Tiền sử Việt Nam (VII)
Người viết: Hà Hữu Nga
Theo đặt hàng của GS. Phan Huy Lê (2005)
Lưu ý đầu trang: Đây là
bản draft đầu tiên tôi [Hà Hữu Nga] viết theo đặt hàng của GS. Phan Huy Lê,
dưới sự hướng dẫn của GS. Trần Quốc Vượng. Vì vậy xin có ba lưu ý quan trọng:
1. Bản draft này được lưu ở
đây với tư cách cá nhân và là bản draft chưa được chỉnh sửa.
2. Mọi hình thức sử dụng như: sao
chép, trích dẫn v.v…là không hợp lệ.
3.Vì GS. Trần Quốc Vượng ốm nặng
và mất trước khi đọc bản draft này vào năm 2005 nên mọi sai sót có trong draft
đều thuộc về người viết; nhiều quan điểm trong bài viết không chắc đã được GS.
Trần Quốc Vượng đồng ý.
3.5. Quá trình hình thành Nhà nước sơ khai ở Việt Nam và Đông Nam Á
Trong số các lý thuyết nghiên cứu quá trình phát triển tổ chức xã hội tiền
sử có lẽ không lý thuyết nào đưa ra được một mô hình rõ ràng bằng mô hình phát
triển nhóm - bộ lạc - thủ lĩnh địa - nhà nước do các nhà nhân học Mỹ đề
xuất từ giữa thế kỷ XX. Tuy nhiên khi áp dụng vào lý giải quá trình hình thành
nhà nước tại khu vực Đông Nam Á, lý thuyết này đã bộc lộ nhiều hạn chế. Đối với
các nhà tiền sử học phương Tây thì các hạn chế liên quan đến mô hình ấy được họ
cho là i) hầu hết các công trình nghiên cứu tiền sử Đông Nam Á không được thực
hiện theo khuôn khổ khảo cổ học nhân học Mỹ [Taylor, Keith W. 1992] (1);
ii) còn thiếu các dữ liệu khảo cổ học, và có rất ít các bằng chứng khảo cổ học
trực tiếp về giai đoạn tiền nhà nước của khu vực này từ 200 năm trước CN đến
800 năm sau CN; iii) các dữ liệu đã có thì lộn xộn, không thống nhất với các dữ
liệu của các khu vực khác trên thế giới, vì vậy không thể so sánh được
[Bentley, G. Carter 1986]; iv) việc áp dụng các mô hình tiến hóa vào khu vực
này tỏ ra không mấy thành công. Hơn nữa không thể cố ép các xã hội tiền nhà
nước vào khuôn khổ mô hình thủ lĩnh địa và các mô hình tiến hóa khác [Wisseman
C. Jan 1992] (3). Trong khi đó khái niệm “thủ lĩnh địa” lại chính là
một mô hình đề xuất về tính chất tập trung của ba biến số: “kiểm soát kinh tế,
tiềm lực quân sự, và sự chính thống hóa lễ thức” trong “các xã hội trung gian
đó” [Earle, Timothy, ed. 1991]. Một vấn đề cơ bản trong việc nghiên cứu quá
trình hình thành của nhà nước là người ta không đưa ra được một định nghĩa
thống nhất về thủ lĩnh địa là gì, và ngay cả việc coi những thực thể chính trị
như thế nào là nhà nước cũng vẫn còn cần phải tranh luận. Theo họ, “Nhiều thực
thể được dán nhãn “nhà nước sớm” như Angkor cũng mới chỉ có những đặc tính của
các thực thể giống-thủ lĩnh địa - hoặc thậm chí là bộ tộc, nhất là ở quyền thừa
kế không thể chế hóa, và người ta thường dựa vào tư cách ân uy của thủ lĩnh”
[White C. Joyce. 1995].
Mặt khác, các đặc trưng giống-thủ lĩnh địa là “tính chất phân hóa thứ bậc
xã hội đã rõ ràng”, trong đó các “thủ lĩnh đã tăng cường việc kiểm soát việc
phân phối các hàng hóa uy tín trong vùng, cho các cộng đồng phụ thuộc vào xã
hội của ông ta” [Wolter, O. W. 1982]. Có một thực thể nào đó giống-thủ lĩnh địa
đã phát triển ở đây từ giữa đến cuối thiên niên kỷ I trước CN dựa vào sự xuất
hiện của các phân cấp cư trú trong vùng [Higham, Charles F. W. 1989]. Tuy nhiên
bằng chứng về các mối tương liên thủ lĩnh địa như chiến tranh, kế thừa bền vững
cấp bậc xã hội, sự thống nhất về hệ tư tưởng, hoặc sự kiểm soát kinh tế của
giới tinh hoa vẫn chưa hề rõ ràng. Bằng chứng chắc chắn về quyền lực chính trị
tập trung hoặc sự chuyển đổi trong phân tầng xã hội với khả năng tiếp cận khác
nhau đối với các nguồn chiến lược cũng chưa thấy có. Các nhà nhân học Mỹ cho
rằng việc nghiên cứu các xã hội phức hợp Đông Nam Á lâu nay chỉ tập trung vào
các cấu trúc thứ bậc giữa thượng tầng và hạ tầng xã hội [Welch, David and
Rudith R. McNeill 1991]. Vì vậy cần phải có một khái niệm trung tâm dùng để
thảo luận về quá trình xuất hiện nhà nước trong khu vực này.
Trong khi đó cách tiếp cận của Earle về quyền lực, sự thống trị, phân tầng
xã hội, việc kiểm soát các nguồn, các lưu vực sông, kiểm soát trao đổi hàng hóa
uy tín, chiến tranh, phụ thuộc, trung tâm, giới tinh hoa, và ân uy của thủ
lĩnh...vv lại quá tập trung vào mối quan hệ theo chiều dọc (thứ bậc). Các vấn
đề phức tạp như vậy được các nhà nghiên cứu cho là có thật và quan trọng, nhưng
cách tiếp cận các vấn đề đó thì lại đơn tuyến. Và các nhà nhân học Mỹ đã đề
xuất khái niệm thay thế, đó là lý thuyết mạng để giải quyết vấn đề này. Họ cho
rằng các yếu tố then chốt của lý thuyết mạng phải là một cấu trúc thứ bậc linh
họat và sự phân hóa xã hội theo bình tuyến hoặc phân cấp bên. Trong số các nhà
nhân học phương Tây, Joyce White là người tiên phong dùng mô hình mạng để lý
giải tiền sử Đông Nam Á, cho dù trước bà 13 năm mô hình này đã được đề xuất ở
Việt Nam và vẫn được áp dụng cho đến bây giờ [Hà Hữu Nga 1982]. Bà cho rằng quá
trình phát triển xã hội tại vùng trung tâm Đông Nam Á lục địa chí ít từ thiên
niên kỷ II trước CN có những đặc trưng nổi bật và bền vững như sau: i) đa
nguyên văn hóa; ii) các nền kinh tế bản địa được đặc trưng bởi: ii.a. các đơn
vị sản xuất dựa trên cơ sở hộ, ii.b. sự chuyên môn hóa kinh tế dựa trên cơ sở
cộng đồng, ii.c. các cơ chế phân phối sản phẩm mang tính cạnh tranh, đa trung
tâm và trùng lặp, không có độc quyền của một trung tâm duy nhất; iii) hệ thống
vị thế xã hội linh động trong thực tiễn và bao gồm cả sự thành đạt cá nhân; iv)
các chiến lược giải quyết xung đột và tập trung quyền lực chính trị có khuynh
hướng hình thành các liên minh bằng cách hợp tác - cạnh tranh ở trung tâm, và
tái thỏa thuận định kỳ (trong khi đó chiến tranh, kiểm soát, chinh phục, hoặc
các hành vi bạo lực khác chỉ là thứ yếu). Từ đó, White đã đưa ra mô hình phát
triển xã hội Đông Nam Á như sau: i) địa phương hóa văn hóa vật chất một cách rõ
ràng; ii) sự phát triển của các cộng đồng thủ công chuyên môn hóa; iii) tính
chất cá nhân thể hiện rõ trong việc xử lý một số ngôi mộ khác thường chiểu theo
các lễ thức mang tính cá nhân, căn cứ vào các vai trò kinh tế và/hoặc xã hội;
rất hiếm có bằng chứng về chiến tranh hoặc bạo lực có tổ chức. Joyce White coi
mô hình này là một mô hình mạng, vì nó nhấn vào tính chất linh động trong việc
xác định vị thế, trong các mối quan hệ chính trị và việc phân hóa bên về phương
diện kinh tế và xã hội [White C. Joyce 1995].
Trước hết có thể nói rằng White đã đúng khi phê phán cách tiếp cận tiến hóa
đơn tuyến nhóm - bộ lạc - thủ lĩnh địa - nhà nước và áp dụng lý thuyết mạng vào
việc nghiên cứu quá trình xuất hiện nhà nước tại Đông Nam Á, bởi vì ở khu vực
này sự phân hóa xã hội không rõ ràng, đặc biệt không có phân hóa bền vững theo
chiều dọc [Trần Quốc Vượng 1974, 1993, 1996, 2000]. Tuy nhiên việc bà sử dụng nghiên
cứu trường hợp lưu vực sông Mun Chi (Thái Lan) làm “vùng hạch” để khái quát cho
toàn bộ vấn đề xuất hiện nhà nước sớm ở Đông Nam Á thì lại là một sai lầm về
phương pháp luận, vì Đông Nam Á chỉ là một tên gọi do người phương Tây đặt ra
cho một khu vực địa lý rộng lớn. Đó không phải là một thực thể đơn nhất về kinh
tế, văn hóa, xã hội, và chính trị, vì vậy không thể coi Thái Lan là đại diện
cho toàn bộ sự phát triển của Đông Nam Á được. Sai lầm thứ hai của White có lẽ
còn lớn hơn khi bà cho rằng khó mà tập trung được cả ba biến số mà Earle đưa
ra: “kiểm soát kinh tế, năng lực quân sự, và sự chính thống hóa lễ thức” trong
“các xã hội trung gian” trên con đường tiến tới hình thành nhà nước. “Trong khi
đó việc kiểm soát kinh tế và năng lực quân sự lại không nhất thiết là vấn đề
trung tâm đối với các xã hội nhà nước sớm trong khu vực này” [White C. Joyce
1995].
Việc Earle và các nhà nghiên cứu phương Tây sử dụng khái niệm “chính thống
hóa lễ thức” thay thế cho khái niệm chính trị học hiện đại “thể chế” là một cố
gắng thích nghi ngôn ngữ sử dụng để mô tả xã hội tiền sử Đông Nam Á. Tuy nhiên
thực chất của chính thống hóa lễ thức chính là quá trình xây dựng thể chế, và
đó chính là xây dựng cấu trúc thượng tầng xã hội. Nói cách khác, đó là hình hài
của một nhà nước sơ khai. Về phương diện này cách tiếp cận của Earle là duy
vật, mạch lạc và hoàn toàn chính xác. Trong khi đó White đã sai ở chỗ là tuy sử
dụng mô hình mạng, nhưng về phương diện tri thức luận bà vẫn hoàn toàn tư duy
theo lối đơn tuyến. Các thể chế, hay nói khác đi, những hình thức của nhà nước
chỉ xuất hiện trên cơ sở một nhóm người đã có khả năng kiểm soát, và trên thực
tế đã thực thi việc kiểm soát kinh tế. Và việc kiểm soát đó phải là trung tâm
của vấn đề.
White đã đan một tấm lưới tri thức để đánh bắt con cá của vấn đề hình thành
nhà nước sơ khai. Thế nhưng bà lại cắt bỏ cái rốn của tấm lưới, vì cho rằng sự
kiểm soát kinh tế ấy “không nhất thiết phải là vấn đề trung tâm”. Trong khi đó,
bất cứ quá trình hình thành nhà nước nào cũng gắn liền với việc chinh phục các
cộng đồng khác và/hoặc chống lại sự chinh phục của các cộng đồng khác. Về khía
cạnh này, chiến tranh đã trở thành một thuộc tính của quá trình hình thành nhà
nước. Bằng sự phù phép của White, “năng lực quân sự” cũng lại “không nhất thiết
là vấn đề trung tâm đối với các xã hội nhà nước sớm trong khu vực này”. Thiện
chí ca ngợi người Thái của White là đáng trân trọng và không thể chối cãi, vì ở
phương Tây, nước Mỹ của bà đã có “Pax america” – Hòa bình kiểu Mỹ; ở Đông Á đã
có “Pax japona” - Hòa bình kiểu Nhật; thì ở Đông Nam Á cũng phải có một “Pax
thailanda” - hòa bình kiểu Thái. Nhưng trên thực tế không một nền hòa bình nào
không xây dựng nhà nước của nó dựa trên sức mạnh kinh tế và tiềm lực quân sự.
Quên đi hay cố tình bỏ qua tất cả những vấn đề cốt yếu đó, White đã nhấn mạnh
đặc biệt vào quá trình hình thành nhà nước ở Đông Nam Á lục địa thông qua các
hệ thống liên minh chính trị – xã hội để cấu tạo nên bóng dáng của một Đông Nam
Á cần được bảo trợ. Bà khẳng định rằng “các hệ thống chính trị lịch sử tộc
thuộc và lịch sử ở Đông Nam Á cũng bộc lộ những yếu tố chung trong việc nhấn
mạnh vào tính linh động và sự hình thành liên minh” [White C. Joyce 1995]. Bà
lấy người khác để nói hộ mình “điều có tính chất quyết định cho sự thành công
của các thủ lĩnh là thể hiện tài năng ngoại giao thông qua việc duy trì các mối
quan hệ liên cá nhân” [Wolter, O. W. 1982, 17-18], hoặc “đàm phán hòa bình hoặc
trao đổi bằng thương mại” [Hall, Keneth R. 1985] “mặc dù đã có nhiều
cuộc chiến tranh được ghi chép lại, nhưng các sử gia không coi đó là hành động có
tổ chức chính yếu đối với các thủ lĩnh giai đoạn sớm” [Wolter, O. W. 1982,
17-18], và “chí ít thì sự lãnh đạo hòa bình và việc xây dựng liên minh cũng
luôn luôn được nhấn mạnh” [Hall, K. R. 1985].
Dường như White và hầu hết các nhà nghiên cứu phương Tây đều có chung một
lối nhìn mập mờ đối với quá trình hình thành nhà nước sớm ở khu vực Đông Nam Á
lục địa. Theo họ, đó là một quá trình hướng tâm vào phong cách ân uy của vị thủ
lĩnh, nó đối lập với thực chất ly tâm giữa nhà nước và dân chúng [White C.
Joyce 1995]. Dân chúng bị thu hút về phía các thủ lĩnh và hướng về trung tâm
nên đã tạo ra một sự thống trị mở rộng hoặc một tình thế bức bách mở rộng lãnh
thổ [Wisseman C. Jan 1985]. Và hệ quả tất yếu của động thái hướng tâm của dân
chúng đối với nhà nước là ở chỗ nhà nước không chú trọng kiểm soát lãnh thổ
bằng việc kiểm soát lao động, vì vậy mà nhà nước tập trung vào việc kiểm soát
con người. “Cuộc chiến để kiểm soát con người được thực hiện bằng cách hình
thành các liên minh chính trị với giới điền chủ địa phương. Và đây mới là mối
bận tâm chính yếu của những người cai trị” [Hall, Keneth R. 1985]. Tuy nhiên
White cũng đã có một lập trường rõ ràng khi đồng ý với Aung-Thwin rằng “mật độ
dân số thấp luôn luôn là một vấn đề của các nhà nước Đông Nam Á. Việc xây dựng
mối quan hệ thần thuộc tạo cơ sở cho việc tuyển dụng lao động chứ không phải là
việc xác định các mối quan hệ vị thế trong phân tầng xã hội. Các thủ lĩnh lôi
cuốn những người đi theo, thậm chí là toàn bộ cả một vùng bằng cách đảm bảo an
ninh, ban cấp đất, ban thưởng tước vị, che chở và cho quyền được tiếp cận với
nguồn nước nhằm tạo cơ hội khuyếch trương ảnh hưởng đối với dân chúng. Trong
bối cảnh đó, các khái niệm ‘nô lệ’ hay ‘nông nô’ mà sử sách vẫn nói chính là
những loại thần thuộc được bảo trợ” [Aung-Thwin M. 1985].
Đằng sau động thái nghiên cứu lịch sử hình thành nhà nước ở khu vực Đông
Nam Á, các nhà nhân học phương Tây muốn nói một điều là trước khi du nhập ảnh
hưởng Ấn Độ và Trung Quốc, vùng này vẫn nguyên vẹn là một xã hội không có lịch
sử. Nhưng có lẽ đó cũng không phải là một ẩn ý, vì qua Wheatley, White đã phát
biểu một cách không hề dấu giếm rằng: các nhà nước ở miền Bắc Việt Nam được
Trung Quốc áp đặt [Wheatley, Paul 1979; White C. Joyce 1995]. Ngày nay, trong
trào lưu của nền kinh tế tri thức, nhiều khía cạnh lý thuyết về vấn đề nhà nước
đã được bổ sung hoặc được làm rõ thêm, trong đó có vấn đề về mối quan hệ giữa
hạ tầng cơ sở và thượng tầng kiến trúc. Trước đây trong lý luận về nhà nước
người ta không đề cập đến loại hình sản xuất tri thức và thông tin. Người ta cố
gắng đối lập tuyệt đối hạ tầng cơ sở và thượng tầng kiến trúc để chứng minh cho
sự vận động biện chứng của các loại hình nhà nước. Giờ đây vấn đề này đã được
làm sáng tỏ, và thậm chí người ta còn đưa ra khái niệm nhà nước điện tử. Nhà
nước điện tử là một loại hình nhà nước lấy sản xuất thông tin làm phương thức
tồn tại của mình. Trong xã hội tiền sử Việt Nam đã có một hình thức nhà nước
tồn tại dựa vào phương thức này. Đó chính là nhà nước Đông Sơn của người Việt
cổ. Việc sản xuất ra hệ thống biểu tượng chính là một hình thức sản xuất thông
tin tiền sử [Hà Hữu Nga 2004, 117 - 139]. Trống đồng là sản phẩm của một nền
kinh tế biểu tượng, và bản thân nó là một biểu tượng quyền lực tập trung của
các thế lực kiểm soát xã hội về kinh tế, tiềm năng quân sự, và tạo dựng thể
chế. Chính chức năng sản xuất biểu tượng đã làm cho mối quan hệ giữa thượng
tầng kiến trúc và hạ tầng cơ sở trở nên liên tục, không có gián đoạn. Và như
vậy bản thân nhà nước cũng có chức năng sản xuất, chứ không phải là một cơ thể
ăn bám xã hội. Phương thức sản xuất của nhà nước chính là sản xuất ra các chính
sách, các quyết định, nó góp phần điều chỉnh hợp lý các nguồn tài nguyên trong
xã hội. Không có phương thức sản xuất đó xã hội không thể tồn tại, vận hành và
phát triển được. Vì vậy việc nghiên cứu quá trình hình thành nhà nước ở Việt
Nam và Đông Nam Á cần có một định nghĩa mới về nhà nước. Chỉ có như vậy thì
việc nghiên cứu nền văn minh Đông Sơn của người Việt cổ mới có được đầy đủ ý
nghĩa.
