Tiền sử Việt Nam (III)
Người viết:
Hà Hữu Nga
Theo đặt
hàng của GS. Phan Huy Lê (2005)
Lưu ý đầu trang: Đây là bản draft đầu tiên tôi [Hà
Hữu Nga] viết theo đặt hàng của GS. Phan Huy Lê, dưới sự hướng dẫn của GS. Trần
Quốc Vượng. Vì vậy xin có ba lưu ý quan trọng:
1. Bản draft này được lưu ở đây với tư cách cá nhân và là bản draft
chưa được chỉnh sửa.
2. Mọi hình thức sử dụng như: sao chép, trích dẫn v.v…là không hợp lệ.
3.Vì GS. Trần Quốc Vượng ốm nặng và mất trước khi đọc bản draft này vào năm
2005 nên mọi sai sót có trong draft đều thuộc về người viết; nhiều quan điểm
trong bài viết không chắc đã được GS. Trần Quốc Vượng đồng ý.
2.2. Các con
đường phát triển của thời đại Đá mới sau các văn hoá Hoà Bình, Bắc Sơn và Soi
Nhụ.
Con đường Đa Bút
– Quỳnh Văn – Bàu Tró: vào giai đoạn cuối của văn hoá Hoà
Bình, cách ngày nay khoảng 6000 – 5000 năm, mực nước biển Đông không ngừng dâng
cao, đã dần dần tạo ra một dải đồng bằng ven biển với nhiều nguồn sản vật tự nhiên của hệ thống đầm
lầy, vũng vịnh và cửa sông suốt dọc bờ biển nước ta. Lúc này các nhóm cư dân tiền
sử Hoà Bình vốn cư trú lâu đời tại các vùng núi đá vôi từ Sơn La, Hoà Bình,
Ninh Bình, Thanh Hoá, Nghệ An theo các dòng sông Mã, sông Lam dần dần tiến về
khai thác các nguồn tài nguyên mới ở vùng ven biển. Và chính họ là chủ nhân đầu
tiên của các đồng bằng ven biển đang hình thành ấy.
Theo truyền
thống đã có từ hàng ngàn đời nay trên các vùng núi Hoà Bình, những nhóm người
đầu tiên khi xuống đến đồng bằng ven biển vẫn giữ nguyên tập quán khai thác
nguyên liệu cuội làm công cụ ghè đẽo và công cụ mài lưỡi. Chính vì điều này mà
trong lần đầu tiên khai quật di chỉ Đa Bút vào năm 1926-1927, khi thấy có những
công cụ cuội mài lưỡi, học giả Pháp E. Patte đã coi đây là một di chỉ ngoài
trời của văn hoá Bắc Sơn [Patte E. 1932]. Đối với cư dân Đa Bút, món thực đơn
quen thuộc nhất cho bữa ăn hàng ngày vẫn là nhuyễn thể, mà chủ yếu là ốc nước
ngọt. Điều này được minh chứng rất rõ ràng qua các di chỉ thuộc văn hoá Đa Bút
tại vùng đồng bằng sông Mã, sông Chu, trong đó điển hình nhất là di chỉ Làng
Còng, thuộc xã Vĩnh Hưng, huyện Vĩnh Lộc (Thanh Hoá), trong đó toàn bộ tầng văn
hoá được cấu tạo bằng ốc đầm hồ nước ngọt. 56 công cụ ghè đẽo Làng Còng vẫn
mang nguyên vẹn truyền thống chế tác công cụ cuội dùng cho các hoạt động đơn
giản như ghè xương thú, đập vỏ nhuyễn thể chẳng hạn. 8 công cụ mài lưỡi kiểu
Hoà Bình – Bắc Sơn vẫn còn được bảo lưu và phát triển tại đây [Bùi Vinh 1993].
Khi xuống chiếm
lĩnh khu vực đồng bằng ven biển đang hình thành thuộc hai tỉnh Ninh Bình và
Thanh Hoá, cư dân hậu Hoà Bình - Đa Bút đã phát triển một mô thức kết hợp săn
bắt, hái lượm, làm nông - chăn nuôi và nghề thủ công chế tác đá truyền thống và
làm gốm. Chắc chắn rằng người Đa Bút không còn sống trong các hang động như tổ
tiên trực tiếp Hoà Bình của mình nữa. Họ đã tụ cư thành một dạng xóm làng nào
đó. Tư liệu mộ táng Cồn Cổ Ngựa cho chúng ta thấy rất rõ điều đó. Đã trở thành
một qui luật: hầu hết táng thức là tấm gương phản chiếu cuộc sống trần thế. Khu
mộ tập thể tại Cồn Cổ Ngựa đã gián tiếp kể lại cuộc sống cộng đồng của cư dân
Đa Bút. Vào giai đoạn đầu, cho dù đã tụ cư
thành làng, nhưng người Đa Bút vẫn còn là những nhóm người theo chế độ
bình quân. Gần 100 mộ táng Cồn Cổ Ngựa gần như không thấy có sự phân bịêt thân
phận nào. Điều đó cho thấy cuộc sống của người Đa Bút còn khá đơn giản.
Đến giai đoạn
Cồn Cổ Ngựa, đối tượng săn bắt của cư dân Đa Bút đã giảm đi rất nhiều. Lúc này
trong thực đơn của họ không thấy có những loại thịt thú rừng như chồn, cầy, hổ,
báo, hoẵng, khỉ, tê giác. Không những thế việc thu lượm nhuyễn thể cũng đã trở
nên khó khăn hơn. Nếu so với Xóm Trại thì số lượng thịt nhuyễn thể mà người Cồn
Cổ Ngựa sử dụng đã giảm đi một nửa. Các nhà nghiên cứu đã xác định nguyên nhân
của tình trạng đó là: thức ăn thực vật khan hiếm vì nước ở khu vực này bị nhiễm
mặn, cây cối khó phát triển. Như một hệ quả tất yếu, vì thiếu rừng nên các loài
động vật không phát triển được hoặc bỏ đi nơi khác, vì vậy hoạt động săn bắt
của cư dân Đa Bút trở nên khó khăn hơn. Lúc này thức ăn chủ yếu là hến nước
ngọt, thiếu các nguyên tố vi lượng sắt (Fe) và Brom (Br). Trong khi đó quá
trình tăng dân số tự nhiên của giai đoạn đầu và việc tăng dân số cơ học do các luồng
di cư từ vùng núi đá vôi xuống đã làm tăng thêm sức ép về sinh kế cho cư dân Đa
Bút [Nguyễn Kim Thuỷ 2004]. Và một sức ép còn lớn hơn tất cả, đó là đợt biển
tiến Holocene trung diễn ra vào khoảng 5000 năm cách ngày nay đã làm xáo trộn
toàn bộ cuộc sống của cư dân Đa Bút giai đoạn Cồn Cổ Ngựa [Bùi Vinh 2003].
Theo những kết
quả nghiên cứu gần đây, để đối phó với đợt biển tiến Holocene trung, người dân
Đa Bút đã lùi lên các địa hình cao hơn về phía tây và phía bắc của vùng đồng
bằng sông Mã. Trong số các nhóm cư dân chạy “nạn hồng thuỷ” này có cả người
tiền sử Làng Còng, và người Đồng Vườn, Hang Sáo ở vùng chân núi Tam Điệp (Ninh
Bình). Khác với giai đoạn Cồn Cổ Ngựa, buổi đầu chạy nạn, cư dân Làng Còng đã
quay trở về với lối sống quen thuộc của cư dân Hoà Bình là săn bắt và hái lượm,
trước hết là thu lượm nhuyễn thể, và săn bắt các động vật hoang dã. Ba cuộc
khai quật Làng Còng đã thu được nhiều xương răng của các loài thú như hươu,
nai, hổ, voi, khỉ, hoẵng, chồn, cầy, nhím, rùa, ba ba, cua, cá, chim và những
động vật nhỏ khác. Ngoài ra ở đây còn tìm thấy xương trâu bò nhà và cả xương
lợn sữa. Điều đó làm cho các nhà nghiên cứu khẳng định rằng các cộng đồng cư dân văn hoá Đa Bút đã biết
đến chăn nuôi [Bùi Vinh 2003; Nguyễn Kim Thuỷ 2004]. Với giai đoạn Gò Trũng, có
niên đại C14 là 4790 ± 50
năm cách ngày nay, cư dân văn hoá Đa Bút
đã thực hiện bước phát triển có tính chất cách mạng. Sau đợt biển tiến Holocene
trung, họ đã quay trở lại chiếm lĩnh đồng bằng một lần nữa, ở một trình độ cao
hơn. Lúc này cư dân văn hoá Đa Bút đã xây dựng được cho mình một mô hình phát
triển hậu kỳ đá mới rất điển hình tại một môi trường sinh thái thuận lợi. Đó là
mô hình kết hợp làm nông trồng lúa nước – chăn nuôi – thủ công làm gốm, chế tác
đá - đánh bắt thuỷ hải sản – săn bắt hái lượm bổ sung, - và có thể đã có các
hoạt động trao đổi với các nhóm cư dân bên ngoài.
Các nhóm người
Quỳnh Văn cũng là hậu duệ của cư dân Hoà Bình, nhưng họ lại xây dựng cho mình
một mô thức khác, trong một môi trường sống khác với người Đa Bút. Có lẽ người
Quỳnh Văn là những cư dân Hoà Bình sót, hoặc cũng có thể là một nhóm tách ra từ
văn hoá Đa Bút, đã đến khai thác vùng ven biển Quỳnh Lưu (Nghệ An) tương đối
muộn. Nếu như mẫu niên đại C14 sớm nhất của văn hoá Đa Bút là 6540 ± 60 năm cách ngày nay, thì mẫu niên đại C14 sớm nhất
của văn hoá Quỳnh Văn chỉ tương đương với mẫu C14 muộn nhất của văn hoá Đa Bút
tại Gò Trũng. Điều đó có lẽ là hợp lý, bởi vì 20 địa điểm văn hoá Quỳnh Văn đã
được phát hiện đều phân bố trên các cồn điệp. Căn cứ vào 13 mẫu niên đại C14 đã
có của văn hoá này thì 10 mẫu có niên đại dao động trong khoảng từ 4785 ± 100 (mẫu có tuổi sớm nhất) đến 4030 ± 45 năm cách ngày nay. Còn lại ba mẫu từ 2010 ± 70 đến 3010 ± 90
năm cách ngày nay. Điều đó chứng tỏ rằng văn hoá Quỳnh Văn là kết quả của của cuộc khai thác sản vật biển sau đợt biển
tiến Holocene trung.
Có lẽ so với tất
cả các cư dân tiền sử, người Quỳnh Văn là nhóm cư dân có đầu óc “thực tế” nhất.
Trước hết họ sử dụng các nguồn đá cuội lớn tại chỗ, pha thành những mảnh khá
thô, sau đó chế tác thành những công cụ rất đơn giản. Và chức năng của các công
cụ đá ở đây cũng rất đơn giản: chúng được sử dụng để khai thác hà từ các tảng
đá, hoặc để đập vỏ sò ốc. Nếu chỉ căn cứ vào bộ công cụ đá hình bàn là, hình
mai rùa, hình rìu tay ...vv của cư dân Quỳnh Văn thì người ta có thể nghĩ rằng
đây là bộ công cụ hậu kỳ đá cũ. Tuy nhiên do tồn tại cùng với gốm nên niên đại
tương đối của văn hoá Quỳnh Văn ngay từ đầu cũng đã được xác định một cách
chính xác. Trước đây đã có ý kiến cho rằng cư dân văn hoá Quỳnh Văn là từ ngoài
biển vào. Nhưng hầu hết các nhà nghiên cứu Việt Nam đều không chấp nhận quan
điểm này. Vào những năm 60 – 70 của thế kỷ XX, hầu hết các nhà nghiên cứu đều
nghĩ rằng người Quỳnh Văn thuộc truyền thống đá gốc, có cội nguồn từ văn hoá
Núi Đọ.
Trong buổi đầu
của nền khảo cổ Việt Nam thời gian đó việc đồng nhất một truyền thống văn hoá
chỉ với duy nhất một tiêu chuẩn nguyên liệu chế tác công cụ (đá cuội, đá gốc)
là điều bình thường. Chỉ đến những năm đầu tiên của thập kỷ 80 (thế kỷ XX) mới
có những ý kiến xem xét lại nguồn gốc của cư dân Quỳnh Văn. Các nhà khảo cổ học
Việt Nam đã chứng tỏ một cách thuyết phục rằng kỹ thuật chế tác đá trong văn
hoá Quỳnh Văn là thuộc truyền thống chế tác đá Hoà Bình. Và từ đó định hướng
tìm kiếm nguồn gốc Hoà Bình cho chủ nhân của nền văn hoá này đã trở thành dòng
chính. Cho đến nay ít có nhà khảo cổ học nào nghi ngờ về điều này. Bên cạnh chế
tác đá, người Quỳnh Văn còn là cư dân có nghề thủ công làm gốm rất phát triển.
Đặc trưng dễ nhận ra nhất của đồ gốm Quỳnh Văn chính là ở phong cách gốm đáy
nhọn. Người ta coi đây cũng là một sáng kiến thực tiễn của người Quỳnh Văn, vì
họ cư trú dọc bãi biển đầy cát. Để thuận tiện cho việc đun nấu, người ta chỉ
cần cắm đáy gốm xuống cát là có thể thay cho những chiếc kiềng đá, bởi vì đá
cuội, đá tảng ở đây rất hiếm. Chúng phải được tận dụng để chế tác công cụ. Việc
trang trí gốm của cư dân Quỳnh Văn cũng rất giản tiện và mang tính thực tế,
trước hết nhằm làm cho đồ gốm kín hơn, bền hơn. Đó là loại gốm phổ biến văn chải,
chiếm tới 75%, cùng với nó là táng thức chôn ngồi bó gối mang phong cách Hòa
Bình - Đa Bút và gốm in đập nan rá “tàn dư Đa Bút” [Nguyễn Trung Chiến 2003].
Về phương diện
văn hoá, Quỳnh Văn thuộc truyền thống Hoà Bình. Nhưng về mặt tộc thuộc thì chủ
nhân văn hoá này là ai?. Câu hỏi này đã được trả lời nhờ vào phát hiện 30 mộ
đất tại địa điểm cồn sò điệp Quỳnh Văn. Nghiên cứu các cốt sọ này, người ta
thấy chúng mang những nét hỗn hợp chủng tộc Australo-Mongoloid.
Đây là quá trình hỗn chủng xảy ra phổ biến trong khu vực Việt Nam và Đông Nam á
từ sơ kỳ đá mới trở đi, và đó cũng chính là nét đặc trưng chủng tộc của chủ
nhân văn hoá Đa Bút [Nguyễn Duy và Nguyễn Quang Quyền 1966]. Qúa trình phát
triển của chủ nhân văn hoá Quỳnh Văn đang được các nhà tiền sử Việt Nam quan
tâm. Các ý kiến mới đây nhất cho rằng vào giai đoạn phát triển phồn thịnh của
mình, có những nhóm người Quỳnh Văn tách
khỏi địa bàn gốc Quỳnh Lưu, theo đường biển di cư vào vùng cửa biển Thạch Hà
(Hà Tĩnh) tạo nên di chỉ Phái Nam. Tại nơi lập nghiệp mới, người Phái Nam vẫn
duy trì truyền thống chế tác công cụ đá của cư dân Quỳnh Văn. Ngoài ra người
Phái Nam cũng đã phát triển kỹ thuật mài nhằm tăng thêm hiệu quả lao động của
công cụ đá. Và di chỉ này được các nhà nghiên cứu đánh giá vừa là một loại hình
địa phương của văn hoá Quỳnh Văn, vừa là một giai đoạn phát triển của nền văn
hoá này để trở thành nền văn hoá Hậu kỳ đá mới Bàu Tró thông qua loại hình
Thạch Lạc [Nguyễn Trung Chiến 2003, 13].
Trước khi trình
bày quá trình phát triển liên tục của con đường Quỳnh Văn – Bàu Tró ở Bắc Trung
Bộ, chúng ta cần xem xét một con đường phát triển khác từ phía nam của địa bàn
văn hoá Bàu Tró qua loại hình Bàu Dũ ở Nam Trung Bộ. Cho đến nay, di chỉ Bàu Dũ
là một địa điểm khảo cổ học hậu Hoà Bình duy nhất được phát hiện tại vùng này.
Bàu Dũ nằm ở thôn Bút Đông, xã Tam Xuân, huyện Tam Kỳ (Quảng Nam), cách bờ biển
khoảng 4km, gần cửa sông Tam Kỳ. Kế tục truyền thống Hoà Bình, người Bàu Dũ đã
sử dụng nguyên liệu cuội để chế tác công cụ. Vì vậy các công cụ của họ thể hiện
rất rõ dáng dấp của bộ công cụ Hoà Bình. Tuy nhiên, giống hệt như người Quỳnh
Văn, vì sống ở ven biển, hiếm nguyên liệu cuội nên người Bàu Dũ cũng sử dụng cả
đá gốc để chế tác công cụ. Sưu tập công cụ đá Bàu Dũ gồm các công cụ nạo hình
đĩa, rìu hình hạnh nhân, rìu ngắn, công cụ chặt đập thô, và 1 chiếc rìu tay ghè
đẽo bằng nguyên liệu cuội. Niên đại sớm của di chỉ Bàu Dũ là 5030 ± 60 năm cách ngày nay.
Phương thức kiếm
sống của cư dân Bàu Dũ giai đoạn sớm là khai thác biển kết hợp với săn bắt và
hái lượm. Đối tượng hoạt động kiếm sống của họ gồm có các loài động vật trên
cạn như tê giác, trâu, bò rừng, hươu, nai, sơn dương, khỉ; các loài động vật
thuỷ sinh biển bao gồm cá, cua, ngao, sò, điệp. Chưa thấy xương răng động vật
thuần dưỡng. Mô hình hoạt động sinh nhai này cùng với bộ công cụ ghè đẽo thô sơ
đã gợi lại phong cách của cư dân Quỳnh Văn, cho dù Bàu Dũ không thuộc vào nền
văn hoá này. Các nhà nghiên cứu cho rằng định hướng khai thác biển đã thành
hình trong phương thức sống của người Bàu Dũ. Tuy nhiên nó không lặp lại bất cứ
mô hình khai thác biển nào cùng thời. Người Cái Bèo có thể đã biết đánh bắt các
loài cá lớn của biển khơi; người Quỳnh Văn chủ yếu khai thác sò điệp ven bờ;
trong khi đó cư dân Đa Bút thì kết hợp cả khai thác ốc nước ngọt, hến sông lẫn
đánh bắt hải sản. Người Bàu Dũ chỉ khai thác biển, nhưng không định hướng riêng
một loài nào mà khai thác theo “phổ tạp” [Hà Văn Tấn (chủ biên) 1998, 242].
Trở lại với văn
hoá Hậu kỳ đá mới Bàu Tró chúng ta thấy nền văn hoá này có những nét gần gũi
với các văn hoá Đa Bút, Quỳnh Văn, Bàu Dũ ở chỗ chúng đều là các di chỉ “đống
rác bếp” cồn sò điệp. Di chỉ Bàu Tró thuộc tỉnh Quảng Bình, do E. Patte khai
quật năm 1923. Cho đến nay đã phát hiện được trên 20 địa điểm thuộc văn hoá này
dọc theo đồng bằng ven biển các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình. Ngoài ra các
di tích và di vật của văn hoá Bàu Tró cũng thấy ở Quảng Trị, Thừa Thiên Huế và
miền núi phía Tây Quảng Bình, Nghệ An. Nhiều sưu tập công cụ đá Nam Trung Bộ và
Tây Nguyên cũng mang dáng dấp và cùng chất liệu với công cụ đá Bàu Tró. Người Bàu Tró chế tác nhiều loại
hình hiện vật đá, trong đó có các công cụ lao động như công cụ ghè đẽo; công cụ
mài gồm rìu, bôn, cuốc, đục, dao, cưa, mũi khoan, bài mài, chày nghiền, hòn
ghè...vv [Phạm Thị Ninh 1995]. Bên cạnh kỹ thuật chế tác đá cư dân Bàu Tró cũng
là những người thợ tài hoa trong nghề gốm. Đặc bịêt người Bàu Tró là một trong
số những thợ thủ công làm ra gốm tô màu đầu tiên trên đất Việt Nam. Đây là một
trong những bằng chứng chắc chắn nhất để xem xét nguồn gốc Bàu Tró của các nhóm
cư dân tiền Sa Huỳnh và Sa Huỳnh trong thời đại kim khí. Người Bàu Tró đã phát
triển thành hai loại hình văn hoá khác nhau, đó là loại hình Thạch Lạc tại khu
vực Nghệ An, Hà Tĩnh, và loại hình Bàu Tró tại Quảng Bình. Tất nhiên một trong
những nguồn gốc của cư dân Bàu Tró chính là người Quỳnh Văn [Hà Văn Tấn (chủ biên) 1998, 283-285].
Có một điều chắc
chắn là người Bàu Tró đã phân chia thành các bộ lạc mà về phương diện khảo cổ
học, các nhà nghiên cứu gọi là các loại hình địa phương. Đó là các bộ lạc Thạch
Hà, bộ lạc Bàu Tró và bộ lạc Minh Cầm. Không còn nghi ngờ gì về việc cư dân Bàu
Tró là những người làm nông, chăn nuôi, làm nghề thủ công đá và gốm. Tất nhiên
trong thời kỳ tiền sử ấy người Bàu Tró chưa thể bỏ qua các nguồn bổ sung trong
hoạt động sinh nhai của mình, đó chính là các hoạt động săn sắt và hái lượm.
Bên cạnh đó vẫn còn một vấn đề khác, là niên đại của văn hoá Bàu Tró. Cho đến
nay mới có duy nhất một niên đại C14 cho nền văn hoá này ở Cồn Nền, có tuổi
3590 ± 80 năm cách
ngày nay. Ngoài ra vấn đề chủ nhân của văn hoá Bàu Tró vẫn còn chưa rõ ràng.
Khi nói rằng văn hoá Bàu Tró là hậu duệ của văn hoá Quỳnh Văn, điều đó không
hoàn toàn đồng nghĩa với vấn đề là về phương diện chủng tộc, người Bàu Tró cũng
chính là người Quỳnh Văn. Tuy nhiên cho đến nay các nhà nghiên cứu vẫn khẳng
định rằng “Cư dân văn hoá Bàu Tró có nguồn gốc từ văn hoá Quỳnh Văn, có quan hệ
giao lưu trao đổi rộng với cư dân văn hoá Hoa Lộc, Hạ Long ở phía Bắc, với cư
dân văn hoá Xóm Cồn ở phía Nam, với các bộ lạc miền núi Tây Nghệ An, Tây Quảng
Bình, Thượng Lào, và xa hơn nữa, với cư dân văn hoá Biển Hồ ở Tây Nguyên. Văn
hoá Bàu Tró là một thành tố quan trọng đóng góp vào sự ra đời của văn hoá Sa
Huỳnh ở miền Trung Việt Nam” [Hà Văn Tấn (chủ biên) 1998, 283 – 285].
Con đường Cái
Bèo – Hạ Long: Nếu như trước đây định hướng nông nghiệp được coi
là con đường phát triển duy nhất sau Hoà Bình – Bắc Sơn và mọi tiền đề cho con
đường đó đã được chuẩn bị trong hai nền văn hoá này, thì ngày nay, với việc phát
hiện văn hoá Soi Nhụ, chúng ta còn được chứng kiến một tất yếu khác. Đó là một
mô hình phát triển phức hợp mà ở đó nông nghiệp chỉ là một trong các thành tố
mà thôi. Người ta không thể phủ nhận được vai trò của kinh tế nông nghiệp, đặc
biệt là nền nông nghiệp làm vườn trong các văn hoá Cái Bèo và Hạ Long. Nhưng
định hướng chính của con đường Cái Bèo - Hạ Long lại là khai thác biển, trong
đó có cả đánh bắt hải sản lẫn trao đổi đường dài và phát triển một số nghề thủ
công - đặc biệt là nghề gốm, chế tác công cụ đá và đồ trang sức. Chính môi
trường biển đã tạo cho hậu duệ văn hoá Cái Bèo của văn hoá Soi Nhụ một phương
thức phức hợp như vậy [Hà Hữu Nga 2000; Tỉnh uỷ, Uỷ ban Nhân dân tỉnh Quảng
Ninh 2001].
Văn hoá trung kỳ
đá mới Cái Bèo được định danh dựa trên phát hiện di chỉ Cái Bèo thuộc xã Hải
Đông, thuộc thị trấn Cát Bà (Hải Phòng). Vào giai đoạn cuối của văn hoá Soi
Nhụ, cách ngày nay khoảng 7000 – 6000 năm, mực nước biển Đông có nhiều biến đổi
và ngày một dâng cao. Chính điều kiện đó đã giúp cho một số nhóm cư dân Soi Nhụ
sống gần biển nhất, trong đó có người Cái Bèo làm quen với các hoạt động khai
thác biển, và sau đó trở thành các cư dân biển thực thụ và sớm nhất trong thời
tiền sử Việt Nam. Niên đại của di chỉ Cái Bèo là chứng nhân khách quan nhất cho
nhận định đó. Mẫu C14 ở độ sâu 220 cm thuộc di chỉ Cái Bèo có độ tuổi 5645 ± 115 năm cách ngày nay. Đây là một bằng chứng chắc
chắn khẳng định rằng trước đợt biển tiến cực đại Holocene trung, người Cái Bèo
đã phát triển nền văn hoá khai thác biển trung kỳ đá mới của mình tại khu vực
vịnh Hạ Long. Khi nước biển Đông dần dần dâng cao vào giai đoạn trước 5000 năm
cách ngày nay, các nhóm cư dân thuộc văn hoá Cái Bèo đã lan toả dần trên toàn
bộ khu vực vịnh Hạ Long. Chính cuộc triển khai này đã để lại các dấu tích rõ
ràng tại các di chỉ Giáp Khẩu (phường Hà Khánh, thành phố Hạ Long), Hà Giát (xã
Hạ Long, đảo Vân Đồn), Hòn Ngò, Núi Hứa (huyện Ba Chẽ và Quảng Hà), lớp sớm của
di chỉ Thoi Giếng (Thị xã Móng Cái).
Trước hết các cư
dân này đã để lại những bộ công cụ cuội ghè đẽo rất thô sơ trên các bãi triều,
dọc cuộc hành trình sinh nhai của họ từ khu vực đảo Cát Bà đến khu vực vịnh
Courbet, nay là vịnh Cửa Lục thuộc thành phố Hạ Long. Sở dĩ các công cụ này rất
thô sơ bởi vì chúng cũng được sử dụng vào một loại hình lao động rất giản đơn
là tách hà ra khỏi các vách đá vôi thuộc vịnh Hạ Long, Bái Tử Long; hoặc ghè
đập các loài nhuyễn thể biển khác như sò huyết, ngao...vv. Như vậy nền văn hoá
Cái Bèo là giao thời của đợt biển tiến Holocene trung. Một trong những thử
thách to lớn nhất đối với cư dân Cái Bèo giai đoạn muộn chính là mực nước biển
dâng lên cực đại vào khoảng 5000 năm cách ngày nay, khiến cho văn hoá Cái Bèo
bị phân hoá sâu sắc. Một số nhóm chạy lên các khu đất cao thuộc đảo Cát Bà. Một
số nhóm khác chạy về khu đảo Hoàng Tân (Yên Hưng) nương tựa vào các dãy núi đá
vôi tại đó. Một số nữa lên cư ngụ tại các hang động cao ráo thuộc khu vực vịnh
Hạ Long. Có những nhóm chạy dạt lên các khu vực chân núi dọc theo đường quốc lộ
18B chạy suốt từ Yên Hưng đến Móng Cái. Và chính sự phân hoá này đã là kích
thích tố để ra đời nền văn hoá Hạ Long sau đợt biển tiến Holocene trung.
Đợt biển biến
Holocene trung dâng lên cực đại một cách nhanh chóng và sau đó cũng rút đi
nhanh chóng không kém, đã để lại nhiều đượng cát suốt các vùng ven biển từ Yên
Hưng đến Móng Cái. Sau đợt biển tiến kéo dài vài trăm năm, cấu trúc kinh tế -
xã hội – văn hoá của các nhóm cư dân Cái Bèo trước đó giờ đây đã bị giải thể
hoàn toàn. Các nhóm cư dân cũ với lối sống và thích ứng mới đã trở thành những
nhóm người Hạ Long phân bố trên một địa bàn rộng hơn địa bàn của cư dân Cái Bèo
trước đó đến hai lần. Các nhóm người Hạ Long sớm đã tạo nên một hệ thống di chỉ
hậu kỳ đá mới rất điển hình tại vùng phía bắc vịnh Bái Tử Long. Đó là các di
chỉ Thoi Giếng, Thôn Nam, Gò Mừng, Gò Chùa, Gò Miếu Cả, Gò Mả Tổ, Gò Bảo Quế,
Quất Đông Nam, Ngòi Hàu..vv đều thuộc địa phận thị xã Móng Cái và đã tạo nên bộ
lạc Thoi Giếng của nền văn hoá Hạ Long. Địa bàn cư trú của bộ lạc này chủ yếu
là bề mặt của các đồng bằng cổ Pleistocene, cao khoảng 6 – 8m so với mực nước
biển hiện tại. Vào khoảng 4700 - 4500 trước, khi nhóm cư dân Thoi Giếng đến
khai phá vùng đất này thì biển Holocene trung không còn ở mức cực đại nữa, và
mực nước biển đang dần dần hạ thấp, để rồi các cư dân Hạ Long sớm lại phân chia
nhau tiến dần ra các đượng cát do đợt biển tiến Holocene trung để lại, và tạo
nên các nhóm cư dân Hạ Long muộn.
Địa bàn cư trú
của các nhóm cư dân Hạ Long muộn gồm có di chỉ hang Bái Tử Long, di chỉ Soi Nhụ
(hang Dưới), và loại hình di chỉ ngoài trời gồm có các di chỉ Ngọc Vừng, Đồng
Mang, Xích Thổ, Làng Bang, Minh Khai, Hoàng Tân, Đầu Dằm, Xóm Nam (Tuần Châu),
Xóm Đông, Xóm Kèo, Cái Dăm, Cọc Tám, Vườn Hoa. Tất cả đều tập trung xung quanh
khu vực vịnh Hạ Long và thành phố Hạ Long. Cư dân giai đoạn muộn vẫn duy trì
một mô hình sống phức hợp gồm có nghề thủ công làm đá, độc đáo nhất là những
chiếc rìu bôn có vai, có nấc. Nghề thủ công làm gốm cũng có những biến đổi to
lớn với sản phẩm gốm xốp đặc trưng cho tài khéo của người thợ gốm Hạ Long. Đặc
biệt nghề khai thác biển đã có dấu hiệu sử dụng thuyền, vì trong giai đoạn cuối
của nền văn hoá này đã phát hiện được nhiều chiếc đục lớn, dài là công cụ hữu
hiệu để đục đẽo những chiếc thuyền độc mộc lớn. Để có được lương thực, có lẽ
các cư dân Hạ Long đã trao đổi các sản phẩm thủ công và hải sản với những nhóm
làm nông ven núi thuộc huyện Hoành Bồ, khu vực Yên Hưng (Quảng Ninh), Tràng
Kênh (Hải Phòng), và xa hơn là các cộng đồng sinh sống trong khu vực đồng bằng
Bắc Bộ, đồng bằng Thanh Hoá (văn hoá Hoa Lộc) và miền núi phía bắc, đặc biệt là
với cư dân Mai Pha ở Lạng Sơn. Các bộ lạc thời kỳ này đã sử dụng một loại hiện
vật biển đặc trưng Hạ Long là con ốc xà cừ (Cypraea) làm vật trung gian
trao đổi, nó là một sản phẩm mang tính hàng hoá đặc bịêt, là một thứ “tiền tệ”
trong thời tiền sử. Ngoài ra chắc chắn cư dân Hạ Long đã có đóng góp to lớn vào
kho tàng lịch sử văn hoá Việt cổ bằng vốn tri thức đi biển, quan sát trăng sao,
con nước, sự lên xuống của thuỷ triều. Nhờ có những kiến thức này mà hệ thống
lịch pháp Việt cổ mới có thể hoàn chỉnh.
Về mặt cấu trúc
xã hội, ngay từ giai đoạn sớm, người Hạ Long đã cư trú tập trung thành các ngôi
làng sơ khai tại khu vực xã Vạn Ninh, thuộc thị xã Móng Cái. Vào giai đoạn
muộn, hình thức quần cư thành các cộng đồng làng xóm có thể thấy rất rõ tại hệ
thống di chỉ Ngọc Vừng, Xích Thổ. Chính những ngôi làng này là những trạm trung
chuyển văn hoá Đông á và Đông Nam á vào khu vực đồng bằng sông Hồng. Về phương
diện cấu trúc gia đình, có lẽ vào giai đoạn này các hình thức thị tộc đã bước
đầu phân hoá dần dần nhường chỗ cho một loại gia đình sơ khai – một hình thức
cấu trúc kép, bao gồm cả gia đình hạt nhân lẫn hình thức gia đình thị tộc [Hà
Hữu Nga, Nguyễn Văn Hảo 1999; Tỉnh uỷ, Uỷ ban Nhân dân tỉnh Quảng Ninh 2001].
Còn
nữa…
Tài
liệu Tham khảo
Aung-Thwin,
Michael 1985. Pagan: the Origins of
Modern Burma. Honolulu: University of Hawaii Press., p. 87.
Bellwood P.
1997. Prehistory of the Indo-Malaysian
Archipelago. 2nd Edition. Honolulu: University of Hawaii Press.
Bentley, G.
Carter 1986. Indigenous States of
Southeast Asia. Annual Review of Anthropology 15: 275 – 305.
Bowler, Sandra 2001. Nguồn
gốc Châu á Khảo cổ học và Nhân học, trong Bức khảm văn hoá Châu á - Tiếp
cận Nhân học (Grant Evans chủ biên), bản tiếng Việt, do Cao Xuân Phổ dịch,
Nhà xuất bản Văn hoá Dân tộc, Hà Nội 2001. Trang 51.
Bùi Vinh 1993. Khai
quật di chỉ Làng Còng (Thanh Hoá) – 1992. Trong Những phát hiện mới về
Khảo cổ học năm 1992, Hà Nội, trang 50 -51.
Bùi Vinh 2003. Cư
dân văn hoá Đa Bút trong các đợt biển tiến (Nhận thức qua tư liệu Địa - Khảo cổ
học ở Làng Còng và Hang Sáo). Tạp chí Khảo cổ học, số 2 (122)
(III-IV), trang 3-15.
Chử Văn Tần 1976. Tìm hiểu quá khứ xa
xưa của Tây Bắc. Khảo cổ học, số
18-1976, trang 40-53.
Ciochon R.L, 1988. Gigantopithecus
the King of all apes. Animal Kingdom, Vol. 91, No. 2, 1988.
Colani, M. 1928.
Notice sur la préhistoire du Tonkin, BSGI, vol. XVIIIV, 1, pp. 71-72.
Diệp Đình Hoa 1978: Về những hiện vật
kim loại ở buổi đầu thời đại đồ đồng thau Việt Nam, Tạp chí Khảo cổ học số 2, trang 11-20.
Donald, M. 1991. Origins
of the Modern Mind: Three Stages in the Evolution of Culture and Cognition.
Cambridge, MA: Harvard University Press.
Đào Qúi Cảnh 2004. Vấn
đề nông nghiệp trong văn hoá Hoà Bình ở Việt Nam. Trong Một thế kỷ Khảo
cổ học Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội. Trang 64.
Đào Thế Tuấn
1988. trang 44. Về những hạt gạo cháy
phát hiện ở Đồng Đậu (Vĩnh Phú) năm 1984. Tạp chí Khảo cổ
học, số 4, trang 44-46.
Earle, Timothy,
ed. 1991. Chiefdom: Power, Economy and
Ideology. New York: Cambridge University Press.
Eblen, Ruth A.
and William R. Eblen, Editors 1994. The Encyclopedia of the Environment.
The René Dubos Center for Human Environments. Huston Mifflin Company, Boston
New York 1994. p. 4.
Eisler R. 1987. The
Chalice and The Blade: Our History, Our Future. New York, Harper & Row,
1987.
Gardner, H. 1997. Thinking
about thinking. New York Review of Books. 9-10-1997.
Gorman C.E.
1970. Excavations at Spirit Cave, North Thailand: some interim interpretations.
Asian Perspectives 13: 79-107.
Gorman C.E.
1971. The Hoabinhian and after: subsistence patterns in Southeast Asia
during the late Pleistocene and early Recent periods. World Archaeology 2
(3): 300 – 320.
Grenier, Louise
1998. Working with Indigenous Knowledge, a Guide for Researchers.
International Development Research Centre, Ottawa, Canada. pp. 1-9.
Hà Hữu Nga 1982.
Thời đại đá mới Việt Nam: Môi trường –
Văn hóa và một mô hình tổng quát. Trong Những
phát hiện mới về khảo cổ học năm 1982. Hà Nội.
Hà Hữu Nga,
Nguyễn Cường, và Bùi Vinh 1996. Báo cáo Khai quật di chỉ Mai Pha (Lạng Sơn).
Tư liệu Viện Khảo cổ học.
Hà Hữu Nga 1998.
Có một nền văn hoá Soi Nhụ tại khu vực vịnh Hạ Long. Kỷ yếu Những
phát hiện mới về khảo cổ học năm 1997. Hà Nội 1998, trang 91.
Hà Hữu Nga,
Nguyễn Văn Hảo 1999. Hạ Long thời tiền sử. Nhà xuất bản Thế giới, Hà Nội
1999.
Hà Hữu Nga 2000.
Soi Nhụ – Nền văn hoá cổ nhất hiện biết trên vịnh Hạ Long. Hội thảo Vịnh Hạ Long 5 năm di sản Thế giới,
do UBND Tỉnh Quảng Ninh – Bộ Văn hoá Thông tin và Uỷ ban UNESCO Việt Nam tổ
chức, Hạ Long 4-2000, trang 72-80.
Hà Hữu Nga 2004. Khảo cổ học
Đông Bắc Việt Nam từ những hệ thống sinh thái nhân văn tới các cấu trúc xã hội
tiền nhà nước. Trong Một thế kỷ Khảo cổ học Việt Nam, Tập I, Nhà xuất
bản Khoa học Xã hội, năm 2004. Trang 117-139.
Hà Văn Tấn 1962. Về
vấn đề người Indonesian và loại hình Indonesian trong thời đại nguyên thuỷ Việt
Nam. Thông báo Khoa học Đại học Tổng hợp, Sử học I, trang 168 – 202.
Hà Văn Tấn 1976. Nguồn gốc văn hóa Phùng Nguyên và vấn đề
Tiền Việt Mường (một giả thiết công tác mới).
Hà Văn Tấn 1982.
Từ Bàu Tró đến Sa Huỳnh. Trong Những
phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1980, Hà Nội, trang 142-144.
Hà Văn Tấn 1984.
Lớp dăm đá vôi ở Ngườm với khí hậu cuối Pleistocene ở Đông Nam á. Kỷ yếu
Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1984, trang 18-20.
Hà Văn Tấn 1986. Kỹ nghệ
Ngườm trong một phối cảnh rộng hơn. Tạp chí Khảo cổ học, số 3, 1986, trang
3-10.
Hà Văn Tấn (chủ
biên) 1998. Khảo cổ học Việt Nam. Tập I. Thời
đại đá Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội. Trang 76.
Hà Văn Tấn (chủ
biên) 1999. Khảo cổ học Việt
Nam.
Tập II. Thời đại kim khí Việt Nam.
Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội.
Hà Văn Tấn,
Nguyễn Xuân Mạnh,...1985. Khai quật lần
thứ hai di chỉ Thành Dền (Hà Nội), trong Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 1984, trang 95.
Hà Văn Tấn (chủ biên) 1998. Khảo
cổ học Việt Nam. Tập I. Thời đại đá Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học
Xã hội, Hà Nội. Trang 60 – 63.
Hà Văn Tấn, Bùi
Vinh và Võ Qúi 1990. Những dấu hiệu về một nền văn hoá khảo cổ mới ở Hà
Tuyên. Tạp
chí Khảo cổ học, số 1-2-1990. trang 34-38.
Hall, Keneth R.
1985. Maritime Trade and State
Development in Early Southeast Asia. Honolulu: University of Hawaii Press.
Higham, Charles
F. W. 1989. The later Prehistory of
Mainland Southeast Asia. Journal of World Prehistory 3: 235 – 282.
Hoàng Xuân Chinh và Nguyễn
Văn Bình 1978. Điều tra khảo cổ học thời đại đá cũ ở Đồng Nai và Sông Bé.
Kỷ yếu Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1978.
Hodder, Ian
1991. Reading the Past – Current Approaches to Interpretations in
Archaeology. Second Edition. Cambridge University Press. pp. 121-149.
Lê Văn Thuế, Vũ
Thế Long 1976. Nghiên cứu di tích xương
răng động vật ở di chỉ Hoa Lộc (Thanh Hóa). Trong Những phát hiện mới về
Khảo cổ học năm 1976, Hà Nội, trang 145.
Lê Văn Thuế – Vũ
Thế Long 1986. Di cốt động vật ở Hang Dơi (Lạng Sơn). Trong Những
phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1985, Hà Nội 1986, trang 49.
Lê Xuân Diệm –
Phạm Quang Sơn – Bùi Chí Hoàng 1991. Khảo
cổ học Đồng Nai thời Tiền sử. Nhà xuất bản Đồng Nai.
Lưu Tỳ, Nguyễn
Thế Tiệp, Nguyễn Tứ Dần ... 1985. Đặc
điểm địa mạo thềm lục địa Việt Nam và các vùng lân cận, Tạp chí Khảo cổ học, số 2-1985, trang 16 – 18.
Mansuy H. 1924. Stations préhistoriques dans les carvenes du massif
calcaire de Bacson (Tonkin). MSGI. Vol. 11,No. 2.
Mansuy H. 1925. Stations préhistoriques de Keo Phay (suit) de Khac Kiem
(suit) de Lai Ta (suit) et Bang Mac dans le massif calcaire de Bac Son (Tonkin).
MSGI. Vol. 12, No. 2.
Mansuy H. et M. Colani 1925. Néolithique inferieur (Bacsonien) et
néolithique superieur dans les Haut Tonkin. MSGI. 12, f.3.
Mansuy, H. 1925. Nouvelles de cauvertes dans les carvens du massif
calcaire de Bac Sơn (Tonkin). MSGI. Vol. 12, N0 1,
p. 34.
Mithen, Steven J. 1996. The
Prehistory of the Mind: The Cognitive Origins of Art, Religion and Science.
Cambridge: Cambridge University Press.
Nguyễn Cường
2002. Văn Hoá Mai Pha. Sở Văn hoá Thông tin Lạng Sơn, trang 90.
Nguyễn Duy và
Nguyễn Quang Quyền 1966. Nghiên cứu về hai sọ cổ ở Quỳnh Văn – Nghệ An.
Trong Một số báo cáo về Khảo cổ học Việt Nam. Hà Nội, trang 351-366.
Nguyễn Duy Tỳ,
Đào Linh Côn 1985. Kỹ thuật luyện kim
đồng thau ở địa điểm Dốc Chùa. Tạp chí Khảo cổ học, số 3, trang 24-30.
Nguyễn Đình Khoa
1986. Con người thuộc văn hoá Hoà Bình. Tạp chí Khảo cổ học số 1-1986.
Nguyễn Khắc Sử
1983. Sự phát triển kinh tế và tổ chức xã hội của cư dân cổ Cúc Phương,
Tạp chí Khảo cổ học, số 1 - 1983, trang 20.
Nguyễn Khắc Sử
1995. Văn hóa Biển Hồ ở Tây Nguyên. Tạp chí Khảo cổ học, số 3- 1995, trang 7 –
16.
Nguyễn Khắc Sử
và cộng sự 1998. Báo cáo điều tra khảo cổ
học vùng ngập nước tỉnh Lai Châu (chủ biên). Tư liệu Viện Khảo cổ học.
Nguyễn Kim Thuỷ
2004. Cư dân Đa Bút qua tài liệu Sinh khảo cổ. Tạp chí Khảo cổ học,
số 1 (127) (I-II), trang 15-23.
Nguyễn Lân Cường
1977. Di cốt người cổ ở hang Con Moong.
Kỷ yếu Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1976. Hà Nội 1977. Trang 112
Nguyễn Lân Cường
1988a. Trở lại vấn đề niên đại của hoá thạch người ở Việt Nam. Tạp chí Khảo
cổ học số 1-2, 1988, trang 4-11.
Nguyễn Lân Cường
1988b. Di cốt người cổ trên đất Lạng Sơn. Tuyển tập luận văn Hội nghị
khoa học Xứ Lạng, Lạng Sơn 1988, trang 39.
Nguyễn Lân Cường
1992. Những hoá thạch người cổ ở Việt Nam và Đông Nam á trong thời kỳ
Pleistocene. Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam á, số 1, trang 5-12.
Nguyễn Lân Cường
1996. Đặc điểm nhân chủng cư dân văn hoá Đông Sơn
ở Việt Nam. Nhà
xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội 1996.
Nguyễn Thị Kim
Dung 1986. Báo cáo khai quật công xưởng
Tràng Kênh lần thứ hai. Tư liệu Viện Khảo cổ học.
Nguyễn Thị Kim
Dung, Đặng Văn Thắng...1995. Đồ trang sức
trong mọ chum ở Cần Giờ. Trong Khảo
cổ học, số 2, trang 27-45.
Nguyễn Trung
Chiến 2003. Mối quan hệ và liên hệ ở bình tuyến đá mới hậu Hoà Bình – Bắc
Sơn ven biển Đa Bút – Quỳnh Văn – Cái Bèo – Bàu Dũ. Tạp chí Khảo cổ học, số
4 (124) (VII-VIII), 2003, trang 11 - 12.
Nguyễn Trường Kỳ
1983. Bước đầu tìm hiểu nghề thủy tinh ở
nước ta. Tạp chí Khảo cổ học, số
1, trang 47-54.
Nguyễn Văn Long và Lê Trung
Khá 1977. Về những hiện vật đá cũ mới tìm được ở Vườn Dũ (Sông Bé) và Gia
Tân (Đồng Nai). Tạp chí Khảo cổ học, số 4-1977.
Patte E. 1932. Le Kjokkenmodding néolithique de Dabut et ses sépultures
(province de Thanh Hoa, Indochine). BSGI, Vol. XIX, pt.3, 1932.
Phạm Đức Mạnh 1985. Qua đồng Long
Giao. Tạp chí Khảo cổ học, số 1,
trang 37 – 68.
Phạm Quang Sơn 1978. Bước đầu tìm
hiểu sự phong phú văn hóa hậu kỳ đá mới, sơ kỳ đồng thau ở lưu vực sông Đồng
Nai. Tạp chí Khảo cổ học, số 1,
trang 35-40.
Phạm Thị Ninh 1995. Văn hoá Bàu Tró - đặc trưng và loại hình.Luận án Phó
tiến sĩ, Khoa học lịch sử, Hà Nội, trang 9 – 11.
Sahlins. M.D.,
and E. R. Service, eds. 1960. Evolution and Culture. Ann Arbor:
University of Michigan Press.
Saurin E. 1939. Les cranes
préhistoriques inédit de Lang Cuom. Far Eastern
Association of Tropical Medicine 10ème Congrès. T. I. Hanoi.
Saurin E. 1956. Outilage Hoabinhien à
Giap Khau, Port Courbet (Nord Vietnam). BEFEO. Vol.
XLVIII, No. 2, 1956.
Sharer, Robert
J. and Wendy Ashmore 1992. Archaeology Discovering Our Past. Second
Edition. Mayfield Publishing Company, Mountain View, California. London
. Toronto. Pp. 561-562.
Taylor, Keith W.
1992. The early Kingdoms. Pp. 137 -
182 in The Cambridge History of Southeast
Asia, N. Tarling, ed. Cambridge: Cambridge University Press. P. 181.
Tỉnh uỷ, Uỷ ban
Nhân dân tỉnh Quảng Ninh 2001. Địa chí Quảng Ninh. Tập I, Nhà xuất bản
Thế giới, Hà Nội, trang 421.
Trần Quốc Vượng 1974. Vài suy nghĩ tản mạn về trống đồng.
Trong Khảo cổ học, số 14, Hà Nội, tr.
71-81.
Trần Quốc Vượng
1986. Văn hoá Hoà Bình, văn hoá Thung lũng. Tạp chí Khảo cổ học, số
2-1986, trang 1- 6.
Trần Quốc Vượng 1993. Mấy nét khái quát lịch sử cổ xưa
về cái nhìn về biển của Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 1,
1993.
Trần Quốc Vượng 1996. Mấy
ý kiến về trống đồng và Tâm thức Việt cổ. Trong Theo dòng lịch sử - Những vùng đất, thần và tâm thức người Việt.
Nxb. Văn hóa, Hà Nội, tr 39-65.
Trần Quốc Vượng 2000. Việt Nam và biển Đông, Tạp
chí Văn hoá dân gian, số 3(71), 2000.
Trình Năng Chung
1991. Kỹ nghệ Ngườm và văn hoá Bắc Sơn, Tạp chí Khảo cổ học, số 2, trang
16 – 21.
Verneau R. 1909. Les cranes humains
du gisement de Pho Binh Gia (Tonkin). L’Anthropologie. No. 20: 545-549.
Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam 1969. Những hiện vật tàng trữ tại Viện
Bảo tàng Việt Nam về văn hoá Bắc Sơn, Hà Nội, trang 140.
Vũ Quốc Hiền, Chu Văn Vệ 1996. Công
cụ đá và đồ trang sức bằng vỏ nhuyễn thể ở di chỉ Bích Đầm (Khánh Hòa).
Trong Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1976, Hà Nội, trang 90.
Vũ Thế
Long, Lê Trung Khá, và Hoàng Văn Dư 1977. Khai quật Thẩm ồm (Nghệ An) đợt I. Kỷ
yếu Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1977, trang 13.
Vũ Thế Long 1982. Về những chiếc răng vượn khổng lồ. Kỷ yếu Những phát
hiện mới về Khảo cổ học năm 1982, trang 67-69.
Vũ Thế Long 1984. Người Hoà Bình và thế giới động vật. Tạp chí Khảo
cổ học, số 1-2, 1984. Trang 126.
Vũ Thế
Long, Hà Hữu Nga 2004. Phát hiện công cụ thời đại đá cũ ở Đak Lak. Kỷ yếu
Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 2003. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội.
Wheatley,
Paul 1979. Urban genesis in mainland
South East Asia. Pp. 288 – 303 in Early
South East Asia: Essays in Archaeology, History and Historical Geography.
R. B. Smith and W. Watson, eds. New York: Oxford University Press.
Weidenreich, F. 1943 “The
skull of Sinanthropus pekinensis”, Palaeontologica Sinica (n.s. D), Vol.
10, pp. 1 – 298.
Welch, David and
Rudith R. McNeill 1991. Settlement,
agriculture and population changes in the Phi Mai region, Thailand. Pp. 210
– 228 in Indo-Pacific Prehistory 1990:
Proceedings of the 14th Congress of the Indo-Pacific Prehistory
Association, Yogyakarta, Indonesia, vol. 2. Bulletin of the Indo-Pacific
Prehistory Association 11.
Wisseman C. Jan
1985. Theater States and Oriental
Despotisms: Early Southeast Asia in the Eyes of the West. Hull: University
of Hull Center for South-East Asian Studies Occasional Paper no. 10., p.9.
Wisseman C. Jan
1992. Trade and settlement in early Java:
integrating the epigraphic and archaeological data. Pp. 181 – 197 in Early Metallurgy, Trade and Urban Centers in
Thailand and Southeast Asia. I. Glover, P. Suchitta, and J. Villiers, eds.
Bankok: White Lotus.
White C. Joyce.
1995. Incorporating Heterarchy into
Theory on Socio-Political Development: The Case from Southeast Asia. In Heterarchy and the Analysis of Complex
Societies. Robert. M. Ehrenreich, Carole L. Crumley, and Janet E. Levy,
eds. Archaeological Papers of the American Anthropological Association, Number
6. Arlington, Va.: American
Anthropological Association. Pp. 101 – 123.
Wolter, O. W.
1982. History, Culture, and Region in
Southeast Asian Perspectives. Singapore: Institute of Southeast Asian
Studies.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét