Edmund Husserl
Người dịch: Hà Hữu Nga
Giới
thiệu
Thuật ngữ hiện tượng luận
được hiểu một cách đại thể là để xác định một trào lưu triết học xuất hiện vào giai
đoạn khởi đầu của thế kỷ XX này, bằng cách đề xướng một nền tảng triết học khoa
học hoàn toàn mới mẻ, vì vậy mà nó cũng trở thành nền tảng cho mọi khoa học.
Nhưng hiện tượng học cũng xác định một khoa học cơ bản mới, phụng sự cho mục
đích tối hậu đó, và chúng ta cần phân biệt giữa hiện tượng học tâm lý và hiện
tượng luận siêu việt.
I.
Hiện tượng luận Tâm lý như một bộ môn tâm lý thuần túy
Phản
ánh Hiện tượng luận1
1. Mọi kinh nghiệm và mọi
cách thức khác mà chúng ta dấn thân về phương diện ý thức với các đối tượng rõ
ràng tạo điều kiện cho “bước ngoặt hiện tượng luận”, một sự chuyển dịch thành một
quá trình “kinh nghiệm hiện tượng”. Tri giác giản đơn hướng chúng ta đến các vấn
đề được nhận thức, trong khi đó ký ức lại hướng ta đến các vấn đề được nhớ lại,
còn tư duy thì hướng ta đến với các tư tưởng, việc định giá hướng ta đến các
giá trị, ý chí đưa ta đến các mục đích và các phương tiện, v.v…Vì vậy mỗi hành
động mà chúng ta theo đuổi đều có “đối tượng”, “chủ đề” [chúng, họ, người khác,
cái khác, v.v…]. Nhưng trong một thời gian bất kỳ nào đó chúng ta có thể chuyển
trọng tâm nhận thức từ các vấn đề, tư tưởng, giá trị, mục đích hiện thời để hướng
đến quá trình thay đổi gấp bội các “cách thức chủ quan” mà chúng2
“xuất hiện”, những cách thức có thể nhận thức được về phương diện ý thức. Chẳng
hạn việc tìm hiểu một khối kim loại đồng
đông cứng và bất động có nghĩa là phải bao quát được tất cả hình dạng của nó với
tư cách là một khối đồng, từng bề mặt, từng góc cạnh riêng rẽ cũng như màu sắc,
độ bóng và các đặc tính khác của nó với tư cách là một vật thể không gian và vì
vậy mà phải đem khối đồng đó đến cho ai đó để nhận thức về nó.
Nhưng thay vì một quá
trình như vậy, về phương diện hiện tượng luận, chúng ta có thể chú ý đến chẳng hạn
như cách thức thay đổi các “chiều cạnh” – mà cục đồng đó tự thể hiện và nhờ thế
mà nó vẫn được trải nghiệm như một khối bất động; hoặc cách thức mà cục đồng đó
thể hiện một cách khác biệt như là “một cái gì đó liền kề” chứ không phải là “một
cái gì đó xa cách”, hoặc một thứ gì đó xuất trình các cách thức thể hiện nó khi
chúng ta thay đổi định hướng của mình; và mỗi chiều cạnh riêng trong quá trình
nhận thức bằng cách nào đó tự thể hiện như là một chiều cạnh trong vô vàn
phương thức thể hiện của riêng cách nhận thức như vậy.
Việc quay trở về với
kinh nghiệm phản ánh như vậy dạy cho chúng ta biết rằng không hề có một sự vật
được nhận thức theo tiến trình, và cũng không hề có bất cứ yếu tố nào được nhận
thức như một thuộc tính trong chính bản thân nó, điều đó không thể hiện, trong
tri giác, trong các đa tính của những cách thức thể hiện khác nhau, cho dẫu như
vậy thì nó vẫn được thể hiện và được lĩnh hội như một cái gì đó liên tục và như
là chính bản thân nó. Nhưng bằng tri giác diễn tiến thông thường3
thì chỉ có tính thống nhất này, chỉ có vật tự nó trụ vững trong sự theo dõi
toàn diện trong khi các quá trình kinh nghiệm sống đang vận động vẫn còn là những
quá trình tiềm ẩn, không nhận thức được, và là chủ đề phụ nào đó. Tri giác
không phải là “cái có” trống rỗng về những sự vật được nhận thức, mà là một
kinh nghiệm sống luôn tuôn chảy của các biểu hiện chủ thể tính hợp nhất bản
thân chúng trong một ý thức tính về cái thực thể y hệt tồn tại bằng cách này
hay cách khác. Bằng cách kết nối ấy, “các phương thức thể hiện” được thực hiện
theo nghĩa rộng rãi nhất. Vì vậy khi hồi tưởng về khối đồng hoặc khi hình dung
về một khối giống hệt như vậy, các phương thức thể hiện của quá trình nhận thức
về khối đồng cũng “chỉ là một”, nhưng mỗi phương thức thể hiện lại bị biến đổi
theo một cách thức nhất định, hệt như khi nó liên quan đến ký ức hoặc sự tưởng
tượng. Ngoài ra những khác biệt chẳng hạn như những khác biệt giữa một ký ức rõ
ràng và một ký ức mơ hồ hơn, hoặc giữa các cấp độ của tính rõ ràng, hoặc ngay cả
giữa các cấp độ của tính xác định hoặc bất định, là những khác biệt trong “các
phương thức thể hiện”. Cũng như vậy với chính cả các khác biệt về viễn cảnh thời
gian, về sự chú ý, v.v…Hoàn toàn tương tự4, các tư tưởng, các giá trị,
các quyết định, v.v…phù hợp với các kinh nghiệm sống của hành động tư duy, định
giá trị, mong muốn, v.v…đều là những tính thống nhất của các “phương thức thể
hiện” vận động một cách ẩn dấu. Chẳng hạn5, cùng một phán đoán, với
cùng một chủ ngữ và vị ngữ được nhận thức về phương diện ý thức, trong tư duy,
theo những phương thức thay đổi: đôi khi thì rõ ràng, đôi khi lại không rõ
ràng; và trong trường hợp không rõ ràng đôi khi nó được phán đoán một cách hiển
lộ theo phương thức hành động từng bước và những trường hợp khác lại được phán
đoán ẩn tàng, nhưng có vẻ như là một cái gì đó xuất hiện mơ hồ trong tâm trí.
Trong những trường hợp đó trong khi chuyển từ một phương thức này sang một
phương thức khác, xuất hiện ý thức xác định về chính phán đoán đó, có nghĩa là
đôi khi bằng phương thức này và đôi khi lại bằng phương thức khác. Cái đảm bảo
tính đúng đắn cho toàn bộ một phán đoán hoặc thậm chí một bằng cớ, hoặc cho
toàn bộ một lý thuyết, cũng đảm bảo tính xác thực cho bất cứ yếu tố chủ đề nào,
cho mọi khái niệm, mọi hình thức phán đoán, v.v…[trong tổng thể đó]. Chính ở
đây cũng như ở bất cứ nơi nào khác, tính thống nhất chủ đề được tạo dựng bằng
cách tổng hợp vô số “các hiện tượng” ẩn giấu, nhưng lại có thể được phơi bày bất
cứ khi nào bằng sự phản ánh hiện tượng luận, bằng phân tích, và bằng mô tả.
Vì vậy khởi phát ý tưởng
về một nhiệm vụ phổ quát: thay vì sống trong “cái” thế giới trực tiếp bằng
“thái độ tự nhiên” và vì vậy mà có thể nói rằng, giống như “những đứa con của
cái thế giới này”; có nghĩa là thay vì sống trong một cuộc sống ý thức đang vận
hành ngấm ngầm và do đó có được cái thế giới đó, và riêng bản thân nó, như là
lĩnh vực tồn tại của chúng ta – như là tồn tại hiện thời cho chúng ta, nằm
ngoài tri giác của chúng ta, – thay vì phán đoán và đánh giá cái thế giới kinh
nghiệm đó và làm cho nó trở thành lĩnh vực của các dự phóng lý thuyết và thực tế
- thay vì tất cả những cái đó, chúng ta thử nghiệm một phản ánh hiện tượng luận
phổ quát về toàn bộ quá trình-sống này, hãy cứ coi nó là tiền lý thuyết, lý
thuyết hoặc là bất cứ một cái gì đó. Chúng ta cố gắng phơi bày nó một cách hệ
thống và vì vậy mà hiểu cách “làm thế nào” để đạt tới các nhất tính của nó; vì
vậy mà việc chúng ta tìm cách hiểu được các hình thức điển hình làm thành các bản
sao cuộc sống này bằng gì thì đó chính là một “ý thức-về”; nó kiến tạo một cách
tổng hợp các nhất tính ý thức như thế nào; và bằng các hình thức nào mà những tổng
hợp này, với tư cách là những tổng hợp về tính thụ động và tính chủ động tự
phát lại vận hành tiến trình của chúng và vì vậy mà đặc biệt là các nhất tính của
chúng được kiến tạo như thế nào với tư cách là những tồn tại hoặc không tồn tại
khách quan, v.v…; và cuối cùng thì một thế giới kinh nghiệm và tri thức thống
nhất như thế nào lại rất có tác dụng và hiệu lực đối với chúng ta, trong một loạt
loại hình tồn tại hiện thực hoàn toàn quen thuộc.
Trong trường hợp bất cứ
một cái gì đó được trải nghiệm, được tư duy và được nhận thức là chân lý được
xác quyết và khả thể chỉ bằng [các hành vi tương ứng của] sự trải nghiệm, tư
duy, và sự thấu hiểu, thì sự thăm dò cụ thể và toàn diện cái thế giới hiện tồn
và có hiệu lực về phương diện khoa học và có bằng chứng xác thực đối với chúng
ta cũng đòi hỏi sự thăm dò hiện tượng học phổ quát các đa tính của ý thức trong
các biến đổi tổng hợp mà cái thế giới đó có hình dạng khách quan, có giá trị
xác thực đối với chúng ta, và có lẽ cũng xác thực với động thái hiểu6.
Nhiệm vụ đó được mở rộng đến toàn bộ đời sống – bao gồm đời sống thẩm mỹ, định
giá bất kỳ thể loại nào của đời sống và đời sống thực tế - thông qua đó cái thế
giới sống cụ thể với nội dung luôn biến đổi của nó cũng tiếp tục tạo thành hình
dạng đối với chúng ta như một thế-giới-giá-trị và một thế-giới- thực-tiễn7.
Nhu
cầu và Khả tính của Tâm lý học Thuần tuý8
2. Liệu việc đề xướng một
nhiệm vụ như vậy có dẫn đến một khoa học mới hay không?9 Liệu có tồn
tại – phù hợp với ý tưởng về một kinh nghiệm phổ quát đặc biệt dẫn đến “những
hiện tượng chủ thể tính” – một lĩnh vực kinh nghiệm độc lập đứng ngoài kinh
nghiệm phổ quát về thế giới, và vì vậy mà tạo lập cơ sở cho một khoa học độc lập
không? Trước hết người ta có thể phản đối rằng không cần phải có một khoa học mới,
vì tất cả các hiện tượng chỉ đơn thuần là chủ thể tính, toàn bộ các phương thức
thể hiện những gì xuất hiện về bản chất đều thuộc về lĩnh vực tâm lý với tư
cách là khoa học về tinh thần.10 Không có gì phải nghi ngờ tính xác
thực của điều đó. Tuy nhiên vẫn còn để ngỏ một thực tế là11 ở đây vẫn
đòi hỏi12 một bộ môn tâm lý học độc lập thuần tuý, theo đúng cách thức
mà một khoa cơ học thuần tuý cần có đối với việc thăm dò riêng biệt về phương
diện lý thuyết đối với sự vận động và các lực đang vận động, được coi là một cấu
trúc thuần tự nhiên.
Hãy xem xét vấn đề này
một cách kỹ lưỡng hơn. Cái gì là chủ đề chung của tâm lý học? Trả lời: tồn tại
tinh thần13 và đời sống tâm lý tồn tại chính xác trong thế giới này
với tư cách là tồn tại người và tổng quát hơn, với tư cách là tồn tại động vật.
Theo đó, tâm lý là một nhánh của các khoa học cụ thể hơn về nhân học hoặc động
vật học. Các hiện thực động vật thuộc về hai cấp độ, cấp độ đầu tiên là một cơ
sở của các hiện thực vật lý. Giống như tất cả các hiện thực khác, các hiện thực
động vật là hiện thực không-thời gian, và chúng nhường vị trí một trung tâm điểm
trừu tượng hệ thống về kinh nghiệm cho một yếu tố nội tại thuần tuý của chúng
là “những thực thể hữu hình”, res extensa. Lối quy giản vào vật chất thuần tuý
đó đưa chúng ta đến với mối quan hệ độc lập của thực chất vật chất thuộc về các
cơ thể động vật, chỉ với tư cách là các thể xác. Do đó việc thăm dò khoa học về
lĩnh vực này diễn ra trong nhất tính phổ quát của khoa học tự nhiên và đặc biệt
là trong sinh lý học với tư cách là một khoa học tổng quát về các cơ thể trong
kinh nghiệm thuần tuý vật chất.
Nhưng động vật không
đơn giản tồn tại như tự nhiên; chúng tồn tại với tư cách là các “chủ thể” của một
“đời sống thần kinh”, một đời sống nếm trải, cảm giác, suy nghĩ, giành giật,
v.v…Nếu với tính thuần tuý hệ thống và một thái độ trừu tượng tập trung khác
nhau, chúng ta đặt vào thực tiễn loại kinh nghiệm tâm lý hoàn toàn mới, kinh
nghiệm đó, với tư cách là kinh nghiệm tâm lý thì rõ ràng là nguồn riêng của tâm
lý học, định hướng này đem đến cho chúng ta cái tâm linh trong bản tính thuần
tuý và chính xác, và chừng nào chúng ta còn kiên tâm chú mục vào định hướng
này, thì nó luôn dẫn ta đi từ cái tâm linh thuần tuý này đến cái tâm linh thuần
tuý khác. Nếu chúng ta thay đổi tâm điểm và đan dệt cả hai loại kinh nghiệm thì
sẽ khởi hiện kinh nghiệm tâm lý kết hợp trong đó các hình thức thật sự của tính
liên kết giữa cái tâm linh với tính vật chất sẽ trở thành chủ đề có liên quan.
Từ lợi thế này sẽ dễ dàng nhận thấy ý nghĩa và tính thiết yếu của một môn tâm
lý học thuần tuý.14
Tất cả những khái niệm
tâm lý đặc biệt rõ ràng đều bắt nguồn từ kinh nghiệm tinh thần thuần tuý, hệt
như tất cả các khái niệm khoa học tự nhiên đều bắt nguồn từ kinh nghiệm tự
nhiên thuần tuý. Vì vậy mỗi bộ môn tâm
lý học khoa học đều dựa trên việc hình thành các khái niệm khoa học thuộc lĩnh
vực kinh nghiệm tinh thần thuần tuý theo đúng phương pháp khoa học. Nếu có những
tri thức sâu sắc xác thực trong các khái niệm như vậy thì có thể đạt tới được
các hiểu biết sâu sắc bằng cách tập trung vào tinh thần thuần tuý, và sau đó với
tư cách là “tâm lý học thuần tuý” chúng phải dự liệu được toàn bộ quá trình nhận
thức tâm lý.
Thống giác tự nhiên về một
tồn tại người được coi là một thực tại cụ thể với chủ thể tính tinh thần xác định,
thì vô số chiều góc tinh thần có thể được trải nghiệm như một sự dư thừa vượt
khỏi bản tính vật chất của người đó và như một nhất tính độc lập và tổng thể
tính của kinh nghiệm. Nếu một “linh hồn”, theo nghĩa kinh nghiệm, có một bản chất
cấu trúc chung – hình thức cấu trúc điển hình của nó có liên quan đến các điều
kiện tâm linh, các hành vi và các hình thức của một sự tổng hợp tâm linh thuần
tuý – thì nhiệm vụ cơ bản của tâm lý học, trước hết với tư cách là một môn tâm
lý học “thuần tuý” là phải thăm dò một cách hệ thống các hình thức điển hình
này. Tuy nhiên lĩnh vực nghiên cứu tâm lý học rộng lớn có thể và tuy nhiên
chúng chắc chắn có thể góp phần vào sự hiểu biết của chúng ta về linh hồn, thì
lại có một thứ chỉ có thể thực hiện được dựa trên cơ sở của một bộ môn tâm lý học
thuần tuý, đó là phô bày các mối quan hệ thực sự của cái tâm linh với thế giới
vật chất. Toàn bộ các chỉ báo gián tiếp về tâm linh chỉ là cái khả thể, giả định
trước kinh nghiệm khoa học của cái tâm linh thuần tuý và tri thức về các cấu
trúc bản chất của nó.15
Kinh
nghiệm Trực giác Nguyên khởi: Hai cấp độ
Toàn bộ tri thức kinh
nghiệm16 cuối cùng đều dựa vào kinh nghiệm nguyên khởi, vào tri giác
và các biến đổi được phô bày từ nguyên khởi.17 Không có một ví dụ trực
giác nguyên khởi thì không thể có sự phổ quát hoá nguyên khởi, không có sự hình
thành khái niệm. Trong trường hợp này cũng vậy. Toàn bộ các khái niệm cơ bản của
môn tâm lý học thuần tuý – các yếu tố lý thuyết tối hậu của toàn bộ tâm lý học18
đi trước tất cả các khái niệm tâm lý khác – đều phải được rút ra từ trực giác
tâm lý nguyên khởi.19 Trực giác ấy có hai cấp độ: tự trải nghiệm và
trải nghiệm liên chủ thể tính.20 Cấp độ thứ nhất21, tự
thân được sắp đặt theo tính nguyên khởi, được thực hiện dưới dạng tự nhận thức
và các biến thể của nó như tự nhớ, tự hình dung; điều đó cung cấp cho nhà tâm
lý học những trực giác tâm lý nguyên khởi, nhưng chỉ là kinh nghiệm tâm linh của
riêng người đó, gồm hiện tại, quá khứ, v.v… mà thôi. Rõ ràng là22 ý
nghĩa của một kinh nghiệm bất kỳ nào đó23 về “nội tính” của một người
khác đều hàm ý rằng nội tính ấy là một biến thể của nội tính của tôi, đến mức
là nội tính của một cá nhân khác24 có thể thích hợp với cùng những
khái niệm cơ bản đó như, và không có gì hơn là những khái niệm mà tôi đã tạo ra
ngay từ đầu từ chính kinh nghiệm của tôi về bản thân tôi vậy. Đúng là kinh nghiệm
cộng đồng cá nhân và đời sống cộng đồng được xây dựng bằng kinh nghiệm tự ngã
và của tha nhân đã thực sự đem lại các khái niệm mới, nhưng chúng là những khái
niệm mà trong bất kỳ trường hợp nào cũng đều giả định trước những khái niệm về
kinh nghiệm tự thân.25
Kinh
nghiệm Trực giác Nguyên khởi Tự thân
Nếu giờ đây chúng ta hỏi
cái gì là cái đầu tiên đem lại kinh nghiệm tự thân, kể cả kinh nghiệm thực và
kinh nghiệm khả thể, mang tính nguyên khởi đối với trực giác, thì công thức
kinh điển của Descartes Cogito ergo sum, chỉ
đưa lại một lời đáp khả thể cho câu hỏi đó – chừng nào chúng ta còn gác lại
toàn bộ mối bận tâm mà ông đã xác quyết bằng phương thức triết học–siêu vượt.
Nói cách khác chúng ta vấp phải không cái gì khác hơn là tự ngã, ý thức, và
khách thể ý thức theo nghĩa thông thường. Trong tính chất thuần tuý của nó, cái
tâm linh không là gì khác hơn cái mà chúng ta có thể gọi một cách rõ ràng là
cái ngã tính: cuộc sống ý thức và hiện-hữu-là-tôi trong đời sống đó. Nếu khi
chúng ta xem xét cộng đồng người, chúng ta có thể duy trì một tâm điểm chắc chắn
vào cái tâm linh thuần tuý, thì vẫn còn những chủ thể cá nhân thuần tuý, những
linh hồn - khởi hiện các mô thức liên chủ thể tính của ý thức ràng buộc các chủ
thể đó lại với nhau ở cấp độ tâm linh thuần tuý. Trong đó có các “hành động xã
hội”, viện đến những cá nhân khác, thực hiện các thoả thuận với họ, khuất phục
ý chí của họ, v.v…26 cũng như liên quan đến những hành động đó, duy
trì các ràng buộc liên cá nhân bằng cách gắn kết các cá nhân thuần tuý với các
cộng đồng cá nhân ở các cấp độ khác nhau.27
Phép
quy giản Hiện tượng luận28
3. Việc thực hiện một
cách chính xác phản ánh hiện tượng luận, như một trực giác nguyên khởi về cái
tâm linh trong tính đặc thù thuần tuý của nó chứa đầy những khó khăn to lớn;
cũng như khả thể tính của một môn tâm lý học thuần tuý – và vì vậy mà là của bất
kỳ môn tâm lý học nào – đều phụ thuộc vào việc thừa nhận và vượt lên các khó
khăn đó.29 Phương pháp “quy giản hiện tượng luận” là phương pháp cơ bản
cho việc dấn thân vào lĩnh vực tâm lý – hiện tượng luận, và tự nó đã làm cho
“tâm lý học thuần tuý” trở nên khả thể.
Chúng ta hãy thử nắm bắt
và mô tả bất kỳ loại nhận thức ngoại tại nào – chẳng hạn như việc nhận thức về
cái cây này – như một dữ liệu tâm linh thuần tuý. Về mặt tự nhiên, tự thân cái
cây đứng đó trong vườn, không thuộc về sự nhận thức, mà lại thuộc về tự nhiên
bên ngoài tinh thần. Tuy nhiên nhận thức chính là thế – tức là một cái gì đó
mang tính tâm linh – [chỉ] ở mức độ nó là một nhận thức “về cái cây này”. Không
có “về cái [người] này” hoặc “về cái [người] đó” thì một nhận thức không thể được
mô tả bằng chính việc tạo dựng nên bản tính tinh thần của riêng nó. Tính chất
không thể chia tách của yếu tố này được chỉ rõ bằng sự kiện là nó vẫn nguyên vẹn
với tri giác ngay cả khi tri giác thể hiện là một ảo tưởng. Cho dù khách thể tự
nhiên có thực sự tồn tại hay không thì tri giác đó vẫn là một tri giác về nó và
được cấp cho tôi bằng sự phản ánh hiện tượng luận như vậy.30
Vì
vậy để nắm bắt được yếu tố tinh thần thuần tuý của một quá trình nhận thức về
loại “tri giác” đó thì nhà tâm lý học một mặt cần phải tránh việc xác quyết bất
cứ một lập trường nào về sự tồn tại thực sự của cái được nhận thức, tức là cái
được tư duy - cogitatum, có nghĩa là nhà
tâm lý phải thực hiện một έποχή, dừng ngay
phán đoán có liên quan, đặt nó trong ngoặc kép, và sau đó không đưa ra các phán
đoán tri giác tự nhiên, vì chính ý nghĩa của những phán đoán như vậy luôn luôn
làm nảy sinh một xác quyết về về tồn tại và không tồn tại khách thể. Tuy nhiên,
mặt khác31, chính sự vật mang tính bản chất nhất về tất cả lại không
được bỏ qua, có nghĩa là ngay cả sau khi đã thanh lọc έποχή dừng ngay phán đoán có liên
quan, đặt nó trong ngoặc kép rồi thì tri giác vẫn là tri giác về ngôi nhà này,
thực sự về ngôi nhà này với vị thế đã được chấp nhận là “thực sự tồn tại”. Nói
cách khác, việc tạo dựng thuần tuý về tri giác của tôi bao gồm cả đối tượng tri
giác - nhưng thuần tuý theo nghĩa tri
giác, và đặc biệt là nội dung-nghĩa, nghĩa tri giác, của niềm tin tri
giác.
Nhưng
trong quá trình dừng phán đoán thì “ngôi nhà được nhận thức” đó, ngôi nhà đặt
trong ngoặc kép, theo cách nói của chúng ta, thuộc về nội dung hiện tượng không
phải với tư cách là một yếu tố cứng đờ, không sinh khí, mà tự thân nó vẫn sống
động - tạo thành một nhất tính trong những đa tính vẫn không ngừng dao động của
các phương thức thể hiện, mà mỗi phương thức về bản chất đều có đặc trưng của một
cách “thể hiện về…”, chẳng hạn như các quang cảnh về, dáng-vẻ-ở-một – khoảng
cách từ, v.v…, và mỗi phương thức trong suốt quá trình thể hiện tương quan đến
nhau đều sản sinh ra ý thức vẫn về chính ngôi nhà đó một cách tổng hợp. Rõ ràng
là chính thời điểm đó đã lưu giữ một cách chân xác mỗi loại tư duy, mỗi loại
“tôi trải nghiệm”, “tôi tư duy”, “tôi cảm nhận”, “tôi mong muốn”, v.v…Trong mỗi
trường hợp quá trình quy giản hiện tượng học với tư cách là cái tâm linh thuần
tuý, đòi hỏi chúng ta phải tự kiềm chế một cách có phương pháp để không rơi vào
bất cứ lập trường khách quan-tự nhiên nào; và không chỉ có thế, mà còn phải
tránh rơi vào bất kỳ lập trường nào về các giá trị, các thiện chí đặc thù,
v.v…; đòi hỏi chủ thể trong quá trình tạo dựng các khái niệm của mình một cách
tự nhiên cần phải chấp nhận một cách trung thực các khái niệm đó là có hiệu lực
trong bất kỳ trường hợp nào.
Trong
mỗi trường hợp, nhiệm vụ trước tiên là phải tiếp tục quan tâm đến tình trạng thừa
mứa các phương thức mà các “khách quan tính có chủ đích” tương ứng, theo nghĩa
thông thường, đó là cái được nhận thức, cái được nhớ lại, cái được nghĩ đến,
cái được định giá, v.v…, được “tạo dựng” dần dần với tư cách là các nhất tính tổng
hợp của các đa tính của ý thức; còn một nhiệm vụ khác là phơi bày vô số dạng thức
tổng hợp nhờ đó, nói chung, ý thức kết hợp với ý thức thành nhất tính của một ý
thức.32 Nhưng ngoài “ý thức -về” – luôn luôn được tập trung vào cùng
một cực của nhất tính, tự ngã – còn lại không có gì được phát hiện ở đây. Mỗi dữ
liệu tâm linh tự nó có thể được trưng bày chỉ với tư cách là một nhất tính quy
chiếu ngược trở lại các đa tính đang tạo dựng. Tâm lý học thuần tuý, và vì vậy
mà bất kỳ môn tâm lý học nào, cũng đều phải bắt đầu với các dữ liệu kinh nghiệm
thực sự, có nghĩa là, với những kinh nghiệm sống cá nhân thuần tuý của riêng
tôi là những tri giác - về, những gợi nhớ - về, và những sự vật thuộc loại đó,
chứ không bao giờ với các giả thuyết và
các trừu tượng hoá, chẳng hạn như “các dữ liệu cảm giác” hoặc những gì tương tự
như vậy.
Quy
giản Eιδος
hình thức - Tâm lý học hình thức thuần tuý là cơ sở cho tâm lý học kinh nghiệm33
4. Tâm lý hiện tượng luận
hoặc tâm lý học thuần tuý với tư cách là một bộ môn tâm lý học hoàn toàn độc lập
và thực chất chính yếu, cũng được tách bạch rõ ràng khỏi khoa học tự nhiên, vì
những lý do rất cơ bản, không được xác lập như một khoa học kinh nghiệm, mà như
một khoa học thuần tuý duy lý, “tiên thiên”, “ειδος”, mang tính hình
tượng, tưởng tượng. Theo cách hiểu thông thường36 nó chính là nền tảng
thiết yếu cho bất kỳ khoa học kinh nghiệm nghiêm nhặt nào liên quan đến các quy
luật về cái tâm linh hoàn toàn theo cách thức mà các môn học thuần tuý duy lý về
tự nhiên – hình học thuần tuý, chuyển động học, niên đại học, cơ học – là nền tảng
cho mỗi khoa học kinh nghiệm có thể “chính xác” về tự nhiên. Cũng hệt như vậy,
việc xây dựng nền tảng cho một bộ môn khoa học kinh nghiệm như vậy sẽ đòi hỏi sự
phô bày hệ thống các hình thức thiết yếu của tự nhiên nói chung, mà nếu không
có nó thì không thể tư duy được về tự nhiên – và đặc biệt hơn, các hình thức
không gian và thời gian, vận động, biến đổi, thực chất của vật chất và tính
nhân quả - vì vậy mà một ngành tâm lý học “chính xác” về phương diện khoa học
đòi hỏi phải phô bày những hình thức điển hình tiên thiên mà nếu không có nó
thì không thể tư duy về cái Tôi hoặc cái Chúng tôi, về ý thức, các khách thể ý
thức, và vì vậy mà không thể tư duy về bất cứ đời sống tâm linh nào cùng với tất
cả những khác biệt và các hình thức khả thể thiết yếu của các phép tổng hợp
không thể chia tách khỏi tư tưởng về một toàn thể tâm linh cá nhân và cộng đồng.
Vì vậy phương pháp quy
giản hiện tượng luận được kết nối với phương pháp thăm dò bản chất là thăm dò ειδος35, mang tính hình
tượng, tưởng tượng, có nghĩa là loại trừ không chỉ toàn bộ các phán đoán vượt
khỏi đời sống ý thức thuần tuý, vì vậy mà loại trừ toàn bộ các khoa học thực chứng
tự nhiên, mà còn loại trừ toàn bộ tính xác thực tâm lý học thuần tuý. Tính xác
thực ấy chỉ được sử dụng như một bản mẫu, một cơ sở cho sự biến đổi tự do của
các khả năng, vì vậy cái mà chúng ta tìm cách xác quyết chính là cái bất biến
xuất hiện trong cái biến đổi, hình thức điển hình cần thiết được kết buộc lại với
khả năng được tư duy. Vì vậy chẳng hạn như hiện tượng luận tri giác các vật thể
không gian không phải là một học thuyết36 về các nhận thức ngoại tại
cũng xuất hiện một cách xác thực hoặc có
thể được hy vọng xuất hiện về phương diện kinh nghiệm; đúng ra thì nó xuất
trình một hệ thống cấu trúc cần thiết, nếu không có nó thì không thể tư duy về
một sự tổng hợp nhiều loại nhận thức như là những nhận thức về cùng một sự vật
đó. Trong số37 những tổng hợp hiện tượng luận – tâm lý quan trọng nhất
được thăm dò có những tổng hợp về lễ kiên tín, chẳng hạn như về tri giác ngoại
tại, về ý thức – dưới hình thức thoả thuận và thông qua việc thực hiện những thấu
hiểu trước – tự thích hợp với niềm tin có bằng chứng hiển nhiên vào sự tồn tại
[của một cái gì đó], và điều đó được thực hiện như một ý thức về tự ngã, sự vật
tự thể hiện mình. Tương tự như vậy còn có sự thăm dò về các quá trình thể thức
hoá, tính đáng ngờ, khả năng có thể xảy ra, và có lẽ cả tính chất vô dụng như
là những nghịch thức của các phép tổng hợp đồng dạng – cho mỗi loại hành động,
một tâm lý học lý trí thuần tuý.
Quy
giản thành liên chủ thể tính thuần tuý
5. Quy giản hiện tượng
luận như đã mô tả ở trên là loại quy giản tự ngã; và chính vì vậy mà ví dụ đầu
tiên của hiện tượng luận về các khả năng bản chất chỉ riêng về bản ngã trực giác
nguyên uỷ của tôi, hiện tượng luận bản ngã. Tuy nhiên một hiện tượng luận về sự
thấu cảm và cái cách mà sự thấu cảm với tư cách là một tổng hợp của các hiện tượng
trong tư duy của tôi có thể vận hành tiến trình của nó một cách hài hoà và xác
quyết, để rồi sau đó có thể bằng sự xác quyết nhất quán, chỉ ra một “chủ thể
tính xa lạ” – tất cả cái đó dẫn đến sự khai triển quy giản hiện tượng luận vào một
quy giản thuần tuý liên chủ thể tính. Như vậy là đã khởi hiện, với tư cách là một
hiện tượng luận tâm lý học thuần tuý trong tính trọn vẹn của nó, cái học thuyết ειδος mang tính hình tượng, tưởng
tượng về một cộng đồng được tạo dựng thuần tuý về mặt tâm lý học trong đó các
hành động xoắn xuýt với nhau về phương diện liên chủ thể tính, hành động sống cộng
đồng, tạo dựng nên cái thế giới “khách thể”, cái thế giới cho tất cả mọi người,
là bản chất “khách thể”, với tư cách là một thế giới văn hoá và một thế giới về
các cộng đồng hiện tồn “một cách khách quan”.
Lịch
sử Tâm lý học Hiện tượng38
6. Ý tưởng về một bộ
môn tâm lý học thuần tuý, phi tâm lý được tạo dựng thuần tuý từ kinh nghiệm tâm
lý, về phương diện lịch sử, đã quay trở về với công trình đáng để ý và là công
trình cơ bản của Locke, trong khi sự phát triển và tạo dựng cái mà Locke bắt đầu
lại được trào lưu kinh nghiệm chủ nghĩa, do chính Locke gieo trồng, thực hiện.
Trào lưu này đã phát triển lên đến cực điểm trong Khảo luận sáng chói [về Thực
chất Con người] của David Hume. Người ta có thể thấy nó như một dự phóng đầu
tiên về tâm lý học thuần tuý được thực hiện triệt để một cách nhất quán hầu như
hoàn hảo, reiner – thuần khiết, cho dù đó chỉ là một tâm lý học bản ngã, hoàn
toàn là một nỗ lực đầu tiên về triết học siêu việt hiện tượng luận.
Chúng ta có thể phân biệt
hai khuynh hướng hoà trộn ở Locke, đó là khuynh hướng tâm lý học thực chứng và
khuynh hướng triết học–siêu việt. Tuy nhiên mặc dù có nhiều dự cảm sâu sắc và đầy
hứa hẹn, nhưng trào lưu này đã bị thất bại trong cả hai phương diện. Nó không hề
có bất kỳ suy tư nào về mục đích và các khả năng của một bộ môn tâm lý học thuần
tuý, và nó cũng không hề có phương pháp cơ bản về quy giản hiện tượng. Đui mù về
ý thức với tư cách là ý thức-về, “tính chủ đích”, cũng có nghĩa là đui mù về
các phận sự và các phương pháp đặc biệt bắt nguồn từ quan điểm ấy về ý thức.
Trong phân tích cứu cánh, chủ nghĩa kinh nghiệm cũng không hiểu được mức độ cần
thiết của một học thuyết ειδος mang tính hình tượng,
tưởng tượng duy lý về tâm quyển thuần tuý. Trong suốt những năm tháng đó toàn bộ
trào lưu này cũng đã ngáng trở mọi nỗ lực xây dựng nền tảng quyết định cho bộ
môn tâm lý học thuần tuý và vì vậy mà cũng ngáng trở việc xây dựng nền tảng cho
cả một môn tâm lý học khoa học nghiêm nhặt nói chung.
Xung lực quyết định đầu
tiên [theo hướng đó] đã được Franz Brentano (Psychologie, I, 1874)39
gây dựng bằng phát hiện vĩ đại của ông thông qua việc ông tái định giá khái niệm
học thuật về “tính chủ ý” đối với một đặc trưng bản chất về “các hiện tượng
tinh thần”. Nhưng vẫn còn bị xượng bởi các định kiến tự nhiên chủ nghĩa nên
ngay cả Brentano cũng không thấy được các vấn đề về tổng hợp và tạo dựng tính
chủ ý, và ông đã không phát hiện ra được một con đường thông suốt để xác lập
một tâm lý học thuần tuý, một tâm lý học ειδος mang tính hình tượng,
tưởng tượng theo nghĩa hiện tượng luận. Tuy nhiên chính phát hiện của ông đã làm
cho trào lưu hiện tượng luận có thể khởi phát vào khúc quanh của thế kỷ XX
này.
Một mặt, việc vạch ra
con đường song hành giữa môn tâm lý học thuần tuý, tiên thiên đó, và mặt khác, một
khoa học tự nhiên tiên thiên, tức là hình học, rõ ràng là môn tâm lý học này
không phải là một vấn đề về “những suy đoán tiên thiên” trống rỗng. Hơn nữa nó
còn bao gồm công trình khoa học nghiêm nhặt được thực hiện trong khuôn khổ trực
giác tâm lý cụ thể, công trình tạo dựng các khái niệm tâm lý học thuần tuý –
cùng với các quy luật rõ ràng và có giá trị về bản chất gắn liền với các khái
niệm đó - thành một loạt khái niệm vô hạn
nhưng hệ thống và có thứ bậc. Mặt khác ngay ở đây chúng ta cũng không giả định
đặc trưng khoa học của các khoa học tiên thiên đã được biết từ lâu. Tương ứng với
thực chất riêng cơ bản của cái tâm linh còn có hệ thống duy nhất tương tự về
tính tiên thiên và phương pháp nguyên vẹn của nó.
II.
Tương phản giữa Hiện tượng luận Siêu việt và Hiện tượng luận Tâm lý
Mối
tương quan xoắn xuýt giữa Hiện tượng luận Siêu việt - Hiện tượng luận Hiện tượng
và nhu cầu phân biệt giữa hai loại hình đó40
1. Hiện tượng luận mới
không khởi hiện ngay từ đầu như là một tâm lý học thuần tuý, và vì vậy mà nó không
làm nảy sinh mối bận tâm về việc xác lập một tâm lý học khoa học triệt để41;
đúng ra là nó khởi hiện như là một “hiện tượng luận siêu việt” với mục đích tái
tạo triết học thành một khoa học nghiêm nhặt. Vì hiện tượng luận tâm lý và hiện
tượng luận siêu việt về cơ bản đều có những nghĩa khác nhau, cho nên chúng phải
được duy trì như là những bộ môn hoàn toàn khác biệt. Đó là một thực tế mà ngay
cho dù một khoa học có chuyển hướng thành một khoa học khác thông qua một thay
đổi nhỏ nhặt hoàn toàn theo nghĩa thông thường thì các hiện tượng “giống hệt
như nhau” và các nhận thức ký ức hình ảnh đều xuất hiện ở cả hai loại khoa học
đó, mặc dù dưới một chuyên mục khác, làm thay đổi về cơ bản nghĩa của chúng. Thậm
chí Locke còn không chú ý đến việc xác lập một bộ môn tâm lý học thuần tuý;
đúng ra đây phải là phương tiện duy nhất cho giải pháp phổ biến về vấn đề “lý
giải”. Vì vậy mà chủ đề chính của ông là điều bí ẩn về các chức năng lý giải được
thực hiện với tư cách là tri thức và khoa học trong chủ thể tính trong khi đưa
ra những tuyên bố về tính hiệu lực khách thể. Tóm lại Khảo luận của Locke đã được
định hướng như một dự phóng về một lý thuyết tri thức, một triết học siêu việt.
Ông42 và trường
phái của mình đã bị kết buộc là “chủ thuyết tâm lý”. Nhưng nếu như sức ép của vấn
đề siêu việt là phải truy vấn ý nghĩa và tính chính đáng của một khách thể tính
đã bắt đầu được biết đến về phương diện ý thức trong tính nội tại của chủ thể
tính thuần tuý, cũng như ý nghĩa và tính chính đáng đó lại được thể hiện trong
các quá trình xây dựng nền tảng chủ thể tính, thì vấn đề này đã thu hút mối
quan tâm tương tự về bất cứ cái gì và về mọi thứ có tính khách thể.
Những
gợi ý về vấn đề Siêu việt: Trong Trầm tư của Descartes,
và đây là lý do chính xác giải thích tại sao ông là người khai mở kỷ nguyên nhận
rõ vấn đề siêu việt, sự hiểu biết sâu sắc về siêu việt đã được chuẩn bị, đó là
chừng nào mà việc tìm hiểu bản ngã còn được quan ưu thì mọi thứ mà chúng ta
tuyên bố thực sự tồn tại và tồn-tại-như-vậy-và-vì-vậy, để rồi cuối cùng điều đó
có nghĩa là toàn thể vũ trụ chỉ là một cái gì đó được tin-tưởng-vào trong các
niềm tin mang tính chủ thể, và là-như-vậy-và-vì-vậy chỉ là một cái gì đó được
thể hiện, được tư duy, và vân vân, là có ý nghĩa này hoặc ý nghĩa khác. Vì vậy,
đời sống ý thức chủ thể trong tính nội tại thuần tuý chính là vị trí mà tất cả
ý nghĩa được đặt để và toàn bộ tồn tại được sắp xếp và xác nhận. Vì vậy nếu
chúng ta tinh lọc những gì mà chủ thể tính có thể thực hiện và vẫn thực hiện ở
đây, trong tính nội tại ẩn giấu của nó, thì chúng ta cần phải có sự tự tìm hiểu
một cách hệ thống và thuần tuý về người hiểu, chúng ta cần phơi bày cái đời sống
tư duy đó, riêng bằng phương tiện “kinh nghiệm nội tại”.
Chủ
thuyết tâm lý: Mặc dù đã có được một sự thấu hiểu sâu
sắc, nhưng Locke vẫn thiếu tính thuần khiết cơ bản [cần thiết] và ông đã rơi
vào sai lầm của chủ thuyết tâm lý. Chừng nào tri thức và kinh nghiệm thực-tại-khách-quan
nói chung vẫn còn bị đặt vấn đề về tính siêu vượt thì nó vẫn còn làm cho ông trở
nên lố bịch trong việc giả định trước bất cứ loại tri thức và kinh nghiệm khách
quan nào – bởi vì chính cái ý nghĩa và tính chính đáng của tính hiệu lực khách
quan của chúng không phải tự thân là một phần của vấn đề đó. Tâm lý học không
thể là cơ sở cho triết học siêu vượt. Ngay cả tâm lý học thuần tuý theo nghĩa
hiện tượng học được vạch ranh giới về phương diện chủ đề bằng phép quy giản hiện-tượng-học-tâm-lý
cũng vẫn và sẽ luôn luôn là một khoa học thực chứng: nó lấy thế giới làm nền tảng
cho trước. Các linh hồn thuần tuý và các cộng đồng linh hồn [mà môn tâm lý học
nghiên cứu] đều là những linh hồn thuộc về những thể xác về thực chất đều được
phỏng đoán, nhưng đã đơn giản bị bỏ qua, không được xem xét đến. Giống như mọi
khoa học thực chứng, môn tâm lý học43 thuần tuý này tự thân nó đã có
vấn đề về phương diện siêu việt.
Quy
giản Siêu việt và vẻ ngoài của sự trùng lặp44
Nhưng các mục tiêu của
triết học siêu việt đòi hỏi một sự quy giản hiện tượng luận hoàn toàn phổ quát
và mở rộng, quy giản siêu việt, là loại quy giản thừa nhận giá trị phổ biến của
vấn đề và các thực tiễn mà một έποχή dừng phán đoán có liên quan, đặt nó trong ngoặc
kép, cái thế giới tổng thể của kinh nghiệm và toàn bộ các khoa học và nhận thức
siêu việt dựa vào đó để chuyển hoá tất cả thành các hiện tượng – các hiện tượng
siêu việt. Decartes đã chạm đến phép quy giản này, trong việc theo kịp nguyên tắc
phương pháp luận έποχή
dừng ngay phán đoán có liên quan, đặt nó trong ngoặc kép, liên quan đến mọi vật
có thể trùng lặp, đến mức ông đã gạt bỏ vai trò của tồn tại tổng thể thế giới
kinh nghiệm; ông đã thừa nhận rằng cái còn lại sau đó là cái tôi tư duy như một
tổng thể của chủ thể tính thuần tuý, và cái chủ thể tính thuần tuý này không
còn được coi là cái tôi [kinh nghiệm], “người này”45 - là cái thực
thể trong tính giá trị nội tại của nó, đã được giả định bởi, và vì thế mà có ưu
thế thực chất với, toàn bộ nhận thức thực chứng.
Về phương diện này, nếu
chúng ta bổ sung thêm sự thừa nhận quan trọng của Locke về tính cần thiết cho
việc mô tả đời sống nhận thức trong tất cả các cấp độ và các thể loại cơ bản của
nó, thêm phát hiện của Brentano về tính chủ ý trong việc sử dụng mới về sự
thừa nhận đó, và cuối cùng bổ sung thêm sự thừa nhận về tính cần thiết của
phương pháp siêu việt thì kết quả đạt được chính là chủ đề và phương pháp về hiện
tượng học siêu vượt ngày hôm nay. Thay cho việc quy giản duy nhất vào chủ thể
tính tinh thần thuần tuý, những loại tư duy thuần tuý về con người trong thế giới,
chúng ta cần một phép quy giản vào chủ thể tính siêu việt bằng một έποχή
treo lại ngay phán đoán có liên quan, đặt nó trong ngoặc kép, mang tính phương pháp
về thế giới hiện thực theo quan niệm thông thường và thậm chí là về tất cả các
chủ thể tính lý tưởng cũng được, chẳng hạn “thế giới” số và những thứ tương tự.
Hiệu lực tính còn lại là riêng cái phổ quát về chủ thể tính “thuần tuý siêu việt”
và đi kèm trong đó là toàn bộ các “hiện tượng” xác thực và khả thể về các khách tính, toàn bộ các phương thức thể hiện và các phương thức ý thức thuộc về
các khách tính như vậy, v.v…
Chỉ bằng phương pháp
căn cội đó thì hiện tượng luận mới tránh được mâu thuẫn của phạm vi tri thức luận:
đặc biệt là khi giả định, hệt như là nó đã vượt ra khỏi vấn đề, là cái [có vấn
đề] bao gồm trong xung lực tự thân của việc đặt vấn đề siêu việt. Hơn nữa chỉ ở
điểm này chúng ta mới có thể hiểu được đầy đủ về sự cám dỗ của chủ thuyết tâm
lý. Giờ đây chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy rằng bằng một cách thức nhất định,
hiện tượng học tâm lý thuần tuý thực tế trùng khớp với hiện tượng luận siêu việt,
định đề thay cho định đề - ngoại trừ một điều là những xác quyết tương ứng được
lý giải bằng [lĩnh vực] thuần tuý hiện tượng luận, trong trường hợp này là cái
tâm linh, một phổ tồn tại bên trong cái thế giới được chấp nhận về phương diện
tự nhiên, và trong trường hợp khác là cái chủ thể tính-siêu việt, trong đó ý
nghĩa và hiệu lực tồn tại của cái thế giới được chấp nhận về phương diện tự
nhiên ấy khởi nguồn. Quy giản hiện tượng luận trong thực tế khơi mở một loại
kinh nghiệm hoàn toàn mới có thể theo đuổi một cách hệ thống, đó là kinh nghiệm
siêu việt.
Thông qua quy giản siêu việt, chủ thể tính tuyệt đối, là cái mà những chức năng ẩn giấu ở mọi nơi đều
được đưa ra ánh sáng cùng với toàn bộ đời sống siêu việt của nó, mà trong những
tổng hợp mang tính chủ đích của nó, toàn bộ các khách thể thực tế và lý tưởng,
với hiệu lực tồn tại thực chứng của chúng vẫn được tạo dựng. Quy giản siêu việt
sản sinh ra lĩnh vực chủ đề về một khoa học hiện tượng luận tuyệt đối, được gọi
là khoa học siêu việt vì nó tự giới hạn phạm vi của mình trong toàn bộ các truy
vấn siêu việt hoặc lý thuyết-duy lý. Mặt khác, lý thuyết duy lý siêu việt được
phân biệt với nó chỉ ở điểm xuất phát về các truy vấn đó, vì việc thực hiện một
lý thuyết như vậy luôn giả định trước cái đối tượng nghiên cứu phổ quát về cái
toàn thể của chủ thể tính siêu việt. Và đó cũng chính là một khoa học a priori,
tiên thiên.
Triết
học Siêu việt với tư cách là Hữu thể luận Phổ quát 46
2. Toàn bộ các khoa học
thực chứng đều vận hành trong tính ngây thơ siêu việt. Không thừa nhận điều đó,
người ta thực hiện công việc nghiên cứu với định hướng phiến diện, trong đó
toàn bộ đời sống kiến tạo siêu việt các nhất tính xác thực về kinh nghiệm và
tri thức vẫn ẩn giấu trong các khoa học này – ngay cho dù người ta chỉ có thể
thấy một cách rõ ràng sau toàn bộ các quy giản của chúng ta, toàn bộ các nhất
tính như vậy, theo nghĩa nhận thức riêng của chúng là những gì mà chúng thực sự
là với tư cách là các nhất tính của các đa tính đang tạo dựng một cách siêu việt.
Duy nhất hiện tượng luận siêu việt, và chủ nghĩa duy tâm siêu việt của nó không
tồn tại ở đâu khác ngoài hiện tượng luận này, làm cho các khoa học khả thể đối
phó với các khoa học toàn diện, hoàn toàn cụ thể, điều đó có nghĩa là các khoa
học tự hiểu và tự thanh minh cho mình một cách triệt để. Chủ đề về hiện tượng học
siêu vượt liên quan đến bất kỳ chủ thể tính nào và đến mọi chủ thể tính khả thể
theo nghĩa thông thường của nó, trong đời sống tri thức và các kinh nghiệm tạo
dựng cũng như các nhận thức mà một thế giới khách quan xuất hiện ý thức.
Thế giới như đã trải
nghiệm bằng kinh nghiệm xác thực là chủ đề của hệ thống nghĩ ra các khoa học
kinh nghiệm thực chứng. Nhưng trên cơ sở của một loại biến thiên tư tưởng tự do
về kinh nghiệm xác thực gắn liền với thế giới kinh nghiệm mà ở đó hiện khởi ý
tưởng về hệ thống các khoa học kinh nghiệm khả thể phụ thuộc một cách tiên
thiên vào nhất tính của một thế giới khả thể. Vì vậy một mặt vẫn có một hữu thể
luận tiên thiên thăm dò một cách hệ thống các cấu trúc nhất thiết phụ thuộc về
phương diện bản chất vào một thế giới khả thể, có nghĩa là mọi vật không có nó
thì một thế giới như vậy không thể tư duy được về phương diện tồn tại thực tế.
Nhưng một mặt có nghiên cứu tương quan hiện tượng thăm dò thế giới khả thể và
các cấu trúc tồn tại thực tế của chúng, như một thế giới kinh nghiệm khả thể,
liên quan đến khả năng ban tặng nghĩa và xác lập sự tồn tại, mà thiếu nó thì thế
giới có thể không được tư duy một cách tương tự. Bằng cách đó, hiện tượng luận
siêu việt một khi đã được hiện thực hoá sẽ bao quát cả một hữu thể học phổ quát
theo nghĩa rộng: một hữu thể học cụ thể, phổ quát và đầy đủ trong đó mọi khái
niệm hữu thể có liên quan đều được rút ra từ một nguyên khởi tính siêu việt không
đặt để các vấn đề về ý nghĩa và tính chính đáng trong bất kỳ cách thức không rõ
ràng nào.
Hiện
tượng luận và sự khủng hoảng các nền tảng của các khoa học chính xác47
Các khoa học tiên thiên
đã được phát triển, về phương diện lịch sử không hề hiện thực hoá ý tưởng đầy đủ
về một hữu thể luận thực chứng. Các khoa học đó chỉ, và về phương diện này, thậm
chí còn không đầy đủ, đề cập đến hình thức logic của thế giới khả thể, mathesis
universalis, khoa học phổ quát hình thức dựa trên cơ sở toán học, và hình thức ειδος
hình thức, tưởng tượng của một bản chất vật chất khả thể.
Chúng vẫn bị mắc kẹt trong tính ngây thơ siêu việt và hậu quả là phải chịu gánh
nặng của những thiếu sót trong việc xây dựng cơ sở nhất thiết phải có. Trong
hình thức ngây thơ này, chúng vận hành như những công cụ phương pháp luận cho
các khoa học kinh nghiệm “chính xác” tương ứng, hoặc để làm cho nó chính xác
hơn chúng được sử dụng: để duy lý hoá các lĩnh vực dữ liệu kinh nghiệm; để cung
cấp một methexis, mối quan hệ giữa một sự kiện đặc thù và một hình thức, giữa
cái xác thực và cái cần thiết bằng cách quy chiếu ngược trở lại cấu trúc ειδος
hình thức của một sự-kiện-thế-giới khả thể nói chung; và vì vậy mà cung
cấp cơ sở cho các quy luật để củng cố các nguyên lý thuần tuý quy nạp. Các
“khái niệm cơ bản” của tất cả các khoa học thực chứng – những khái niệm từ bên
ngoài của tất cả các khái niệm về thực tại thế giới được tạo dựng – đồng thời
là các khái niệm cơ bản của các khoa học duy lý tương ứng.
Nếu có bất kỳ sự thiếu
minh bạch nào về các nguồn gốc của chúng, và vì thế mà có bất kỳ thất bại nào
liên quan đến việc tìm hiểu ý nghĩa cần thiết và chính hiệu của chúng, thì sự
thiếu minh bạch này lại bị truyền đến toàn bộ công việc tạo dựng lý thuyết của
các khoa học thực chứng. Trong hầu hết các lần gần đây, thiếu sót của tất cả
các khoa học thực chứng đều đã được phơi bày bởi sự khủng hoảng của các nền tảng
là tất cả các khoa học tiên thiên, kinh nghiệm và thực chứng đều lâm vào, cũng
như bởi trận chiến về các “nghịch lý”, về tính chính cống hoặc tính hiển nhiên
của các khái niệm cơ bản, và các nguyên tắc truyền thống trong đại số, trong
niên đại học, v.v…Dưới ánh sáng của toàn bộ đặc trưng phương pháp của chúng,
các khoa học thực chứng không còn có thể được xem là các khoa học chân chính nữa
– theo nghĩa đó, các khoa học có thể hoàn toàn tự lý giải và tự biện minh được
cho chính bản thân mình và có thể phác thảo các con đường chắc chắn cho bản
thân chúng với sự hiểu biết sâu sắc một cách toàn diện. Khoa học hiện đại chỉ
có thể được giải phóng khỏi tình huống quá đáng này bằng một cuộc cải cách hiện
tượng luận.
Xây
nền hiện tượng luận cho các khoa học thực sự48
Căn cứ vào những gì mà
chúng ta đã nói ở trên, hiện tượng luận siêu việt được viện đến để phát triển
cái ý tưởng tự ẩn giấu trong chính bản thân nó, về một hữu thể luận phổ quát vượt
lên đến cấp độ siêu việt, và vì vậy mà đem đến tính toàn diện cụ thể - có nghĩa
là, tư tưởng về một khoa học của hệ thống các ειδος hình thức
mang tính hình tượng, tưởng tượng của mọi thế giới khả thể về
nhận thức và của các hình thức tương quan của sự tạo dựng có chủ đích của
chúng. Theo đó, hiện tượng học là chốn nguyên khởi của các khái niệm cơ bản về
tất cả các khoa học siêu vượt, như là các nhánh của một hữu thể luận, và vì vậy
mà là các khái niệm cơ bản của toàn bộ các khoa học kinh nghiệm tương ứng của
thế giới hiện thực – các khái niệm cơ bản được tạo hình trong tính chính đáng
nguyên khởi và về phương diện phát triển hiện tượng luận của chúng, là từ sự khởi
đầu, không dính dáng gì đến bất kỳ tính mù mờ nào. Vì nó nảy nở một cách hệ thống,
nên môn hữu thể luận hiện tượng luận này chuẩn bị toàn bộ các khoa học tiên
thiên vẫn chưa có nền móng và vì vậy mà chuẩn bị cho sự phát triển tất cả các
khoa học kinh nghiệm trở thành các khoa học “chính xác”, duy lý hoá. Một bước tiến
quan trọng theo hướng đó chính là việc xây dựng một môn tâm lý học thuần tuý
tiên thiên, thay cho môn tâm lý học kinh nghiệm vận hành con đường mà một bộ
môn hình học tiên thiên vận hành cho môn vật lý học kinh nghiệm. Ý tưởng này sẽ
nhất thiết quyết định một trăm năm sau49. Một nhiệm vụ chủ yếu bao
hàm trong đó chính là việc lý giải hiện tượng học về lịch sử và về “ý nghĩa” phổ
quát chứa đựng trong tính không lặp lại của nó.
3. Hiện tượng luận về đời
sống tình cảm và ý chí với tính chủ ý chính xác đối với nó được xây dựng
trên cơ sở hiện tượng luận về kinh nghiệm và tri thức tự nhiên bao gồm toàn bộ
văn hoá theo các hình thức cần thiết, khả thể và cái ειδος
hình thức mang tính hình tượng, tưởng tượng của nó cũng như cái tương
quan tiên thiên thuộc về các hình thức ειδος mang tính hình tượng,
tưởng tượng của xã hội tính. Rõ ràng là mọi môn khoa học định chuẩn và mọi môn
triết học theo nghĩa chuyên môn hoá đều nằm trong phạm vi hiện tượng luận, hệt
như hiện tượng học triết học về phương diện lịch sử hiện khởi trong mối quan hệ
với quá trình minh bạch hoá cái tư tưởng về một môn logic học thuần tuý, một
môn giá trị học hình thức, và một lý thuyết thực tiễn.
Hiện tượng luận là phản
siêu hình học chừng nào nó phản đối mọi siêu hình học liên quan đến việc tạo dựng
các giả thuyết thuần tuý hình thức50. Nhưng giống như mọi vấn đề triết
học chính cống, toàn bộ các vấn đề siêu hình học đều quay trở về với một cơ sở
hiện tượng luận, mà ở đó chúng tìm thấy được hình thức siêu việt chân chính và
phương pháp được tạo dựng từ trực giác. Hơn nữa hiện tượng luận không hề là một
triết học hệ thống theo phong cách truyền thống, mà là một khoa học hoạt động
thông qua các nghiên cứu hệ thống và cụ thể. Ngay cả ở cấp thấp nhất – sự phân
tích ειδος
hình tượng, tưởng tượng thuần tuý mô tả về các cấu trúc của một
chủ thể tính thuần tuý siêu vượt, về cái tôi như một đơn tử – đã là một lĩnh vực
nghiên cứu cụ thể mênh mông, mà các kết quả của nó là cơ sở cho toàn bộ triết học,
và tâm lý học.
Cuộc
cách mạng hiện tượng luận của tất cả các phản đề triết học51
Khi
công trình hiện tượng luận phát triển một cách hệ thống từ các dữ kiện trực giác
để trừu tượng hoá các đỉnh cao nhất thì các phản đề mơ hồ theo truyền thống cũ
về các quan điểm triết học phải tự thân giải quyết mà không có các mánh khoé biện
chứng cãi lý hoặc các nỗ lực lờ mờ bằng thoả hiệp – các phản đề theo nghĩa
thông thường là những phản đề giữa chủ nghĩa duy lý Platonism và chủ nghĩa kinh
nghiệm, chủ thể luận và khách thể luận, duy tâm và duy vật, hữu thể và siêu vượt,
tâm lý luận và phản tâm lý luận, thực chứng và siêu hình, giữa một quan niệm mục
đích luận52 về thế giới và một quan niệm mục đích luận thuần túy. Ở
cả hai phía đều có những lý do chính đáng, nhưng cũng là những nửa sự thật và
các tuyệt đối hoá không thể chấp nhận được về các vị trí cục bộ chỉ được biện
minh tương đối và tuyệt đối.
Chủ thể luận chỉ có thể
được vượt qua bởi loại chủ thể luận nhất quán và phổ quát nhất, chủ thể luận
siêu việt. Trong hình thức này chủ thể luận đồng thời là khách thể luận ở chừng
mức nó bảo vệ các quyền về tất cả các khách thể tính phải được thể hiện bởi
kinh nghiệm hài hoà, nhưng thực ra thì nó cũng đem đến cho tính hiệu lực cái ý
nghĩa đầy đủ và chân chính của nó, ngược lại với cái gọi là khách thể luận mắc
lỗi trong sự lý giải sai lầm về sự tạo dựng siêu việt. Hơn nữa người ta còn nói
rằng: chủ nghĩa kinh nghiệm chỉ có thể bị vượt qua53 bởi loại chủ
nghĩa kinh nghiệm nhất quán và phổ quát nhất, trong vị thế của thứ “kinh nghiệm”
bó hẹp của các nhà kinh nghiệm luận, ấn định khái niệm kinh nghiệm nhất thiết
phải được mở rộng – cấp cho trực giác nguyên khởi – dưới mọi hình thức của nó,
trực giác về cái ειδος, hình tượng, tưởng tượng về bằng
chứng hiển nhiên, trực giác hiện tượng học về bản chất, v.v…, thể hiện kiểu loại
và hình thức về sự chính thống hoá của nó bằng cách thanh lọc hiện tượng luận.
Hiện tượng luận với tư cách là hiện tượng luận ειδος hình thức, hình tượng, tưởng
tượng, một mặt mang tính duy lý; nó vượt qua một chủ nghĩa duy lý giáo điều, chật
hẹp bằng một chủ nghĩa duy lý phổ quát nhất, thứ chủ nghĩa duy lý nghiên cứu ειδος hình tượng, tưởng tượng, liên
quan đến một cách thức thống nhất đối với chủ thể tính siêu việt, ý thức – cái
tôi, và khách thể tính ý thức.
Tình
hình cũng như vậy đối với các phản đề khác xoắn xuýt lấy nhau. Trong học thuyết
sáng thế, hiện tượng luận giải quyết học thuyết quần hợp ειδος mang tính hình tượng,
tưởng tượng: nó thanh lọc và biện minh cho những phát hiện mở đầu của Hume,
nhưng sau đó nó lại tiếp tục chỉ ra rằng bản chất của chủ thể tính siêu việt
cũng như hệ thống các quy luật ειδος mang tính hình tượng, tưởng
tượng triệt để là mục đích luận. Chủ nghĩa duy tâm siêu vượt của hiện tượng luận
đã ẩn giấu chủ nghĩa hiện thực tự nhiên hoàn toàn trong chính bản thân nó,
nhưng nó lại cũng tự chứng tỏ không phải bằng thứ luận lý rối rắm mà bằng tính nhất quán tự thân của công trình
hiện tượng luận. Hiện tượng luận có chung hàng loạt phẩm cấp với Kant trong trận
chiến chống lại thứ hữu thể luận nông cạn của phép phân tích khái niệm, nhưng tự
thân nó là một hữu thể luận, mặc dù được rút ra từ “kinh nghiệm siêu việt”. Hiện
tượng luận bác bỏ mọi loại “phục hưng” triết học; là một triết học tự phản ánh
trong nguyên khởi sâu xa nhất và trong tính phổ quát nhất của nó, nó được định
hướng đến các khái niệm, các vấn đề và các hiểu biết sâu sắc54 là một
triết học đạt được bởi tự thân, và nó vẫn được khích lệ bởi những con người vĩ
đại trong quá khứ mà trực giác của họ được chính triết học này xác quyết thêm
trong khi hoán đổi các trực giác đó thành nền tảng vững chắc cho công nghiệp
nghiên cứu cụ thể mà người ta có thể tiếp tục và thực hiện đến cùng. Nó đòi hỏi
nhà hiện tượng luận, về phương diện cá nhân, phải từ bỏ cái ý niệm về một triết
học có lẽ chỉ là của riêng họ và thay vì là một người làm công khiêm tốn nhất
trong một cộng đồng với những người khác, thì học phải sống vì một philosophia
perennis, triết học vĩnh hằng. 55
__________________________________________________
Tác giả: Edmund Gustav Albrecht Husserl
(Sinh ngày 8, tháng Tư năm 1859 tại Prostejov, Moravia, nước Áo, chết ngày 26
tháng Tư, năm 1938 tại Freiburg, nước Đức) là một nhà triết học và toán học, được
coi là cha đẻ của Hiện tượng luận. Ông là người đột phá vào định hướng thực chứng
khoa học và triết học trong thời đại của mình, và ông còn là người kiến tạo các
phê phán duy sử luận và tâm lý luận về phương diện logic. Không giới hạn vào chủ
nghĩa kinh nghiệm, nhưng lại tin tưởng rằng kinh nghiệm là cội nguồn của toàn bộ
tri thức, ông đã xây dựng phương pháp quy giản hiện tượng luận bằng quan niệm
cho rằng một chủ thể hoàn toàn có thể nhận thức được một cách trực tiếp một bản
chất. Mặc dù sinh ra trong một gia đình Do Thái, nhưng Husserl lại chịu lễ rửa
tội để theo Tin lành Luther năm 1886. Ông nghiên cứu toán học với Karl
Weierstrass và Leo Konigsberger, nghiên cứu triết học với Franz Brentano và
Carl Stumpf. Bản thân ông đã giảng dạy triết học ở Halle từ năm 1887, sau đó là
giáo sư triết ở Gottingen năm 1901, và ở Freiburg từ năm 1916 đến khi nghỉ hưu
năm 1928. Sau đó ông đã đọc một số bài giảng tại Paris năm 1929, và ở Prague
năm 1935. Đạo luật phân biệt chủng tộc khét tiếng của Đức Quốc xã đã gạt ông ra
khỏi mọi cương vị và đặc quyền Hàn lâm, và ông mất tại Freiburg năm 1938.
Nguồn: Edmun Husserl: Phenomenology, Draft A. Bản dịch tiếng Anh của Thomas Sheehan. The Encyclopaedia Britannica Article.
Editorial Notes on the Present Edition of the EB Article.
Chú thích
1. Hu (Husserl) IX, p. 238.9-240.4. Tư
liệu mục này nói chung tương hợp với một số tư liệu trong Draft D §2, "Cái
tâm thần Thuần túy [v.v…]."
2. Heidegger (A1, p. 1.21,
trong văn bản) đã thay đổi từ tiếng Đức của Husserl "wie" thành
"in denen," tức là từ "như thế nào" hoặc "như là"
thành "bằng cái [loại] nào" (Xem Hu
IX, tr. 237.20). Ngoại trừ cách ghi chú khác, các nhận xét của Heidegger thấy
ghi ở lề trái văn bản của Husserl.
3. Heidegger (A1, tr. 2.13, trong văn bản) đã thay đổi "normal" thành [“unreflektiert”. Xem Hu IX, tr. 238.15.
4. Phần còn lại trong
câu này có nguồn gốc từ Landgrebe, là người đã thay nó bằng 14 dòng đánh máy
trong văn bản của Husserl: A1, tr. 3.2-16. Để biết đầy đủ, xem Hu IX, tr. 593, ghi chú tr. 238.32-35.
Chúng tôi đưa ra phiên bản của Landgrebe vì công việc chỉnh sửa hình như đã được
thực hiện trước khi bản này được chuyển cho Heidegger.
5. Ghi chú của Heidegger (A1, tr. 3.17, tốc ký; xem. Hu IX, tr. 593): "Vì vậy, chẳng hạn, cái-được-điều-chỉnh trong
một phán đoán được lặp lại [wiederholt] hệt như vậy."
6. Ghi chú của
Heidegger (A1 tr. 4.24, Viết thảo chữ Đức; xem. Hu IX, tr. 239.32 và n. 1): Heidegger gạch dưới erfordert ["cần
thiết "] hai lần và viết: "Tại sao? Trước hết, toàn bộ những điều cần
thiết là ở chỗ chúng ta trưng ra và minh định hữu thể luận thuần túy trong lĩnh
vực ấy, khuất lấp đằng sau chúng ta, như nó đã từng khuất lấp." (Đúng theo
nghĩa đen là: "Tại sao? Trên hết [điều cần thiết là] chỉ việc trưng ra
–thuần túy bằng cách minh định hữu thể luận- lĩnh vực của nó, nằm ở phía sau,
như nó vốn vậy.")
7. Văn bản này thể hiện
những thay đổi của Landgrebe trong văn bản của Husserl: A1, tr. 5.2-4; xem Hu IX, tr. 593, ghi chú thành tr.
240.2-4. Khi đánh máy bản A1, tr. 4 cho thấy, những thay đổi của Landgrebe đã
được thực hiện trước khi bản A1 được gửi cho Heidegger.
8. Hu IX, tr. 240.5-241.36. Tư liệu thuộc đầu đề này nói chung tương hợp
với một số tư liệu trong Draft D §1, "Khoa học Tự nhiên Thuần túy và Tâm
lý học Thuần túy."
9. Ghi chú của Heidegger (A1, tr. 5.6-7; xem. Hu IX, tr. 593): "Xem 5a ở dưới."
10. Ở chỗ này trong cả
bản A1 và A2 (ở tr. 5.13 = Hu IX, tr.
240.14) nửa sau của trang này bị gạch chéo ở ba dòng đầu tiên của tr. 6; đoạn bị
xóa được khôi phục lại trong Hu IX,
tr. 593. Thay cho đoạn
này Husserl
đã dùng
ms. tr.
5a, tiếp theo.
11. Heidegger (bản A2,
tr. 5a.1, trong văn bản) đã thay "daß" ("[sự thật] thì")
thành "ob" ("liệu"), vì vậy mà thay đổi cách đọc thành:
"...vẫn được để ngỏ [vấn đề là] liệu...."
12. Trong bản A2, tr.
5a.3-5, phần còn lại của câu này bị gạch chéo – dù nó vẫn còn trong Hu IX, tr. 15-18 – và có thể là đoạn quy
chiếu cho ghi chú bên lề của Heidegger trong đoạn trước.
13. Heidegger (bản A2,
tr. 5a.6, trong văn bản) đã thay đổi [Seelisches Sein] hiện hữu tâm linh của
Husserl thành [Seelisch Seiendes] các thực thể tâm linh. ("Seelisches”
[cũng như Seelisch] được viết hoa vì nó ở đầu câu.) Xem Hu IX, tr. 240.19.
14. Hai dòng rưỡi đầu
tiên của bản A1, tr. 6 bị gạch chéo. Các dòng này, cộng them nửa thứ hai của
tr. 5.14-27, đã được đưa xuống tr. 5a.
15. Ở lề đáy của bản
A1, tr. 6.27 Husserl đã ghi nhanh: "Theo đó, trong số các “khái niệm cơ bản”
của môn tâm lý học – các yếu tố nguyên gốc của lý thuyết tâm lý – các khái niệm
tâm lý học thuần túy đều được ưu tiên về thực chất và được coi là quan trọng
hơn các khái niệm tâm vật lý học, vì vậy mà được coi là quan trọng hơn tất cả
các khái niệm tâm lý học nói chung”. (Câu này được thay ở điểm này trong Hu IX, p. 241.32-36.) Câu tốc ký này
trong bản A1 có thể là câu thay thế cho các từ “các yếu tố lý thuyết tối hậu của
toàn bộ môn tâm lý học, đặt trước toàn bộ các khái niệm tâm lý học khác” ở đoạn
tiếp theo, đã bị gạch chéo trong bản A1, tr.7.6-7 (nhưng vẫn còn trong Hu IX, p. 242.3-5).
16. Ở đoạn này trong
các dòng đánh máy, Husserl thay hai trang đánh máy 7 và 7a, cho trang 7 ở trước.
Bốn dòng đầu của tr. 8, tiếp theo từ tr.7 trong nguyên bản đã bị gạch bỏ trong Hu IX, tr. 594.
17. Ghi chú của Heidegger (A2, tr. 7.1-5; xem. Hu IX, tr. 594): "Đặt lên trước, tối thiểu là tr. 6 ở
trên."
18. Heidegger (A2, tr. 7.6; xem. Hu IX, tr.
594) viết "Xem tr. 11." Tài liệu tham khảo dường như là thuộc bản A1,
tr.
11.5-6 (=Hu IX, tr. 244.32-33), câu thứ hai thuộc "4."
19. Heidegger (A2, tr.
7.8) gợi ý thay đổi đoạn đó để đọc thành: “phải được rút ra từ trực giác gốc của
tâm linh như thông lệ”. Husserl đã đưa đoạn thay đổi đó vào bản A1., tr.7.8 (= Hu IX, tr. 242.6-7).
20. Ghi chú của Heidegger (A2, tr. 7.10; xem. Hu IX, tr. 594): "Một [cái gì đó] khác về cá nhân tính hoặc về
tính cộng đồng”. Trong bản A2, Husserl đã thay câu đó thành: “Trực giác như vậy
có ba cấp độ đặt nền tảng trên mỗi cấp: tự trải nghiệm, kinh nghiệm liên chủ thể,
và kinh nghiệm cộng đồng theo thông lệ”. Cách đọc này thấy trong Hu IX, tr. 242.8-10.
21. Heidegger (A2, tr.
7.10, trong nguyên bản) gợi ý bắt đầu câu ấy bằng “cái [người, vật] trước”
(Jene: không phải Diese như trong Hu IX,
tr. 594, ghi chủ ở tr. 242.9), hệt như ông gợi ý bắt đầu câu tiếp theo bằng “cái
[người, vật] trước”. Xem ghi chú sau.
22. Heidegger (A2, tr.
7.14) gợi ý sử dụng “cái [người, vật] sau” (diese) ở đây để có lẽ đọc thành:
“Trong trường hợp sau, rõ ràng…” Husserl không đưa gợi ý đó vào bản A2 (Hu IX, tr. 242.14).
23. Heidegger (A2, tr.
7.15, trong nguyên bản) đã bổ sung "intersubjektiven" ["liên chủ
thể"] vào chỗ này.
24. Husserl (A1 và A2,
tr. 7.16) thêm "như một linh hồn cá thể," vào chỗ này. Xem Hu IX, tr. 242.16.
25. Ghi chú của
Heidegger (A2, tr. 7.16-21, kết thúc đoạn cuối câu này nhưng rõ ràng vẫn liên
quan đến hai câu cuối của đoạn đó; xem Hu
IX, tr. 594): “Trong nguyên bản có một sự chia ba: tự trải nghiệm, kinh
nghiệm của người khác, và kinh nghiệm của đời sống cộng đồng. Hãy gộp ba kinh
nghiệm này lại với nhau bằng cách rõ ràng, tinh lọc hơn”. Husserl dường như đã
dành riêng gợi ý này: xem A2, tr. 7.10, và Hu
IX, tr. 242.8-10.
26. Phần còn lại của
câu này (=Hu IX, tr. 242.37-243.2) xuất
hiện trong bản A1 và A2, tr. 7a.8 như một bổ sung ghi tay của Husserl.
27. Liên quan đến cái
tiếp theo ngay trong bản A, tr. 8: Bốn dòng đầu tiên của tr.8 bị gạch bỏ (đây
là phần thay thế cho tr. 7 và 7a trong nguyên bản tr.7) và 15 dòng tiếp theo được
đặt trong ngoặc kép. Đoạn này được khôi phục lại trong Hu IX, tr. 594-595.
28. Hu IX, tr. 243.3-244.29. Tư liệu mục này
nói chung tương hợp với một số tư liệu trong Draft D §3, "Lĩnh vực Độc lập
của cái Tâm thần Thuần túy – Quy giản Hiện tượng học và Kinh nghiệm Chân nội tại".
29. Ghi chú của
Heidegger (A1, tr. 8.20-27, lề trái và lề đáy kết lại hai câu đầu tiên của đoạn
này): “Nói gọn lại: Khả tính của một tâm lý học thuần túy nhìn chung đều tùy
thuộc vào việc thực hiện một cách chính xác cái trực giác nguyên ủy của tâm
linh theo thông lệ. Sự thực hiện này được quyết định và hướng dẫn bằng “quy giản
hiện tượng học”. Các đặc trưng cốt lõi của phương pháp này là như sau: 1. Coi tâm linh thiết yếu là có tính chủ
đích; 2. Gắn kết với nó là epoché - sự dừng lại, đặt trong ngoặc kép; 3. Kết cấu
của tính chủ đích trong đa tính của các phương thức biểu hiện của nó; 4. Gía trị
hiệu lực phổ quát của cấu trúc phương pháp cơ bản này gắn liền với tính phổ
quát của cấu trúc tính chủ đích”.
30. Heidegger (A1, tr.
9.11, trong nguyên bản) đã thay als das ("như thế ") thành als
solches ("như thông lệ "). Xem Hu
IX, tr. 243.23.
31. Ghi chú của
Heidegger (A1, tr. 9.19-25, kết thúc câu này và câu tiếp theo; xem Hu IX, tr. 595): “Đưa điểm này lên đầu,
và từ đó sự cần thiết của epoché sẽ trở nên rõ rang hơn”. Husserl đã phỏng lại ghi chú này bằng ghi tay
vào phần lề tương ứng của bản A2 và trong khi vẫn để nguyên đoạn trên ở chính vị
trí đó, đã thay đổi đôi chút bên trong. Xem Hu
IX, tr. 243.30 và tr. 595.
32. Ghi chú của
Heidegger (A1, tr.10.20; xem Hu IX,
tr. 595): "Xem tr. 11" [= Hu IX,
tr. 245 dòng 12ff.]
33. Hu IX, tr. 244.30-247.3. Tư liệu mục này
nói chung tương hợp với một số tư liệu trong bản D §5, "Chức năng Cơ bản của
Tâm lý học Hiện tượng học Thuần túy cho một Tâm lý học Kinh nghiệm Chính xác”
và § 4, "Quy giản Hiện tượng và Tâm lý học Hiện tượng với như là một Khoa
học Hiện tượng."
34. Ghi chú của Heidegger (A1, tr. 11.6): "Xem tr. 7". Heidegger dường như đã tham chiếu vào A1
và
A2, tr.
7.6 (xem ở trên).
Husserl đã sao chép ghi chú của Heidegger để đưa vào vị trí tương ứng trong bản
A2, nhưng lại bằng chú thích: "Tuy nhiên, có [tức là tr. 7.6, = Hu IX, tr. 242.3-4] cuộc thảo luận chỉ
là về các khái niệm với tư cách là các thành tố lý thuyết đầu tiên”.
35. Ghi chú của Heidegger (A1, tr. 11.18-20): "Xem tr. 10". Husserl đã sao chép ghi chú của
Heidegger để đưa vào vị trí tương ứng trong bản A2. Biemel coi đây là quy chiếu vào Hu
IX,
tr.
244.19-21, tức là trong bản
dịch này, vào các từ: “mở ra nhiều loại hình tổng hợp, vì vậy nói chung, ý thức
kết hợp với ý thức thành sự thống nhất của một ý thức”.
36. Ở đây, trong đoạn mở đầu của bản A2,
tr.
12, trên đỉnh lề, Heidegger viết (và gạch dưới): “tr.11 trong bản Landgrebe” mà Biemel (Hu IX, tr.
595, và lại là tr. 245.21) coi là quy chiếu vào câu mở đầu của đoạn “4” ở trên.
Tuy nhien chí ít thì cũng có thể là Heidegger quy chiếu vào các từ đánh máy của Landgrebe về các từ của Husserl "Studien
zur Struktur des Bewusstseins," mà Heidegger vừa đọc.
37. Từ câu này đến cuối đoạn, văn bản được đặt trong ngặc
kép ở bản A1 và A2 (tr. 12.5-14). Trong bản A1 nó được đánh dấu bằng dấu gạch bỏ. Trong
lề trái của bản A1 (xem Hu
IX,
tr.
245, n. 1) Heidegger viết: “Các
vấn đề siêu vượt!”.
38. Hu IX,
tr.
245.37-247.23. Trong toàn bộ các bản thảo sau này, tư liệu thuộc chuyên mục này
được kết hợp với tư liệu trong phần tiếp theo (II.1), và việc kết hợp ấy được
thực hiện thành một phần duy nhất mở ra Phần II. Trong Bản thảo D phần duy nhất
ấy là §6, “Bước ngoặt siêu vượt của Descartes và Tâm lý luận của Locke”.
39. [Ghi chú của
Sheehan: Franz Brentano, Psychologie vom empirischen Standpunkt, Leipzig:
Duncker and Humblot, 2 volumes, 1874; biên tập lần thứ hai, chủ biên Oskar
Kraus, Leipzig: Felix Meiner, 2 vols. 1924-1925, in lại: Hamburg: Felix Meiner,
1955. Tâm lý học từ quan điểm Kinh nghiệm Chủ nghĩa, chủ biên: Oskar Kraus,
Biên tập tiếng Anh của Linda L. McAlister; bản dịch của Antos C. Rancurello, D.
B. Terrell, và Linda L. McAlister, London: Routledge và Kegan Paul; New York:
Humanities Press, 1973.]
40. Hu IX, tr. 247.24-249.4. Tư liệu mục này
nói chung tương hợp với một số tư liệu trong Draft D §6, với gợi ý của §7 (cần
để phân biệt các vấn đề siêu vượt và tâm lý học; xem tr. 248.15-28: quan điểm
siêu vượt của Descartes) và §8 (những khiếm khuyết của tâm lý luận; xem tr.
248.28-249.4: Tâm lý luận của Locke).
41. Ghi chú bên lề bị tẩy
của Heidegger (bản A1, tr. 14.23; xem Hu IX,
tr. 247, n.1): "Tâm lý học Duy lý!". Trong bản A1 và A2 Husserl đã đổi
thành: "việc xác lập một tâm lý học khoa học nghiêm nhặt". Xem Hu IX, tr. 247.25-26.
42. Câu này và câu sau
được đặt trong ngặc kép ở bản A2, tr. 15.12-19. Trên lề trái có một ghi chú viết
tay, có lẽ của Heidegger: "Vô dụng". Các cây này vẫn được giữ nguyên
trong Hu IX, tr. 248.10-15.
43. Ghi chú của
Heidegger (bản A1, tr. 16.17; xem Hu IX,
tr. 249, n.1): "là kinh nghiệm" [được gạch dưới trong nguyên bản]
Husserl đã chuyển đổi mấy từ này bằng chữ thảo sang phần lề tương ứng của bản
A2.
44. Hu IX, tr. 249.4-250.24. Tư liệu mục này
nói chung tương hợp với một số tư liệu trong Draft D §9, mà chúng tôi đã lấy
làm tiêu đề.
45. Heidegger (A1, tr.
17.2; xem Hu IX, tr. 249, n. 2) chú
giải “người này” bằng: “nhưng đúng ra thì [phải được coi là] ‘tính người’”
["wohl aber als 'Menschheit'"]. Biemel (Hu IX, tr. 249, n.2) đến lượt chú "tính người" bằng:
"được hiểu là thực tính của con người"). Husserl chuyển ghi chú của
Heidegger, bằng chữ thảo vào phần lề tương ứng trong bản A2.
46. Hu IX, tr. 250.25-251.23. Tư liệu mục
này nói chung tương hợp với một số tư liệu trong Draft D, III, §11, mà chúng
tôi đã lấy làm tiêu đề.
47. Hu IX, p. 251.23-252.15. Tư liệu mục này
nói chung tương hợp với một số tư liệu trong Draft D, III, §12, mà chúng tôi đã
lấy làm tiêu đề.
48. Hu IX, tr. 252.15-253.21. Tư liệu mục
này nói chung tương hợp với một số tư liệu trong Draft D, III, §13, mà chúng tôi
đã lấy làm tiêu đề.
49. Câu này được bị gạch
bỏ trong cả bản A1 và A2, tr. 21.23-24.
50. Ghi chú của Heidegger (A2, tr. 22.10; xem. Hu IX, tr. 253, n. 1): "hoặc: và chừng nào người ta còn hiểu
siêu hình là sự thể hiện về một thế giới quan được thực hiện bằng thái độ tự
nhiên và luôn gắn kết với thái độ tự nhiên đặc biệt là các trạng huống lịch sử
đời sống – các trạng huống của khả thể tính nhận thức đặc biệt mang tính sự kiện
thực của đời sống”. ["oder und erst recht sofern man unter Metaphysik die
Darstellung eines Weltbildes versteht,
das in der natürlichen Einstellung vollzogen und je nur auf sie in bestimmten historischen Situationen
des Lebens -- seiner gerade faktischen
Erkenntnismöglichkeiten
-- zugeschnitten ist."]
51. Hu IX, tr. 253.21-254.38. Tư liệu mục
này nói chung tương hợp với một số tư liệu trong Draft D, III, §16, mà chúng
tôi đã lấy làm tiêu đề.
52. Trong Hu IX, tr. 253.31, từ này,
teleologischer [nhà mục đích luận], bị in nhầm là theologischer [nhà thần học].
53. Các từ đặt trong
ngoặc kép do Biemel cung cấp: Hu IX,
tr. 254.7-8.
54. Tr. 24-25 của bản
A2 được Husserl phát hiện là gắn thêm vào đoạn cuối của bản dịch đầu tiên rất
cô đọng của Christopher V. Salmon.
55. Câu cuối cùng này
được thay thế đúng nguyên văn là câu cuối cùng của bản thảo C, tr. 45.15-18 và
(vì trang 45 được đưa vào, được đánh số vào bản thảo D) của Draft D, tr.
31.15-18.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét