Tiền sử Việt Nam (IV)
Người viết: Hà Hữu Nga
Theo đặt hàng của GS. Phan Huy Lê (2005)
Lưu ý đầu trang: Đây là bản draft đầu tiên tôi [Hà Hữu Nga] viết theo đặt hàng của GS. Phan
Huy Lê, dưới sự hướng dẫn của GS. Trần Quốc Vượng. Vì vậy xin có ba lưu ý quan
trọng:
1. Bản draft này được lưu ở đây
với tư cách cá nhân và là bản draft chưa được chỉnh sửa.
2. Mọi hình thức sử dụng như: sao
chép, trích dẫn v.v…là không hợp lệ.
3.Vì GS. Trần Quốc Vượng ốm nặng và
mất trước khi đọc bản draft này vào năm 2005 nên mọi sai sót có trong draft đều
thuộc về người viết; nhiều quan điểm trong bài viết không chắc đã được GS. Trần
Quốc Vượng đồng ý.
2.3. Các con đường phát triển Hậu kỳ Đá
mới miền núi
Không giống với các con đường phát triển văn hoá
liên tục từ trung kỳ đến hậu kỳ đá mới khu vực đồng bằng và ven biển, các con
đường phát triển hậu kỳ đá mới miền núi có vẻ khó định hình về phương diện khảo
cổ học, vì các di tích và di vật thường lẫn với các thời đại trước và sau nó.
Tuy nhiên về phương diện lịch sử, sự tồn tại và phát triển của các bộ lạc hậu
kỳ đá mới miền núi là một sự thực khách quan không thể phủ nhận, trong đó có
những nền văn hoá, những khu vực văn hoá thực sự phát triển rực rỡ và có đóng
góp to lớn vào lịch sử văn hoá dân tộc Việt Nam. Dưới đây là một số con đường
phát triển đó.
Văn hoá Mai Pha: nền văn hoá
này được gọi theo tên di chỉ Mai Pha thuộc xã Mai Pha, thị xã Lạng Sơn [Hà Hữu
Nga, Nguyễn Cường, và Bùi Vinh 1996]. Cho đến nay đã phát hiện được 12 di chỉ
thuộc văn hoá Mai Pha gồm: Mai Pha, Ba Xã I (hang cao), Ba Xã II (hang phía
đông nam), Phia Điểm (lớp trên), Mè Bạc, Phia Thình, Kéo Vãng, Ngườm Sâu, Tu
Lầm, lớp mặt Hang Dơi, lớp mặt hang Lạng Nắc, Phai Vệ II [Nguyễn Cường 2002].
Cư dân Mai Pha thuộc vào giai đoạn Hậu Kỳ đá mới,
phân bố chủ yếu tại các khu vực phía đông và đông nam sơn khối đá vôi Bắc Sơn,
phần nào trùng với địa bàn phân bố của những nhóm người Bắc Sơn trước đó. Nhưng
địa bàn phát triển nhất của người Mai Pha lại là các thung lũng lớn và thuận
tiện cho việc làm nông, chăn nuôi và đặc biệt là việc phòng vệ như Mai Pha, Ba
Xã, khu vực cánh đồng Chi Lăng. Sưu tập hiện vật đặc trưng của người Mai Pha
gồm có các công cụ ghè đẽo kiểu Bắc Sơn, dấu Bắc Sơn, rìu bôn tứ giác, gốm màu,
gốm trang trí hoa văn hoa thị kết hợp trổ lỗ. Giống như hầu hết các bộ lạc hậu
kỳ thời đại đá mới, nền kinh tế của cư dân Mai Pha là một phức hợp bao gồm làm
nông, chăn nuôi qui mô nhỏ, làm thủ công, trao đổi đường dài (với các cư dân
thuộc các văn hoá Hạ Long, Hà Giang, và các nhóm cư dân khác đang chinh phục
đồng bằng và trung du Bắc Bộ. Các động vật nuôi gồm có trâu, lợn, chó. Các hoạt
động săn bắt và hái lượm vẫn đóng một vai trò quan trọng trong đời sống của
người dân Mai Pha. Rất nhiều tàn tích xương răng động vật bị đốt cháy, bị đập
vỡ, bị đẽo gọt còn bỏ lại trong các di chỉ Mai Pha. Riêng cuộc khai quật di chỉ
Mai Pha cũng đã thu được hơn 20 kg xương răng động vật. Trong tất cả các địa
điểm có dấu tích văn hoá Mai Pha đều tồn tại một khối lượng lớn tàn tích vỏ
nhuyễn thể. Người Mai Pha còn sử dụng vỏ trai sông Kỳ Cùng để đẽo gọt thành
những chiếc “bôn” có vai rất độc đáo. Dấu tích trao đổi với cư dân Hạ Long thấy
rất rõ qua sưu tập “tiền cổ” làm bằng vỏ ốc biển Cypraea rất phổ biến
tại vùng biển Hạ Long. Sưu tập vỏ ốc biển này thấy ở các địa điểm Mai Pha 4
tiêu bản, Lạng Nắc (lớp mặt) 2 tiêu bản, hang Ba Xã 2 tiêu bản. Trong khi đó
theo báo cáo của Mansuy thì loại hiện vật này phát hiện được rất nhiều tại hang
Ba Xã [Hà Văn Tấn (chủ biên) 1998, 261].
Không nghi ngờ gì nữa, chủ nhân của văn hoá Mai Pha
là con cháu của những người Bắc Sơn giai đoạn muộn. Trước giai đoạn biển tiến
Holocene trung, một số nhóm cư dân đã chuyển cư xuống đồng bằng ven biển, kết
hợp với các nhóm cư dân trung kỳ đá mới Cái Bèo. Một số nhóm còn lại đã phát
triển thịnh vượng tại một số khu vực thuộc sơn khối đá vôi Bắc Sơn, sau đó lấp
dần những chỗ trống của những nhóm đã chuyển đi. Các di chỉ Phai Vệ và Phia
Điểm (thị xã Lạng Sơn) là hai trong số các mô hình này. Xã hội Mai Pha không
đơn giản chỉ là một mô hình nông nghiệp thung lũng chân núi, mà còn là một xã
hội phức hợp làm nông, khai thác, thu lượm, chế tác gốm, và là một trung tâm
trao đổi Núi - Biển, Núi - Đồng bằng, Núi - Núi. Nhiều khả năng xã hội Mai Pha
có một cơ cấu tổ chức theo mô hình dân chủ quân sự. Đó là mô hình tự bảo vệ
mình khỏi các cuộc tấn công và tấn công các cộng đồng khác khi có điều kiện.
