Tiền sử Việt Nam (II)
Người viết:
Hà Hữu Nga
Theo đặt
hàng của GS. Phan Huy Lê (2005)
Lưu ý đầu trang: Đây là bản draft đầu tiên tôi [Hà
Hữu Nga] viết theo đặt hàng của GS. Phan Huy Lê, dưới sự hướng dẫn của GS. Trần
Quốc Vượng. Vì vậy xin có ba lưu ý quan trọng:
1. Bản draft này được lưu ở đây với tư
cách cá nhân và là bản draft chưa được chỉnh sửa.
2. Mọi hình thức sử dụng như: sao chép,
trích dẫn v.v…là không hợp lệ.
3.Vì GS. Trần Quốc Vượng ốm nặng và mất trước khi đọc bản draft này vào năm
2005 nên mọi sai sót có trong draft đều thuộc về người viết; nhiều quan điểm
trong bài viết không chắc đã được GS. Trần Quốc Vượng đồng ý.
2. Thời đại Đá mới và các bộ lạc trồng lúa
Khái niệm thời đại đá mới dùng để chỉ một giai
đoạn tiền sử liên quan đến một sự thay đổi môi trường to lớn – sự rút lui dần
của băng hà Wurm trên phạm vi toàn cầu. Đó cũng là giai đoạn kết thúc của thời
kỳ Cánh tân (Pleistocene) để thế giới bước vào thời Toàn tân (Holocene). Các
nhà địa chất thường coi mốc 10.000 năm trước đây là ranh giới giữa hai thời đó.
Lúc này trái đất ấm dần lên, mưa nhiều làm cho các dòng sông suối đầy nước.
Cùng với nó, mực nước biển ngày càng dâng cao làm ngập chìm một phần lãnh thổ
lớn mà các nhóm người tiền sử vẫn kiếm sống. Hai quá trình môi trường trái
ngược nhau đó vừa gây khó khăn, vừa tạo thuận lợi cho sự phát triển của con
người. Biển tiến làm thu hẹp lãnh thổ kiếm sống, có thể tạo nên một sức ép lớn
về mật độ dân số và nguồn cung cấp đồ ăn. Nhưng sự ấm dần của trái đất cũng tạo
điều kiện thuận lợi chưa từng có để con người phát triển một nền nông nghiệp sơ
khai và cuộc sống định cư. Việt Nam thuộc vùng nhiệt đới nên ảnh hưởng băng hà
ít hơn. Vì vậy mốc thời gian khởi đầu của văn hoá Hoà Bình có thể lùi tới
15.000 năm cách ngày nay, và thời đại đá mới kết thúc vào khoảng 4000 năm cách
ngày nay.
2.1. Các văn hoá Hoà Bình – Bắc Sơn – Soi
Nhụ và nền nông nghiệp sơ khai trên đất Việt Nam.
Văn hoá Hoà Bình: đối với các nhà tiền sử
thế giới khái niệm này có một nội hàm rộng lớn bao gồm bất cứ di tích, di chỉ
khảo cổ học nào tại khu vực Đông Nam á có chứa các công cụ cuội dạng
Sumatralith được ghè đẽo một mặt, và cùng với nó là vỏ ốc núi và ốc suối. Vì
tính chất phức tạp và phạm vi phân bố rộng lớn của dạng di chỉ như vậy cho nên
về sau nhiều nhà tiền sử không gọi là văn hoá Hoà Bình, mà chỉ dùng khái niệm
Hoà Bình (The Hoabinhian) để chỉ loại hình văn hoá tiền sử này. Một phương án
khác thay thế khái niệm văn hoá Hoà Bình bằng khái niệm “Phức hợp kỹ thuật”
(Technocomplex) [Gorman C.E. 1970]. Tuy nhiên cũng giống như khái niệm kỹ nghệ,
phức hợp kỹ thuật là một khái niệm mang tính kỹ trị và không thích hợp để thay
thế cho khái niệm văn hoá, hoặc hệ thống văn hoá. Vì vậy hầu hết các nhà khảo
cổ học Việt Nam vẫn sử dụng khái niệm văn hoá Hoà Bình. Tại Việt Nam, các di
tích Hòa Bình chủ yếu phân bố tại khu vực các dải núi đá vôi chạy từ Sơn La,
Hoà Bình, Ninh Bình, Thanh Hoá, vào đến tận Quảng Trị. Nhưng tập trung nhất là
ở Hoà Bình (72 địa điểm), và Thanh Hoá (32 địa điểm), số còn lại được phát hiện
rải rác ở Ninh Bình, Sơn La, Lai Châu, Hà Giang, Nghệ An, Quảng Bình và Quảng
Trị [Hà Văn Tấn (chủ biên) 1998]. Dù thống kê chưa đầy đủ nhưng cho đến nay đã
có khoảng trên 160 di tích Hoà Bình được phát hiện tại Việt Nam.
Dù Hoà Bình là hậu duệ của Sơn Vi, nhưng về
phương diện môi trường sinh thái thì Sơn Vi và Hoà Bình là hai mô hình cư trú
trái ngược nhau. Người Sơn Vi chủ yếu sống tại các bậc thềm cổ của các dòng
sông, và một ít sống trong các khu vực hang động. Ngược lại người Hoà Bình lại
chủ yếu sống trong các hang động đá vôi và một ít sống ở các di chỉ ngoài trời
như Sập Việt (Sơn La). Riêng di chỉ Giáp Khẩu (Quảng Ninh), vì sự nhầm lẫn của
E. Saurin mà lâu nay các nhà khảo cổ học Việt Nam vẫn nghĩ đó là một di chỉ Hoà
Bình ngoài trời [Saurin E. 1956]. Thực ra đó là một di chỉ thuộc loại hình văn
hoá Cái Bèo, với các công cụ ghè đẽo thô sơ để tách hà ra khỏi đá và đập sò ốc
biển. Loại hình công cụ này phổ biến ở các địa điểm ven biển Hạ Long như Cái
Bèo, Giáp Khẩu, Hà Giát, Hòn Ngò, Núi Hứa, Ba Vũng, Thoi Giếng...vv [Hà Hữu
Nga, Nguyễn Văn Hảo 1999]. Tuy cư trú trong các hang động đá vôi, nhưng cư dân Hoà
Bình thường chọn các hang thoáng mát, cửa hang rộng rãi, quay về hướng đông
hoặc hướng nam để ở. Các hoạt động sống thường diễn ra ở cửa hang. Bằng chứng
là tầng văn hoá và các di vật còn lại ở cửa hang bao giờ cũng dày đặc hơn. Di
vật đặc trưng trong các hang động của người Hoà Bình cùng với công cụ cuội ghè
một mặt, rìu ngắn ghè đẽo, vào giai đoạn sớm thường là vỏ ốc núi (Cyclophorus).
Giai đoạn muộn thường là vỏ ốc suối (Melania, Antimelania) tồn tại cùng
với công cụ ghè đẽo tinh xảo hơn, xuất hiện nhiều công cụ ghè hai mặt hơn.
Ngoài ra còn có công cụ cuội mài lưỡi và một ít mảnh gốm thô trong các lớp
muộn. Hòn nghiền, bàn nghiền tồn tại ở tất cả các lớp. Dù cư trú trong hang,
nhưng môi trường kiếm sống của cư dân Hoà Bình lại diễn ra trong các thung
lũng, ven các con suối. Tại đó họ kiếm rau quả, bắt cua ốc, săn bắt thú rừng,
kiếm đá cuội tự nhiên về để chế tác công cụ. Vì vậy đã có đề xuất Hoà Bình là
một nền “văn hoá thung lũng” [Trần Quốc Vượng 1986]. So với khối lượng vỏ
nhuyễn thể đồ sộ, thì xương cốt động vật còn lại không nhiều trong các hang
động Hoà Bình. Tuy nhiên chúng ta vẫn biết chắc, người Hoà Bình đã săn bắt
nhiều loài động vật khác nhau để bổ sung vào nguồn thức ăn của mình. Đó là các
loài vượn (Hylobates), khỉ (Macaca sp.), nhím (Hystrix),
chuột (Rattus sp.), lợn rừng (Sus sp.), hươu (Cervus),
hoẵng (Muntiacus muntjac), nai (Ruse unicolor), bò rừng (Bibos
sp.), trâu rừng (Bubalus), lửng (Artnyx collaris), vòi hương
(Paradoxurus), hổ (Pathera tigris), voi cổ (Palaeoloxodon),
tê giác (Rhinoceros sp.), lợn lùn (Porcula sp.) [Vũ Thế Long
1984].
Các hoạt động săn bắt thú rừng của người Hoà Bình
đòi hỏi một kỹ năng cao về mọi phương diện. Trước hết việc săn các loại thú dữ
lớn như trâu, bò, lợn, voi, tê giác, hổ...vv, cần phải có những thợ săn khoẻ
mạnh, nhanh nhẹn và tháo vát. Nhưng chừng ấy chưa đủ, điều cần thiết đối với
công việc đặc biệt này là tính tổ chức cao, việc phân công công việc rõ ràng,
hợp lý trong tập thể các thợ săn. Một điều quan trọng không kém là sự am hiểu
tập tính của thú rừng. Tri thức về thói quen của thú rừng có được qua một quá
trình quan sát lâu dài và trở thành một vốn kinh nghiệm truyền từ thế hệ này
sang thế hệ khác. Vốn tri thức và kinh nghiệm này không phải là những đúc kết
lý thuyết chung chung, mà là những hiểu biết rất cụ thể; không những thế, các
hiểu biết ấy phải được phân loại phù hợp với từng loại thú rừng riêng, theo
từng mùa khác nhau, trong từng môi trường riêng biệt nhau. Vì vậy khái niệm săn
bắt đôi khi làm cho người ta chỉ nghĩ một cách đơn giản đó là một công việc thô
sơ. Trên thực tế đó là một nguồn tri thức địa phương về môi trường rất phong
phú và đa dạng kết hợp với một khả năng phân loại cao của người tiền sử Hoà
Bình.
Hoạt động hái lượm của cư dân Hoà Bình phần nào
thể hiện qua các di tích thực vật và phổ phấn hoa còn lại trong các hang động
Hoà Bình. Cho đến nay các nhà nghiên cứu đã thống kê được khoảng 50 loại bào tử
phấn hoa khác nhau, trong đó chưa thấy loại phấn hoa đã được con người thuần
hoá. Các di tích hạt quả còn lại gồm có hạt gắm (Gnetum montanun), trám
(Canarium sp.), cọ (Linstora cochinchinensis), me (Rhyllathus
emblica), côm (Elacocarpus sylvestrix), chè (Thea sp.)
[Hà Văn Tấn (chủ biên) 1998, 161]. Nguồn tri thức địa phương về môi
trường sinh thái của người Hoà Bình còn thể hiện qua công việc hái lượm. So với
hoạt động săn bắt, việc hái lượm của phụ nữ tưởng đơn giản, thụ động hơn nhiều.
Tuy nhiên giờ đây các nhà nhân học nhận thức cho rằng kết luận như vậy là nhầm
lẫn [Grenier L. 1998]. Ngoài nhiệm vụ kiếm rau quả củ làm đồ ăn, một phần việc
quan trọng đặc biệt của người hái lượm là kiếm thuốc thảo dược để điều trị cho
các bệnh nhân trong cộng đồng. Để thực hiện được hai nhiệm vụ đó, người hái
lượm cần có một lượng tri thức về môi trường nhiều không kém, và thường là
nhiều hơn, sâu sắc hơn so với khối lượng tri thức mà người săn bắt thú cần có.
Muốn thế cùng với khả năng quan sát, người hái lượm còn phải thành thạo kỹ năng
phân loại môi trường sinh thái, phân loại mùa, và đặc biệt là phân loại các đối
tượng hái lượm, mà trước hết là thực vật. Chính nguồn tri thức địa phương này
là một trong những sức mạnh giúp người phụ nữ trong các xã hội tiền sử, đặc
biệt là các xã hội mẫu hệ có được quyền lực thực sự. Và cũng chính nguồn tri
thức về môi trường và thảo dược ấy đã giúp cho người tiền sử Hoà Bình tiến dần
đến một nền nông nghiệp sơ khai.
Vào thập kỷ 70 - 80 của thế kỷ XX, vấn đề nông
nghiệp trong văn hoá Hoà Bình là một đề tài hấp dẫn hầu hết các nhà tiền sử học
Việt Nam nghiên cứu về hệ thống văn hoá này, đặc biệt là sau khi học giả Mỹ C.
E. Gorman công bố những kết quả khai quật và nghiên cứu của ông tại Hang Ma
(Thái Lan) [Gorman C.E. 1970, 1971] trong đó có bầu, bí, đậu được cho là những
sản phẩm trồng trọt. Một số học giả Việt Nam, dựa vào các bào tử phấn hoa họ
rau đậu (Leguminosae) được phát hiện tại các hang Sũng Sàm (Hà Tây),
Thẩm Khương (Lai Châu) cũng nghĩ rằng “các bộ lạc Hoà Bình đã thực hiện một bước
nhảy có ý nghĩa lớn lao trong đời sống nhân loại: phát minh nông nghiệp”.
Gần đây có một xu hướng ngược lại, “không tin rằng chủ nhân văn hoá Hoà Bình đã
biết nông nghiệp” [Đào Qúi Cảnh 2004]. Tuy nhiên các thảo luận đó đều dựa trên
những dữ liệu không rõ ràng, hoặc không định nghĩa rõ ràng quan niệm của họ về
cái gọi là nông nghiệp.
Ngày nay mối quan tâm hàng đầu của các nhà tiền
sử thế giới không còn là vấn đề nông nghiệp nữa, mà là vấn đề tri thức bản địa
về các hệ thống sinh thái. Từ góc độ sinh thái, nông nghiệp được quan niệm là
“không bắt đầu từ một nguồn duy nhất nào, mà được phát hiện dần dần ở nhiều nơi
trên thế giới vào khoảng 5000 đến 9000 năm trước công nguyên” [Ruth A. Eblen
and William R. Eblen, Editors 1994]. Các cư dân sớm kiếm sống bằng săn bắt, hái
lượm đã thu hoạch những hạt quả ăn được, hoặc những hạt quả này được chim thú
đem từ nơi nọ đến nơi kia và chúng phát triển một cách tự nhiên xung quanh nơi
con người sinh sống. Qua hàng nghìn năm con người đã nhận ra rằng hoàn toàn có
thể mở rộng sản xuất lương thực bằng cách reo vãi các hạt quả hoang dại tại một
số địa điểm cố định để rồi chăm sóc và thu hái chúng [Ruth A. Eblen and William
R. Eblen, Editors 1994]. Nếu quan niệm nông nghiệp một cách giản dị và đúng đắn
như vậy thì nông nghiệp không chỉ xuất hiện trong văn hoá Hoà Bình, mà còn có
thể đã xuất hiện ngay từ văn hoá Sơn Vi trước đó. Niên đại C14 của các địa điểm
Hoà Bình cũng nằm trong khung xuất hiện nông nghiệp ở nhiều nơi trên thế giới
sau băng hà Wurm. Một trong những niên đại sớm của văn hoá Hoà Bình ở hang Sũng
Sàm (Hà Tây) là 11365 ± 80 năm cách ngày nay. Trong khi đó niên đại muộn nhất của
văn hoá này được biết cho đến giờ ở hang Đắng (rừng Cúc Phương) là 7580 ± 80
năm cách ngày nay.
Trước đây các nhà dân tộc học đã đưa ra những
phán đoán thuần tuý hình thức – vì vậy mà không tránh khỏi sai lầm – là lịch sử
nông nghiệp Đông Nam Á được chia thành hai giai đoạn: giai đoạn trồng rau củ và
giai đoạn trồng lúa. Những nghiên cứu mới đây về lịch sử cây lúa hoang dại tại
Nam Trung Quốc, Ấn Độ, khu vực Assam và nhiều vùng thuộc Đông Nam Á đã đem lại
một lối đặt vấn đề khác. Khả năng người tiền sử biết chăm sóc lúa hoang chịu
hạn vào cuối thời kỳ Pleistocene, đầu Holocene không hề muộn hơn việc họ biết
gieo trồng các loại rau củ. Vì vậy mà không hề có cái gọi là hoạt động hái lượm
tiền sử là thuần tuý tước đoạt, bởi vì bằng sự quan sát và hiểu biết về môi
trường sinh thái từ hàng vạn năm trước, người tiền sử luôn kết hợp giữa khai
thác và chăm sóc các nguồn thực phẩm hoang dại để thu hái vào mùa sau. Về
phương diện này, chắc chắn các cư dân tiền sử Hoà Bình cũng không phải là ngoại
lệ. Ngoài ra từ quan niệm sinh thái, cần phải đính chính một lý giải sai lầm
khác cho rằng nông nghiệp luôn gắn liền với định cư. Thật ra về phương diện dân
tộc học đã có nhiều mô hình nông nghiệp du canh, du cư với mục đích vừa khai
thác vừa nuôi dưỡng đất đai và môi trường rất điển hình của các dân tộc địa
phương Tây Nguyên.
Đối với tiền sử Việt Nam, vấn đề chủ nhân của văn
hoá Hoà Bình có một ý nghĩa rất to lớn. Nó cung cấp cho các nhà nghiên cứu Việt
Nam những cơ sở vững chắc để tìm về một trong những cội nguồn của tổ tiên người
Việt cổ. Cho đến nay đã phát hiện được di cốt người trong 33 địa điểm thuộc văn
hoá Hoà Bình, trong đó chỉ riêng di chỉ Làng Gạo đã phát hiện được đến 20 cốt
sọ. Lâu nay các nhà nghiên cứu vẫn cho rằng các sọ cổ thuộc văn hoá Hoà Bình có
những đặc điểm tương tự như các sọ cổ cuối hậu kỳ Pleistocene được phát hiện ở
Indonesia (Wadjak I) và Nam Trung Quốc (Liu Chiang). Chúng vừa có đặc trưng Mongoloid vừa có đặc trưng Australoid, tạo thành dạng Australo-Mongoloid còn lưu giữ nhiều đặc
điểm nguyên hình chưa bị phân hoá, đã tồn tại khá lâu ở Vịêt Nam [Nguyễn Lân
Cường 1996]. Trong khi đó các cốt sọ Hoà Bình tại hang Tam Pong (Lào), Sai Yok
(Thái Lan), Golbaly (Malaysia), và Bindjai (Indonesia) lại có những đặc điểm
gần với loại hình Indonesian phát
hiện được ở Nam Trung Quốc [Hà Văn Tấn (chủ biên) 1998, 139]. Như vậy bước đầu
có thể khẳng định rằng chủ nhân văn hoá Hoà Bình là những người bản địa đã có
sự hoà huyết với các tộc người ở những khu vực xung quanh.
Cư dân Hoà Bình đã có một tư duy khá phát triển.
Họ đã có một quan niệm rất rõ ràng về hai thế giới, thế giới của người sống và
thế giới của người đã chết. Tuy nhiên, đối với họ, hai thế giới này không hề
cách biệt nhau, mà vẫn gần gũi với nhau, giống như thế giới của người đang thức
còn thế giới kia là của những người đang ngủ vậy. Bằng chứng là người Hoà Bình
chôn người chết ngay tại nơi họ đang cư trú, trong các hang động đá vôi. Người
chết được chôn ở thế nằm co như đang ngủ. Người ta cũng chôn theo người chết
những hiện vật rất thiết thân với mỗi thành viên của cộng đồng, đó là một công
cụ ghè đẽo hoặc một công cụ cuội mài lưỡi. Tình cảm đó của người sống đối với
người chết hoàn toàn bác bỏ quan niệm cho rằng vì sợ người chết về làm hại, nên
người ta đã trói người chết lại trước khi đem chôn. Thật ra ngồi bó gối chính
là những tư thế ngủ của người tiền sử để phản ứng nhanh khi bị thú dữ hoặc kẻ
thù tấn công khi họ phải sống xa nơi ở chính. Còn nằm co là tư thế ngủ trong
hang để tránh lạnh mà thôi. Táng thức của người Hoà Bình dường như đã lặp lại
trạng thái này. Ngoài ra, người Hoà Bình cũng đã có một loại hình táng thức tập
thể giống những người Jarai (Tây Nguyên) làm một ngôi nhà dài tại nghĩa trang
để chôn tất cả những người họ hàng đã chết của mình ở đó. Trong trường hợp này
mỗi khu mộ tập thể của họ tộc là một ngôi nhà, còn nghĩa trang là một “ngôi
làng ma” – theo cách gọi của người Jarai ngày nay. Cư dân Hoà Bình cũng đã có
một “ngôi nhà-hang ma” hoặc “ngôi làng ma” ở hang Làng Gạo (tỉnh Hoà Bình) với
20 cá thể được chôn ở đây.
Có ý kiến cho rằng cấu trúc xã hội của người Hoà
Bình có thể là các thị tộc mẫu hệ. Đây là một ý kiến rất đáng lưu ý, vì cuộc
sống của cư dân Hoà Bình chủ yếu là định cư theo các nhóm nhỏ trong các hang
động. Nguồn sống chính của họ vẫn là thu lượm nhuyễn thể và rau quả củ theo
mùa, kết hợp với săn bắt. Một cơ sở kinh tế và vật chất như vậy có thể phù hợp
với một chế độ thị tộc mẫu hệ. Các hang động giống như ngôi nhà dài của người Ê
Đê trước đây, là nơi cư trú của một gia đình lớn do một bà già làm chủ. Tuy
nhiên trong chế độ thị tộc mẫu hệ Hoà Bình chưa thể có các gia đình hạt nhân
gọi là các “bếp” như trong ngôi nhà dài Ê Đê. Cuộc sống săn bắt, hái lượm đơn
giản chưa có sự gia tăng sản phẩm bằng một nền sản xuất nông nghiệp ổn định
khiến cho các gia đình ấy phải chia đều các sản phẩm kiếm được cho mỗi thành
viên. Vì vậy không thể nào có cái gọi là gia đình nhỏ một vợ một chồng và những
đứa con của hai người sống chung một “mái nhà hang” như các chị em con cháu của
một bà già sống chung dưới một mái nhà dài Ê Đê được.
Điều đặc biệt quan trọng là người Hoà Bình đã có
một vốn tri thức biểu tượng mà người ta thường gọi một cách quá hiện đại và đơn
giản – vì vậy mà có thể sai lầm - là hoạt động nghệ thuật. Bằng chứng là trên
vách hang Đồng Nội (tỉnh Hoà Bình) có hình khắc một con thú được cho là loài ăn
cỏ và ba cái mặt người có “sừng” ở trên đầu. Từ hình khắc “nghệ thuật” đó người
ta liền đọc ý nghĩa của nó là biểu hiện của “tín ngưỡng vật tổ”, mà vật tổ là
một loài ăn cỏ, có thể là hươu. Vậy thì các hình khắc đó là “nghệ thuật” hay là
“biểu tượng vật tổ” hay là một loại “chữ” hay nó còn mang (những) ý nghĩa nào
khác nữa? Mỗi thế hệ các nhà nghiên cứu có những cách trả lời riêng cho câu hỏi
này, thậm chí mỗi nhà nghiên cứu cũng có thể đưa ra những cách “đọc” riêng của
mình về các biểu tượng đó. Vì vậy khi chưa có cách đọc nào thuyết phục, chúng
ta làm theo cách của các nhà ngữ nghĩa học, coi đó là một vật biểu nghĩa, thay
vì coi đó là một “tác phẩm nghệ thuật”. Điều đó còn liên quan tới một khuynh
hướng nghiên cứu mới trong tiền sử học. Những người đi theo khuynh hướng này
cho rằng cuộc cách mạng đầu tiên của nhân loại là cuộc “cách mạng biểu tượng”
đã xảy ra lần đầu tiên vào thời hậu kỳ đá cũ. Đó là các hình vẽ còn lại trong
các hang động ở Pháp và Tây Ban Nha. Giờ đây người ta sử dụng môn Khảo cổ học
Ngữ cảnh để đọc các tác phẩm đó, bằng cách không coi chúng là những tác phẩm
nghệ thuật, mà coi chúng là những “văn bản cổ” cần phải giải nghĩa [Hodder I.
1991]. Phương pháp tiếp cận đó cũng đã được một số nhà tiền sử học Việt Nam sử
dụng. Thay vì coi các xâu vỏ ốc biển trong các hang động Hoà Bình, Bắc Sơn là
những đồ trang sức, các nhà nghiên cứu đã coi chúng là biểu tượng của vị thế
người mang nó trong cộng đồng [Hà Hữu Nga 2004]. Trong văn hoá Hoà Bình, việc rắc
thổ hoàng trong mộ và chắc là người ta còn sử dụng để bôi lên cơ thể người sống
cũng có thể được xem xét từ góc độ ngữ nghĩa học: ngoài chức năng làm đẹp và
tránh rét, chúng còn là một biểu tượng có ý nghĩa đối với các thành viên trong
cộng đồng và với các cộng đồng khác.
Văn hoá Bắc Sơn: Cho đến nay đã phát hiện
được 51 địa điểm với đặc trưng nổi bật là phân bố trong các hang động đá vôi
thuộc sơn khối đá vôi Bắc Sơn. Tầng văn hoá không dày, cấu tạo chủ yếu bằng ốc
suối và ốc núi. Tổ hợp di vật tiêu biểu của văn hoá này là công cụ cuội ghè
đẽo, công cụ mảnh tước, “rìu mài lưỡi Bắc Sơn”, “dấu Bắc Sơn” (hay còn gọi là
“bàn mài Bắc Sơn”) và còn phát hiện được một số mảnh gốm rất thô sơ. Trước đây
đa số các nhà khảo cổ học đều coi văn hoá này là thuộc thời đại đá mới, sau văn
hoá Hoà Bình và “nảy sinh từ trong lòng văn hoá Hoà Bình”. Nhưng sau gần 100
năm nghiên cứu nền văn hoá này, với 51 địa điểm đã được phát hiện và khai quật,
giờ đây hầu hết các nhà nghiên cứu đều nhất trí rằng Bắc Sơn là một nền văn hoá
khảo cổ học độc lập, tồn tại đồng thời với văn hoá Hoà Bình và có quan hệ gần
gũi với văn hoá Hoà Bình.
Giống như các nhóm cư dân tiền sử Hoà Bình, người
Bắc Sơn cũng lấy hang động đá vôi làm nơi cư trú chính thức, và môi trường kiếm
sống của họ cũng là các thung lũng dưới chân các dãy núi đá vôi thuộc sơn khối
đá vôi Bắc Sơn. Giống như người Hoà Bình, người Bắc Sơn cũng khai thác đá cuội
từ hệ thống sông suối trong vùng làm nguyên liệu chế tác công cụ đá. Giống như
người Hoà Bình, thực đơn chính của người Bắc Sơn cũng là ốc núi và ốc suối. Tuy
nhiên, khác với người Hoà Bình, bộ công cụ cuội trong văn hoá Bắc Sơn không
phải là những Sumatralith điển hình được ghè một mặt, mà hầu hết các công cụ
cuội ở đây được ghè hai hay nhiều mặt. Khác với người Hoà Bình, trong tổ
hợp công cụ của cư dân Bắc Sơn có một số lượng lớn công cụ mảnh tước dạng
Ngườm. Khác với người Hoà Bình, tỷ lệ rìu mài lưỡi trong văn hoá Bắc Sơn thường
lớn hơn rất nhiều, trong khi đó kích thước công cụ mài lưỡi lại nhỏ hơn. Nếu
hầu hết rìu mãi lưỡi Hoà Bình được chế tác từ hòn cuội thì ngược lại, hầu hết
rìu mài lưỡi Bắc Sơn được làm từ các mảnh tước. Cũng khác với Hoà Bình, một
trong những đặc trưng nổi bật của văn hoá Bắc Sơn là bộ sưu tập bàn mài Bắc Sơn
hay “dấu Bắc Sơn” được phát hiện với khối lượng lớn, trong khi đó nó chỉ được
thấy rải rác trong một số địa điểm thuộc văn hoá Hoà Bình, có lẽ là kết quả của
quá trình giao lưu, trao đổi hoặc ảnh hưởng văn hoá.
Một trong những thành tựu lớn nhất của cư dân Bắc
Sơn là việc họ phát minh ra kỹ thuật mài. Không có gì khó để chứng minh rằng
đây là một phát minh hoàn toàn bản địa của người Bắc Sơn, bởi vì kỹ thuật mài
đá Bắc Sơn có nguồn gốc từ sự xuất hiện sớm của chiếc bàn mài Bắc Sơn. Cho đến
nay các nhà nghiên cứu chưa khẳng định chắc chắn bàn mài Bắc Sơn có chức năng
gì. Có ý kiến cho rằng đó là chiếc bàn mài để mài các mũi tên bằng gỗ hay tre
nứa. Cũng có ý kiến cho rằng đó là “một loại bùa” hoặc một vật “biểu trưng tộc
thuộc” để phân biệt người Bắc Sơn với các nhóm người khác. Loại hiện vật này dù
có chức năng gì đi nữa thì về phương diện kỹ thuật nó vẫn là một chiếc bàn mài.
Những chiếc bàn mài sớm nhất xuất hiện ngay từ lớp đáy của hang Dơi (thuộc xã
Vũ Lễ huyện Bắc Sơn, giáp giới với huyện Võ Nhai, Thái Nguyên là địa bàn phân
bố chính của nhóm di chỉ Ngườm), cùng với sưu tập công cụ mảnh tước dạng Ngườm.
Trong lớp này không có vỏ ốc suối, không có rìu mài lưỡi Bắc Sơn và tất nhiên
là cũng không có gốm. Đã có ý kiến liên hệ lớp dưới của hang Dơi với lớp trên
cùng của địa tầng Ngườm, và cho rằng đó là lớp tiền Bắc Sơn, có tuổi là 17.000
năm cách ngày nay [Trình Năng Chung 1991].
Ngoài những chiếc bàn mài xuất hiện trong lớp
“tiền Bắc Sơn” ở hang Dơi, chưa có bằng chứng cho thấy chiếc rìu mài lưỡi Bắc
Sơn cũng xuất hiện sớm như vậy. Tuy là một loại hiện vật phổ biến trong mọi địa
điểm thuộc văn hoá Bắc Sơn, nhưng những chiếc rìu mài lưỡi sớm nhất cũng chỉ
mới tìm thấy ở lớp giữa của hang Dơi, có niên đại C14 là 11.000 ± 200 năm cách
ngày nay. Lớp này có niên đại tương đương với một trong những niên đại C14 đã
từng được cho sớm nhất của văn hoá Hoà Bình ở hang Sũng Sàm (11.365 ± 80 năm
cách ngày nay). Còn niên đại C14 muộn của văn hoá Bắc Sơn ở hang Bó Nam (Kéo
Phầy) là 7875 ± 100 năm cách ngày nay, tương đương với niên đại C14 muộn của
văn hoá Hoà Bình ở hang Đắng (7580 ± 80 năm cách ngày nay). Cũng giống như vấn
đề đa trung tâm xuất hiện nông nghiệp sớm, vấn đề kỹ thuật mài và những chiếc
rìu mài không nên và không thể được khẳng định là đặc phẩm một lần xuất hiện
sớm nhất tại Bắc Sơn hay Hoà Bình để rồi từ đó nó được truyền bá sang khu vực
văn hoá kia. Nếu cố làm như vậy có nghĩa là chúng ta đã ngấm ngầm thừa nhận
truyền bá luận trong khi lại luôn luôn công khai chống truyền bá luận. Bằng chứng
khảo cổ học Việt Nam cũng ủng hộ cho quan điểm đa trung tâm xuất hiện kỹ thuật
mài. Nếu ở lớp dưới hang Dơi (tiền Bắc Sơn) đã xuất hiện kỹ thuật mài thì tại
Làng Vành và hang Xóm Trại (Hoà Bình) rìu mài lưỡi cũng đã được phát hiện trong
lớp có niên đại tương đương từ 16.000 đến 17.000 năm [Hà Văn Tấn (chủ biên)
1998, 164].
Hoạt động kiếm sống của cư dân Bắc Sơn đương
nhiên không thể thiếu săn bắt và hái lượm. Cho đến nay tất cả các di cốt động
vật do con người săn bắt làm thức ăn trong văn hoá Bắc Sơn hầu hết là các giống
loài hiện đại. Tuy sống trong hang động nhưng địa bàn tìm kiếm thức ăn của
người Bắc Sơn là các thung lũng, các vạt rừng, các dòng sông suối trong khu vực
sơn khối đá vôi và vùng phụ cận. Xương cốt động vật bỏ lại ở hang Kéo Phầy gồm
có lợn rừng, hươu nai, trâu bò rừng, tê giác, voi...vv. Cuộc khai quật hang Dơi
cũng tìm thấy các động vật tương tự, gồm có khỉ, vượn, hươu, nai, lửng, lợn
rừng, gà rừng, tê giác [Lê Văn Thuế – Vũ Thế Long 1986]. Những di cốt này
thường có vết đập vỡ, phần còn lại là những mảnh xương ống. Một số mảnh có vết
ám khói, có thể bị đốt qua lửa. Đây chính là những dấu tích thải bỏ sau bữa ăn
của cư dân Bắc Sơn, và những bữa ăn như vậy chính là kết quả của các hoạt động
săn bắt. Trong số đồ ăn này có những loại nhỏ như gà, khỉ, vượn, nhím. Nhưng
cũng có những loài động vật lớn như lợn, trâu bò rừng, tê giác, voi. Có những
động vật có tốc độ rất nhanh, có những loài thú rất hung dữ. Những đối tượng
săn bắt như vậy thể hiện một hoạt động săn bắt rất đa dạng của cư dân Bắc Sơn.
Tuy nhiên trong số các di vật còn lại các nhà nghiên cứu chưa tìm thấy các khí
cụ săn bắt thú như mũi tên, mũi lao chẳng hạn. Có thể các khí cụ này được chế
tác bằng tre gỗ nên đã mục nát. Ngoài ra các đối tượng săn bắt khác nhau như
vậy gợi ý cho chúng ta thấy phải có những hình thức săn vây, săn đuổi để dồn
thú vào các cạm bẫy, nơi đón lõng hoặc các khe sâu. Nhìn chung trong các di
tích Hoà Bình và Bắc Sơn chưa gặp xương thú lớn còn đủ cả bộ của một cá thể;
cũng không có bằng chứng cho thấy có những đàn thú lớn với số lượng một loài
đông đảo. Điều đó cho thấy hoạt động săn bắt của cư dân ở đây là đa tạp, không
nhằm riêng vào một giống loài nào [Nguyễn Khắc Sử 1983].
Hái lượm là một hoạt động tìm kiếm thức ăn hàng
ngày của cư dân Bắc Sơn. Tuy nhiên chưa có một phân tích đáng tin cậy nào về
nguồn di tích thực vật trong văn hoá Bắc Sơn. Vì vậy chúng ta chỉ có thể biết
rõ các hoạt động thu lượm nhuyễn thể mà thôi. Do môi trường sông suối hạn chế,
nên hoạt động thu lượm nhuyễn thể trong văn hoá Bắc Sơn không phong phú và điển
hình như trong văn hoá Hoà Bình. Tầng văn hoá Bắc Sơn không dày và không đầy vỏ
ốc như các hang động Hoà Bình. Tuy vậy chúng ta cũng không thể phủ nhận được
tầm quan trọng của hoạt động khai thác nhuyễn thể trong cộng đồng người Bắc
Sơn. Có thể coi Hang Làng Cườm là một di tích điển hình cho hoạt động này. Địa
tầng hang Làng Cườm dày tới 3 m thì ở độ sâu 3 - 2.8m hoàn toàn là ốc núi. Từ
độ sâu 2.8 m trở lên chỉ phát hiện được vỏ ốc suối, gồm các loài Vivipara
Melania, Cyclophorus, Hybocystis, Hylix, Unio
và Anodonta [Mansuy, H. 1925]. Cư dân Hang Dơi cũng thu lượm ốc núi
miệng tròn (Cyclophorus fulguratus), ốc núi thân dài (Hybocystis
crossei), ốc văn thân dài sống dưới suối (Antimelania). Như vậy đối
tượng thu lượm nhuyễn thể của cư dân Bắc Sơn không chỉ là các loài ốc sống trên
cạn, gần núi đá, mà chủ yếu là loài sống trong môi trường sông suối. Riêng loài
trai thấy nhiều tại các di tích Phai Vệ II và địa điểm Mai Pha bên sông Kỳ Cùng
gần thị xã Lạng Sơn.
Một trong những vấn đề gây nhiều tranh luận là
chủ nhân văn hoá Bắc Sơn thuộc chủng tộc nào? Trước đây, do ảnh hưởng của quan
điểm thực dân, học giả người Pháp R. Verneau cho rằng ba cốt sọ ở phố Bình Gia
là thuộc giống người Cro-Magnon
(Pháp). Còn H. Mansuy thì cho là cốt sọ di chỉ Đồng Thuộc vừa có nét Indonesien hiện đại, lại vừa có nét
người Homo sapiens châu Âu. Đó là
những người đã mang kỹ thuật mài đá từ châu Âu vào văn hoá Bắc Sơn. Quan điểm
này đã bị các học giả Việt Nam bác bỏ hoàn toàn [Hà Văn Tấn 1962]. Đặc
biệt tại di chỉ làng Cườm phát hiện được khoảng xấp xỉ 100 cá thể người. Cho
đến nay kết quả nghiên cứu 18 sọ đã được công bố và được các học giả Pháp cho
là thuộc các chủng Melanesien,
Indonesien, Australoide, trong đó có 4 sọ thuộc hỗn chủng Australoide-Melanesien,
Indonesien-Mongoloide, Indo-Melanesien, Negrito-Melanesien [Viện Bảo tàng
Lịch sử Việt Nam 1969; H. Mansuy 1924, 1925; Mansuy et M. Colani 1925; Saurin
1939; Verneau 1909; ]. Một số nhà nghiên cứu Việt Nam coi Indonesien là loại hình trung gian giữa Mongoloide và Australo-Negroide
[Nguyễn Lân Cường 1988]. Nếu những giám định trên là đúng thì chủ nhân văn
hoá Bắc Sơn là kết quả hoà huyết của nhiều nguồn cư dân khác nhau, và sự hỗn
chủng diễn ra khá mạnh, trong đó yếu tố đen vẫn còn đậm nét hơn yếu tố vàng.
Đối với tiền sử Việt Nam, cư dân Bắc Sơn đã có
những đóng góp xứng đáng. Cùng với người Hoà Bình, chính họ đã kế tục truyền
thống công cụ cuội của người Sơn Vi trước đó. Cùng với người Hoà Bình, họ đã
tạo nên khâu nối giữa hai dòng kỹ thuật công cụ đá cuội Việt Nam, là Hoà Bình -
Bắc Sơn, và đã mở ra một thời kỳ mới có tính chất cách mạng trong kỹ thuật tiền
sử, đó là việc phát triển mạnh mẽ kỹ thuật mài trên nền tảng kỹ thuật công cụ
mảnh tước kế thừa từ truyền thống mảnh tước của cư dân Ngườm, để có được những
công cụ mài nhỏ nhắn, định hình và khá tinh xảo. Trong một mức độ nào đó, sự
phát triển mạnh kỹ thuật mài của cư dân Bắc Sơn đã có tác dụng thúc đẩy và khơi
dậy tiềm năng của các cư dân láng giềng, đặc biệt là người Soi Nhụ đồng thời ở
khu vực núi đá vôi vịnh Hạ Long ngày nay.
Văn hoá Soi Nhụ: Các nhà địa chất cho rằng
cách ngày nay khoảng 18.000 năm về trước, lúc băng hà cuối cùng (Wurm muộn)
phát triển thì mực nước biển Đông vẫn còn ở độ sâu từ 110 – 120 m so với mực
nước biển hiện nay. Khi băng tan vào khoảng 17.000 năm trước thì mực nước đại
dương dần dần dâng lên. Người ta gọi đây là đợt biển tiến Flandrian. Nhưng vào
ranh giới của Pleistocene và Holocene cách ngày nay khoảng 10.000 năm, mực biển
cũng mới chỉ đạt tới độ sâu từ 50 – 60 m so với mực biển hiện tại. Khoảng 7000
đến 8000 năm trước, mực biển dao động ở độ sâu khoảng 25 – 70 m. Từ 4500 – 5000
năm trước mực biển đạt tới cực đại, cao hơn mực biển hiện nay khoảng 5m [Lưu
Tỳ, Nguyễn Thế Tiệp, Nguyễn Tứ Dần ... 1985]. Vậy là vào thời kỳ văn hoá Hoà
Bình và Bắc Sơn, trên vùng đất rộng vài nghìn km2 của tỉnh Quảng
Ninh và khu vực vịnh Hạ Long ngày nay, là một đồng bằng cổ. Trong khu vực này
đã tồn tại một cộng đồng cư dân tiền sử lớn. Họ sống trong các hang động đá vôi
trên một địa bàn hoàn toàn độc lập so với các cư dân Hoà Bình, Bắc Sơn cùng
thời và đã sáng tạo ra một nền văn hoá song song tồn tại với các văn hoá Hoà
Bình và Bắc Sơn, đó chính là nền văn hoá Soi Nhụ.
Tuy được định danh muộn (1997) [Hà Hữu Nga 1998;
Hà Hữu Nga, Nguyễn Văn Hảo 1999; Hà Hữu Nga 2000 ; Tỉnh uỷ, Uỷ ban Nhân
dân tỉnh Quảng Ninh 2001], nhưng trên thực tế các di tích đầu tiên của nền văn
hoá Soi Nhụ đã được phát hiện từ trước đó 60 năm. Đầu năm 1938, nhà địa chất –
khảo cổ học Thuỵ Điển J. G. Andersson lần đầu tiên đến nghiên cứu khảo cổ học
tại khu vực vịnh Hạ Long và Bái Tử Long. Tại đây ông đã phát hiện được một loạt
hang động chứa đầy vỏ ốc suối nước ngọt và ốc núi. Dù xuất thân là nhà địa chất
học, nhưng Andersson đã không trả lời được câu hỏi: tại sao lại có những đống
tích tụ vỏ ốc nước ngọt trong các hang động giữa biển khơi mênh mông này. Lúc
đó khoa học địa chất chưa biết đến đợt biển thoái vào thời băng hà Wurm, nên
ông không biết rằng khu vực vịnh Hạ Long thời đó còn là đất liền. Vì vậy ông
gọi sự tồn tại của vỏ ốc nước ngọt trong các hang động ở đó là một “bí ẩn” và
cho rằng người tiền sử đã vượt biển vào đất liền bắt ốc về ăn. Còn đống vỏ ốc
nước ngọt khổng lồ tại hang Đục (nay là hang Tiên Ông) thì được Andersson giải
thích là cư dân cổ đã vượt biển sang đảo Cát Bà bắt về. Cùng năm đó, Madelaine
Colani cũng phát hiện được hang Đồng Cẩu (làng Yên Mỹ, nay thuộc Hoành Bồ) có
tích tụ ốc suối, bà cho đó là “đống rác bếp Bắc Sơn” vì ở độ sâu 1.2m, Colani
đã tìm được ba chiếc rìu mài lưỡi. Ngoài ra bà còn phát hiện được một di tích
vẫn được các nhà khảo cổ học Việt Nam gọi theo E. Saurin là “Hoà Bình ngoài
trời” tại Giáp Khẩu, nay thuộc phường Hà Khánh thành phố Hạ Long.
Ba mươi năm sau phát hiện của Andersson và
Colani, vào năm 1967 các nhà nghiên cứu Việt Nam đã tiến hành khai quật địa
điểm khảo cổ học Soi Nhụ thuộc huyện đảo Vân Đồn ngày nay. Ba nhóm di vật –
tích tụ tầng văn hoá, đồ đá mài lưỡi, và đồ gốm – cho thấy Soi Nhụ bao gồm hai
văn hoá thuộc hai thời đại hoàn toàn khác nhau. Hang giữa chứa trầm tích
Pleistocene, các công cụ đá, những chiếc nạo bằng mảnh tước cuội, rìu mài lưỡi
đơn sơ cùng với vỏ ốc nước ngọt đã chứng tỏ thời gian ấy khu vực này vẫn còn là
đất liền. Các kết quả xác định niên đại C14 từ mẫu nhuyễn thể nước ngọt lấy từ
hang Giữa cũng cho thấy các di tích văn hoá ở đây có niên đại Pleistocene. Mẫu
có niên đại sớm là 15.650 ± 180 năm cách ngày nay. Mẫu có niên đại muộn cũng
tới 12.460 ± 60 năm cách ngày nay. Tuy nhiên đó chưa phải là các niên đại C14
sớm nhất trong các hang động thuộc văn hoá Soi Nhụ. Tại mái đá Ông Bẩy (Cát
Bà), một mẫu C14 vỏ ốc núi từ tầng văn hoá có niên đại 16.630 ± 120 năm cách
ngày nay. Sớm nhất là mẫu ốc núi tại hang áng Mả (Cát Bà) có niên đại 25510 ±
220 năm cách ngày nay, còn sớm hơn cả những niên đại sớm nhất của các di chỉ
Hoà Bình, và thậm chí còn sớm hơn cả niên đại sớm nhất của di chỉ Ngườm. Vì vậy
về phương diện thời gian, những bằng chứng niên đại rất sớm đó đã giúp khẳng
định rằng cư dân tiền sử khu vực văn hoá Soi Nhụ là những nhóm người tại chỗ,
không phải là hậu duệ của các nhóm người Hoà Bình, Bắc Sơn, vì vậy không thể
coi văn hoá Soi Nhụ đơn thuần chỉ là “nhóm di tích sau Hoà Bình - Bắc Sơn”. Hơn
nữa, về phương diện không gian, “nhóm di tích” đó phân bố trên một diện tích
quá rộng (hơn 2000 km2), rộng hơn cả địa bàn phân bố của văn hoá Bắc
Sơn. Đó là một vùng trải suốt từ Kinh Môn (Hải Dương), Đông Triều và Yên Hưng
(Quảng Ninh); từ Thuỷ Nguyên ra đến Cát Bà (Hải Phòng); bao gồm từ vịnh Hạ Long
vào đến Hoành Bồ, Cẩm Phả và vươn ra toàn bộ khu vực vịnh Bái Tử Long và huyện
đảo Vân Đồn. Vào giai đoạn muộn, người Soi Nhụ đã phát triển nền văn hoá của
mình lên cả khu vực Ba Chẽ, Quảng Hà, tối thiểu là cho đến Móng Cái. Cho đến
nay, dù thống kê chưa đầy đủ thì số lượng di tích của nền văn hoá này cũng đã
lên đến hơn 30 địa điểm hang động.
Về lối sống, so với các nhóm người thuộc các văn
hoá Hoà Bình và Bắc Sơn, người Soi Nhụ sống kề với biển. Có thể nói rằng người
Soi Nhụ là các nhóm cư dân tiếp xúc với biển đầu tiên trong số tất cả các nhóm
cư dân sống trên lãnh thổ Việt Nam vào giai đoạn cuối Pleistocene - đầu
Holocene. Nếu như khi bước vào đầu thời kỳ Holocene các nhóm người Hoà Bình và
Bắc Sơn phát triển theo định hướng làm nông thì người tiền sử Soi Nhụ lại lựa
chọn một con đường hoàn toàn khác. Lúc đó tối đa thì đường bờ biển cũng chỉ còn
cách đảo Cát Bà 40 – 50 km về phía đông. Và đến khoảng 7000 – 8000 năm trước,
đường bờ biển còn cách đảo Cát Bà ngày nay khoảng 15 - 20 km. Lựa chọn tối ưu
của người Soi Nhụ là sống với biển, trở thành cư dân biển và khai thác biển.
Không ai khác, người Cái Bèo lớp sớm ở đảo Cát Bà chính là hậu duệ trực tiếp
của cư dân Soi Nhụ, và họ là các tổ tiên sớm nhất của các cư dân biển Việt Nam.
Còn một vấn đề rất quan trọng khác trong các
nghiên cứu tiền sử về ngôn ngữ, tộc thuộc, và vì vậy mà liên quan đến cả những
vấn đề nhậy cảm sắc tộc, đó là vấn đề nguồn gốc của các cư dân sử dụng ngôn ngữ
Nam Đảo (Malayo-Polynesian). Hầu hết các nhà tiền sử New Zealand và Úc đều cho
rằng các cư dân nói ngôn ngữ Nam Đảo – trong đó có người Champa, người Raglay,
người Chu Ru, người Ê Đê và người Jarai ở Vịêt Nam - có nguồn gốc từ Nam Trung
Quốc, mà cụ thể là từ đảo Đài Loan. Người đi tiên phong trong việc đề xướng và
chứng minh cho lý thuyết này là Peter Bellwood. Ông cho rằng sự lan toả chủ yếu
của nền văn hoá Đá mới từ Đài Loan ra toàn bộ Đông Nam Á Hải đảo đã diễn ra vào
thời kỳ sau 4000 năm cách ngày nay. Và chính những cư dân này đã đem ngôn ngữ
Malayo-Polynesian đến các khu vực khác nhau thuộc Đông Nam Á [Bellwood P.
1997]. Mô hình truyền bá văn hoá của Bellwood không đủ sức thuyết phục, vì ai
cũng biết rằng trước 4000 năm rất lâu, toàn bộ Đông Nam Á hải đảo đã có một nền
văn hoá hậu kỳ đá cũ và sau đó phát triển thành đá mới. Vì vậy không nhất thiết
phải có sự truyền bá văn hoá từ vùng khác đến thì lịch sử tộc thuộc và ngôn ngữ
ở đây mới xuất hiện và phát triển. Còn Đông Nam Á lục địa thì dựa trên nền tảng
văn hoá Hoà Bình, Bắc Sơn và Soi Nhụ đã có rất nhiều con đường đá mới hoá khác
nhau để phát triển nông nghiệp, ngôn ngữ và lịch sử tộc thuộc của mình.
Đối với trường hợp văn hoá Soi Nhụ, và kế thừa nó
là văn hoá Cái Bèo và văn hoá Hạ Long, nếu theo truyền bá luận như Bellwood,
người ta có thể vạch ra một con đường ngược lại. Bước vào sơ kỳ đá mới, cách
ngày nay khoảng 6500 đến 6000 năm, khi mực nước biển Đông còn thấp, các cư dân
Cái Bèo, hậu duệ của văn hoá Soi Nhụ chuyên khai thác biển đã men theo các dải
ven biển tiến về các đảo vùng Đông Á, trong đó có Đài Loan. Tuy nhiên ngày nay,
các mô hình lý giải tiền sử theo truyền bá luận đơn tuyến đã tỏ ra là không phù
hợp với thực tế dữ liệu. Và nó đã được thay thế bằng lý thuyết tương tác mạng
và phát triển nội sinh về phương diện văn hoá. Vì vậy sự phát sinh nông nghiệp
và ngôn ngữ của Đông Nam Á hoàn toàn có thể được lý giải là những quá trình
phát triển nội sinh trong mối tương tác, ảnh hưởng qua lại với các khu vực xung
quanh. Tác động ảnh hưởng qua lại đó thể hiện rất rõ trong đặc điểm nhân học
thể chất của các chủ nhân văn hoá Soi Nhụ. Tại Hang Soi Nhụ đã phát hiện được
ít nhất là 5 cá thể người, trong đó có 3 nữ và hai nam. Qua các chỉ số cốt sọ,
người cổ Soi Nhụ rất khoẻ mạnh, họ có nhiều nét gần gũi với người Quỳnh Văn thể
hiện qua xương sên. Đó là loại xương ngắn và cao, với chỉ số cao – dài là 55.6,
gần với chúng Negrito và người Polynesian quen thuộc tại các vùng Đông
Nam Á và châu Đại Dương. Trong khi đó các số đo hàm lại gần với người Quỳnh Văn
và tương đồng với chủng Mongoloid.
Các đặc điểm trên giúp chúng ta có thể dự đoán về một quá trình hỗn huyết giữa
các nhóm Đông Nam Á và Đông Á trong giai đoạn nước biển Đông còn rất thấp và có
những chiếc cầu đất nối liền giữa các khu vực ngày nay đã bị biển cả chia cắt.
Lâu nay trong tiền sử Việt Nam, hai nền văn hoá
Hoà Bình và Bắc Sơn vẫn được coi là hai cội nguồn trực tiếp duy nhất của các
văn hoá đá mới, và cũng là cội nguồn trực tiếp của cuộc cách mạng đá mới, cuộc
cách mạng nông nghiệp trên đất nước ta. Đó là con đường của văn hoá Đa Bút ở
Thanh Hoá; con đường của văn hoá Quỳnh Văn ở Nghệ An – Hà Tĩnh; con đường Bàu
Dũ ở Quảng Nam; và con đường Cái Bèo ở Hải Phòng – Quảng Ninh . Sự tồn tại
khách quan của văn hoá Soi Nhụ đồng thời với các văn hoá Hoà Bình và Bắc Sơn là
một điểm nhấn quan trọng, một cơ sở để lý giải con đường phát triển của văn hoá
Cái Bèo và tiếp đó là văn hoá Hạ Long trong khu vực cửa ngõ vùng Đông Bắc nước
ta.
(Còn nữa….)
Tài liệu Tham khảo
Aung-Thwin, Michael 1985. Pagan: the
Origins of Modern Burma. Honolulu: University of Hawaii Press., p. 87.
Bellwood P. 1997. Prehistory of the
Indo-Malaysian Archipelago. 2nd Edition. Honolulu: University of Hawaii
Press.
Bentley, G. Carter 1986. Indigenous
States of Southeast Asia. Annual Review of Anthropology 15: 275 – 305.
Bowler, Sandra 2001. Nguồn gốc Châu á Khảo cổ học và Nhân học, trong
Bức khảm văn hoá Châu Á - Tiếp cận Nhân học (Grant Evans chủ biên), bản
tiếng Việt, do Cao Xuân Phổ dịch, Nhà xuất bản Văn hoá Dân tộc, Hà Nội 2001.
Trang 51.
Bùi Vinh 1993. Khai quật di chỉ Làng Còng (Thanh Hoá) – 1992. Trong Những
phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1992, Hà Nội, trang 50 -51.
Bùi Vinh 2003. Cư dân văn hoá Đa
Bút trong các đợt biển tiến (Nhận thức qua tư liệu Địa - Khảo cổ học ở Làng
Còng và Hang Sáo). Tạp chí Khảo cổ học, số 2 (122) (III-IV), trang
3-15.
Chử Văn Tần 1976. Tìm hiểu quá khứ xa xưa của Tây Bắc. Khảo cổ học, số 18-1976, trang 40-53.
Ciochon R.L, 1988. Gigantopithecus the King of all apes. Animal Kingdom,
Vol. 91, No. 2, 1988.
Colani, M. 1928. Notice sur la préhistoire du
Tonkin, BSGI, vol. XVIIIV, 1, pp. 71-72.
Diệp Đình Hoa 1978: Về những hiện vật
kim loại ở buổi đầu thời đại đồ đồng thau Việt Nam, Tạp chí Khảo cổ học số 2, trang 11-20.
Donald, M. 1991. Origins of the Modern Mind: Three Stages in the
Evolution of Culture and Cognition. Cambridge, MA: Harvard University
Press.
Đào Qúi Cảnh 2004. Vấn đề nông nghiệp trong văn hoá Hoà Bình ở Việt Nam.
Trong Một thế kỷ Khảo cổ học Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà
Nội. Trang 64.
Đào Thế Tuấn 1988. trang 44. Về những hạt gạo cháy phát hiện ở
Đồng Đậu (Vĩnh Phú) năm 1984. Tạp chí Khảo cổ học, số 4, trang 44-46.
Earle, Timothy, ed. 1991. Chiefdom:
Power, Economy and Ideology. New York: Cambridge University Press.
Eblen, Ruth A. and William R. Eblen, Editors 1994. The Encyclopedia of
the Environment. The René Dubos Center for Human Environments. Huston
Mifflin Company, Boston New York 1994. p. 4.
Eisler R. 1987. The Chalice and The Blade: Our History, Our Future.
New York, Harper & Row, 1987.
Gardner, H. 1997. Thinking about thinking. New York Review of Books.
9-10-1997.
Gorman C.E. 1970. Excavations at Spirit Cave, North Thailand: some
interim interpretations. Asian Perspectives 13: 79-107.
Gorman C.E. 1971. The Hoabinhian and after: subsistence patterns in
Southeast Asia during the late Pleistocene and early Recent periods. World
Archaeology 2 (3): 300 – 320.
Grenier, Louise 1998. Working with Indigenous Knowledge, a Guide for
Researchers. International Development Research Centre, Ottawa,
Canada. pp. 1-9.
Hà Hữu Nga 1982. Thời đại đá mới Việt
Nam: Môi trường – Văn hóa và một mô hình tổng quát. Trong Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 1982.
Hà Nội.
Hà Hữu Nga, Nguyễn Cường, và Bùi Vinh 1996. Báo cáo Khai quật di chỉ Mai
Pha (Lạng Sơn). Tư liệu Viện Khảo cổ học.
Hà Hữu Nga 1998. Có một nền văn hoá Soi Nhụ tại khu vực vịnh Hạ Long.
Kỷ yếu Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 1997. Hà Nội 1998, trang
91.
Hà Hữu Nga, Nguyễn Văn Hảo 1999. Hạ Long thời tiền sử. Nhà xuất bản
Thế giới, Hà Nội 1999.
Hà Hữu Nga 2000. Soi Nhụ – Nền
văn hoá cổ nhất hiện biết trên vịnh Hạ Long. Hội thảo Vịnh Hạ Long 5
năm di sản Thế giới, do UBND Tỉnh Quảng Ninh – Bộ Văn hoá Thông tin và Uỷ ban
UNESCO Việt Nam tổ chức, Hạ Long 4-2000, trang 72-80.
Hà Hữu Nga 2004. Khảo cổ học Đông
Bắc Việt Nam từ những hệ thống sinh thái nhân văn tới các cấu trúc xã hội tiền
nhà nước. Trong Một thế kỷ Khảo cổ học Việt Nam, Tập I, Nhà xuất bản
Khoa học Xã hội, năm 2004. Trang 117-139.
Hà Văn Tấn 1962. Về vấn đề người
Indonesian và loại hình Indonesian trong thời đại nguyên thuỷ Việt Nam.
Thông báo Khoa học Đại học Tổng hợp, Sử học I, trang 168 – 202.
Hà Văn Tấn 1976. Nguồn gốc văn hóa Phùng Nguyên và vấn đề
Tiền Việt Mường (một giả thiết công tác mới).
Hà Văn Tấn 1982. Từ Bàu Tró đến Sa Huỳnh. Trong Những
phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1980, Hà Nội, trang 142-144.
Hà Văn Tấn 1984. Lớp dăm đá vôi ở
Ngườm với khí hậu cuối Pleistocene ở Đông Nam á. Kỷ yếu Những phát hiện
mới về Khảo cổ học năm 1984, trang 18-20.
Hà Văn Tấn 1986. Kỹ nghệ Ngườm
trong một phối cảnh rộng hơn. Tạp chí Khảo cổ học, số 3, 1986, trang 3-10.
Hà Văn Tấn (chủ biên) 1998. Khảo cổ học Việt Nam. Tập I. Thời đại đá Việt
Nam. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội. Trang 76.
Hà Văn Tấn (chủ biên) 1999. Khảo cổ học Việt Nam. Tập II. Thời đại kim khí Việt Nam.
Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội.
Hà Văn Tấn, Nguyễn Xuân Mạnh,...1985. Khai
quật lần thứ hai di chỉ Thành Dền (Hà Nội), trong Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 1984, trang 95.
Hà Văn Tấn (chủ biên) 1998. Khảo cổ học Việt Nam. Tập I. Thời đại đá Việt
Nam. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội. Trang 60 – 63.
Hà Văn Tấn, Bùi Vinh và Võ Qúi 1990.
Những dấu hiệu về một nền văn hoá khảo cổ mới ở Hà Tuyên. Tạp chí Khảo cổ học, số 1-2-1990. trang 34-38.
Hall, Keneth R. 1985. Maritime Trade
and State Development in Early Southeast Asia. Honolulu: University of
Hawaii Press.
Higham, Charles F. W. 1989. The later
Prehistory of Mainland Southeast Asia. Journal of World Prehistory 3: 235 –
282.
Hoàng Xuân Chinh và Nguyễn Văn Bình 1978. Điều tra khảo cổ học thời đại
đá cũ ở Đồng Nai và Sông Bé. Kỷ yếu Những phát hiện mới về Khảo cổ học
năm 1978.
Hodder, Ian 1991. Reading the Past – Current Approaches to
Interpretations in Archaeology. Second Edition. Cambridge University Press.
pp. 121-149.
Lê Văn Thuế, Vũ Thế Long 1976. Nghiên
cứu di tích xương răng động vật ở di chỉ Hoa Lộc (Thanh Hóa). Trong Những
phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1976, Hà Nội, trang 145.
Lê Văn Thuế – Vũ Thế Long 1986. Di cốt động vật ở Hang Dơi (Lạng Sơn).
Trong Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1985, Hà Nội 1986, trang
49.
Lê Xuân Diệm – Phạm Quang Sơn – Bùi
Chí Hoàng 1991. Khảo cổ học Đồng Nai thời
Tiền sử. Nhà xuất bản Đồng Nai.
Lưu Tỳ, Nguyễn Thế Tiệp, Nguyễn Tứ
Dần ... 1985. Đặc điểm địa mạo thềm lục
địa Việt Nam và các vùng lân cận, Tạp chí Khảo cổ học, số 2-1985, trang 16 – 18.
Mansuy H. 1924. Stations préhistoriques dans les carvenes du massif calcaire
de Bacson (Tonkin). MSGI. Vol. 11,No. 2.
Mansuy H. 1925. Stations préhistoriques de Keo Phay (suit) de Khac Kiem
(suit) de Lai Ta (suit) et Bang Mac dans le massif calcaire de Bac Son (Tonkin).
MSGI. Vol. 12, No. 2.
Mansuy H. et M. Colani 1925. Néolithique inferieur (Bacsonien) et
néolithique superieur dans les Haut Tonkin. MSGI. 12, f.3.
Mansuy, H. 1925. Nouvelles de cauvertes dans les carvens du massif
calcaire de Bac Sơn (Tonkin). MSGI. Vol. 12, N0
1, p. 34.
Mithen, Steven J. 1996. The Prehistory of the Mind: The Cognitive
Origins of Art, Religion and Science. Cambridge: Cambridge University
Press.
Nguyễn Cường 2002. Văn Hoá Mai Pha. Sở Văn hoá Thông tin Lạng Sơn,
trang 90.
Nguyễn Duy và Nguyễn Quang Quyền
1966. Nghiên cứu về hai sọ cổ ở Quỳnh Văn – Nghệ An. Trong Một số báo
cáo về Khảo cổ học Việt Nam. Hà Nội, trang 351-366.
Nguyễn Duy Tỳ, Đào Linh Côn 1985. Kỹ thuật luyện kim đồng thau ở địa điểm Dốc
Chùa. Tạp chí Khảo cổ học, số 3, trang 24-30.
Nguyễn Đình Khoa 1986. Con người
thuộc văn hoá Hoà Bình. Tạp chí Khảo cổ học số 1-1986.
Nguyễn Khắc Sử 1983. Sự phát
triển kinh tế và tổ chức xã hội của cư dân cổ Cúc Phương, Tạp chí Khảo
cổ học, số 1 - 1983, trang 20.
Nguyễn Khắc Sử 1995. Văn hóa Biển Hồ
ở Tây Nguyên. Tạp chí Khảo cổ học, số 3- 1995, trang 7 – 16.
Nguyễn Khắc Sử và cộng sự 1998. Báo cáo điều tra khảo cổ học vùng ngập nước
tỉnh Lai Châu (chủ biên). Tư liệu Viện Khảo cổ học.
Nguyễn Kim Thuỷ 2004. Cư dân Đa
Bút qua tài liệu Sinh khảo cổ. Tạp chí Khảo cổ học, số
1 (127) (I-II), trang 15-23.
Nguyễn Lân Cường 1977. Di cốt người cổ ở hang Con Moong. Kỷ yếu
Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1976. Hà Nội 1977. Trang 112
Nguyễn Lân Cường 1988a. Trở lại
vấn đề niên đại của hoá thạch người ở Việt Nam. Tạp chí Khảo cổ học
số 1-2, 1988, trang 4-11.
Nguyễn Lân Cường 1988b. Di cốt
người cổ trên đất Lạng Sơn. Tuyển tập luận văn Hội nghị khoa học Xứ Lạng,
Lạng Sơn 1988, trang 39.
Nguyễn Lân Cường 1992. Những hoá
thạch người cổ ở Việt Nam và Đông Nam á trong thời kỳ Pleistocene. Tạp chí Nghiên
cứu Đông Nam á, số 1, trang 5-12.
Nguyễn Lân Cường 1996. Đặc điểm
nhân chủng cư dân văn hoá Đông Sơn
ở Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà
Nội 1996.
Nguyễn Thị Kim Dung 1986. Báo cáo khai quật công xưởng Tràng Kênh lần
thứ hai. Tư liệu Viện Khảo cổ học.
Nguyễn Thị Kim Dung, Đặng Văn
Thắng...1995. Đồ trang sức
trong mọ chum ở Cần Giờ. Trong Khảo cổ học, số 2, trang 27-45.
Nguyễn Trung Chiến 2003. Mối quan
hệ và liên hệ ở bình tuyến đá mới hậu Hoà Bình – Bắc Sơn ven biển Đa Bút –
Quỳnh Văn – Cái Bèo – Bàu Dũ. Tạp chí Khảo cổ học, số 4 (124) (VII-VIII),
2003, trang 11 - 12.
Nguyễn Trường Kỳ 1983. Bước đầu tìm hiểu nghề thủy tinh ở nước ta.
Tạp chí Khảo cổ học, số 1, trang
47-54.
Nguyễn Văn Long và Lê Trung Khá
1977. Về những hiện vật đá cũ mới tìm được ở Vườn Dũ (Sông Bé) và Gia Tân
(Đồng Nai). Tạp chí Khảo cổ học, số 4-1977.
Patte E. 1932. Le Kjokkenmodding néolithique de Dabut et ses sépultures
(province de Thanh Hoa, Indochine). BSGI, Vol. XIX, pt.3, 1932.
Phạm Đức Mạnh 1985. Qua đồng Long
Giao. Tạp chí Khảo cổ học, số 1,
trang 37 – 68.
Phạm Quang Sơn 1978. Bước đầu tìm hiểu sự phong phú văn hóa hậu
kỳ đá mới, sơ kỳ đồng thau ở lưu vực sông Đồng Nai. Tạp chí Khảo cổ học, số 1, trang 35-40.
Phạm Thị Ninh 1995. Văn hoá Bàu Tró
- đặc trưng và loại hình.Luận án Phó tiến sĩ, Khoa học lịch sử, Hà Nội, trang 9
– 11.
Sahlins. M.D., and E. R. Service, eds. 1960. Evolution and Culture.
Ann Arbor: University of Michigan Press.
Saurin E. 1939. Les cranes
préhistoriques inédit de Lang Cuom. Far Eastern
Association of Tropical Medicine 10ème Congrès. T. I. Hanoi.
Saurin E. 1956. Outilage Hoabinhien à
Giap Khau, Port Courbet (Nord Vietnam). BEFEO. Vol.
XLVIII, No. 2, 1956.
Sharer, Robert J. and Wendy Ashmore 1992. Archaeology Discovering Our
Past. Second Edition. Mayfield Publishing Company, Mountain View,
California. London . Toronto. Pp. 561-562.
Taylor, Keith W. 1992. The early Kingdoms.
Pp. 137 - 182 in The Cambridge History of
Southeast Asia, N. Tarling, ed. Cambridge: Cambridge University Press. P.
181.
Tỉnh uỷ, Uỷ ban Nhân dân tỉnh Quảng
Ninh 2001. Địa chí Quảng Ninh. Tập I, Nhà xuất bản Thế giới, Hà Nội,
trang 421.
Trần Quốc Vượng 1974. Vài suy nghĩ tản mạn về trống đồng.
Trong Khảo cổ học, số 14, Hà Nội, tr.
71-81.
Trần Quốc Vượng 1986. Văn hoá Hoà
Bình, văn hoá Thung lũng. Tạp chí Khảo cổ học, số 2-1986, trang 1- 6.
Trần Quốc Vượng 1993. Mấy nét
khái quát lịch sử cổ xưa về cái nhìn về biển của Việt Nam, Tạp chí Nghiên
cứu Đông Nam Á, số 1, 1993.
Trần Quốc Vượng 1996. Mấy ý kiến về trống đồng và Tâm thức Việt cổ.
Trong Theo dòng lịch sử - Những vùng đất,
thần và tâm thức người Việt. Nxb. Văn hóa, Hà Nội, tr 39-65.
Trần Quốc Vượng 2000. Việt Nam và
biển Đông, Tạp chí Văn hoá dân gian, số 3(71), 2000.
Trình Năng Chung 1991. Kỹ nghệ
Ngườm và văn hoá Bắc Sơn, Tạp chí Khảo cổ học, số 2, trang 16 – 21.
Verneau R. 1909. Les cranes humains
du gisement de Pho Binh Gia (Tonkin). L’Anthropologie. No. 20: 545-549.
Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam 1969. Những hiện vật tàng trữ tại Viện
Bảo tàng Việt Nam về văn hoá Bắc Sơn, Hà Nội, trang 140.
Vũ Quốc Hiền, Chu Văn Vệ 1996. Công cụ đá và đồ trang sức bằng vỏ nhuyễn
thể ở di chỉ Bích Đầm (Khánh Hòa). Trong Những phát hiện mới về Khảo cổ
học năm 1976, Hà Nội, trang 90.
Vũ Thế Long, Lê Trung Khá, và Hoàng
Văn Dư 1977. Khai quật Thẩm ồm (Nghệ An) đợt I. Kỷ yếu Những phát hiện mới
về Khảo cổ học năm 1977, trang 13.
Vũ Thế Long 1982. Về những chiếc
răng vượn khổng lồ. Kỷ yếu Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1982,
trang 67-69.
Vũ Thế Long 1984. Người Hoà Bình
và thế giới động vật. Tạp chí Khảo cổ học, số 1-2, 1984. Trang 126.
Vũ Thế Long, Hà Hữu Nga 2004. Phát
hiện công cụ thời đại đá cũ ở Đak Lak. Kỷ yếu Những phát hiện mới về
Khảo cổ học năm 2003. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội.
Wheatley, Paul 1979. Urban genesis in
mainland South East Asia. Pp. 288 – 303 in Early South East Asia: Essays in Archaeology, History and Historical
Geography. R. B. Smith and W. Watson, eds. New York: Oxford University
Press.
Weidenreich, F. 1943 “The skull of Sinanthropus pekinensis”,
Palaeontologica Sinica (n.s. D), Vol. 10, pp. 1 – 298.
Welch, David and Rudith R. McNeill 1991. Settlement, agriculture and population changes in the Phi Mai region,
Thailand. Pp. 210 – 228 in Indo-Pacific
Prehistory 1990: Proceedings of the 14th Congress of the
Indo-Pacific Prehistory Association, Yogyakarta, Indonesia, vol. 2.
Bulletin of the Indo-Pacific Prehistory Association 11.
Wisseman C. Jan 1985. Theater States
and Oriental Despotisms: Early Southeast Asia in the Eyes of the West.
Hull: University of Hull Center for South-East Asian Studies Occasional Paper
no. 10., p.9.
Wisseman C. Jan 1992. Trade and
settlement in early Java: integrating the epigraphic and archaeological data.
Pp. 181 – 197 in Early Metallurgy, Trade
and Urban Centers in Thailand and Southeast Asia. I. Glover, P. Suchitta,
and J. Villiers, eds. Bankok: White Lotus.
White C. Joyce. 1995. Incorporating
Heterarchy into Theory on Socio-Political Development: The Case from Southeast
Asia. In Heterarchy and the Analysis
of Complex Societies. Robert. M. Ehrenreich, Carole L. Crumley, and Janet
E. Levy, eds. Archaeological Papers of the American Anthropological
Association, Number 6. Arlington, Va.: American
Anthropological Association. Pp. 101 – 123.
Wolter, O. W. 1982. History, Culture, and Region in Southeast Asian Perspectives. Singapore: Institute of Southeast Asian Studies.
Wolter, O. W. 1982. History, Culture, and Region in Southeast Asian Perspectives. Singapore: Institute of Southeast Asian Studies.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét