Đọc quá khứ – những cách tiếp cận
lý giải Khảo cổ học hiện nay (II)
Ian Hodder
Người dịch: Hà Hữu Nga
Ngữ cảnh Lịch sử
Phản ứng lại lịch sử văn hoá và KCH Định chuẩn, các nhà KCH Quá trình đã quay trở về với nhân học. Cuối cùng nguyên do chủ yếu khiến KCH Mới không bao giờ trụ được ở Châu Âu như nó đã thực hiện được ở Mỹ có thể là vì trong KCH châu Âu về phương diện tri thức và hành chính (tại các đại học) đã quá gắn bó với lịch sử chứ không phải với nhân học.Trong KCH Quá trình Mỹ cách tiếp cận mới là so sánh văn hoá bằng cách xem xét các hệ thống trong mối quan hệ với các môi trường và việc sản sinh ra những định thức phổ quát. Kết quả là một quá khứ không có thời gian đã được sản xuất ra. Các quĩ đạo hệ thống được xem xét nhưng thời gian thì lại bị thái lát, và nó chỉ tập trung vào những qui tắc tính so sánh văn hoá trong những biến đổi từ kiểu loại a sang kiểu loại b (chẳng hạn từ những thợ săn bắn hái lượm di động trở thành nông dân định cư).
Vấn đề được đề cập trong chương này gợi ý rằng các qui luật so sánh văn hoá vô giá trị thì dường như không tồn tại; khả năng của các qui luật lịch sử - đó là những khái quát hoá có hiệu lực xuyên qua thời gian trong một ngữ cảnh đặc thù? Vì hành động trong thế giới này phần nào tuỳ thuộc vào các khái niệm, và vì các khái niệm học được thông qua kinh nghiệm trong cái thế giới mà người ta được sinh ra và thông qua cuộc sống, đó có thể là những liên tục dài hạn trong các truyền thống văn hoá đang tồn tại, được tái thoả thuận và biến đổi liên tục, nhưng dù sao cũng vẫn được phát sinh từ bên trong. Một phần mục đích của KCH có thể là xác định xem liệu các liên tục dài hạn như vậy có tồn tại không, và chúng biến đổi và chuyển hoá như thế nào?
Phần trước chúng tôi đã lưu ý rằng việc nhấn mạnh vào những ý nghĩa văn hoá ngụ ý rằng văn hoá không thể qui giản vào các kết quả vật chất. Khi lý giải tại sao một loại hình văn hoá lại có ý nghĩa và công dụng dặc thù, thì cần phải xác định những kết hợp và những ngữ cảnh trước đó của nó, sự truyền bá và tính liên tục của nó. Trong khi truyền bá và liên tục văn hoá là những quá trình xã hội thì loại hình văn hoá tồn tại trước cũng tác động tới cái xuất hiện sau. Đó là vì con người chỉ có thể hiểu và hành động thông qua một trung gian văn hoá mà họ tạo nên và sống trong đó. Như Childe [1936] đã xác định con người sáng tạo ra các truyền thống, nhưng các truyền thống cũng làm thành con người – con người làm ra chính bản thân mình.
Điều đó có nghĩa là ở đây tiềm ẩn một nguy cơ thuộc loại qui giản luận mới. Đúng ra khi qui giản các hành vi văn hoá vào sự sinh tồn thì đã xuất hiện một khả năng thoái bộ vô tận khi các loại hình văn hoá được lý giải bằng thuật ngữ các loại hình văn hoá trước đây, giật lùi lại cho đến khi nào chúng ta tìm được cái công cụ đá đầu tiên đã được chế tác trong mịt mờ thời gian của thời đại đá cũ. Trong khi đó không nhất thiết cứ phải đi hết một chiều dài lịch sử như vậy, vì vậy khó mà nhận thấy tại sao người ta lại muốn khước từ tầm quan trọng của một công trình lịch sử văn hoá. Đối với tất cả chúng ta, vẫn có một cái gì đó mang tính quyết định trong việc ghè được chiếc rìu tay đầu tiên. Chỉ có KCH mới có thể tìm được cái thiết kế vĩ đại này. Nhưng ngay cả khi chúng ta đã lần đến được nguồn gốc của một tư tưởng nào đó thì cũng không được phép qui giản nó vào một cái gì đó bên ngoài bản thân nó. Loại hình văn hoá vẫn nguyên vẹn được tạo ra, riêng biệt và không thể qui giản.