Các yếu tố tạo nên xã hội này gồm có thủ lĩnh quân sự lâm thời, hội đồng người
già, hội đồng những người đại diện các tiểu vùng và một hình thức hội nghị toàn
dân nào đó. Chỉ có như vậy thì cư dân Mai Pha mới có thể tồn tại và phát triển
được giữa một ngã tư đường của các nhóm người từ biển vào, từ đồng bằng lên, từ
khu vực Tả Giang và Hữu Giang của Quảng Tây tới. Có lẽ các chiến binh cung nỏ
sơn cước trong cuộc chiến chống quân Tần Hán và Triệu Đà chính là hậu duệ của
những người dân Mai Pha. Và vì vậy chí ít, khi hình thành nhà nước Văn Lang,
người Mai Pha cũng đã đóng góp cho nền văn hoá Việt cổ nghệ thuật quân
sự, tri thức trao đổi buôn bán đường dài xuyên rừng núi...vv.
Văn hoá Hà Giang: Cư dân Mai Pha
là kết quả của một truyền thống văn hoá lâu đời tại vùng sơn khối đá vôi Bắc
Sơn, trụ vững được tại con đường huyết mạch Tả Giảng - Hữu Giang (Quảng Tây)
sang đồng bằng sông Hồng của chúng ta. Trong khi đó, văn hoá Hà Giang lại là
kết quả của một sự kết hợp của các nhóm cư dân ven biển Hạ Long, trong quá
trình trao đổi đường dài theo tuyến sông Hồng - sông Lô - sông Gâm đã hỗn huyết
với các nhóm cư dân địa phương còn trụ lại từ thời hậu Hoà Bình. Các di tích
của văn hoá Hà Giang phân bố chủ yếu tại các tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang, Cao
Bằng, Bắc Cạn, và Thái Nguyên. Đây là địa bàn giáp gianh của văn hoá Bắc Sơn và
loại hình địa phương Hà Giang của văn hoá Hoà Bình. Trong văn hoá Hà Giang,
ngoài các yếu tố văn hoá Hoà Bình thuộc nhóm địa phương Hà Giang còn sót lại,
chúng ta thấy nổi bật những yếu tố văn hoá của người Hạ Long. Đặc biệt là loại
bôn có vai, có nấc. Ngoài ra rìu, bôn, cuốc nói chung, là loại công cụ lao động
điển hình của cư dân văn hoá Hà Giang. Loại hình công cụ này chiếm tới 95,4%
tổng số các loại hình công cụ đá của người tiền sử Hà Giang.
Người Hà Giang có lẽ là một trong số các cư dân hậu
kỳ đá mới giỏi chế tác vải vỏ cây nhất trên đất Việt Nam. Trong các địa điểm
thuộc văn hoá Hà Giang, cho đến nay đã thua thập được hàng chục tiêu bản thuộc
loại này. Chỉ riêng di chỉ Lò Gạch, thị xã Hà Giang cũng đã phát hiện được đến
11 tiêu bản. Một nghề thủ công khác cũng rất phát triển trong cộng đồng tiền sử
Hà Giang, đó là chế tác gốm. Phong cách gốm Hà Giang gợi lại phong cách gốm
Phùng Nguyên. Song, gốm Hà Giang vẫn có những đặc trưng riêng, trước hết là ở
chất liệu địa phương của chúng [Hà Văn Tấn, Bùi Vinh và Võ Qúi 1990]. Đó là
loại gốm pha cát hạt thô, vụn thạch anh vẫn còn cạnh sắc với các vảy mica óng
ánh trên vỏ gốm. Đặc biệt gốm hang động vùng Bắc Mê như hang Bó Khiếu và Bó
Buông lại có phong cách khác hẳn với gốm Hà Giang điển hình tại di chỉ Lò Gạch.
Đó là loại gốm có chân đế khoan lỗ, được tranh trí bằng văn in ô vuông đã được
phát hiện tại khu vực Bồ Chuyến (Hoàng Bồ) và đảo Cô Tô (Quảng Ninh). Vậy là cả
hai yếu tố văn hoá chủ đạo của cư dân Hà Giang là công cụ đá và sản phẩm gốm
đều có những nét gần gũi với các yếu tố cùng loại trong văn hoá Hạ Long và sau
Hạ Long. Điều đó chứng tỏ rằng người Hà Giang và người Hạ Long có những mối
quan hệ văn hoá rất gần gũi.
Như vậy, chúng ta có thể khẳng định rằng chủ nhân
văn hoá Hà Giang có thể gồm các nguồn sau: người Hạ Long theo đường sông qua
cửa Bạch Đằng, Nam Triệu tiến dần lên sinh cơ lập nghiệp tại các một số vùng của văn hoá Hà Giang ở
các tỉnh Việt Bắc ngày nay. Tại đây họ đã gặp gỡ và kết hợp với các nhóm cư dân
địa phương còn trụ lại từ thời kỳ hậu Hoà Bình, và các nhóm người này đã làm
thành một bộ lạc Hà Giang độc đáo, vừa mang bản sắc Núi, vừa mang bản sắc Biển.
Trong quá trình tồn tại và phát triển của mình, các cư dân Hà Giang vẫn không
ngừng giao lưu trao đổi với các bộ lạc xung quanh, đặc biệt là với các cư dân
Phùng Nguyên đang bướcvào thời đại sơ kỳ kim khí tại vùng châu thổ sông Hồng và
vùng Trung Du Bắc Bộ. Có lẽ cấu trúc xã hội của cư dân Hà Giang không giống với
cư dân Mai Pha láng giềng, cũng không giống với cư dân Phùng Nguyên đang trên
con đường bước vào thời đại kim khí. Họ có thể là những thương nhân kết nối hai
chiều Núi Biển theo tuyến sông Hồng qua Yên Bái lên Lao Cai và giao tiếp với cả
các bộ lạc thuộc vùng Vân Nam, và theo tuyến sông Lô, sông Gâm, sông Chảy, họ
cũng kết nối hai chiều Núi Biển với vùng Qúi Châu và một phần Quảng Tây ngày
nay. Vì vậy, khi nhà nước Văn Lang trở thành trung tâm thu hút các nền văn hoá
ven biển và miền núi, người Hà Giang đã đóng góp cho nền văn minh Việt cổ những
kinh nghiệm buôn bán đường dài theo các dòng sông mà không phải bộ lạc cũng có
thể so sánh được với cư dân Hà Giang.
Các cư dân hậu kỳ đá mới Tây Bắc:
vùng núi rừng Tây Bắc ngày nay thuộc phạm vi ba tỉnh Sơn La, Lai Châu, và Điện
Biên, nhưng cho đến nay, khảo cổ học mới chủ yếu phát hiện được các di tích hậu
kỳ đá mới tại tỉnh Sơn La. Cần phải khẳng định rằng hiện tượng biển tiến cực
đại Holocene trung và sự bùng nổ của các trung tâm nông nghiệp đá mới trên đất
nước ta là nguyên nhân phát tán ảnh hưởng văn hoá mạnh mẽ từ đồng bằng ven biển
lên miền núi, mà con đường phát tán ấy không đâu khác ngoài các tuyến sông. Con
đường huyết mạch từ đồng bằng ven biển Thanh Hoá lên Tây Bắc chính là dòng sông
Mã, và con đường từ vùng châu thổ sông Hồng lên là sông Đà. Như vậy không có gì
phải nghi ngờ rằng vào thời hậu kỳ đá mới Tây Bắc là một trong những trung tâm
phát triển của các hệ thống văn hoá miền núi nước ta.
Ngay từ năm 1927, một di chỉ khảo cổ học hậu kỳ đá
mới đã được nhà khảo cổ học Pháp M. Colani phát hiện và khai quật. Đó là di chỉ
Thôn Mòn hay bản Mòn thuộc thị trấn Thuận Châu, tỉnh Sơn La. Người tiền sử Bản
Mòn đã để lại những dấu tích của truyền thống Hoà Bình khá rõ ràng, đó là tầng
văn hoá của di chỉ được cấu tạo bằng vỏ ốc suối, cùng với nó là chày đá, đục
đá, hòn ghè, bàn mài, dùi, rìu bôn đá, hạt chuỗi, vòng tay và rất nhiều mảnh đá
có dấu cưa, dăm tước đá. Sưu tập công cụ lao động của người Bản Mòn đa số là
rìu bôn tứ giác, những chiếc rìu bôn có vai, thì hầu hết là vai vuông, được chế
tác với sự trợ giúp của kỹ thuật cưa đá. Colani coi đây là một xưởng chế tác
rìu bôn [Colani, M. 1928]. Ngoài công xưởng chế tác công cụ lao động, người
tiền sử Tây Bắc còn phát triển một loại hình công xưởng khác, đó là công xưởng
chế tác vòng tay Thọc Kim, thuộc xã Chiềng Sại, huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La.
Tại công xưởng này, chỉ riêng cuộc thám sát năm 1975 đã phát hiện được 175 phác
vật vòng được chế tác dở dang, 1 hạt chuỗi ngọc, 1 mũi tên đá. Vòng Thọc Kim
rất giống với sản phẩm cùng loại của xưởng chế tác vòng tay Hồng Đà thuộc tỉnh
Phú Thọ, kể cả phong cách lẫn nguyên liệu chế tác. Cho đến nay, dù thống kê
chưa đầy đủ, nhưng ở vùng Tây Bắc đã phát hiện được khoảng 50 địa điểm có công
cụ hoặc đồ gốm mang đặc trưng hậu kỳ đá mới [Chử Văn Tần 1976 ; Hà Văn Tấn
(chủ biên) 1998, 294-295]. Mới đây ở Lai Châu cũng đã phát hiện được 19 rìu bôn
hậu kỳ đá mới phân bố dọc thềm cổ sông Đà, hoặc trên bờ các con suối đổ ra sông
Đà [Nguyễn Khắc Sử và cộng sự 1998].
Ngoài nghề thủ công chế tác đá, người tiền sử Tây
Bắc còn là những thợ gốm giỏi. Tại đây các nhà khảo cổ học đã phát hiện được
hai hệ thống gốm hậu kỳ đá mới. Trong đó có loại gốm văn chấm dải phần nào
giống với phong cách trang trí hoa văn gốm Phùng Nguyên (Phú Thọ). Một số motif
hoa văn sóng nước thậm chí còn khiến liên tưởng đến cả gốm Đồng Đậu (Vĩnh
Phúc). Còn gốm văn in vỏ sò bản Gièm thì tương tự như gốm văn hoá Hoa Lộc.
Trong các motif hoa văn gốm còn có loại hoa văn đắp nổi mà các nhà khảo cổ học
gọi là hoa văn “nụ đinh”. Kỹ thuật đắp nổi hoa văn chính là phát minh của người
thợ gốm Hạ Long.
Giống như các chủ nhân văn hoá Mai Pha và Hà Giang,
các nhóm cư dân hậu kỳ đá mới Tây Bắc là những nhóm hậu Hoà Bình vẫn tiếp tục
trụ lại và phát triển nền văn hoá truyền thống của những thế hệ tổ tiên mình.
Tuy nhiên những biến động mạnh mẽ của môi trường, đặc biệt là đợt biển tiến
Holocene trung và sau đó là sự nở rộ các trung tâm hậu kỳ đá mới và sơ kỳ kim
khí tại các khu vực đồng bằng và ven biển đã tác động trực tiếp đến các mối
quan hệ giao lưu văn hoá giữa các trung tâm này với các trung tâm thuộc vùng
núi, mà Tây Bắc là một trong số đó. Vì nhiều lý do khác nhau, chắc chắn đã có
những nhóm di dân ngược lại từ vùng đồng bằng ven biển lên miền núi. Kết hợp
với nó có thể còn có các thương nhân tiền sử buôn bán đường dài đã đem yếu tố
văn hoá từ vùng này đến vùng khác. Chính vì vậy chúng ta có thể thấy các dấu ấn
văn hoá của nhiều miền khác nhau trong các di tích hậu kỳ đá mới Tây Bắc. Chưa
có đủ bằng chứng để khẳng định một cách chắc chắn mô hình phát triển nông
nghiệp tiền sử Tây Bắc, nhưng việc phát hiện ra hai công xưởng chuyên chế tác
công cụ đá và đồ trang sức đá tại Tây Bắc đã cho chúng ta thấy một định hướng
phát triển rất rõ ràng của cư dân nơi đây. Trong một mức độ nào đó họ đã chuyên
môn hoá một số sản phẩm và các sản phẩm đó có thể được sử dụng để trao đổi lấy
các nhu yếu phẩm khác phục vụ cho cuộc sống của mình. Đó chính là một trong
những kích thích tố để Tây Bắc hậu kỳ đá mới phát triển và không biệt lập.
Các cư dân hậu kỳ đá mới Tây Nguyên: Cư
dân hậu kỳ đá mới Tây Nguyên đã để lại trên mảnh đất màu mỡ này một trong những
nền văn hóa đặc sắc nơi đây. Đó chính là văn hóa Biển Hồ. Cư dân tiền sử Biển
Hồ cư trú trên khắp vùng cao nguyên Pleiku, thuộc địa bàn các huyện Chư Pah,
Đức Cơ, Chư Prông, Mang Yang, Chư Sê và thành phố Pleiku. Hiện nay địa bàn này
là nơi cư trú của người Jarai, là cư dân thuộc nhóm ngôn ngữ Malayo-Polynesian.
Văn hóa này lần đầu tiên được nhà nghiên cứu người Pháp Lafont phát hiện vào
các năm 1953 – 1954 với 4 địa điểm Ia Puch, Plei Del, Plei Plier, và Tơnuêng.
Sau năm 1975 cho đến gần đây, đã phát hiện được 26 địa điểm, trong số đó hai
địa điểm Biển Hồ và Trà Dôm đã được khai quật. Tầng văn hóa của các di tích văn
hóa Biển Hồ dày trung bình khoảng 1m, chủ yếu là đất feralite trên cao nguyên
đất đỏ basalt. Người tiền sử Biển Hồ chủ yếu sử dụng nguyên liệu đá opal và
phtanite để chế tác những chiếc rìu, cuốc, bôn răng trâu. Ngoài kỹ thuật ghè
đẽo và kỹ thuật mài đá, người Biển Hồ còn thành thạo về kỹ thuật cưa, khoan,
tiện, đánh bóng mặt đá để chế tác những món đồ trang sức rất tinh xảo. Giống
nhưng người Bàu Tró và người Sa Huỳnh, người Biển Hồ cũng chế tác hoặc du nhập
những chiếc khuyên tai hai đầu thú rất tinh tế.
Ngoài chế tác đá, người Biển Hồ còn chế tạo gốm rất
thành thạo. Gốm Biển Hồ được chế tạo bằng bàn xoay, có độ nung cao với rất
nhiều loại hình như nồi, vò, bát, bát bồng, âu, liễn, bình, ấm. Hoa văn trang
trí gốm của người Biển Hồ có văn thừng mịn, văn khắc vạch, văn in chấm và văn
trổ lỗ. Người Biển Hồ phát huy ảnh hưởng văn hóa rộng rãi trong vùng thông qua
giao lưu, trao đổi. Loại hình bôn biển hồ còn được phát hiện ở Kon Tum phía bắc
và Đắc Lắc, phía nam cao nguyên Pleiku. Tuy nhiên mối quan hệ của văn hóa Biển
Hồ với vùng phía bắc cao nguyên có phần gần gũi hơn. Có thể nói văn hóa Biển Hồ
nằm trong vùng văn hóa miền Trung – Tây Nguyên của Việt Nam. Vì vậy rất nhiều
yếu tố của các cư dân văn hóa hậu kỳ đá mới Bàu Tró cùng thời và giai đọan tiền
Sa Huỳnh cũng được phát hiện trong văn hóa Biển Hồ. Có ý kiến cho rằng “Có thể
Biển Hồ và các di tích tiền Sa Huỳnh ở ven biển Trung Bộ là những nguồn hợp tạo
dựng văn hóa Sa Huỳnh sau này” [Hà Văn Tấn (chủ biên) 1998, 289 – 290]. Đời
sống kinh tế của cư dân biển hồ chủ yếu là khai thác các nguồn lợi tự nhiên
bằng săn bắt, hái lượm và đánh cá. Nhiều chì lưới bằng đá đã được tìm thấy
trong các cuộc khai quật và thám sát các di chỉ thuộc nền văn hóa này. Có thể
đã tồn tại ở đây một nền nông nghiệp dùng cuốc trên đất khô. Số lượng cuốc đá
trong văn hóa Biển Hồ là một bằng chứng cho nhận định đó.
Vấn đề chủ nhân văn hóa Biển Hồ vẫn còn là một câu
hỏi lớn. Đối với các nhà nghiên cứu Việt Nam thì “chủ nhân văn hóa Biển Hồ là
những người Jarai cổ, sau đó phân hóa thành hai nhóm; một nhóm trụ lại cao
nguyên Pleiku tạo dựng văn hóa Biển Hồ với cây rìu có vai, mà con cháu của họ
là người Giarai, còn một bộ phận cư trú ở Đắc Lắc và Lâm Đồng với chiếc rìu
hình thang, mà con cháu của họ là người Ê Đê” [Hà Văn Tấn (chủ biên) 1998, 289
– 290 ; Nguyễn Khắc Sử 1995]. Trong khi đó, các học giả Úc và New Zealand
nghiên cứu tiền sử và ngôn ngữ học lịch sử khu vực Đông Nam Á lại cho rằng các
cư dân nói ngôn ngữ Malayo-Polynesian có nguồn gốc từ Nam Trung Quốc, mà cụ thể
là từ đảo Đài Loan, họ bắt đầu phát triển ra toàn vùng Đông Nam Á vào khoảng
thời gian sau 4000 năm cách ngày nay [Bellwood P. 1997].
Còn có thể nêu ra một giả thiết khác: Các nhóm nói
ngôn ngữ Malayo-Polynesian ở Việt Nam ngày nay có nguồn gốc xa từ các cư dân
văn hóa biển Việt Nam giai đọan cuối trung kỳ đá mới (Cái Bèo, Đa Bút, Quỳnh
Văn). Trước biển tiến Holocene Trung các nhóm này cư trú trong những khu vực
văn hóa được phân định tương đối rõ ràng. Nhưng đợt biển tiến cực đại vào
khoảng 5000 năm trước đã gây ra rất nhiều biến động về dân cư, đặc biệt là các
nhóm cư dân biển. Đây cũng chính là giai đọan ra đời nhóm ngôn ngữ
Malayo-Polynesian lục địa Đông Nam Á. Họ là sự kết hợp của các nhóm từ ven biển
Bắc Việt Nam xuống và từ ven biển Malaysia lên và dựng nghiệp tại từng tiểu
vùng trong khu vực miền Trung Việt Nam. Khi các bộ lạc Tiền nhà nước thuộc văn
hóa Sa Huỳnh phát triển mạnh theo khuynh hướng chuyển thành nhà nước sơ khai,
một số nhóm đã rời khu vực ven biển lên cư trú trên vùng đất Tây Nguyên vào
khoảng 3500-2500 trước đây. Họ sống xen kẽ với các bộ lạc thuộc nhóm ngôn ngữ
Mon-Khmer đã khai phá vùng này từ trước đó, mà hậu duệ có thể là những người
Bahnar, Sê Đăng, Giẻ Triêng, Mnông...vv ngày nay. Đó chính là lý do làm cho các
văn hóa Tây Nguyên tiền sử vừa có những nét tương đồng, lại vừa có những nét
khác biệt đáng kể mà chúng ta không thể chỉ lý giải một cách đơn giản bằng
những nguyên nhân thích nghi với môi trường, bởi vì bên cạnh những tác động của
môi trường còn có những tác động của nhân tố truyền thống văn hóa.
Về mặt tổ chức xã hội, căn cứ trên các nghiên cứu so
sánh dân tộc khảo cổ học hiện nay tại vùng đất Tây Nguyên, chúng ta có thể hình
dung về một cấu trúc xã hội theo các nhóm, chủ yếu là thị tộc mẫu hệ. Truyền
thống này được bảo lưu đậm nét tại nhiều tộc người trong vùng cho đến tận bây
giờ. Đó là các dân tộc Chămpa, Raglay, Ê Đê, Jarai, Mnông...vv. Các thị tộc mẫu
hệ tập trung thành các buôn làng nhỏ, có từ 3 – 5 ngôi nhà dài, mỗi ngôi nhà
như vậy có khoảng từ 25 – 50 người, đôi khi nhiều hơn. Trung bình mỗi buôn làng
có khoảng 150 – 200 người. Trong các thị tộc mẫu hệ, huyết thống được tính theo
dòng mẹ, và những người phụ nữ già đông con cháu có quyền uy cao trong cộng
đồng. Họ là một loại chủ sở hữu đại diện cho các nguồn của cải trong khu vực
sinh sống của cộng đồng. Nhưng họ không trực tiếp điều hành công việc buôn
làng. Họ có những người giúp việc, hoặc đại diện là đàn ông thực thi công việc
đó. Những người này có thể là chồng, em trai, con rể hay bất cứ một người thạo
việc nào khác mà họ tin cậy. Để điều hành giỏi công việc buôn làng, người đại
diện ấy phải thông thạo luật tục của cộng đồng. Có thể nói họ là một dạng
nguyên luật sư trong các xã hội tiền sử. Tại những cộng đồng song hệ, đa hệ hay
chuyển tiếp từ hệ nọ sang hệ kia thì thường xuất hiện các hình thức hội đồng,
chẳng hạn như hội đồng già làng, hội nghị các thủ lĩnh (trong tình trạng có
chiến tranh giữa các bộ lạc, các nhóm với nhau) và cả hội nghị toàn thể dân
làng nữa. Đối với các cộng đồng tiền sử Tây Nguyên từ giai đọan hậu kỳ đá mới
trở đi, hội đồng già làng có một vai trò rất to lớn. Họ là đại diện cho trí
tuệ, kinh nghiệm và đương nhiên là cho cả quyền lợi của toàn thể cộng đồng. Vì
vậy họ là một dạng biểu tượng quyền lực chi phối cộng đồng và ra các quyết định
liên quan đến những vấn đề quan trọng và thiết thân nhất đối với cộng đồng.
Trong nền văn hóa Tây Nguyên truyền
thống, ngôi nhà cộng đồng hay nhà Rông vừa là biểu tượng cho cộng đồng, vừa là
biểu tượng cho quyền lực của người già, mà đại diện là hội đồng già làng.
Các cư dân hậu kỳ đá mới khác:
Phía nam Tây Nguyên, tại cao nguyên Đắc Lắc và các khu vực cao nguyên thuộc
tỉnh Lâm Đồng các nhà nghiên cứu cũng đã phát hiện được nhiều di tích hậu kỳ đá
mới tương tự với văn hóa Biển Hồ về niên đại và tính chất. Và mới đây, tại tỉnh
Đắc Lắc các nhà khảo cổ học Việt Nam đã xác định được một văn hóa khảo cổ học
hậu kỳ đá mới khác, đó là văn hóa Buôn Triết. Văn hóa này được đặt theo tên gọi
của địa điểm khảo cổ học Buôn Triết, cạnh hồ Lắc, thuộc huyện Lắc. Tại Lâm Đồng
các hiện vật thuộc thời hậu kỳ đá mới cũng được phát hiện tại Di Linh, Bảo Lộc,
Lâm Hà...vv. Đặc biệt tại Kon Tum, sau cuộc khai quật lớn tại di chỉ Lung Leng
thuộc huyện Sa Thầy, một văn hóa khảo cổ học mới cũng được định danh. Đó là văn
hóa Lung Leng. Cư dân Lung Leng đang ở trong bước chuyển từ hậu kỳ đá mới sang
thời đại kim khí, và là một trong những nhóm cư dân quan trọng nhất tại khu vực
Bắc Tây Nguyên.
Còn nữa…
Tài liệu Tham khảo
Aung-Thwin, Michael 1985. Pagan: the Origins of Modern Burma.
Honolulu: University of Hawaii Press., p. 87.
Bellwood P. 1997. Prehistory of the Indo-Malaysian Archipelago.
2nd Edition. Honolulu: University of Hawaii Press.
Bentley, G. Carter 1986. Indigenous States of Southeast Asia.
Annual Review of Anthropology 15: 275 – 305.
Bowler,
Sandra 2001. Nguồn gốc Châu Á Khảo cổ học và Nhân học, trong Bức khảm
văn hoá Châu Á - Tiếp cận Nhân học (Grant Evans chủ biên), bản tiếng Việt,
do Cao Xuân Phổ dịch, Nhà xuất bản Văn hoá Dân tộc, Hà Nội 2001. Trang 51.
Bùi Vinh
1993. Khai quật di chỉ Làng Còng (Thanh Hoá) – 1992. Trong Những phát
hiện mới về Khảo cổ học năm 1992, Hà Nội, trang 50 -51.
Bùi Vinh
2003. Cư dân văn hoá Đa Bút trong các đợt biển tiến (Nhận thức qua tư liệu
Địa - Khảo cổ học ở Làng Còng và Hang Sáo). Tạp chí Khảo cổ học, số
2 (122) (III-IV), trang 3-15.
Chử Văn Tần
1976. Tìm hiểu quá khứ xa xưa của Tây Bắc.
Khảo cổ học, số 18-1976, trang 40-53.
Ciochon R.L,
1988. Gigantopithecus the King of all apes. Animal Kingdom, Vol. 91, No.
2, 1988.
Colani, M. 1928. Notice sur la préhistoire du Tonkin, BSGI, vol.
XVIIIV, 1, pp. 71-72.
Diệp Đình Hoa 1978: Về những hiện vật kim loại ở buổi đầu thời đại đồ đồng thau Việt Nam,
Tạp chí Khảo cổ học số 2, trang
11-20.
Donald, M.
1991. Origins of the Modern Mind: Three Stages in the Evolution of Culture
and Cognition. Cambridge, MA: Harvard University Press.
Đào Qúi Cảnh
2004. Vấn đề nông nghiệp trong văn hoá Hoà Bình ở Việt Nam. Trong Một
thế kỷ Khảo cổ học Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội. Trang
64.
Đào Thế Tuấn
1988. trang 44. Về những hạt gạo cháy
phát hiện ở Đồng Đậu (Vĩnh Phú) năm 1984. Tạp chí Khảo
cổ học, số 4, trang 44-46.
Earle, Timothy, ed. 1991. Chiefdom: Power, Economy and Ideology.
New York: Cambridge University Press.
Eblen, Ruth A. and William R.
Eblen, Editors 1994. The Encyclopedia of the Environment. The René Dubos
Center for Human Environments. Huston Mifflin Company, Boston New York 1994. p.
4.
Eisler R.
1987. The Chalice and The Blade: Our History, Our Future. New York,
Harper & Row, 1987.
Gardner, H.
1997. Thinking about thinking. New York Review of Books. 9-10-1997.
Gorman C.E. 1970. Excavations
at Spirit Cave, North Thailand: some interim interpretations. Asian
Perspectives 13: 79-107.
Gorman C.E. 1971. The
Hoabinhian and after: subsistence patterns in Southeast Asia during the late
Pleistocene and early Recent periods. World Archaeology 2 (3): 300 – 320.
Grenier, Louise 1998. Working
with Indigenous Knowledge, a Guide for Researchers. International
Development Research Centre, Ottawa, Canada.
pp. 1-9.
Hà Hữu Nga 1982. Thời đại đá mới Việt Nam: Môi trường – Văn
hóa và một mô hình tổng quát. Trong Những
phát hiện mới về khảo cổ học năm 1982. Hà Nội.
Hà Hữu Nga, Nguyễn Cường, và
Bùi Vinh 1996. Báo cáo Khai quật di chỉ Mai Pha (Lạng Sơn). Tư liệu Viện
Khảo cổ học.
Hà Hữu Nga 1998. Có một nền
văn hoá Soi Nhụ tại khu vực vịnh Hạ Long. Kỷ yếu Những phát hiện mới về
khảo cổ học năm 1997. Hà Nội 1998, trang 91.
Hà Hữu Nga, Nguyễn Văn Hảo
1999. Hạ Long thời tiền sử. Nhà xuất bản Thế giới, Hà Nội 1999.
Hà Hữu Nga
2000. Soi Nhụ – Nền văn hoá cổ nhất hiện biết trên vịnh Hạ Long. Hội thảo Vịnh Hạ Long 5 năm di sản Thế giới,
do UBND Tỉnh Quảng Ninh – Bộ Văn hoá Thông tin và Uỷ ban UNESCO Việt Nam tổ
chức, Hạ Long 4-2000, trang 72-80.
Hà Hữu Nga
2004. Khảo cổ học Đông Bắc Việt Nam từ những hệ thống sinh thái nhân văn tới
các cấu trúc xã hội tiền nhà nước. Trong Một thế kỷ Khảo cổ học Việt Nam,
Tập I, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, năm 2004. Trang 117-139.
Hà Văn Tấn
1962. Về vấn đề người Indonesian và loại hình Indonesian trong thời đại
nguyên thuỷ Việt Nam. Thông báo Khoa học Đại học Tổng hợp, Sử học I, trang
168 – 202.
Hà Văn Tấn
1976. Nguồn gốc văn hóa Phùng Nguyên và
vấn đề Tiền Việt Mường (một giả thiết công tác mới).
Hà Văn Tấn
1982. Từ Bàu Tró đến Sa Huỳnh. Trong Những
phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1980, Hà Nội, trang 142-144.
Hà Văn Tấn
1984. Lớp dăm đá vôi ở Ngườm với khí hậu cuối Pleistocene ở Đông Nam Á.
Kỷ yếu Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1984, trang 18-20.
Hà Văn Tấn
1986. Kỹ nghệ Ngườm trong một phối cảnh rộng hơn. Tạp chí Khảo cổ học,
số 3, 1986, trang 3-10.
Hà Văn Tấn
(chủ biên) 1998. Khảo cổ học Việt Nam. Tập I. Thời
đại đá Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội. Trang 76.
Hà Văn Tấn
(chủ biên) 1999. Khảo cổ học
Việt Nam. Tập II. Thời đại kim khí Việt Nam.
Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội.
Hà Văn Tấn, Nguyễn Xuân
Mạnh,...1985. Khai quật lần thứ hai di
chỉ Thành Dền (Hà Nội), trong Những
phát hiện mới về khảo cổ học năm 1984, trang 95.
Hà Văn Tấn
(chủ biên) 1998. Khảo cổ học Việt Nam. Tập I. Thời đại đá Việt Nam.
Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội. Trang 60 – 63.
Hà Văn Tấn,
Bùi Vinh và Võ Qúi 1990. Những dấu hiệu về một nền văn hoá khảo cổ mới ở Hà
Tuyên. Tạp chí Khảo cổ học, số 1-2-1990. trang 34-38.
Hall, Keneth R. 1985. Maritime Trade and State Development in
Early Southeast Asia. Honolulu: University of Hawaii Press.
Higham, Charles F. W. 1989. The later Prehistory of Mainland Southeast
Asia. Journal of World Prehistory 3: 235 – 282.
Hoàng Xuân
Chinh và Nguyễn Văn Bình 1978. Điều tra khảo cổ học thời đại đá cũ ở Đồng
Nai và Sông Bé. Kỷ yếu Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1978.
Hodder, Ian 1991. Reading
the Past – Current Approaches to Interpretations in Archaeology. Second
Edition. Cambridge University Press. pp. 121-149.
Lê Văn Thuế, Vũ Thế Long 1976.
Nghiên cứu di tích xương răng động vật ở
di chỉ Hoa Lộc (Thanh Hóa). Trong Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm
1976, Hà Nội, trang 145.
Lê Văn Thuế – Vũ Thế Long
1986. Di cốt động vật ở Hang Dơi (Lạng Sơn). Trong Những phát hiện
mới về Khảo cổ học năm 1985, Hà Nội 1986, trang 49.
Lê Xuân Diệm
– Phạm Quang Sơn – Bùi Chí Hoàng 1991. Khảo
cổ học Đồng Nai thời Tiền sử. Nhà xuất bản Đồng Nai.
Lưu Tỳ,
Nguyễn Thế Tiệp, Nguyễn Tứ Dần ... 1985. Đặc
điểm địa mạo thềm lục địa Việt Nam và các vùng lân cận, Tạp chí Khảo cổ học, số 2-1985, trang 16 – 18.
Mansuy H. 1924. Stations préhistoriques dans les
carvenes du massif calcaire de Bacson (Tonkin). MSGI. Vol. 11,No. 2.
Mansuy H. 1925. Stations préhistoriques de Keo
Phay (suit) de Khac Kiem (suit) de Lai Ta (suit) et Bang Mac dans le massif
calcaire de Bac Son (Tonkin). MSGI. Vol. 12, No. 2.
Mansuy H. et M. Colani 1925. Néolithique
inferieur (Bacsonien) et néolithique superieur dans les Haut Tonkin. MSGI.
12, f.3.
Mansuy, H. 1925. Nouvelles de cauvertes dans les
carvens du massif calcaire de Bac Sơn (Tonkin). MSGI. Vol.
12, N0 1, p. 34.
Mithen,
Steven J. 1996. The Prehistory of the Mind: The Cognitive Origins of Art,
Religion and Science. Cambridge: Cambridge University Press.
Nguyễn Cường 2002. Văn Hoá
Mai Pha. Sở Văn hoá Thông tin Lạng Sơn, trang 90.
Nguyễn Duy
và Nguyễn Quang Quyền 1966. Nghiên cứu về hai sọ cổ ở Quỳnh Văn – Nghệ An.
Trong Một số báo cáo về Khảo cổ học Việt Nam. Hà Nội, trang 351-366.
Nguyễn Duy
Tỳ, Đào Linh Côn 1985. Kỹ thuật luyện kim
đồng thau ở địa điểm Dốc Chùa. Tạp chí Khảo cổ học, số 3, trang 24-30.
Nguyễn Đình
Khoa 1986. Con người thuộc văn hoá Hoà Bình. Tạp chí Khảo cổ học số 1-1986.
Nguyễn Khắc
Sử 1983. Sự phát triển kinh tế và tổ chức xã hội của cư dân cổ Cúc Phương,
Tạp chí Khảo cổ học, số 1 - 1983, trang 20.
Nguyễn Khắc
Sử 1995. Văn hóa Biển Hồ ở Tây Nguyên. Tạp chí Khảo cổ học, số 3- 1995, trang 7
– 16.
Nguyễn Khắc
Sử và cộng sự 1998. Báo cáo điều tra khảo
cổ học vùng ngập nước tỉnh Lai Châu (chủ biên). Tư liệu Viện Khảo cổ học.
Nguyễn Kim
Thuỷ 2004. Cư dân Đa Bút qua tài liệu Sinh khảo cổ. Tạp chí Khảo cổ học, số 1 (127) (I-II), trang 15-23.
Nguyễn Lân
Cường 1977. Di cốt người cổ ở hang Con
Moong. Kỷ yếu Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1976. Hà Nội 1977.
Trang 112
Nguyễn Lân
Cường 1988a. Trở lại vấn đề niên đại của hoá thạch người ở Việt Nam. Tạp
chí Khảo cổ học số 1-2, 1988, trang 4-11.
Nguyễn Lân
Cường 1988b. Di cốt người cổ trên đất Lạng Sơn. Tuyển tập luận văn Hội
nghị khoa học Xứ Lạng, Lạng Sơn 1988, trang 39.
Nguyễn Lân
Cường 1992. Những hoá thạch người cổ ở Việt Nam và Đông Nam Á trong thời kỳ
Pleistocene. Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam á, số 1, trang 5-12.
Nguyễn Lân
Cường 1996. Đặc điểm nhân chủng cư dân văn hoá Đông Sơn
ở Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà
Nội 1996.
Nguyễn Thị
Kim Dung 1986. Báo cáo khai quật công
xưởng Tràng Kênh lần thứ hai. Tư liệu Viện Khảo cổ học.
Nguyễn Thị
Kim Dung, Đặng Văn Thắng...1995. Đồ trang sức trong mọ chum ở Cần Giờ. Trong Khảo cổ học, số 2, trang 27-45.
Nguyễn Trung Chiến 2003. Mối
quan hệ và liên hệ ở bình tuyến đá mới hậu Hoà Bình – Bắc Sơn ven biển Đa Bút –
Quỳnh Văn – Cái Bèo – Bàu Dũ. Tạp chí Khảo cổ học, số 4 (124) (VII-VIII),
2003, trang 11 - 12.
Nguyễn Trường Kỳ 1983. Bước đầu tìm hiểu nghề thủy tinh ở nước ta.
Tạp chí Khảo cổ học, số 1, trang
47-54.
Nguyễn Văn
Long và Lê Trung Khá 1977. Về những hiện vật đá cũ mới tìm được ở Vườn Dũ
(Sông Bé) và Gia Tân (Đồng Nai). Tạp chí Khảo cổ học, số 4-1977.
Patte E. 1932. Le Kjokkenmodding néolithique de
Dabut et ses sépultures (province de Thanh Hoa, Indochine). BSGI, Vol. XIX,
pt.3, 1932.
Phạm Đức Mạnh 1985. Qua đồng Long Giao. Tạp chí Khảo
cổ học, số 1, trang 37 – 68.
Phạm Quang
Sơn 1978. Bước đầu tìm hiểu sự phong phú
văn hóa hậu kỳ đá mới, sơ kỳ đồng thau ở lưu vực sông Đồng Nai. Tạp chí Khảo cổ học, số 1, trang 35-40.
Phạm Thị
Ninh 1995. Văn hoá Bàu Tró - đặc trưng và loại hình. Luận án Phó tiến sĩ, Khoa
học lịch sử, Hà Nội, trang 9 – 11.
Sahlins. M.D., and E. R.
Service, eds. 1960. Evolution and Culture. Ann Arbor: University of
Michigan Press.
Saurin E. 1939. Les
cranes préhistoriques inédit de Lang Cuom. Far Eastern
Association of Tropical Medicine 10ème Congrès. T. I. Hanoi.
Saurin E. 1956. Outilage
Hoabinhien à Giap Khau, Port Courbet (Nord Vietnam). BEFEO. Vol. XLVIII, No. 2, 1956.
Sharer, Robert J. and Wendy
Ashmore 1992. Archaeology Discovering Our Past. Second Edition. Mayfield
Publishing Company, Mountain View, California. London . Toronto. Pp.
561-562.
Taylor, Keith W. 1992. The early Kingdoms. Pp. 137 - 182 in The Cambridge History of Southeast Asia,
N. Tarling, ed. Cambridge: Cambridge University Press. P. 181.
Tỉnh uỷ, Uỷ ban Nhân dân tỉnh
Quảng Ninh 2001. Địa chí Quảng Ninh. Tập I, Nhà xuất bản Thế giới, Hà
Nội, trang 421.
Trần Quốc
Vượng 1974. Vài suy nghĩ tản mạn về trống
đồng. Trong Khảo cổ học, số 14,
Hà Nội, tr. 71-81.
Trần Quốc
Vượng 1986. Văn hoá Hoà Bình, văn hoá Thung lũng. Tạp chí Khảo cổ học,
số 2-1986, trang 1- 6.
Trần Quốc
Vượng 1993. Mấy nét khái quát lịch sử cổ xưa về cái nhìn về biển của Việt
Nam, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 1, 1993.
Trần Quốc
Vượng 1996. Mấy ý kiến về trống đồng và
Tâm thức Việt cổ. Trong Theo dòng
lịch sử - Những vùng đất, thần và tâm thức người Việt. Nxb. Văn hóa, Hà
Nội, tr 39-65.
Trần Quốc
Vượng 2000. Việt Nam và biển Đông, Tạp chí Văn hoá dân gian, số 3(71),
2000.
Trình Năng
Chung 1991. Kỹ nghệ Ngườm và văn hoá Bắc Sơn, Tạp chí Khảo cổ học, số 2,
trang 16 – 21.
Verneau R. 1909. Les cranes humains du gisement de Pho Binh Gia (Tonkin).
L’Anthropologie. No. 20: 545-549.
Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam 1969. Những hiện
vật tàng trữ tại Viện Bảo tàng Việt Nam về văn hoá Bắc Sơn, Hà Nội, trang
140.
Vũ Quốc
Hiền, Chu Văn Vệ 1996. Công cụ đá và đồ
trang sức bằng vỏ nhuyễn thể ở di chỉ Bích Đầm (Khánh Hòa). Trong Những
phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1976, Hà Nội, trang 90.
Vũ Thế Long,
Lê Trung Khá, và Hoàng Văn Dư 1977. Khai quật Thẩm ồm (Nghệ An) đợt I. Trong Những
phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1977, trang 13.
Vũ Thế Long
1982. Về những chiếc răng vượn khổng lồ. Trong Những phát hiện mới về Khảo
cổ học năm 1982, trang 67-69.
Vũ Thế Long
1984. Người Hoà Bình và thế giới động vật. Tạp chí Khảo cổ học, số 1-2,
1984. Trang 126.
Vũ Thế Long,
Hà Hữu Nga 2004. Phát hiện công cụ thời đại đá cũ ở Đak Lak. Kỷ yếu Những
phát hiện mới về Khảo cổ học năm 2003. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội.
Wheatley, Paul 1979. Urban genesis in mainland South East Asia.
Pp. 288 – 303 in Early South East Asia:
Essays in Archaeology, History and Historical Geography. R. B. Smith and W.
Watson, eds. New York: Oxford University Press.
Weidenreich,
F. 1943 “The skull of Sinanthropus pekinensis”, Palaeontologica Sinica
(n.s. D), Vol. 10, pp. 1 – 298.
Welch, David and Rudith R.
McNeill 1991. Settlement, agriculture and
population changes in the Phi Mai region, Thailand. Pp. 210 – 228 in Indo-Pacific Prehistory 1990: Proceedings of
the 14th Congress of the Indo-Pacific Prehistory Association,
Yogyakarta, Indonesia, vol. 2. Bulletin of the Indo-Pacific Prehistory
Association 11.
Wisseman C. Jan 1985. Theater States and Oriental Despotisms:
Early Southeast Asia in the Eyes of the West. Hull: University of Hull
Center for South-East Asian Studies Occasional Paper no. 10., p.9.
Wisseman C. Jan 1992. Trade and settlement in early Java:
integrating the epigraphic and archaeological data. Pp. 181 – 197 in Early Metallurgy, Trade and Urban Centers in
Thailand and Southeast Asia. I. Glover, P. Suchitta, and J. Villiers, eds. Bankok:
White Lotus.
White C. Joyce. 1995. Incorporating Heterarchy into Theory on
Socio-Political Development: The Case from Southeast Asia. In Heterarchy and the Analysis of Complex
Societies. Robert. M. Ehrenreich, Carole L. Crumley, and Janet E. Levy,
eds. Archaeological Papers of the American Anthropological Association, Number
6. Arlington, Va.: American
Anthropological Association. Pp. 101 – 123.
Wolter, O. W. 1982. History, Culture, and Region in Southeast
Asian Perspectives. Singapore: Institute of Southeast Asian Studies.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét