Tiền sử Việt Nam (I)
Người viết: Hà Hữu Nga
Theo đặt hàng của GS. Phan Huy Lê (2005)
Lưu ý đầu trang: Đây là bản draft đầu tiên tôi [Hà Hữu Nga] viết theo đặt hàng của GS. Phan
Huy Lê, dưới sự hướng dẫn của GS. Trần Quốc Vượng. Vì vậy xin có ba lưu ý quan
trọng:
1. Bản draft này được lưu ở đây với tư cách cá nhân và là bản draft chưa được
chỉnh sửa.
2. Mọi hình thức sử dụng như: sao chép, trích dẫn v.v…là không hợp lệ.
3.Vì GS. Trần Quốc Vượng ốm nặng và
mất trước khi đọc bản draft này vào năm 2005 nên mọi sai sót có trong draft đều
thuộc về người viết; nhiều quan điểm trong bài viết không chắc đã được GS. Trần
Quốc Vượng đồng ý.
1. Thời đại
đá cũ, sự phát triển từ Người vượn đến Người hiện đại ở Việt Nam
Trong lịch
sử trái đất, thời gian hình thành và phát triển của con người được gọi là kỷ
Nhân sinh, các nhà địa chất gọi đó là kỷ thứ Tư và chia thành hai thế: Cánh tân
(Pleistocene) và Toàn tân (Holocene); về phương diện lịch sử,
buổi bình minh của thời tiền sử của nhân loại chính là sự khởi đầu của kỷ nhân
sinh, và kết thúc với sự ra đời của chữ viết. Về cơ bản thời tiền sử bao gồm
thời đại đá và thời đại đồ đồng. Hầu hết thời đại đá cũ nằm trong thế Cánh tân,
từ thời đại đá mới qua thời đại đồ đồng, thời đại đồ sắt cho đến nay thuộc vào
thế Toàn tân. Thế Cánh tân được chia thành ba giai đoạn từ sớm đến muộn: Sơ kỳ
Cánh tân từ khoảng 1.800.000 đến 700.000 năm cách ngày nay. Trung kỳ Cánh tân
từ khoảng 700.000 năm đến 125.000 năm cách ngày nay. Hậu kỳ Cánh tân từ khoảng
125.000 năm đến 10.000 năm cách ngày nay. Và ranh giới 10.000 năm thường được
các nhà khảo cổ học coi là mốc kết thúc thời đại đá cũ, mở đầu thời đại đá mới.
Thời đại đồ đồng bắt đầu từ khoảng 6000 năm trước và kết thúc vào khoảng 4000 –
3000 năm trước. Tiếp đó là thời đại đồ sắt và thời kỳ lịch sử của nhân loại.
Vấn đề tiến
hoá của muôn loài nói chung và con người nói riêng lần đầu tiên được đề cập một
cách khoa học trong cuốn Nguồn gốc các loài (The Origin of Species) của
Charles Darwin, xuất bản năm 1859. Theo ông thì trong bất kỳ loài nào các cá
thể cũng có nhiều cách biến đổi, nhiều cá thể được sinh ra, nhưng chỉ có ít cá
thể tồn tại được, là nhờ ở những đặc trưng riêng của chúng. Đó là “những
cá thể thích nghi tốt nhất với môi trường sống của mình, và chúng truyền các
đặc trưng riêng đó cho hậu duệ của mình. Vì vậy, nhiều loài mới xuất hiện, có
những đặc trưng thích ứng tốt nhất với môi trường của chúng” [Bowler S. 2001].
Qúa trình tiến hoá của người vượn trong khu vực và trên thế giới cũng có thể
được hình dung như vậy.
Công cuộc
nghiên cứu quá trình tiến hoá của người Vượn tại khu vực Đông Nam á do Eugene
Dubois khởi xướng. Ông là một nhà khảo cổ học Hà Lan, làm việc tại Đại học
Leiden. Năm 1887, ông đến Sumatra (Indonesia), và đã phát hiện được một khúc
xương đùi, nằm cùng với một chỏm sọ và những chiếc răng hàm ở vùng Trinil bên
bờ sông Solo. Việc nghiên cứu khúc xương đùi khiến Dubois đi tới kết luận: sinh
vật này đã biết đứng thẳng như một con người, vì thế Dubois gọi nó là Pithecanthropus
erectus – Người vượn đi thẳng. 21 năm trước khi Dubois đến Indonesia, vào
năm 1856, người ta đã tìm thấy những di cốt hoá thạch người sớm tại một vài
hang động thuộc thung lũng Neander ở Đức và chúng được gọi là người Neanderthal. Giai đoạn tiếp theo, một
loại hình hiện đại hơn đã được phát hiện tại Cro-Magnon nước Pháp. Cái tên
người Cro-Magnon đã ra đời. Vậy là thuyết tiến hoá của Charles Darwin
cùng với các phát hiện trên đã giúp cho các nhà khảo cổ và cổ nhân học xây dựng
dần dần một lịch sử tiến hoá người, trong đó, căn cứ vào niên đại địa chất,
Dubois cho rằng Pithecanthropus erectus sống cách ngày nay khoảng
500.000 năm. Các nhà khoa học khác cho rằng Homo neanderthalensis là
dạng người sớm, sống cách ngày nay vào khoảng từ 200.000 đến 100.000 năm và sau
đó đã tiến hoá thành người hiện đại Cro-Magnon
- Homo sapiens (Người khôn ngoan) vào thời Băng hà cuối cùng.
Vào năm
1924, một cốt sọ trẻ em đã được phát hiện tại Tauong, Nam Phi. Nhà giải phẫu
học Raymond Dart nghiên cứu hoá thạch này và đặt tên cho nó là Autralopithecus
Africanus (Người vượn Phương nam thuộc Châu Phi). Tiếp theo, vào năm 1930,
Robert Brown cũng phát hiện được tại Nam Phi một hoá thạch khác. Ông gọi nó là Paranthrobus robustus, và sau đó được
thừa nhận là Australopithecus robustus
(Vượn người Phương nam Lực lưỡng). Trước đó, vào năm 1927, tại hang Chu Khẩu
Điếm, gần Bắc Kinh (Trung Quốc) một đoàn nghiên cứu hỗn hợp gồm các học giả
Thuỵ Điển, Canada, áo, Pháp, Mỹ, và Trung Quốc đã phát hiện được một răng hàm hominid (họ người). Đến năm 1930, một
sưu tập hoá thạch đã được phát hiện tại hang này, gồm có 5 cốt sọ gần như
nguyên vẹn cùng nhiều mảnh xương khác. Các nhà khoa học đã đặt tên cho chúng là
Sinanthropus pekinensis (Người vượn Trung Quốc hay Người vượn Bắc Kinh).
Ngày nay tập hợp này cũng được xếp vào Homo erectus. Ngoài ra, thập kỷ
30 của thế kỷ XX dưới sự chỉ đạo khoa học của Ralph von Koenigswald, người ta
đã phát hiện được hoá thạch Pithecanthropus
khác tại Gia Va (Indonesia) thuộc khu vực Ngandong, Sangiran và Mojokerto. Các
phát hiện quan trọng nhất kể từ sau Chiến tranh Thế giới II tại Châu Phi trước
hết thuộc về công lao của gia đình Leakey tại Kenia và Tanzania, trong đó có
hoá thạch người vượn tại Olduwai. Loài này sớm hơn Homo erectus, được
đặt tên là Homo habilis (Người khéo léo), với niên đại vào khoảng 1.6
triệu năm trước. Cùng với các hoá thạch này, còn có các công cụ đá ghè đẽo thô
sơ. Với các phát hiện tại Đông Phi, niên đại sớm của con đã được đẩy lên đến
khoảng từ 2 đến 2.5 triệu năm. Kỹ nghệ đá có niên đại tương đương với Homo
erestus cũng được phát hiện tại vùng Acheul nước Pháp và chúng được gọi tên
là kỹ nghệ Acheulian. Đó là những chiếc rìu tay, những hòn ghè, cùng một số
mảnh tước thô. Kỹ nghệ này phân bố trong một khu vực rộng lớn từ Châu Phi, Châu
Âu, một số khu vực tại Trung Đông và ấn Độ. Các công cụ Acheulian tiếp tục tồn
tại đến khoảng 100.000 năm trước và không biến đổi nhiều về hình dáng và kỹ
thuật chế tác. Một trong những vấn đề khoa học liên quan đến lịch
sử tiến hoá người được tranh luận sôi nổi nhất là sự xuất hiện của người hiện
đại. Theo nhà giải phẫu học người Đức Franz Weidenreich, người lãnh đạo khai
quật Chu Khẩu Điếm từ 1935 đến 1937 thì có một dòng tiến hoá liên tục từ Pithecanthropus đến Homo soloensis (Người Solo ở Indonesia) [Weidenreich, F. 1943].
Quan điểm
của Weidenreich đã được nhiều người chấp nhận và họ đã phát triển thành mô hình
phát tán của Homo erectus từ Châu Phi
ra khắp Cựu Thế giới, gồm có châu Phi, Châu á và Châu Âu. Đối với Châu á, Homo erectus Chu Khẩu Điếm được coi là
cội nguồn của đại chủng Mongoloid,
còn Homo erectus Gia Va thì tiến hoá
qua dạng người Ngandong để trở thành Australoid.
Sau đó loại hình Mongoloid
đã dần dần đẩy lùi người Australoid ở
Đông Nam Á. Còn ở Châu Âu thì Homo
erectus phát triển qua người Neanderthal
để trở thành tổ tiên của người Châu Âu hiện đại, đó là loại hình Cro-Magnon - Homo sapiens (Người khôn ngoan). Trong những năm gần đây, các nhà
sinh học phân tử đã sử dụng phương pháp nghiên cứu DNA (deoxyribonuclei acid)
trong đó loại gen di truyền sinh học xác định sự biến đổi của DNA với một tốc
độ không đổi, tạo ra một loại “đồng hồ phân tử”. Khi so sánh DNA ở các thành
viên thuộc những cư dân khác nhau thì có thể xác định được sự chênh lệch số
lượng các DNA đó, người ta cũng tính toán được khoảng thời gian cho sự chênh
lệch đó. Để xác định quá trình tiến hoá của con người, các nhà khoa học đã sử
dụng DNA lấy từ mitochondria (ty thể, thể hạt sợi) chỉ di truyền theo dòng nữ
mà không lấy từ các nhiễm sắc thể. Với phương pháp này, các nhà nghiên cứu kết
luận rằng tất cả các con người hiện đại đều sinh ra từ một tổ tiên chung ở Châu
Phi trong khoảng 200.000 năm trước [Bowler, Sandra 2001, 62 – 63]. Tuy nhiên tư
liệu hoá thạch người dường như lại không hoàn toàn ủng hộ cho quan điểm một
trung tâm phát sinh người duy nhất này.
Di tích hoá thạch người Vượn ở Việt Nam
Di tích hoá
thạch người vượn ở Việt Nam được phát hiện và khai quật từ lớp trầm tích màu đỏ
tại các hang đá vôi Thẩm Khuyên và Thẩm Hai thuộc xã Tân Văn, huyện Bình Gia,
tỉnh Lạng Sơn. Hai hang này nằm ở độ cao khoảng 20 m so với bề mặt thung lũng
và cách nhau khoảng 150m. Hang Thẩm Hai được phát hiện và thám sát năm 1964,
tìm thấy 1 chiếc răng hoá thạch. Năm sau Hang Thẩm Khuyên được khai quật và đã
phát hiện được 9 răng hoá thạch. Các nhà khoa học đã đi đến kết luận rằng đây
là những chiếc răng hoá thạch của người vượn.
Cùng với các
hoá thạch người còn có di tích xương cốt động vật thuộc Trung kỳ Cánh Tân. Từ
các tàn tích còn lại trong các hang động đá vôi, các nhà khoa học cho biết thế
Cánh tân ở Nam Trung Quốc và Bắc Việt Nam tồn tại các loài vật, trong đó có
những động vật lớn như vượn khổng lồ (Gigantopithecus
blacki), đười ươi (Pongo pygmaeus
pygmaeus)...vv; voi cổ (Palaeoloxodon
namadicus); voi răng kiếm (Stegodon
orientalis); lợn vòi lớn (Tapirus
(Megatapirus) augustus); tê giác (Rhinoceros
sinenesis); gấu tre lớn (Ailuropoda
melanoleuca fovealis)...vv. Quần động vật trên được đánh giá là phong phú
hơn quần động vật hiện tại, và cho đến nay nhiều loài đã bị tuyệt diệt. Tuy
chưa phát hiện được công cụ của người vượn và cũng chưa tìm được dấu vết của
con người để lại trên xương cốt động vật hoá thạch, nhưng các nhà khoa học cho
rằng những loài trên chắc chắn là đối tượng săn bắt của người vượn nơi đây.
Thậm chí một học giả Mỹ còn cho rằng Người vượn (Homo erectus) và Vượn khổng lồ (Gigantopithecus)
đã cạnh tranh sinh thái với nhau và Vượn khổng lồ đã bị Người vượn tiêu diệt
[Ciochon R.L, 1988].
Sơ kỳ thời đại đá cũ Việt Nam
Di tích Núi
Đọ, Quan Yên, và Núi Nuông: các di tích này phân bố tại khu vực hữu ngạn Sông Chu, gần ngã ba sông
Chu và sông Mã, thuộc huyện Thiệu Yên tỉnh Thanh Hoá, được phát hiện trong thời
gian từ năm 1961 đến năm 1980. Theo các nhà địa chất thì các ngọn núi này được
cấu tạo chủ yếu bằng đá ba dan (basalt) thuộc đại Trung sinh (Mézozoique) có
niên đại khoảng 150-200 triệu năm cách ngày nay. Hiện vật đá của nhóm di tích
này là những công cụ chặt thô (thuật ngữ tiếng Anh là choppers), các mảnh tước
thô loại hình Cơ lác tôn (Clacton), các hạch đá loại hình A Sơn (Acheulian)
cũng rất thô sơ được làm từ chính nguồn nguyên liệu đá ba dan được khai thác tại
chỗ. Chúng được coi là những công cụ đơn giản nhất do những người vượn sơ kỳ đá
cũ chế tác. Nhóm di tích Núi Đọ được coi là loại hình di chỉ xưởng, vừa là nơi
con người sinh sống, vừa là nơi họ khai thác nguyên liệu và chế tác công cụ tại
chỗ. Nhưng gần đây đã có những ý kiến khác nhau về sưu tập hiện vật, và niên
đại của nhóm di tích Núi Đọ. Việc xác định niên đại chỉ dựa vào loại hình học
hiện vật đá mà không có các bằng chứng cổ nhân, cổ sinh hoặc địa tầng đã làm
cho nhiều nhà nghiên cứu băn khoăn, một số người đã đặt lại vấn đề về nhóm di
tích này. Bên cạnh các hiện vật sơ kỳ đá cũ điển hình, các nhà nghiên cứu còn
phát hiện được cả những phác vật tiêu biểu của thời đại đồ đồng. Nhưng dẫu sao
thì “nếu so sánh với những nền văn hoá đã biết trên lãnh thổ Việt Nam, chúng ta
có thể thấy rằng kỹ nghệ Núi Đọ khác và cổ hơn các kỹ nghệ Ngườm, Sơn Vi và Hoà
Bình” [Hà Văn Tấn (chủ biên) 1998, 60-63].
Các dấu ấn
tiền sử thời sơ kỳ đá cũ trên đất nước ta còn được tìm thấy cả ở miền Đông Nam
Bộ. Các địa điểm này do E. Saurin, nhà nghiên cứu người Pháp phát hiện. Đó là
Hàng Gòn VI, Dầu Giây, đồi Sáu Lé, Suối Đá, Núi Đất, Núi Cẩm Tiên, Cầu Sắt, Gia
Tân, Phú Qúi (thuộc tỉnh Đồng Nai) và An Lộc (thuộc tỉnh Sông Bé cũ). Các địa
điểm này phân bố rải rác trên một khu vực hoạt động của các núi lửa cổ. Riêng
tại địa điểm Hàng Gòn VI, đã phát hiện được 15 công cụ đá, trong đó Saurin thấy
có 3 rìu tay A Sơn (Acheulian) điển hình. Từ năm 1975 trở đi, các nhà nghiên
cứu Việt Nam cũng phát hiện được loại hình hiện vật này tại xã Gia Tân, huyện
Thống Nhất (Đồng Nai) [Nguyễn Văn Long và Lê Trung Khá 1977], địa điểm An Lộc,
huyện Lộc Ninh (Sông Bé), và các địa điểm Núi Đất, Cẩm Tiên, Phú Qúi [Hoàng
Xuân Chinh và Nguyễn Văn Bình 1978]. Về mặt loại hình và kỹ thuật, những chiếc
rìu tay sơ kỳ đá cũ miền Đông Nam Bộ rõ ràng là tiến bộ hơn, định hình hơn và
nhỏ gọn hơn các công cụ chặt thô nhóm di tích Núi Đọ.
Ngoài ra,
dấu ấn ban đầu của thời sơ kỳ đá cũ còn được phát hiện ở Tây Nguyên. Các nhà
nghiên cứu Viện Khảo cổ học đã công bố một số công cụ đá cũ chế tác từ đá opal
có nguồn gốc núi lửa, được tìm thấy ở xã Xuân Phú, huyện Ea Kar, tỉnh Đak Lak.
Việc xác định niên đại bằng cách so sánh loại hình học, đã giúp các nhà khảo cổ
học đi tới kết luận sơ bộ nó có tuổi tương đương với sưu tập Jangkwanli thuộc
tỉnh Jincheon (Trung Hàn Quốc) vào khoảng 85.000 - 125.000 năm cách ngày nay
[Vũ Thế Long, Hà Hữu Nga 2004]. Ngoài loại nguyên liệu có nguồn gốc đá lửa, ở
Tây Nguyên còn tìm thấy nhiều gỗ hoá thạch. Đây là loại nguyên liệu quí mà người
tiền sử thời sơ kỳ đá cũ ở đất nước Miến Điện đã sử dụng để chế tác công cụ. Đó
cũng là một gợi ý bổ ích để các nhà khảo cổ học Việt Nam định hướng tìm tòi các
sưu tập công cụ sơ kỳ đá cũ Tây Nguyên từ loại nguyên liệu này.
Càng ngày
các nhà nghiên cứu càng phát hiện được thêm bằng chứng cho thấy khả năng đã có
một quá trình tiến hoá từ vượn thành người vượn rồi trở thành người Khôn ngoan
trên chính đất nước chúng ta. Theo quan điểm của các nhà nhân học nhận thức,
lịch sử phát triển của con người là lịch sử phát triển của hành vi và trí tuệ
thông qua sự phát triển của cơ thể và hệ thống thần kinh. Trong một cuốn sách
đang có ảnh hưởng lớn tại các nước Âu Mỹ hiện nay, nhà nghiên cứu người Canada
Merlin Donald cho rằng trong hai triệu năm qua, loài người đã trải qua ba giai
đoạn [Donald, M. 1991]. Giai đoạn đầu tiên là quá trình các hominid (họ người)
tách ra khỏi các giống vượn khác, và những con người đầu tiên đã biết sử dụng
cơ thể của họ để bắt chước những người già có nhiều kinh nghiệm hơn và các thành
viên tinh khôn hơn của nhóm. Giai đoạn thứ hai con người phát triển các hệ
thống cơ thể về mặt giải phẫu và hệ thống thần kinh. Điều đó cho phép họ sử
dụng ngôn ngữ nói để sáng tạo ra và kể lại các sự kiện, các câu truyện với đồng
loại. Giai đoạn thứ ba con người hiện đại xuất hiện và họ sáng tạo ra các hệ
thống ký hiệu và biểu tượng để lưu giữ thông tin vào ký ức và phát triển các
loại hình văn hoá phức tạp, trong đó có nghệ thuật và khoa học. Lý giải của
Donald được coi là một lý thuyết lớn và được rất nhiều học giả trên thế giới
cho là một phác thảo hợp lý về nguồn gốc và lịch sử phát triển của loài người
[Gardner, H. 1997].
Mô hình ba
giai đoạn phát triển nhận thức tiền sử của Merlin Donald đã được các nhà khảo
cổ học khai thác và ứng dụng vào lý giải sự phát triển của các loại hình tư duy
tiền sử. Trong số đó nổi tiếng nhất là công trình của giáo sư khảo cổ học người
Anh Steven Mithen [Mithen, Steven J. 1996]. Trong cuốn sách của ông, tương ứng
với giai đoạn I của Donald là quá trình phát triển từ loại hình Australopithecus
thành Homo habilis. Bước phát triển đó diễn ra từ 4.500.000 năm đến
1.800.000 năm cách ngày nay. Tương ứng với giai đoạn II của Donald là sự xuất
hiện của Homo erectus từ đầu Pleistocene, cách đây 1.800.000 năm đến
100.000 năm trước. Trong giai đoạn này, não của Homo erectus lớn hơn và
Những người đi thẳng ấy đã chế tác được những chiếc rìu tay đầu tiên vào khoảng
1.400.000 năm trước. Tương ứng với giai đoạn III của Donald là sự ra đời của
Người khôn ngoan Homo sapiens sapiens – loại hình người hiện đại - cách
ngày nay vào khoảng 100.000 năm. Theo các cách phân kỳ tiền sử như trên thì
người Núi Đọ, Thẩm Khuyên, Thẩm Hai, Xuân Lộc...vv, thuộc trung kỳ của giai
đoạn đoạn II. Đó là người Homo erectus ở giai đoạn phát triển cao. Họ
không còn đơn giản là những bầy người nguyên thuỷ nữa, mà đã là các cộng đồng
có tổ chức chặt chẽ, được phân chia địa vực rõ ràng. Di chỉ xưởng Núi Đọ có thể
là một bằng chứng cho sự phát triển đó. Đây có thể là một trung tâm cung cấp
nguyên liệu và các dạng phác vật công cụ đá ba dan cho một vùng rộng lớn thuộc
Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ ngày nay. Nhóm di tích Núi Đọ cũng có thể gợi ý cho
chúng ta về một mô hình tương tự tại khu vực Xuân Phú (huyện Ea Kar, Đak Lak)
nếu các nghiên cứu tiếp theo có thể làm rõ được niên đại địa tầng, nguồn nguyên
liệu đá opal và các công cụ đá thô sơ ở đó. Nếu đúng như vậy thì đây có thể là
nơi cung cấp nguyên liệu và phác vật công cụ cho cả vùng Tây Nguyên, Nam Trung
Bộ và một phần Đông Nam Bộ ngày nay.
Về phương
diện cấu trúc xã hội, chưa có bất cứ bằng chứng nào cho thấy các Homo
habilis đã xây dựng “những ngôi nhà nhỏ, vừa đủ chỗ cho một đôi vợ chồng và
các con nhỏ” cả. Cách hình dung về một cấu trúc xã hội Homo habilis như
vậy là sự ngoại suy từ cấu trúc của mô hình gia đình hạt nhân hiện đại. Ngay cả
các Homo erectus phát triển như cộng đồng người Núi Đọ cũng không có một
cấu trúc gia đình hạt nhân như vậy. Trong thực tế, cấu trúc gia đình là một
dạng cấu trúc xã hội, vì vậy khái niệm “gia đình hạt nhân” và “gia đình mở
rộng” đều không phản ánh đúng và đầy đủ thực chất đa dạng của cấu trúc gia
đình. Với tư liệu đã biết cho đến bây giờ, chúng ta chỉ có thể suy đoán rằng
trong giai đoạn Homo erectus không có hình thức cấu trúc gia đình hạt
nhân. Các cộng đồng tiền sử sơ kỳ đá cũ có thể đã manh nha một hình thức thị
tộc nào đó, nhưng không chắc chắc chỉ có hình thức gia đình mẫu quyền. Ngay cả
khái niệm chế độ mẫu hệ hay mẫu quyền cũng là một nội hàm đa tạp. Đó không chỉ
đơn giản là quyền của người mẹ, mà theo nữ sử gia Riane Eisler thì quyền lực
thực sự lại nằm trong tay những người đàn ông phụ tá cho những người đàn bà mẫu
quyền [Eisler R. 1987].
Ngày nay các
nhà nghiên cứu có khuynh hướng nhìn nhận cấu trúc xã hội theo quan điểm đa mô
hình, tuỳ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử, môi trường sống và truyền thống của từng
cộng đồng. Chắc chắn rằng các cộng đồng người Thẩm Khuyên, Thẩm Hai, Núi Đọ,
Xuân Lộc và Xuân Phú sống trong những điều kiện môi trường và hoàn cảnh khác
nhau. Vì vậy cấu trúc xã hội của họ cũng không hoàn toàn đồng nhất. Người Thẩm
Hai, Thẩm Khuyên sống trong các hang động và mái đá thuộc sơn khối đá vôi Bắc
Sơn có thể là những nhóm nhỏ từ 15 – 20 người. Trong điều kiện rừng núi và
thung lũng chia cắt khó khăn cho hoạt động kinh tế như vậy, người ta sống chủ
yếu bằng săn bắt thú rừng lớn. Vì vậy quyền điều hành xã hội ấy có thể thuộc về
những người đàn ông. Trong khi đó Núi Đọ là một di chỉ xưởng, việc khai thác và
chế tác đá có thể tạo ra cho họ một cuộc sống ổn định hơn thông qua giao lưu,
trao đổi thì vai trò của người phụ nữ là rất lớn. Vì vậy cộng đồng xã hội ở đây
có thể là những nhóm khoảng 30 – 35 người và đang ở giai đoạn manh nha một hình
thức thị tộc nguyên khởi. Còn những cộng đồng người Xuân Phú thì lại có thể di
động kiếm sống theo mùa trên khắp vùng Tây Nguyên rộng lớn với loại hình xã hội
mẫu quyền sơ khai có khoảng 45 - 50 người, nhằm duy trì sợi dây cố kết cộng
đồng.
Hậu kỳ thời đại đá cũ Việt Nam
Lịch sử tiến
hoá liên tục từ Người vượn đến người Người Khôn ngoan (Homo sapiens)
giai đoạn sớm, và sau đó là Người Khôn ngoan giai đoạn muộn tại Việt Nam còn
được phát hiện ở các địa điểm Hang Thẩm ồm (Nghệ An) và Hang Hùm (Yên Bái).
Những người khai quật Thẩm ồm định niên đại cho các hoá thạch phát hiện ở đây
là từ 140.000 đến 250.000 năm cách ngày nay. Niên đại 250.000 năm được xác định
dựa vào sự có mặt của một chiếc răng cửa được cho là của vượn khổng lồ (Gigantopithecus)
[Vũ Thế Long, Lê Trung Khá, và Hoàng Văn Dư 1977]. Nhưng thực ra chiếc răng cửa
ấy lại là của Pongo chứ không phải
của vượn khổng lồ [Vũ Thế Long 1982]. Hơn nữa quần động vật Thẩm ồm không khác
nhiều so với so với Hang Hùm nên niên đại của nó có thể vào khoảng cuối Trung
kỳ hoặc Hậu kỳ Cánh tân. Niên đại hoá thạch Hang Hùm được xác định vào
khoảng 70.000 – 60.000 năm cách ngày nay [Nguyễn Lân Cường 1988]. Các hoá thạch
Người Khôn ngoan giai đoạn muộn tìm thấy ở hang Thung Lang (Ninh Bình) và hang
Kéo Lèng (Lạng Sơn), có niên đại vào khoảng 30.000 năm cách ngày nay [Nguyễn
Lân Cường 1992]. Giai đoạn này Việt Nam và khu vực trở nên lạnh dữ dội. Đó
chính là nguyên nhân dẫn đến những thay đổi to lớn về môi trường sinh thái. Một
số loài bị tuyệt diệt, và con người cũng phải thay đổi đáng kể phương thức sống
của mình [Hà Văn Tấn 1984].
Hệ thống văn
hoá Ngườm: hệ thống
này bao gồm các hang động hầu hết phân bố ở phía tây nam của Sơn khối đá vôi
Bắc Sơn, nằm trong địa phận tỉnh Thái Nguyên và một phần tỉnh Lạng Sơn. Đó là
các hang Miệng Hổ, Nà Khù và Mái đá Ngườm (Thái Nguyên). Nằm trong hệ thống này
còn có thể kể đến các hang Nà Cooc, Nà Nông (Cao Bằng), Lạng Nắc, lớp dưới Hang
Dơi (Lạng Sơn)...vv. Hệ thống văn hoá này được phát hiện và khai quật lần đầu
vào năm 1972 tại hang Miệng Hổ, còn gọi là hang Phiêng Tung. Hang Nà Khù, xã
Thần Sa, Võ Nhai, Thái Nguyên cũng được thám sát trong đợt này. Đặc biệt là năm
1980, các nhà nghiên cứu Việt Nam đã phát hiện thêm được khoảng 10 địa điểm
khác xung quanh khu vực hang Miệng Hổ, trong đó quan trọng nhất là Mái Đá
Ngườm. Địa điểm khảo cổ học này đã được khai quật ngay sau đó vào các năm 1981,
1982.
Địa tầng di
chỉ Ngườm có ba mức văn hoá phát triển liên tục từ sớm đến muộn. Mức I, sớm
nhất nằm ở độ sâu từ 1.10 đến 1.45 m, cấu tạo bằng lớp sét vôi vàng nhạt, có
các xương động vật bán hoá thạch của đười ươi (Pongo), lợn (Sus
Scrofa), nai (Rusa sp.), nhím (Hystrix sp.). Căn cứ vào sự có
mặt của Pongo và phổ bào tử phấn hoa ở đây các nhà khoa học cho rằng mức này có
niên đại Pleistocene muộn. Mẫu phân tích niên đại C14 lấy ở trên lớp dăm đá vôi
giáp với lớp đáy mức II có tuổi là 23.000 ± 200 và 23.100 ± 300 năm cách ngày nay. Mức II ở độ sâu 0.60 đến 1.10
m, cấu tạo từ lớp sét vôi màu xám nhạt, có chứa xương răng động vật chớm hoá
thạch của Pongo, bò (Bos sp.), lửng lợn (Arctonyx collaris),
khỉ (Macaca sp.) và nhiều vỏ ốc núi (Cyclophorus). Mức III, trên
cùng dày trung bình 0.60m, đất sét vôi tơi xốp, màu xám xẫm, có chứa nhiều vỏ
ốc suối, một số xương răng động vật. Trong mức này còn phát hiện được hai mộ
với ba cá thể người chôn nằm nghiêng. Mẫu niên đại C14 lấy ở độ sâu 0.60 m có
tuổi là 19.040 ± 40 và 18.000 ± 200 năm cách ngày nay. Sau hai lần khai quật Mái Đá Ngườm 1981- 1982, đã
thu được 618 công cụ hạch cuội, 302 công cụ mảnh lớn, 10146 công cụ mảnh tước,
13.494 mảnh tước, và 75 hạch đá [Hà Văn Tấn (chủ biên) 1998]. Dựa vào đặc trưng
công cụ mảnh tước của sưu tập Mái đá Ngườm, đã có đề xuất về một kỹ nghệ riêng,
Kỹ nghệ Ngườm [Hà Văn Tấn 1986]. Tuy nhiên gần đây, có ý kiến cho rằng khái
niệm kỹ nghệ của phương Tây thuần tuý mang tính kỹ trị và vắng bóng lịch sử của
con người, vì vậy nên gọi nhóm di tích Ngườm là một Hệ thống văn hoá. Sở dĩ nó
được gọi là một hệ thống văn hoá, vì quá trình cư trú của con người tiền sử nơi
đây khá liên tục, từ hậu kỳ đá cũ đến giai đoạn Hoà Bình, Bắc Sơn sớm [Hà Hữu
Nga 2004]. Cái gọi là “kỹ nghệ Ngườm” chỉ thích hợp cho tập hợp công cụ mảnh
tước. Trong khi đó người tiền sử Ngườm là các cư dân săn bắt, hái lượm và chế
tác công cụ đá, tuy chưa biết đến nông nghiệp nhưng vẫn có một quá trình lịch
sử của mình.