Trong khi hiện nay người ta vẫn khao khát tìm kiếm sự sáng tạo vượt khỏi quá khứ xa xôi thì những biến đổi ý nghĩa trong những khoảng thời gian như vậy là rất đáng kể. Chúng ta có thể thường xuyên hiểu biết sâu sắc về các ý nghĩa văn hoá bằng cách xem xét cái ngữ cảnh lịch sử trực tiếp hơn. Vì vậy vấn đề quan trọng là phải xem xét các sự vật bắt nguồn từ đâu. Đây là một vấn đề trọng tâm của lịch sử văn hoá trong KCH truyền thống. Gìơ đây chúng ta cần xem xét sự truyền bá các đặc điểm như là một quá trình xã hội và có ý nghĩa; những kết hợp các hạng mục với nhau hoặc với một ngữ cảnh văn hoá trước đó tác động đến việc sử dụng hạng mục đó trong một ngữ cảnh mới. Vì vậy truyền bá lại mang tính giải thích chứ không phải là mô tả như người ta vẫn thường khẳng định.
Trong khi nhấn mạnh vào ý nghĩa văn hoá và sự duy trì đồng thời cũng như sự “sáng tạo” năng động [Hobsbawn and Ranger 1984] những truyền thống văn hoá, tôi không muốn khẳng định rằng lịch sử chỉ bao gồm những cấu trúc khái niệm và tôi cũng không muốn biện hộ cho một lịch sử duy tâm luận (xem tr. 19 và chương 5). Các giới hạn môi trường, kỹ thuật học và cả những mối liên hệ xã hội của việc sản xuất cũng như cấu trúc tất cả đều biến đổi. Chúng cung cấp tiềm năng lịch sử cho sự biến đổi xã hội và chúng cung cấp cho các nguồn bằng cách tạo ra sự thay đổi. Sự chia tách giữa tư tưởng và vật chất thể hiện rõ nhất với tư cách là một phép biện chứng lịch sử trong đó các nguồn vật chất và các mối quan hệ đều có nghĩa để rồi không phải cái tư tưởng cũng không phải cái vật chất có được đặc quyền.
Trong khi cho rằng KCH nên tái thẩm định những mối liên kết chặt chẽ với lịch sử theo kiểu châu Âu, còn một điều quan trọng khác là xem xét những khác biệt giữa KCH và lịch sử. Trong một chừng mực nào đó sự lý giải mang tính lịch sử có thể được xác định bằng việc qui chiếu vào các ngữ cảnh và sự kiện đã có tiền lệ (một sự mô tả sai lệch hoặc không hoàn thiện mà tôi sẽ xác định ở chương 5), KCH là một phần của lịch sử. Nhưng KCH là thuộc về văn hoá vật chất chứ không phải là thuộc về các tài liệu. Việc viết bằng mực lên trên giấy tự bản thân nó là một hạng mục văn hoá vật chất, và việc suy luận ý nghĩa từ một bằng chứng như vậy cũng tương đương với việc suy luận đối với các hiện vật vật chất nói chung. Theo nghĩa này, lịch sử là một bộ phận của KCH. Ngay cho dù các tư liệu lịch sử chứa những thông tin ngữ cảnh đáng kể khi chúng ta thừa nhận cái ngôn ngữ mà các tài liệu kia được viết ra thì quá trình suy luận vẫn là một quá trình gán ý nghĩa cho thế giới vật chất của quá khứ.
Kết luận
Trong suốt tập sách này tôi muốn thảo luận những vấn đề được đề xuất ở chương đầu tiên này. Mục đích của tôi là đáp trả những thách thức đối với bộ môn KCH bằng việc thừa nhận tầm quan trọng của ý nghĩa văn hoá, cá nhân năng động và lịch sử. Tóm lại chúng ta có thể thấy rằng cách nhìn nhận ấy đã đưa lại hiệu quả cho ba lĩnh vực trung tâm của cuộc tranh luận KCH. Đó là 1) mối quan hệ giữa văn hoá vật chất và xã hội – văn hoá vật chất liên hệ với con người như thế nào, 2) các nguyên do của biến đổi – cái gì gây ra những biến đổi văn hoá, kinh tế và xã hội, 3) tri thức luận và việc suy luận – các nhà KCH lý giải quá khứ như thế nào.
Văn hoá vật chất – hành vi
Người ta luôn luôn thừa nhận rằng mối liên hệ giữa hành vi và văn hoá vật chất là khó khăn chủ yếu cần phải được giải quyết trong KCH. Các vấn đề về mối quan hệ này trước đây đã được thừa nhận là liên quan đến bộ phận duy nhất trong “các văn hoá” vật chất và “các dân tộc” [Childe 1951]. Đóng góp của KCH Quá trình chính là nỗ lực tư duy một cách hệ thống về mối quan hệ giữa hành vi và văn hoá vật chất. Trong hầu hết các công trình trước đây chủ đề thống trị là: hành vi văn hoá vật chất. Văn hoá vật chất là một bán thành phẩm của hành vi con người. Quan niệm này được thể hiện trong giả thuyết cư trú bên nhà mẹ [Longacre 1970] và trong các lý thuyết về mối quan hệ giữa dân số và diện tích cư trú [Naroll 1962], giữa phong cách và tương tác [Plog 1978]. Nỗ lực của Binford nhằm xác định Lý thuyết Tầm trung trong chừng mực lý thuyết này có thể áp dụng vào các quá trình văn hoá đã có cùng một khát vọng về sự chắc chắn, các mối quan hệ rõ ràng, đặc biệt tương đồng với các qui luật của Schiffer [1976] về văn hoá vật chất và hành vi của con người. Như đã chỉ ra ở trên, mới đây cách tiếp cận so sánh văn hoá này đã được mở rộng (Rathje 1978) để bao gồm cả quan niệm cho rằng văn hoá vật chất tác động ngược trở lại xã hội bằng cách tạo ra một mối quan hệ hai chiều: hành vi - văn hoá vật chất.
Trong cuốn sách này tôi muốn đi xa hơn khi cho rằng mối quan hệ giữa hành vi và văn hoá vật chất tuỳ thuộc vào các hành động của các cá nhân trong những ngữ cảnh lịch sử văn hoá đặc thù.
Hành vi - Văn hoá vật chất
Cá nhân,
Văn
hoá,
Lịch
sử
Vì vậy không có một mối quan hệ so sánh văn hoá trực tiếp, phổ quát giữa hành vi và văn hoá vật chất. Các khung ý nghĩa luôn luôn can thiệp và chúng phải được các nhà KCH lý giải. Nỗ lực này phải được tất cả những ai muốn khảo sát quá khứ với tư cách là những nhà KCH thực hiện, cho dù chúng ta chủ yếu quan tâm đến kinh tế học và tổ chức xã hội chứ không phải là hệ thống biểu tượng. Cho dù tôi muốn nói rằng hoạt động kinh tế trong một di chỉ riêng biệt nào đó là dựa vào săn bắn nhiều loại động vật hoang dã vì tỷ lệ xương cốt động vật hoang dã bỏ lại trong di chỉ rất cao, thì tôi vẫn cần phải đưa ra một số giả định về thái độ đối với động vật, với xương cốt, rác thải và phân còn bỏ lại. Chẳng hạn tôi cần giả định rằng người ta đã ăn hoặc bỏ lại các đồ thừa từ những con vật mà họ đã ăn thịt ở di chỉ (chứ không phải là ăn và thải bỏ đồ thừa ra khỏi di chỉ bằng cách ném xương xuống sông suối, hoặc đốt xương cháy thành tro để không còn bảo tồn được các đồ thừa đó về phương diện KCH). Bất cứ điều gì tôi muốn nói về hành vi của con người trong quá khứ thì cũng cần phải giả định các ý nghĩa văn hoá.
Quan hệ nhân - quả
Lĩnh vực nghiên cứu chủ yếu thứ hai là các nguyên nhân biến đổi xã hội. Hơn nữa các quan niệm đơn giản về quan hệ nhân quả (biến đổi kỹ thuật học dẫn đến tăng dân số chẳng hạn) đã được thay thế bằng mối tương liên nhân quả thông qua việc áp dụng các hệ thống, chuỗi hồi tiếp, các kết quả đa bội và đa nguyên nhân. Ngày nay hầu hết các nhà KCH đều đồng ý rằng các nguyên nhân làm biến đổi xã hội là phức tạp, liên quan đến nhiều nhân tố khác nhau – kinh tế, xã hội và tư tưởng – và gần đây đã có những nỗ lực to lớn để liên hệ các nhân tố này với các hệ thống liên động phức hợp (chương 2).
Tuy nhiên trong các công trình như vậy vẫn còn duy trì quan niệm cho rằng có thể đoán trước được các sự kiện. Mặt khác, tầm quan trọng trung tâm của nhận thức cá nhân về các nguyên nhân dẫn đến một lối nhìn khác.
Nhân - quả
Cá nhân,
Văn hoá,
Lịch sử
Các nguyên nhân dưới dạng các sự kiện, điều kiện và các hệ quả (có mục đích và không có mục đích) trong thế giới không thể có các tác động xã hội ngoại trừ thông qua nhận thức của con người và sự đánh giá về chúng. Vì vậy sói mòn đất có thể là một nguyên nhân với hệ quả là con người từ bỏ ngôi làng của mình và sống phân tán. Nhưng sự cố sói mòn đất, bản thân nó không quyết định bất cứ một phản ứng đặc thù nào, vì có nhiều cách để giải quyết hoặc tránh, hoặc ngăn chặn việc sói mòn đất. Sự cố sói mòn đất hoặc các hệ quả của nó được nhận thức như thế nào, và phản ứng tiềm tàng của dân làng được đánh giá như thế nào là tuỳ thuộc vào mức độ sói mòn đất can dự như thế nào vào các chiến lược xã hội riêng trong các ngữ cảnh văn hoá - lịch sử đặc thù.
Điều đó chủ yếu chứng tỏ tầm quan trọng của hệ tư tưởng trong việc tăng cường sự thích ứng của con người và nó vận hành bằng những cung cách khác nhau. Trong hầu hết các cuộc thảo luận KCH về hệ tư tưởng thì hệ thống tín ngưỡng được coi là một sự phản ứng của một hệ thống thích nghi có thể dự báo trước (chương 2); tuy nhiên ở đây cần phải khẳng định rằng nội dung riêng biệt của các giá trị và các truyền thống được tạo dựng trong các kênh lịch sử là vật trung gian thông qua đó mà xuất hiện quá trình thích nghi. Vì vậy các nguyên nhân (xã hội hoặc vật lý) không có các tác động xã hội; đúng ra một truyền thống lịch sử tái sinh bản thân nó bằng mối liên hệ với các sự kiện trong thế giới.
Sự kiện – lý thuyết
Thông qua hầu hết quá trình phát triển của KCH, người ta vẫn bảo lưu một lập trường kinh nghiệm chủ nghĩa, trong đó các sự kiện được coi là nói về chính bản thân chúng – “hãy để cho chiếc bình tự nói”. Vì vậy Colt Hoare đã nói rằng chúng ta nói về các sự kiện chứ không phải về lý thuyết [Hoare, R. C. 1812; 1821]. Điều đó được khẳng định bằng cách bám sát các sự kiện là bất kỳ sự vật nào, cho dù không chắc chắn đó là việc đơn giản hoá một tập phức hợp các niềm tin được các nhà KCH duy trì trước khi xuất hiện KCH Quá trình. Nhưng nói chung sự suy luận có thể được coi là đi theo cái thiết kế: dữ liệu lý thuyết.
Gần đây người ta nhấn mạnh vào một quan niệm khác, trong đó các dữ liệu được tập hợp gắn liền với một lý thuyết. Các tiếp cận giả thuyết – lý thuyết – diễn dịch bao gồm cả việc suy luận từ một lý thuyết ra những ẩn ý khác nhau và kiểm tra những ẩn ý này dựa vào dữ liệu. Ví dụ về cái hố đốt lửa hun muỗi của Binford [1967] đã cho chúng ta thấy rất rõ ràng về thao tác này. Renfrew [1982] đã mô tả mối quan hệ giữa lý thuyết và dữ liệu là lý thuyết - dữ liệu. Dữ liệu và lý thuyết trái ngược nhau, nhưng mỗi thứ lại biến đổi trong mối liên hệ với cái kia.
Thực ra thì Binford và Sabloff [1982] cũng đã cho rằng mối liên hệ giữa lý thuyết và dữ liệu chặt chẽ đến mức là dữ liệu đựơc quan sát bằng lý thuyết, và vì vậy mà các dữ liệu quan sát được lại thực sự là những lý thuyết (trong thuật ngữ của Binford và Sabloff các dữ liệu được quan sát là thể biến hình phụ thuộc). Vì vậy trong khi toàn bộ những cách tiếp cận được đề cập ở trên có lẽ khẳng định rằng thế giới hiện thực tồn tại tách biệt khỏi những quan sát của chúng ta, càng ngày cái quá trình có thể quan sát ấy càng được coi là lý thuyết phụ thuộc. Những khúc xương rỗng bị bỏ lại chính là những sự kiện trong cái thế giới hiện thực này, cái thế giới mà chúng ta không bao giờ có thể quan sát được.
Các vấn đề về sự quan sát nảy sinh từ triết học hậu thực chứng có thể được khuyếch đại trong các lược đồ được thể hiện ở Fig.1. Trước khi chúng ta có thể đo lường và so sánh những hiện vật như vậy, chúng ta buộc phải quyết định chúng là những gì. Chẳng hạn nếu chúng ta quyết định đo những mặt trước của toàn bộ những chiếc hộp như vậy thì mặt nào là mặt trước? Hoặc nếu chúng ta quyết định đo khoảng cách giữa mỏ trên và mỏ dưới của tất cả những con chim như vậy thì chúng ta buộc phải có khả năng phân biệt giữa chim và hươu.
Những vấn đề như vậy đặc biệt nhạy cảm trong việc nghiên cứu nghệ thuật tiền sử, nhưng chúng lại dựng lên một bức tường khôn vượt đối với toàn bộ bộ môn KCH, vì trước khi đo hoặc đếm, so sánh hoặc đối lập thì người ta phải tạo dựng các phạm trù phân loại (các loại bình, các ngữ cảnh, các văn hoá...vv). Những phạm trù này được tạo nên thông qua quá trình nhận thức.
Giải pháp mà Binford và Sabloff [1982] tuân theo là Lý thuyết Tầm trung. Họ cho rằng các dụng cụ đo lường độc lập có thể được sử dụng để kiểm tra mối quan hệ giữa văn hoá vật chất và cái xã hội đã sản sinh ra nó, và theo cách đó người ta có thể kiểm tra một cách “khách quan” các mô hình. Câu trả lời là không đủ, a) vì cái mà người ta đo đếm lại phụ thuộc vào sự nhận thức và việc phân loại các phạm trù, và b) có thể không có những công cụ đo đếm độc lập vì bản thân phương pháp luận là lý thuyết phụ thuộc.
Mặc dù người ta sẽ biện hộ rằng cái thế giới hiện thực này vẫn cản trở chúng ta nói về nó, cũng thật rõ ràng là khái niệm “dữ liệu” bao gồm cả thế giới hiện thực và các lý thuyết về nó. Kết quả là các lý thuyết về quá khứ lại tuỳ thuộc rất nhiều vào ngữ cảnh văn hoá và xã hội của quá khứ đó. Trigger [1980], Leone [1978] và những người khác đã chỉ ra một cách chắc chắn việc thay đổi cách thức lý giải quá khứ như thế nào là tuỳ thuộc vào sự thay đổi các ngữ cảnh văn hoá và xã hội trong hiện tại. Các cá nhân trong xã hội ngày nay sử dụng quá khứ cho các chiến lược xã hội. Nói cách khác, các mối quan hệ dữ liệu – quá khứ được nhận thức và được thao tác trong các ngữ cảnh lịch sử và văn hoá.
Sự kiện - lý thuyết
Cá nhân,
Văn hoá,
Lịch sử
Về phần cuối của tập sách này tôi muốn xem xét những thứ liên quan đến công việc có thể “kiểm tra” lý thuyết không dựa vào dữ liệu, không có những phương tiện đo đếm độc lập, và không có những hiểu biết chắc chắn về quá khứ được không. Tôi có cảm tưởng là hầu hết các nhà KCH đều né tránh những vấn đề này vì ngay từ đầu các vấn đề ấy dường như đã có vẻ là phủ định: toàn bộ cấu trúc của KCH với tư cách là một bộ môn khoa học, được chấp nhận ngay từ giai đoạn phát triển đầu tiên đang bị đe doạ. Tôi muốn khẳng định rằng các vấn đề ấy cần phải được lưu tâm giải quyết nếu KCH vẫn còn là một môn học nghiêm nhặt, và nếu các nhà KCH vẫn còn có trách nhiệm đối với xã hội.
____________________________________________
Còn nữa…
Tác giả: GS. Ian Hodder sinh năm 1949, tốt nghiệp cử nhân tại Đại học London năm 1971, nhận học vị tiến sĩ tại Đại học Cambridge năm 1975, trở thành giáo sư Đại học Cambridge từ năm 1977.
Nguồn: Reading the Past – Current approaches to Interpretation in Archaeology. Second Edition. Cambridge University Press 1991.
Tài liệu Tham khảo
Binford, L. R., 1967.
Smudge Pits and Hide Smoking: The Use of
Analogy in Archaeological Reasoning. American Antiquity 32, 1–12.
Binford, L. R., and
Sabloff, J. A., 1982. Paradigms,
Systematics and Archaeology. Journal of Anthropological Research 38, 137–53.
Childe,V.G., 1936.
Man Makes Himself, London: Collins.
Childe,V.G., 1951.
Social Evolution. NewYork: Schuman.
Hoare, Richard Colt 1812. The Ancient
History of Wiltshire, Vol. 1. London: William Miller.
Hoare, Richard Colt 1821. The Ancient
History of Wiltshire, Vol. 2. London: Hughes, Harding, Maver and Lepard.
Hobsbawn, E.,
and Ranger, T. (eds.), 1984. The
Invention of Tradition, Cambridge University Press.
Leone, M., 1978.
Time in American Archaeology. In C.
Redman et al. (eds.), Social Archaeology: Beyond Subsistence and Dating, New York:
Academic Press.
Longacre, W.,
1970. Archaeology as Anthropology.
Tucson: Anthropological Papers of the University of Arizona, 17.
Naroll, R., 1962.
Floor Area and Settlement Population.
American Antiquity 27, 587–8.
Plog, S., 1978. Social Interaction and Stylistic Similarity.
In M. B. Schiffer (ed.), Advances in
Archaeological Method and Theory, vol. 2, NewYork: Academic Press.
Renfrew, A. C., 1982.
Discussion: Contrasting Paradigms. In
C. Renfrew and S. Shennan (eds.), Ranking,
Resource and Exchange, Cambridge University Press.
Schiffer, M. B.,
1976. Behavioural Archaeology. New York:
Academic Press.
Trigger, B.1980. Archaeology and the image of the American Indian. American
Antiquity 45 (4): 622–76.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét