tập hợp, tổ chức và phổ biến thông tin thông qua các phương tiện điện tử chỉ có thể làm tăng thêm sự nghi ngờ.

Vấn đề trọng tâm là liệu công việc nghiên cứu trong các định chế giống như Ngân hàng Thế giới phải giữ lập trường và quan điểm về sự vận hành của chính sách có thể bao quát được một trách nhiệm đủ lớn để trở thành một loại thể chế hỗ trợ phát triển quốc tế hay không. Về phương diện này thì không có cách gì để nghi ngờ được các động cơ tốt đẹp của nhiều cá nhân làm việc trong các bộ phận nghiên cứu thuộc các định chế này. Nhưng họ thực sự phải đối mặt với các câu thúc và điều đó hoàn toàn bộc lộ trong một tỏ chức hành động. Vấn đề là không phải liệu có nên hay không nên là một tổ chức nghiên cứu trong một định chế hành động - bất cứ một định chế nào như vậy cũng đều cần một nhóm toàn tâm toàn ý với công việc phân tích chuyên biệt và tương tác với hoạt động phân tích ở bên ngoài. Hơn nữa vấn đề còn là ở chỗ liệu hoạt động nghiên cứu của một định chế tài chính quốc tế nhất thiết cần đến một tấm áo khoác của một loại hàng hoá công cộng quốc tế không, kể cả hương vị và các nguồn lực của công việc nghiên cứu trong khí hậu hiện thời có giống với các loại hàng hoá quốc tế công cộng hay không. Kết luận của chúng ta về vấn đề này là một kết luận mang tính hoài nghi, chí ít là khi có một sự nhận thức rộng rãi cho rằng hoạt động nghiên cứu đó nhằm phục vụ cho một lập trường chính sách hoặc một đường hướng riêng biệt ngoại trừ những vấn đề khác. Có lẽ sở dĩ có tình trạng đó là vì trong hoạt động nghiên cứu khoa học xã hội, khác với các khoa học tự nhiên, còn rất nhiều lĩnh vực vẫn đang còn tranh cãi và không có hề có một khuôn khổ duy nhất để đánh giá các nghiên cứu và kết quả nghiên cứu  [Joshi, A. 2011; Kim, P.S., Halligan, J., Cho, N., Oh, C. and Eikenberry, A. 2005; Tisné, M. 2010; World Bank 2004].

Quan điểm phát triển và Phát triển Bền vững của Ngân hàng Thế giới


Phát triển không chỉ là tăng tài sản của vùng, của quốc gia mà còn bao hàm nghĩa phát triển con người, được đo bằng tuổi thọ trung bình, tỷ lệ biết chữ ở người lớn, khả năng và mức độ tiếp cận với giáo dục ở cả ba cấp, cũng như tăng mức thu nhập trung bình của người dân, một trong những điều kiện cần thiết để đảm bảo cho việc tự do lựa chọn cao hơn của con người. Như vậy phát triển con người bao trùm lên tất cả các khía cạnh trong cuộc sống của mọi cá nhân, từ tình trạng sức khỏe tới tự do về kinh tế và chính trị, phát triển con người là mục đích cuối cùng, tăng trưởng kinh tế là phương tiện. Người ta đều thống nhất rằng tăng trưởng kinh tế bằng cách tăng tổng tài sản quốc gia cũng làm tăng khả năng giảm nghèo và giải quyết các vấn đề xã hội khác, nhưng trong thực tế thì tăng trưởng kinh tế không phải lúc nào cũng đi đôi với phát triển con người, mà nhiều khi còn ngược lại, đó là tình trạng bất bình đẳng, thất nghiệp tăng cao, nhiều giá trị dân chủ bị hạ thấp, đánh mất bản sắc văn hóa hoặc tiêu dùng quá mức nguồn tài nguyên thiên nhiên cần thiết cho các thế hệ tương lai, và kiểu tăng trưởng ấy sẽ không bền vững. Trong bối cảnh đó thiệt hại về môi trường, xã hội và con người do tăng trưởng kinh tế gây ra sẽ lớn hơn so với các lợi ích kinh tế, và phúc lợi của con người sẽ bị giảm đi. Trong khi đó bản thân tăng trưởng kinh tế phải dựa vào các điều kiện tự nhiên, xã hội và con người. Muốn có phát triển bền vững thì tăng trưởng phải dựa trên khối lượng tài nguyên và dịch vụ nhất định của tự nhiên như khả năng hấp thụ ô nhiễm và tái tạo nguồn lực. Bên cạnh đó tăng trưởng kinh tế phải được nuôi dưỡng thông qua những thành quả phát triển con người, chẳng hạn tăng nguồn cung lao động có khả năng thích ứng với các đổi mới về kỹ thuật, về quản lý; tăng cơ hội sử dụng lao động một cách hiệu quả trên cơ sở việc làm tốt hơn, các doanh nghiệp có nhiều điều kiện phát triển hơn và các giá trị dân chủ được phát huy rộng rãi hơn [Soubbotina 2005: 9].

Phát triển bền vững là đáp ứng được các nhu cầu của hiện tại mà không gây hại tới khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai; sự bình đẳng như vậy giữa các thế hệ sẽ không thể nào đạt được nếu trong hiện tại không có công bằng xã hội; nếu các hoạt động kinh tế của một số nhóm người tiếp tục gây tổn hại đến cuộc sống của các nhóm người khác, hoặc các nhóm sống tại những nơi khác trên trái đất. Theo nghĩa đó, phát triển bền vững còn được gọi theo cách khác là phát triển bình đẳng và cân đối, có nghĩa là để duy trì sự phát triển mãi mãi thì cần cân bằng lợi ích của các nhóm người trong cùng một thế hệ và giữa các thế hệ; điều đó cần phải được thực hiện đồng thời trên cả mọi lĩnh vực kinh tế, xã hội, môi trường, con người, văn hóa và thể chế. Như vậy phát triển bền vững chính là sự bình đẳng về cơ hội kiếm sống, làm giàu và tạo ra sự thịnh vượng; một trong những cơ sở của phát triển bền vững chính là xóa bỏ tình trạng nghèo đói cùng cực, vì bản thân nghèo đói sẽ cản trở phần lớn các mục tiêu phát triển khác kể từ mục tiêu môi trường trong lành đến việc đảm bảo các quyền của con người [Soubbotina 2005: 9; Tisné, M. 2010].

Phát triển bền vững còn là việc đảm bảo bình đẳng về thu nhập; trong nhiều nước có thu nhập cao, để đảm bảo thu nhập không quá bất bình đẳng, nhà nước thực hiện nhiều loại chính sách hỗ trợ khác nhau. Trong thực tế, nếu để xảy ra tình trạng quá bất bình đẳng thì điều đó sẽ tác động xấu đến chất lượng cuộc sống của người dân, làm tăng tỷ lệ nghèo đói, cản trở tiến bộ về y tế và giáo dục, góp phần làm gia tăng tình trạng tội phạm: i) bất bình đẳng cao làm giảm số người có khả năng tiếp cận với các nguồn lực như đất đai, hoặc giáo dục cần thiết cho việc giải phóng các tiềm năng sản xuất của con người; ii) bất bình đẳng cao đe dọa đến sự ổn định về chính trị của vùng, của quốc gia do sự bất mãn về tình trạng thấp kém về kinh tế, không thể có được đồng thuận về chính trị, làm tăng rủi ro cho các dự án đầu tư; iii) bất bình đẳng thu nhập cản trở việc thiết lập và tuân thủ các chuẩn mực hành vi cơ bản trong kinh tế, xã hội, môi trường, con người và văn hóa, làm tăng rủi ro kinh doanh, và chi phí thực thi hợp đồng cao sẽ cản trở tăng trưởng kinh tế; iv) bất bình đẳng cao sẽ hạn chế việc sử dụng các công cụ thị trường quan trọng, khó bình ổn giá cả, mức sống và làm tăng nguy cơ gây ra tình trạng nghèo khổ cùng cực cho bộ phận dân chúng nghèo nhất [Soubbotina 2005; Joshi, A. 2011; Tisné, M. 2010; World Bank 2004].

Tăng trưởng và phát triển bền vững có quan hệ hữu cơ với tình trạng đói nghèo. Trước hết nghèo được quan niệm là tình trạng bần cùng hóa về phúc lợi. Đó là sự thiếu thốn về vật chất, có mức thu nhập, mức sống và mức tiêu dùng thấp, điển hình nhất là tình trạng dinh dưỡng kém và điều kiện sống thiếu thốn. Nghèo thu nhập liên quan trực tiếp đến tình trạng nghèo về con người, đó chính là sức khỏe kém và trình độ giáo dục thấp, và cả hai đều là nguyên nhân và là hậu quả của mức thu nhập thấp. Chính cái vòng luẩn quẩn đó lại sinh ra tình trạng nghèo về xã hội như tính dễ bị tổn thương trước những sự kiện bất lợi như bệnh tật, khủng hoảng kinh tế, hoặc thiên tai; không có tiếng nói trong các thể chế xã hội và bất lực trong cải thiện điều kiện sống của cá nhân. Bên cạnh các vấn đề về tăng trưởng kinh tế và phân phối thu nhập, việc làm rõ khái niệm nghèo đói sẽ giúp xác định tăng cường khả năng tiếp cận công bằng hơn đối với các dịch vụ y tế và giáo dục cũng như sự phát triển của hệ thống an ninh xã hội [Soubbotina 2005; Joshi, A. 2011].

Tăng trưởng và phát triển bền vững cũng liên quan trực tiếp và gắn liền với các hoạt động giáo dục. Hầu hết nguồn vốn con người được tạo dựng thông qua giáo dục hoặc đào tạo để giúp tăng năng suất kinh tế của cá nhân, tạo điều kiện cho mọi người sản xuất ra các hàng hóa và dịch vụ ngày càng có giá trị hơn để nâng cao mức thu nhập cho bản thân và gia đình. Các chính phủ, các công ty và hộ gia đình đầu tư tiền bạc, của cải, công sức và thời gian vào giáo dục chính là đầu tư nhằm phát triển nguồn vốn con người nhằm tích lũy tri thức và kỹ năng. Các khoản đầu tư này sẽ đóng góp vào sự phát triển nhanh hơn và bền vững hơn của vùng và của đất nước. Những người được đào tạo và có kỹ năng thường có khả năng tạo ra nhiều sản phẩm có giá trị hơn và thường được trả lương cao hơn. Tuy nhiên lợi suất giáo dục cũng tùy thuộc vào các điều kiện khác nhau: i) trong trường hợp chất lượng giáo dục thấp hoặc kiến thức và kỹ năng có được ở trường không đáp ứng được nhu cầu thị trường thì vốn đầu tư vào con người đạt hiệu quả thấp và lợi suất mang lại cho cá nhân và xã hội thấp; ii) nhu cầu về vốn con người không đủ do tăng trưởng kinh tế thấp; trong trường hợp đó vốn con người có thể không được tận dụng hết và không được trả thù lao tương xứng; iii) người lao động có trình độ học vấn và kỹ năng cao nhưng bị trả lương thấp sẽ tạo ra tình trạng bất bình đẳng trong hưởng thụ tương xứng với năng lực và cũng góp phần cản trở quá trình sản xuất; iv) việc tăng nguồn vốn con người là yếu tố quan trọng để tăng quy mô và tốc độ phát triển kinh tế của vùng và quốc gia. Tuy nhiên việc đầu tư vào nguồn vốn con người mới chỉ là điều kiện cần chứ chưa phải là điều kiện đủ;  để có được tốc độ tăng trưởng nhanh và sự phát triển bền vững thì còn cần phải xây dựng được các chiến lược phát triển đúng đắn [Soubbotina 2005].

Tăng trưởng và phát triển bền vững còn liên quan trực tiếp và gắn liền với sức khỏe và tuổi thọ của con người. Sức khỏe và tuổi thọ của người dân một vùng cũng như một quốc gia thường được thể hiện thông qua hai chỉ số thống kê là tuổi thọ trung bình từ khi sinh và tỷ lệ tử vong của trẻ em dưới 5 tuổi. Tuổi thọ bình quân kể từ khi sinh cho biết số năm một đứa trẻ mới sinh sẽ sống được nếu các điều kiện y tế tại thời điểm sinh được duy trì không đổi trong suốt cuộc đời đứa trẻ đó; chỉ số này phản ánh được đặc trưng về các điều kiện y tế chung cả cả nước trong một năm nào đó. Tỷ lệ tử vong của trẻ dưới 5 tuổi cho biết số trẻ mới sinh có khả năng chết trước khi tròn 5 tuổi tính trên 1000 ca sinh. Vì trẻ sơ sinh và trẻ em là những đối tượng dễ bị tổn thương nhất đối với tình trạng thiếu dinh dưỡng và các điều kiện sinh hoạt kém vệ sinh nên đối tượng này thường chiếm tỷ lệ tử vong cao ở hầu hết các vùng và các nước kém phát triển. Vì vậy việc giảm số trẻ em tử vong dưới 5 tuổi được coi là cách hiệu quả nhất để tăng tuổi thọ bình quân từ khi sinh ở các nước đang phát triển [Soubbotina 2005].  

Ngân hàng Thế giới và quá trình công nghiệp hóa

Ban đầu nông nghiệp là ngành quan trọng nhất của một vùng kinh tế đang phát triển. Nhưng khi thu nhập bình quân đầu người tăng lên, nông nghiệp mất đi vị trí quan trọng hàng đầu để nhường chỗ cho công nghiệp và sau đó là dịch vụ. Đó được gọi là quá trình công nghiệp hóa và hậu công nghiệp hóa, và người ta còn gọi đó là quá trình “giảm công nghiệp hóa”. Khi thu nhập của người dân tăng lên, nhu cầu về lương thực đạt đến giới hạn tự nhiên và người ta bắt đầu cần đến các loại hàng hóa công nghiệp. Bên cạnh đó, nhờ có máy móc và kỹ thuật nông nghiệp mới nên năng suất trong lao động nông nghiệp tăng lên làm cho các sản phẩm nông nghiệp rẻ hơn và dần dần thu hẹp tỷ trọng trong tổng sản phẩm quốc nội GDP. Xu hướng tương tự trong năng suất lao động cũng làm giảm nhu cầu về nhân công trong ngành nông nghiệp, trong khi đó cơ hội việc làm trong ngành công nghiệp lại tăng lên. Kết quả là sản lượng của ngành công nghiệp vượt lên chiếm tỷ trọng lớn hơn trong GDP so với nông nghiệp và lao động trong ngành công nghiệp trở nên chiếm ưu thế [Tisné, M. 2010; World Bank 2004].

Hậu công nghiệp được quan niệm là giai đoạn đặc trưng bằng mức thu nhập vẫn tiếp tục tăng, nhu cầu của người dân ít phụ thuộc vào vật chất hơn và họ bắt đầu có nhu cầu cao hơn về dịch vụ - y tế, giáo dục, thông tin, giải trí, du lịch và nhiều lĩnh vực khác. Trong khi năng suất lao động của các ngành nông nghiệp và công nghiệp tăng nhanh thì năng suất của khu vực dịch vụ lại không thể tăng nhanh vì hầu hết công việc trong khu vực này không thể xử lý được bằng máy móc. Chính đặc trưng đó đã quyết định giá cả dịch vụ đắt hơn tương đối so với giá cả của các sản phẩm nông nghiệp và công nghiệp, và làm tăng tỷ trọng của dịch vụ trong GDP. Mức độ cơ giới hóa thấp hơn trong khu vực dịch vụ cũng cho thấy rõ là việc làm trong khu vực này tiếp tục tăng lên và ngược lại, việc làm trong khu vực công nghiệp và nông nghiệp lại giảm đi do những tiến bộ về công nghệ làm tăng năng suất lao động và làm giảm số lượng việc làm. Kết quả là khu vực dịch vụ thay thế các ngành công nghiệp và nông nghiệp trở thành ngành dẫn đầu của các nền kinh tế hiện đại [World Bank 2004].

Hầu hết các quốc gia có thu nhập cao và thu nhập trung bình đều đang trong quá trình hậu công nghiệp hóa, và ngày càng ít phụ thuộc vào công nghiệp. Trong khi đó nhiều nước có thu nhập thấp vẫn đang phấn đấu để công nghiệp hóa và ngày càng phụ thuộc nhiều vào công nghiệp. Nhưng ngay cả ở các nước đang tiến hành công nghiệp hóa thì khu vực dịch vụ cũng phát triển tương đối so với tổng thể của nền kinh tế. Tính đến cuối thập kỷ 90 của thế kỷ XX, khu vực dịch vụ đã đóng góp gần 2/3 GDP thế giới, trong khi đó vào những năm 80 thì chỉ chiếm 1/2. Cùng với dịch vụ, giai đoạn hậu công nghiệp còn mang một đặc trưng khác, đó là cuộc cách mạng tri thức. Trong khu vực dịch vụ, các ngành tăng trưởng nhanh nhất là các dịch vụ liên quan đến tri thức và thông tin, trong đó có giáo dục, nghiên cứu và triển khai, phát triển các phương tiện thông tin hiện đại như điện thoại, và Internet và các dịch vụ kinh doanh kèm theo. Đó chính là kết quả của cuộc cách mạng tri thức được bắt đầu vào nửa cuối của thế kỷ XX và ngày càng tăng tốc mạnh mẽ cùng với tiến bộ khoa học và các ứng dụng thực tế của chúng dưới dạng công nghệ mới cũng như các sản phẩm tiêu dùng mới. Đổi mới công nghệ thay thế cho đầu tư đã trở thành nguồn lực chính để tăng năng suất lao động. Đổi mới công nghệ cũng trở thành công cụ chính yếu trong cạnh tranh kinh tế trên thị trường thế giới và trở thành động lực quan trọng nhất trong tăng trưởng kinh tế. Vì vậy các nước đang phát triển luôn cố gắng cải thiện triển vọng kinh tế của mình không chỉ bằng cách nhắm vào nguồn đầu tư vốn vật chất, mà còn nhắm vào đầu tư trực tiếp cho nền tảng tri thức của mình, đó chính là đầu tư cho sáng tạo, tiếp thu, thích ứng, phổ biến và sử dụng các tri thức mới cho phát triển [Soubbotina 2005: 67-68].

Khu vực dịch vụ sản xuất ra hàng hóa vô hình, trong đó một số loại hàng hóa vẫn mang tính truyền thống như các dịch vụ của chính phủ, y tế, giáo dục; một số dịch vụ hoàn toàn mới và là trung tâm của quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế tri thức với thông tin liên lạc và các dịch vụ kinh doanh hiện đại. Sản xuất dịch vụ đòi hỏi tương đối ít nguồn vốn tự nhiên và cần nhiều nguồn vốn con người hơn so với sản xuất nông nghiệp và công nghiệp. Kết quả là cầu về lao động đã qua đào tạo tăng lên, thúc đẩy các nước đầu tư nhiều hơn cho giáo dục. Bên cạnh đó, do sử dụng ít vốn tài nguyên hơn các ngành khác nên dịch vụ sẽ tạo ít áp lực hơn lên môi trường địa phương, vùng, quốc gia và toàn cầu. Gìn giữ nguồn vốn tự nhiên và phát triển nguồn vốn con người sẽ giúp tăng cường tính bền vững trong quá trình phát triển. Cũng cần phải thừa nhận rằng tăng trưởng dịch vụ không thể thay thế hoàn toàn được cho tăng trưởng trong công nghiệp và nông nghiệp. Tuy nhiên nếu nhu cầu của người dân trên toàn cầu đang được đáp ứng bằng cách sử dụng nhiều tri thức với lượng lao động đã qua đào tạo và các công nghệ hữu ích, phù hợp với sản xuất và môi trường; ngược lại việc sử dụng nhiều máy móc, thiết bị và các quy trình công nghiệp gây thiệt hại cho môi trường, xã hội và con người ngày càng giảm đi. Đó chính là quy luật mới trong quá trình phát triển hướng đến bền vững [Joshi, A. 2011; World Bank 2004].
                     
Ứng dụng Lý thuyết vào Thực hành Phát triển Bền vững của Ngân hàng Thế giới

Ngoài ra Ngân hàng Thế giới còn coi hoạt động hành chính là đồng nghĩa với quản lý phát triển hiệu quả. Vì vậy Ngân hàng luôn gắn kết quản lý với tính hiệu quả bằng cách trực tiếp quan tâm đến hệ thống quản lý khu vực công và quản lý bằng khung pháp lý phát triển. Tuy nhiên để xác lập một khung phân tích cho việc định hướng các vấn đề quản lý, Ngân hàng đã ưu tiên tìm ra các khác biệt giữa các nhân tố quản lý tốt và các lĩnh vực hoạt động cụ thể, chẳng hạn như việc quản lý khu vực công, bằng cách thúc đẩy và hỗ trợ cho sự phát triển của khu vực này. Ngoài ra Ngân hàng cũng xác định bốn nhân tố cơ bản đảm bảo cho quản lý tốt là: i) trách nhiệm giải trình, ii) tham gia; iii) tính có thể dự báo, và iv) tính minh bạch [Joshi, A. 2011; Tisné, M. 2010]. 

Trách nhiệm giải trình

Trách nhiệm giải trình là có tính chất bắt buộc để làm cho các cán bộ nhà nước có thể trả lời được với chính phủ về hành vi và phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình trước một cơ quan chính phủ cụ thể. Giải trình trách nhiệm có thể có những cách thức thực thi khác nhau tại các quốc gia hoặc các cấu trúc chính trị khác nhau tuỳ thuộc vào lịch sử, môi trường văn hoá, và các hệ thống giá trị có liên quan. Các cơ chế sử dụng cho việc giải trình trách nhiệm có thể khác nhau tuỳ thuộc vào các loại giao kèo, hợp đồng hoặc cam kết trách nhiệm ở cấp độ hẹp; vào các cơ quan lập pháp được lựa chọn ở cấp độ rộng; còn ở cấp độ hẹp hơn thì là các uỷ ban tư vấn. Trách nhiệm giải trình cũng có nghĩa là việc xác lập các tiêu chuẩn để đo lường việc thực hiện trách nhiệm của các quan chức nhà nước, cũng như các cơ chế giám sát để đảm bảo rằng các chuẩn mực đó đều được tuân thủ. Phép thử rõ ràng nhất chính là xem các tác nhân khu vực tư nhân trong lĩnh vực kinh tế có sẵn các nguồn lực đơn giản và phản ứng nhanh nhạy đối với các hành động không công bằng hoặc không hoàn thành trách nhiệm được giao hay không. Thiếu trách nhiệm giải trình đúng lúc sẽ làm suy giảm lòng tin với tư cách là một bên đối tác, và sẽ góp phần làm sói mòn năng lực của chính phủ trong việc duy trì niềm tin lâu dài rất thiết yếu cho việc cổ vũ sự đầu tư của khu vực tư nhân. Nhìn nhận từ góc độ đó, trách nhiệm giải trình có thể giúp làm giảm thiểu tối đa các rủi ro. Trách nhiệm giải trình của các thể chế thuộc khu vực công được hỗ trợ bằng việc đánh giá hiệu suất kinh tế tài chính. Trách nhiệm giải trình trong lĩnh vực kinh tế liên quan đến tính hiệu quả của việc hoặc định và thực hiện chính sách, và tính hiệu quả trong việc sử dụng các nguồn lực. Trách nhiệm giải trình về phương diện tài chính bao gồm cả các hệ thống giải trình cho các hoạt động kiểm toán nội bộ và kiểm toán độc lập, cũng như cho các hoạt động kiểm soát chi tiêu [Isham, J., Kaufmann, D., & Pritchett, L. 1997]. 

Tham gia

Nguyên tắc tham gia xuất phát từ việc thừa nhận một thực tế là người dân là trung tâm của quá trình quản lý xã hội theo hướng phát triển. Họ không chỉ là nhứng người hưởng lợi của quá trình phát triển, mà còn là các tác nhân của phát triển. Về phương diện này, người dân hành động thông qua các nhóm hoặc các hội đoàn thể, chẳng hạn như nghiệp đoàn, phòng thương mại, các tổ chức phi chính phủ [NGOs], các đối tác hoạch định chính sách, các tư nhân, hộ gia đình, cộng đồng thông qua việc phản hồi các thông tin, suy tư, các mối quan tâm của họ thông qua các kênh hội đoàn hoặc các phương tiện truyền thông đại chúng chung cho phạm vi địa phương, vùng, hoặc quốc gia, và thông qua lá phiếu cử tri của họ trong mỗi kỳ bàu cử. Vì phát triển là sự nghiệp của người dân và vì người dân, nên người dân cần có điều kiện, khả năng và quyền tiếp cận với các thể chế liên quan, đặc biệt là thông qua các tổ chức chính trị, xã hội, đoàn thể, thông qua các kênh địa diện cho tiếng nói của người dân. Tham gia thường liên quan đến trách nhiệm giải trình, nhưng không phải lúc nào cũng như vậy. Ở một số cơ chế, trong đó người dân tham gia vào công việc của chính phủ thông qua quá trình bàu cử, trong đó các quan chức nhà nước thực sự phải thực hiện trách nhiệm giải trình với cử tri. Đối với tất cả các xã hội, lợi ích to lớn cách tiếp cận tham gia là hiển nhiên. Các cách tiếp cận này bao gồm hiệu suất và tính bền vững của các chính sách, các chương trình, dự án cũng như năng lực và kỹ năng của các bên liên quan. Ở cấp độ người dân, tham gia còn hàm nghĩa là các cơ cấu tổ chức của nhà nước cần phải linh hoạt nhằm mục đích tạo cơ hội cho người hưởng lợi và những người chịu tác động khác nhằm cải thiện việc thiệt kế và thực hiện các chương trình, dự án thuộc khu vực công. Điều đó giúp làm tăng quyền sở hữu và thúc đẩy đạt được các kết quả mong muốn. Ở một cấp độ khác, hiệu quả của các chính sách và thể chế tác động đến toàn thể xã hội có thể cầ phải có một sự hỗ trợ và hợp tác chặt chẽ của các tác nhân liên quan [Islam, R., & Montenegro, C. 2002; OECD 2005]. 

Ở mức độ nào đó, việc kết hợp giữa các cơ quan công cộng và khu vực tư nhân có lợi cho sự tham gia vào các hoạt động kinh tế - xã hội ở cấp địa phương, vùng và quốc gia, trong đó có cả đóng góp của khu vực tư nhân và khu vực công cộng. Sự tham gia của mọi tác nhân địa phương và vùng vào đời sống kinh tế - xã hội không chỉ giúp cải thiện vai trò của khu vực tư nhân, mà còn giúp cho các hoạt động của tất cả các hội đoàn thể quần chúng trong phạm vi địa phương và vùng. Đó chính là phát huy vai trò của các nhân tố xã hội dân sự vào quá trình cải thiện quản lý xã hội, và là những phương tiện thay thế cho việc khơi thông các nguồn năng lượng của xã hội dân sự. Các nhân tố này sẽ rất có ích cho việc xác định các quyền lợi của người dân; có ích cho việc huy động công luận vào việc hỗ trợ cho các mối quan tâm này; và cũng rất hữu ích cho việc tổ chức các hoạt động có liên quan. Bằng cách tiếp cận gần gũi với người dân, các NGOs có thể giúp chính phủ đưa người dân tham gia một cách sâu rộng ở cấp cộng đồng và góp phần phát triển cách tiếp cận từ cơ sở, thực sự đóng góp vào việc cải thiện hiệu quả quản lý xã hội [Joshi, A. 2011; World Bank 2004].

Khả năng dự báo

Khả năng dự báo gắn liền với i) sự tồn tại của các bộ luật, các quy định, các chính sách điều chỉnh xã hội; và ii) việc áp dụng một cách nhất quán, công bằng các bộ luật và các quy định đó. Thực sự không phải là phóng đại tầm quan trọng của khả năng dự báo khi nói rằng việc tổ chức công dân và các thể chế bằng một trật tự cứng nhắc là không thể. Quy tắc luật pháp bao gồm cả các quyền lợi và nghĩa vụ, cũng như các cơ chế cưỡng bách, các cơ chế giải quyết tranh chấp công bằng phải được định nghĩa một cách rõ ràng. Điều đó đòi hỏi các tổ chức nhà nước phải có nguyên tắc chặt chẽ, và việc trả lời cho khu vực tư nhân cũng cặn kẽ hệt như cho hệ thống luật pháp. Tầm quan trọng của các hệ thống quản lý xã hội hoạt động có nguyên tắc chặt chẽ là rất rõ ràng. Đó chính là thành tố thiết yếu của một môi trường xã hội mà các tác nhân kinh tế xây dựng các ké hoạch phát triển và đưa ra các quyết định đầu tư. Vì vậy ở chừng mực đó các khuôn khổ pháp luật phải đảm bảo i) đánh giá khoa học các rủi ro kinh tế - xã hội; ii) chi phí giao dịch thấp; và iii) chính phủ mở rộng hàng lang hoạt động cho xã hội dân sự trong các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội [Wilks A 2001; Van de Walle, S. 2005; Van de Walle, S. 2006]. 

Có một kịch bản ngược lại, việc ứng dụng một cách thiếu nhất quan các nguyên tắc tạo ra tính bất chắc và hạn chế khả năng sáng tạo của các khu vực tư nhân. Tính bất chắc cũng góp phần làm tăng chi phí vì nó làm tăng rủi ro cho các hoạt dodọng đầu tư. Bên cạnh các khuynh luật pháp và định chế, tính nhất quán của chính sách công cũng rất quan trọng. Các chính sách của chính phủ tác động trực tiếp đến khí hậu đầu tư và các tác nhân kinh tế cũng đòi hỏi việc đảm bảo một cáhc hợp lý các hành vi tương lai của các biến chủ chốt chẳng hạn như giá cả, tỷ giá hối đoái, và các cấp độ tạo việc làm. Tuy nhiên nhất quán không đồng nghĩa với cứng nhắc. Chính phủ trung ương và chính quyền địa phương cần phản ứng một cách linh hoạt đối với những biến đổi của hoàn cảnh và sửa sai ngay trong quá trình thực hiện khi cần thiết. Bên cạnh đó việc thay đổi nhân sự của chính phủ và chính quyền địa phương vẫn phải đảm bảo sự vận hành liên tục của các công việc hành chính, và người kế tục phải đảm bảo cho các chính sách công thể hiện được các ưu tiên đã được xác định. Trừ các tình huống như vậy thì tính nhất quán trong việc xác định các đường hướng lớn trong các chính sách của chính phủ là rất giá trị (với những sửa đổi hạn chế đến mức tối thiểu). Có thể thúc đẩy khả năng dự báo thông qua các cấu trúc thể chế, chẳng hạn như việc xây dựng các chi nhánh ngân hàng trung ương có thể dẫn đến khả năng dự báo về các chính sách tiền tệ và tỷ giá hối đoái. Nhiều cấp chính quyền phải đối mặt với những thách thức về khả năng cung ứng tiền trong khi theo đuổi các chính sách tài chính mở rộng nhằm điều chỉnh việc cung ứng tiền tệ trong việc khuyến khích đầu tư. Trong các tình huống như vậy, nếu chính sách tiền tệ quá dễ dãi thì sức ép lạm phát chắc chắn sẽ đè nặng lên vai nhà đầu tư, vì vậy mà làm thất bại chính mục tiêu của chính sách tài chính. Tại nhiều địa phương, thất bại trong quản lý tài chính có thể gây ra nhiều khó khăn bởi những cưỡng bức của các hành động cực chẳng đã trong lĩnh vực ngân hàng, tài chính. Việc tảo quyền tự quyết định cho ngân hàng trung ương là một cáhc mà chính phủ có thể báo hiệu cho các nhà đầu tư rằng chính sách kinh tế vĩ mô là đáng tin cậy và hợp lý [Wilks A 2001; Van de Walle, S. 2005; Van de Walle, S. 2006].

Tính minh bạch

Tính minh bạch liên quan đến mức độ sẵn sàng đáp ứng các nhu cầu thông tin của công chúng và tính chất rõ ràng của các nguyên tắc, quy định, và các quyết định của chính phủ. Vì vậy, tính minh bạch trong quản lý phát triển xã hội vừa bỏ sung lại vừa củng cố cho khả năng có thể dự báo. Khó khăn trong việc đảm bảo tính minh bạch là ở chỗ chỉ có nơi sản xuất và cung cấp thông tin mới có thể biết được về thông tin, và họ có thể hạn chế khả năng tiếp cận của người dân đối với thông tin. Vì vậy một trong những việc cần làm trong quản lý phát triển xã hội là đảm bảo cho người dân quyền được cung cấp thông tin theo đúng quy định của pháp luật. Việc tiếp cận đúng lúc và chính xác các nguồn thông tin về kinh tế - xã hội và các chính sách của chính phủ có thể có ý nghĩa sống còn đối với việc ra các quyết định của khu vực tư nhân. Nếu dựa trên cơ sở hiệu quả thì các dữ liệu như vậy cần phải cung cấp tự do và đầy đủ cho mọi tác nhân kinh tế [Joshi, A. 2011; Kim, P.S., Halligan, J., Cho, N., Oh, C. and Eikenberry, A. 2005; Tisné, M. 2010; World Bank 2004].

Tính minh bạch trong quá trình ra quyết định và thực hiện chính sách công của chính phủ sẽ làm giảm tính bất chắc và có thể giúp làm giảm tình trạng và mức độ tham nhũng của các cán bọ thuộc lĩnh vực công. Để đạt được mục đích này, cần phải có các nguyên tắc và quy trình đơn giản, rõ ràng và dễ ứng dụng. Tuy nhiên thì dù sao trong thực tế đôi khi cũng cần đặt ra những giới hạn về nguyên tắc tính minh bạch. Bằng cách làm như vậy có thể sẽ giúp cho việc phân biệt thông tin với tư cách là một loại hàng hoá khỏi thông tin với tư cách là một quá trình. Chẳng hạn  quyền sở hữu trí tuệ cần phải được bảo vệ để khuyến khích năng lực sáng tạo và đổi mới, nhưng việc ra quyết định về việc xác định quyền sở hữu trí tuệ cho người nào đó thì lại phải minh bạch [Wilks A 2001; ; Van de Walle, S. 2005; Van de Walle, S. 2006].  

Các mối liên kết giữa các yếu tố quản lý phát triển xã hội

Về phương diện nhận thức, 4 yếu tố quản lý phát triển xã hội đã xác định ở trên luôn có mối tương liên hỗ trợ và củng cố lẫn nhau. Trách nhiệm giải trình thường liên quan đến việc tham gia và cũng là sự đảm bảo tối hậu cho khả năng có thể dự báo và tính minh bạch. Nếu không thực hiện trách nhiệm giải trình đối với các nhóm xã hội chịu tác động thì quá trình ra quyết định của các cơ quan trung ương và chính quyền địa phương có thể đặt lợi ích của họ lên trên lợi ích của người dân. Tương tự như vậy, tính minh bạch và khả năng dễ dàng trong việc tiếp cận thông tin không thể được đảm bảo khi không có các khuôn khổ pháp lý cân bằng giữa quyền tiếp cận thông tin và quyền được đảm bảo bí mật thông tin, khi không có các thể chế chấp nhận trách nhiệm giải trình. Hơn nữa, tính có thể dự báo trong quá trình vận hành khung pháp lý sẽ rất thiết thực cho việc đảm bảo trách nhiệm giải trình của các thể chế công. Đồng thời khả năng có thể dự báo cũng đòi hỏi tính minh bạch, vì không có thông tin về lĩnh vực này thì khó mà đảm bảo được sự tuân thủ nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật. Cuối cùng, một hệ thống minh bạch sẽ tạo thuận lợi cho trách nhiệm giải trình của chính phủ, cho sự tham gia của người dân và cho khả năng có thể dự báo được các kết quả [Joshi, A. 2011; Kim, P.S., Halligan, J., Cho, N., Oh, C. and Eikenberry, A. 2005; Tisné, M. 2010; World Bank 2004].

Sử dụng các chỉ báo xã hội và Báo cáo Xã hội

Thành công trong việc nghiên cứu các chỉ báo xã hội và báo cáo xã hội thể hiện rõ trong những nỗ lực làm sáng tỏ quá trình sản xuất tri thức chuyên gia hoặc việc cung cấp tri thức kế hoạch hoá cụ thể cho các nhà hoạch định chính sách. Các ý tưởng sử dụng các chỉ báo xã hội và báo cáo xã hội để đóng góp cho việc duy lý hoá quá trình chính trị, để xác lập các mục tiêu và các ưu tiên, để đánh giá các chương trình chính trị, và để phát triển các hệ thống cảnh báo sớm đều chứng tỏ là quá tham vọng. Theo những gợi ý mới đây, có thể phân ra thành 5 cách sử dụng các chỉ báo xã hội liên quan đến chính sách, được coi là “các cách sử dụng loại hình học thứ bậc chịu trách nhiệm về các nhu cầu chính xác: mô tả, giám sát, xác lập các mục tiêu, trách nhiệm giải trình dựa vào kết quả, và đánh giá. Trong khi các chỉ báo xã hội và các báo cáo xã hội được sử dụng một cách thành công với tư cách là các công cụ mô tả và giám sát, thì việc ứng dụng và sử dụng cách chỉ báo đó lại vẫn chưa đầy đủ, nếu không nói là có vấn đề [Noll, Heinz-Herbert 2002; Joshi, A. 2011; Kim, P.S., Halligan, J., Cho, N., Oh, C. and Eikenberry, A. 2005; Tisné, M. 2010; World Bank 2004]. 

Minh bạch thông tin trong hoạch định chính sách

Trong các giai đoạn đầu sử dụng các chỉ báo xã hội và nghiên cứu chất lượng sống, tính chất phức tạp của các quá trình hoạch định chính sách đã không được đánh giá đầy đủ và mối tương liên của các thông tin kinh nghiệm chủ nghĩa về các biến đổi xã hội trong quá trình hành động chính trị đã được đánh giá một cách quá lạc quan. Lòng tin đặt vào một số chủ trương nghiên cứu các chỉ báo xã hội và xây dựng báo cáo xã hội là những thứ đã được đo lường, đã được thực hiện, đã tạo ra những khẩu hiệu bóng loáng, nhưng lại không phải là sự thật. Trong phần phân tích về việc sử dụng tri thức vào chính sách công, người ta đã kết luận rằng Thất bại là do quá phụ thuộc vào một cái nhìn đơn giản về vấn đề là trong điều kiện nào thì tri thức tác động đến chính sách, chứ không phải là tác động đến sự xung đột giữa các lĩnh vực tri thức và hành động công cộng [Ravi Kanbur 2002; Wade R. 2002; World Bank 2001; World Bank 2006; Joshi, A. 2011; Tisné, M. 2010]. Nhưng rõ ràng là một mô hình công cụ hoặc kỹ trị đề xuất một nhu cầu trực tiếp về phương diện chính trị đối với các thông tin khoa học để giải quyết các vấn đề chính sách lại không cung cấp cho chúng ta một quan niệm thích hợp về mối liên kết này. Có vẻ như một mô hình soi sáng, theo đó khoa học xã hội có vẻ gắn kết một cách gián tiếp với chính trị học, thì có vẻ thực tiễn hơn. Về phương diện này thì hệ quả tất yếu là việc nghiên cứu các chỉ báo xã hội và xây dựng báo cáo xã hội được coi là một chức năng vừa ít tham vọng lại vừa không trực tiếp như là một nhà cung cấp thông tin. Việc xây dựng báo cáo xã hội thuộc vào hạ tầng dân chủ và có một chức năng chính trị đặc biệt. Nói một cách đơn giản, xây dựng báo cáo xã hội chính là việc đặt các vấn đề phúc lợi vào các chương trình nghị sự chính trị. Nó cung cấp thông tin cho các cuộc tranh luận công cộng bằng cách tác động đến truyền thông đại chúng, và gián tiếp đến hệ thống quản lý xã hội. Nếu phân thành ba cách tác động đến chính sách công – xác định vấn đề, lựa chọn chính sách, và giám sát chương trình  thì vai trò của việc xây dựng báo cáo xã hội rõ ràng tập trung vào “xác định vấn đề”, tức là vào việc xác định các vấn đề mới hoặc thách thức và làm thay đổi các định nghĩa hiện có về các vấn đề [Joshi, A. 2011; Kim, P.S., Halligan, J., Cho, N., Oh, C. and Eikenberry, A. 2005; Tisné, M. 2010; World Bank 2004].

Tăng cường sử dụng các chỉ báo vào hoạch định chính sách

Đã có một số bằng chứng cho thấy rằng các loại chỉ báo xã hội và các loại chỉ báo khác ngày càng được sử dụng làm các công cụ cho việc hoặc định chính sách. Khuynh hướng này trở nên rõ ràng nhất ở cấp độ các thể chế châu Âu, mà ở đó việc sử dụng các chỉ báo và nghiên cứu chất lượng sống đã trở thành một bộ phận của các quá trình hoạch định chính sách và đã đạt được rất nhiều tiến bộ. Đặc biệt là Hội đồng châu Âu đã chấp nhận mục tiêu chiến lược là châu Âu sẽ trở thành một nền kinh tế dựa trên cơ sở tri thức năng động và cạnh tranh nhất trên thế giới, có năng lực tăng trưởng kinh tế bền vững, có khả năng tạo ra nhiều việc làm hơn và việc làm tốt hơn, mức độ cố kết xã hội ngày càng cao hơn”, một số sáng kiến liên quan đến chỉ báo đã được đề xuất. Các chỉ báo được xây dựng và nhất trí về phương diện chính trị sẽ được sử dụng để giám sát tiến độ đạt được các mục tiêu chủ chốt của Hội đồng châu Âu tại Lisbon, bao gồm cả việc làm, phát triển bền vững, cố kết xã hội và cam kết tham gia [Isham, J., Kaufmann, D., & Pritchett, L. 1997; Islam, R., & Montenegro, C. 2002; OECD 2005].
____________________________________

Tài liệu tham khảo

Isham, J., Kaufmann, D., & Pritchett, L. 1997. Civil Liberties, Democracy, and the Performance of Government Projects. The World Bank Economic Review, 11(2), 219-242.

Islam, R., & Montenegro, C. 2002. What Determines the Quality of Institutions? (Working Paper): The World Bank.

Joshi, A. 2011. Review of Impact and Effectiveness of Transparency and Accountability Initiatives: Annex 1 Service Delivery, prepared for the Transparency and Accountability Initiative Workshop October 2010.

Kaufmann, D., Kraay, A., & Mastruzzi, M. 2006. Governance Matters V: Aggregate and
Individual Governance Indicators for 1996-2005. World Bank.

Kim, P.S., Halligan, J., Cho, N., Oh, C. and Eikenberry, A. 2005. Towards Participatory and Transparent Governance, Report on the Sixth Global Forum on Reinventing Government', Public Administration Review 65 (6): 646-654.

OECD 2005. Modernising Governance: The Way Forward. Paris, OECD

Ravi Kanbur 2002. International Financial Institutions and International Public Goods: Operational Implications for the World Bank. G-24 Discussion Paper Series, United Nations Conference on Trade and Development United Nations Center for International Development, Harvard University.

Soubbotina, Tatyana 2005. Không chỉ là tăng trưởng kinh tế - Nhập môn về Phát triển bền vững. Xuất bản lần thứ hai (Sách tham khảo). Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin. Hà Nội.

Tisné, M. 2010. Transparency, Participation and Accountability: Definitions, Background Note for Transparency and Accountability Initiative, Institute of Development Studies.

Treisman, D. 2000. Decentralization and the Quality of Government. (Working Paper):
UCLA. United Nation (n.d.).

Van de Walle, S. 2005. Measuring Bureaucratic Quality in Governance Indicators. Paper presented at the EGPA Annual Conferences, Study Group on Productivity and Quality in the Public Sector.

Van de Walle, S. 2006. The State of the World’s Bureaucracies. Journal of Comparative Policy Analysis, 8 (4), 437-448.

Wade R. 2002. US hegemony and the World Bank: The fight over people and ideas, Review of International Political Economy.

Wilks A 2001. Development Through the Looking Glass: the World Bank in Cyberspace, Paper prepared for the 6th Oxford Conference on Education and Development, Knowledge Values And Policy, September.

World Bank 2004. World Development Report 2004: Making Services Work for Poor People, Washington DC: World Bank.

World Bank 2006. World Bank List of Economies [Electronic Version].

World Bank 2001. Annual Report 2001, Worldbank.org/annualreport/2001/wbar2001.htm.