___________________________________
Tài liệu Tham khảo
Aung-Thwin, Michael 1985. Pagan: the
Origins of Modern Burma. Honolulu: University of Hawaii Press., p. 87.
Bellwood P. 1997. Prehistory of the
Indo-Malaysian Archipelago. 2nd Edition. Honolulu: University of Hawaii
Press.
Bentley, G. Carter 1986. Indigenous
States of Southeast Asia. Annual Review of Anthropology 15: 275 – 305.
Bowler, Sandra 2001. Nguồn gốc Châu á Khảo cổ học và Nhân học, trong
Bức khảm văn hoá Châu á - Tiếp cận Nhân học (Grant Evans chủ biên), bản
tiếng Việt, do Cao Xuân Phổ dịch, Nhà xuất bản Văn hoá Dân tộc, Hà Nội 2001.
Trang 51.
Bùi Vinh 1993. Khai quật di chỉ Làng Còng (Thanh Hoá) – 1992. Trong Những
phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1992, Hà Nội, trang 50 -51.
Bùi Vinh 2003. Cư dân văn hoá Đa Bút trong các đợt biển tiến (Nhận thức
qua tư liệu Địa - Khảo cổ học ở Làng Còng và Hang Sáo). Tạp chí Khảo cổ
học, số 2 (122) (III-IV), trang 3-15.
Chử Văn Tần 1976. Tìm hiểu quá khứ xa
xưa của Tây Bắc. Khảo cổ học, số
18-1976, trang 40-53.
Ciochon R.L, 1988. Gigantopithecus the King of all apes. Animal Kingdom,
Vol. 91, No. 2, 1988.
Colani, M. 1928. Notice sur la préhistoire du Tonkin, BSGI, vol. XVIIIV, 1, pp. 71-72.
Diệp Đình Hoa 1978: Về những hiện vật
kim loại ở buổi đầu thời đại đồ đồng thau Việt Nam, Tạp chí Khảo cổ học số 2, trang 11-20.
Donald, M. 1991. Origins of the Modern Mind: Three Stages in the Evolution of Culture and
Cognition. Cambridge, MA: Harvard University Press.
Đào Qúi Cảnh 2004. Vấn đề nông nghiệp trong văn hoá Hoà Bình ở Việt Nam.
Trong Một thế kỷ Khảo cổ học Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà
Nội. Trang 64.
Đào Thế Tuấn 1988. trang 44. Về những hạt gạo cháy phát hiện ở
Đồng Đậu (Vĩnh Phú) năm 1984. Tạp chí Khảo cổ học, số 4, trang 44-46.
Earle, Timothy, ed. 1991. Chiefdom:
Power, Economy and Ideology. New York: Cambridge University Press.
Eblen, Ruth A. and William R. Eblen, Editors 1994. The Encyclopedia of
the Environment. The René Dubos Center for Human Environments. Huston
Mifflin Company, Boston New York 1994. p. 4.
Eisler R. 1987. The Chalice and The Blade: Our History, Our Future.
New York, Harper & Row, 1987.
Gardner, H. 1997. Thinking about thinking. New York Review of Books.
9-10-1997.
Gorman C.E. 1970. Excavations at Spirit Cave, North Thailand: some
interim interpretations. Asian Perspectives 13: 79-107.
Gorman C.E. 1971. The Hoabinhian and after: subsistence patterns in
Southeast Asia during the late Pleistocene and early Recent periods. World
Archaeology 2 (3): 300 – 320.
Grenier, Louise 1998. Working with Indigenous Knowledge, a Guide for
Researchers. International Development Research Centre, Ottawa,
Canada. pp. 1-9.
Hà Hữu Nga 1982. Thời đại đá mới Việt
Nam: Môi trường – Văn hóa và một mô hình tổng quát. Trong Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 1982.
Hà Nội.
Hà Hữu Nga, Nguyễn Cường, và Bùi Vinh 1996. Báo cáo Khai quật di chỉ Mai
Pha (Lạng Sơn). Tư liệu Viện Khảo cổ học.
Hà Hữu Nga 1998. Có một nền văn hoá Soi Nhụ tại khu vực vịnh Hạ Long.
Kỷ yếu Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 1997. Hà Nội 1998, trang
91.
Hà Hữu Nga, Nguyễn Văn Hảo 1999. Hạ Long thời tiền sử. Nhà xuất bản
Thế giới, Hà Nội 1999.
Hà Hữu Nga 2000. Soi Nhụ – Nền văn hoá cổ nhất hiện biết trên vịnh Hạ
Long. Hội thảo Vịnh Hạ Long 5 năm di sản Thế giới, do UBND Tỉnh Quảng
Ninh – Bộ Văn hoá Thông tin và Uỷ ban UNESCO Việt Nam tổ chức, Hạ Long 4-2000,
trang 72-80.
Hà Hữu Nga 2004. Khảo cổ học Đông Bắc Việt Nam từ những hệ thống sinh
thái nhân văn tới các cấu trúc xã hội tiền nhà nước. Trong Một thế kỷ
Khảo cổ học Việt Nam, Tập I, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, năm 2004. Trang
117-139.
Hà Văn Tấn 1962. Về vấn đề người Indonesian và loại hình Indonesian
trong thời đại nguyên thuỷ Việt Nam. Thông báo Khoa học Đại học Tổng hợp,
Sử học I, trang 168 – 202.
Hà Văn Tấn 1976. Nguồn gốc văn hóa
Phùng Nguyên và vấn đề Tiền Việt Mường (một giả thiết công tác mới).
Hà Văn Tấn 1982. Từ Bàu Tró đến Sa
Huỳnh. Trong Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1980, Hà Nội,
trang 142-144.
Hà Văn Tấn 1984. Lớp dăm đá vôi ở Ngườm với khí hậu cuối Pleistocene ở
Đông Nam á. Kỷ yếu Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1984,
trang 18-20.
Hà Văn Tấn 1986. Kỹ nghệ Ngườm trong một phối cảnh rộng hơn. Tạp chí
Khảo cổ học, số 3, 1986, trang 3-10.
Hà Văn Tấn (chủ biên) 1998. Khảo cổ
học Việt Nam. Tập I. Thời đại đá Việt
Nam. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội. Trang 76.
Hà Văn Tấn (chủ biên) 1999. Khảo cổ học Việt Nam. Tập II. Thời đại kim khí Việt Nam.
Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội.
Hà Văn Tấn, Nguyễn Xuân Mạnh,...1985. Khai
quật lần thứ hai di chỉ Thành Dền (Hà Nội), trong Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 1984, trang 95.
Hà Văn Tấn (chủ biên) 1998. Khảo cổ
học Việt Nam. Tập I. Thời đại đá Việt
Nam. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội. Trang 60 – 63.
Hà Văn Tấn, Bùi Vinh và Võ Qúi 1990. Những dấu hiệu về một nền văn hoá
khảo cổ mới ở Hà Tuyên. Tạp chí Khảo
cổ học, số 1-2-1990. trang 34-38.
Hall, Keneth R. 1985. Maritime Trade
and State Development in Early Southeast Asia. Honolulu: University of
Hawaii Press.
Higham, Charles F. W. 1989. The later
Prehistory of Mainland Southeast Asia. Journal of World Prehistory 3: 235 –
282.
Hoàng Xuân Chinh và Nguyễn Văn Bình 1978. Điều tra khảo cổ học thời đại
đá cũ ở Đồng Nai và Sông Bé. Kỷ yếu Những phát hiện mới về Khảo cổ học
năm 1978.
Hodder, Ian 1991. Reading the Past – Current Approaches to
Interpretations in Archaeology. Second Edition. Cambridge University Press.
pp. 121-149.
Lê Văn Thuế, Vũ Thế Long 1976. Nghiên
cứu di tích xương răng động vật ở di chỉ Hoa Lộc (Thanh Hóa). Trong Những
phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1976, Hà Nội, trang 145.
Lê Văn Thuế – Vũ Thế Long 1986. Di cốt động vật ở Hang Dơi (Lạng Sơn).
Trong Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1985, Hà Nội 1986, trang
49.
Lê Xuân Diệm – Phạm Quang Sơn – Bùi Chí Hoàng 1991. Khảo cổ học Đồng Nai thời Tiền sử. Nhà xuất bản Đồng Nai.
Lưu Tỳ, Nguyễn Thế Tiệp, Nguyễn Tứ Dần ... 1985. Đặc điểm địa mạo thềm lục địa Việt Nam và các vùng lân cận, Tạp chí
Khảo cổ học, số 2-1985, trang 16 –
18.
Mansuy H. 1924. Stations préhistoriques dans les carvenes du massif
calcaire de Bacson (Tonkin). MSGI. Vol. 11,No. 2.
Mansuy H. 1925. Stations préhistoriques de Keo Phay (suit) de Khac Kiem
(suit) de Lai Ta (suit) et Bang Mac dans le massif calcaire de Bac Son (Tonkin).
MSGI. Vol. 12, No. 2.
Mansuy H. et M. Colani 1925. Néolithique inferieur (Bacsonien) et
néolithique superieur dans les Haut Tonkin. MSGI. 12, f.3.
Mansuy, H. 1925. Nouvelles de cauvertes dans les carvens du massif
calcaire de Bac Sơn (Tonkin). MSGI.
Vol. 12, N0 1, p. 34.
Mithen, Steven J. 1996. The Prehistory of the Mind: The Cognitive
Origins of Art, Religion and Science. Cambridge: Cambridge University
Press.
Nguyễn Cường 2002. Văn Hoá Mai Pha. Sở Văn hoá Thông tin Lạng Sơn,
trang 90.
Nguyễn Duy và Nguyễn Quang Quyền 1966. Nghiên cứu về hai sọ cổ ở Quỳnh
Văn – Nghệ An. Trong Một số báo cáo về Khảo cổ học Việt Nam. Hà Nội,
trang 351-366.
Nguyễn Duy Tỳ, Đào Linh Côn 1985. Kỹ
thuật luyện kim đồng thau ở địa điểm Dốc Chùa. Tạp chí Khảo cổ học, số 3,
trang 24-30.
Nguyễn Đình Khoa 1986. Con người thuộc văn hoá Hoà Bình. Tạp chí Khảo cổ
học số 1-1986.
Nguyễn Khắc Sử 1983. Sự phát triển kinh tế và tổ chức xã hội của cư dân
cổ Cúc Phương, Tạp chí Khảo cổ học, số 1 - 1983, trang 20.
Nguyễn Khắc Sử 1995. Văn hóa Biển Hồ ở Tây Nguyên. Tạp chí Khảo cổ học, số
3- 1995, trang 7 – 16.
Nguyễn Khắc Sử và cộng sự 1998. Báo
cáo điều tra khảo cổ học vùng ngập nước tỉnh Lai Châu (chủ biên). Tư liệu
Viện Khảo cổ học.
Nguyễn Kim Thuỷ 2004. Cư dân Đa Bút qua tài liệu Sinh khảo cổ. Tạp chí Khảo cổ học, số 1 (127) (I-II), trang
15-23.
Nguyễn Lân Cường 1977. Di cốt người
cổ ở hang Con Moong. Kỷ yếu Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1976. Hà
Nội 1977. Trang 112
Nguyễn Lân Cường 1988a. Trở lại vấn đề niên đại của hoá thạch người ở
Việt Nam. Tạp chí Khảo cổ học số 1-2, 1988, trang 4-11.
Nguyễn Lân Cường 1988b. Di cốt người cổ trên đất Lạng Sơn. Tuyển tập
luận văn Hội nghị khoa học Xứ Lạng, Lạng Sơn 1988, trang 39.
Nguyễn Lân Cường 1992. Những hoá thạch người cổ ở Việt Nam và Đông Nam á
trong thời kỳ Pleistocene. Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam á, số 1,
trang 5-12.
Nguyễn Lân Cường 1996. Đặc điểm nhân chủng cư dân văn hoá Đông Sơn
ở Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà
Nội 1996.
Nguyễn Thị Kim Dung 1986. Báo cáo
khai quật công xưởng Tràng Kênh lần thứ hai. Tư liệu Viện Khảo cổ học.
Nguyễn Thị Kim Dung, Đặng Văn Thắng...1995. Đồ trang sức trong mọ chum ở Cần Giờ. Trong Khảo cổ
học, số 2, trang 27-45.
Nguyễn Trung Chiến 2003. Mối quan hệ và liên hệ ở bình tuyến đá mới hậu
Hoà Bình – Bắc Sơn ven biển Đa Bút – Quỳnh Văn – Cái Bèo – Bàu Dũ. Tạp chí
Khảo cổ học, số 4 (124) (VII-VIII), 2003, trang 11 - 12.
Nguyễn Trường Kỳ 1983. Bước đầu tìm
hiểu nghề thủy tinh ở nước ta. Tạp chí Khảo
cổ học, số 1, trang 47-54.
Nguyễn Văn Long và Lê Trung Khá 1977. Về những hiện vật đá cũ mới tìm
được ở Vườn Dũ (Sông Bé) và Gia Tân (Đồng Nai). Tạp chí Khảo cổ học, số 4-1977.
Patte E. 1932. Le Kjokkenmodding néolithique de Dabut et ses sépultures
(province de Thanh Hoa, Indochine). BSGI, Vol. XIX, pt.3, 1932.
Phạm Đức Mạnh 1985. Qua đồng Long
Giao. Tạp chí Khảo cổ học, số 1,
trang 37 – 68.
Phạm Quang Sơn 1978. Bước đầu tìm
hiểu sự phong phú văn hóa hậu kỳ đá mới, sơ kỳ đồng thau ở lưu vực sông Đồng
Nai. Tạp chí Khảo cổ học, số 1,
trang 35-40.
Phạm Thị Ninh 1995. Văn hoá Bàu Tró - đặc trưng và loại hình.Luận án Phó
tiến sĩ, Khoa học lịch sử, Hà Nội, trang 9 – 11.
Sahlins. M.D., and E. R. Service, eds. 1960. Evolution and Culture.
Ann Arbor: University of Michigan Press.
Saurin E. 1939. Les cranes
préhistoriques inédit de Lang Cuom. Far Eastern Association of Tropical Medicine 10ème Congrès. T. I. Hanoi.
Saurin E. 1956. Outilage Hoabinhien à
Giap Khau, Port Courbet (Nord Vietnam). BEFEO. Vol. XLVIII, No. 2, 1956.
Sharer, Robert J. and Wendy Ashmore 1992. Archaeology Discovering Our
Past. Second Edition. Mayfield Publishing Company, Mountain View,
California. London . Toronto. Pp. 561-562.
Taylor, Keith W. 1992. The early
Kingdoms. Pp. 137 - 182 in The
Cambridge History of Southeast Asia, N. Tarling, ed. Cambridge: Cambridge
University Press. P. 181.
Tỉnh uỷ, Uỷ ban Nhân dân tỉnh Quảng Ninh 2001. Địa chí Quảng Ninh.
Tập I, Nhà xuất bản Thế giới, Hà Nội, trang 421.
Trần Quốc Vượng 1974. Vài suy nghĩ
tản mạn về trống đồng. Trong Khảo cổ
học, số 14, Hà Nội, tr. 71-81.
Trần Quốc Vượng 1986. Văn hoá Hoà Bình, văn hoá Thung lũng. Tạp chí
Khảo cổ học, số 2-1986, trang 1- 6.
Trần Quốc Vượng 1993. Mấy nét khái quát lịch sử cổ xưa về cái nhìn về
biển của Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 1, 1993.
Trần Quốc Vượng 1996. Mấy ý kiến về
trống đồng và Tâm thức Việt cổ. Trong Theo
dòng lịch sử - Những vùng đất, thần và tâm thức người Việt. Nxb. Văn hóa,
Hà Nội, tr 39-65.
Trần Quốc Vượng 2000. Việt Nam và biển Đông, Tạp chí Văn hoá dân
gian, số 3(71), 2000.
Trình Năng Chung 1991. Kỹ nghệ Ngườm và văn hoá Bắc Sơn, Tạp chí
Khảo cổ học, số 2, trang 16 – 21.
Verneau R. 1909. Les cranes humains
du gisement de Pho Binh Gia (Tonkin). L’Anthropologie. No. 20: 545-549.
Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam 1969. Những hiện vật tàng trữ tại Viện
Bảo tàng Việt Nam về văn hoá Bắc Sơn, Hà Nội, trang 140.
Vũ Quốc Hiền, Chu Văn Vệ 1996. Công
cụ đá và đồ trang sức bằng vỏ nhuyễn thể ở di chỉ Bích Đầm (Khánh Hòa).
Trong Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1976, Hà Nội, trang 90.
Vũ Thế Long, Lê Trung Khá, và Hoàng Văn Dư 1977. Khai quật Thẩm ồm (Nghệ
An) đợt I. Kỷ yếu Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1977, trang 13.
Vũ Thế Long 1982. Về những chiếc răng vượn khổng lồ. Kỷ yếu Những phát
hiện mới về Khảo cổ học năm 1982, trang 67-69.
Vũ Thế Long 1984. Người Hoà Bình và thế giới động vật. Tạp chí Khảo
cổ học, số 1-2, 1984. Trang 126.
Vũ Thế Long, Hà Hữu Nga 2004. Phát hiện công cụ thời đại đá cũ ở Đak Lak.
Kỷ yếu Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 2003. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội.
Wheatley, Paul 1979. Urban genesis in
mainland South East Asia. Pp. 288 – 303 in Early South East Asia: Essays in Archaeology, History and Historical
Geography. R. B. Smith and W. Watson, eds. New York: Oxford University
Press.
Weidenreich, F. 1943 “The skull of Sinanthropus pekinensis”,
Palaeontologica Sinica (n.s. D), Vol. 10, pp. 1 – 298.
Welch, David and Rudith R. McNeill 1991. Settlement, agriculture and population changes in the Phi Mai region,
Thailand. Pp. 210 – 228 in Indo-Pacific
Prehistory 1990: Proceedings of the 14th Congress of the
Indo-Pacific Prehistory Association, Yogyakarta, Indonesia, vol. 2.
Bulletin of the Indo-Pacific Prehistory Association 11.
Wisseman C. Jan 1985. Theater States
and Oriental Despotisms: Early Southeast Asia in the Eyes of the West.
Hull: University of Hull Center for South-East Asian Studies Occasional Paper
no. 10., p.9.
Wisseman C. Jan 1992. Trade and
settlement in early Java: integrating the epigraphic and archaeological data.
Pp. 181 – 197 in Early Metallurgy, Trade
and Urban Centers in Thailand and Southeast Asia. I. Glover, P. Suchitta,
and J. Villiers, eds. Bankok: White Lotus.
White C. Joyce. 1995. Incorporating
Heterarchy into Theory on Socio-Political Development: The Case from Southeast
Asia. In Heterarchy and the Analysis
of Complex Societies. Robert. M. Ehrenreich, Carole L. Crumley, and Janet
E. Levy, eds. Archaeological Papers of the American Anthropological
Association, Number 6. Arlington, Va.: American
Anthropological Association. Pp. 101 – 123.
Wolter, O. W. 1982. History, Culture,
and Region in Southeast Asian Perspectives. Singapore: Institute of
Southeast Asian Studies.