Do thời kỳ
băng hà Wurm kéo dài trong khoảng thời gian 60.000 năm (từ 70.000 năm đến
10.000 năm cách ngày nay) nên điều kiện môi trường thay đổi từ nóng sang lạnh
dữ dội. Việt Nam và Đông Nam á nằm trong vùng nhiệt đới thì chí ít cũng phải
chịu ảnh hưởng của băng hà Wurm trong khoảng 50.000 năm (từ 70.000 năm đến
20.000 năm cách ngày nay). Đây là thời kỳ thiếu năng lượng mặt trời, ít mưa nên
rất hiếm các nguồn nước lưu chuyển (hệ thống sông suối); các hệ thống sinh thái
có thể bị tiêu diệt hoặc trở nên nghèo nàn, đơn điệu. Trong điều kiện ấy những
nhóm người có nguồn gốc khác nhau buộc phải co rút lại trong các “ốc đảo” sinh
thái còn sót lại giống như Mái đá Ngườm để tìm nơi tránh rét, tìm đồ ăn, nước
uống và các nguồn khác. Điều đó có thể gây nên tình trạng quá tải về dân số tại
một số địa điểm thuận lợi. Sức ép dân số càng làm tăng thêm nguy cơ khan hiếm
các nguồn. Thực tế đó đòi hỏi con người phải có những hành vi thích ứng với một
môi trường khan hiếm các đầu vào, trong đó có các đầu vào nguyên liệu dùng để
chế tác công cụ đá.
Tình trạng
ấy đã buộc các cư dân tiền sử phải tìm kiếm các giải pháp thay thế, chẳng hạn
như: 1) Khai thác các mỏ đá gốc; 2) Đi thật xa để tìm nguồn nguyên liệu; 3)
Tăng cường trao đổi với các cộng đồng khác; 4) Tiết kiệm, tận dụng nguyên liệu
phế thải; 5) Cải tiến kỹ thuật chế tác; 6) Hạn chế sử dụng nguồn chính, tăng
cường các nguồn thay thế, bổ sung; 7) Tái chế các sản phẩm cũ, hỏng. Các giải
pháp trên có thể được coi là các biến số khắc phục tình trạng khan hiếm nguyên
liệu chế tác công cụ trong hệ thống văn hoá Ngườm, để rồi tạo nên một truyền
thống mới trong toàn bộ hệ thống sinh thái sơn khối đá vôi Bắc Sơn. Như vậy, từ
góc độ sinh thái, việc xác lập một truyền thống nào đó không nhất thiết chỉ
được quyết định bởi các nguồn thông tin lịch sử, mà nó còn là một giải pháp
tình huống nữa. Vào thời kỳ lạnh nhất mật độ cư dân nơi đây chắc chắn là rất
lớn, riêng mái đá Ngườm cũng có thể lên đến trên dưới 100 người. Di tích thức
ăn để lại trong tầng văn hoá chứng tỏ người tiền sử nơi đây đã có sự phân công
lao động theo giới tính và lứa tuổi. Đàn ông khoẻ mạnh thì chế tác công cụ và
săn bắt động vật hoang dã, phụ nữ thì thu lượm ốc núi, ốc suối và các loại rau,
củ, quả. Cư dân Ngườm giai đoạn muộn cũng có thể chưa biết đến kỹ thuật mài đá.
Hệ thống văn
hoá Sơn Vi: Cho đến
nay tối thiểu đã có khoảng 200 địa điểm văn hoá Sơn Vi được phát hiện trên hầu
khắc các vùng thuộc Bắc Trung Bộ và Bắc Bộ Việt Nam, dọc theo các hệ thống sông
Hồng, sông Thao, sông Lô, sông Gâm, sông Đà, sông Cầu, sông Thương, sông Kỳ
Cùng ở Bắc Bộ; sông Mã, sông Chu ở Thanh Hoá, sông Lam, sông La ở Nghệ An và Hà
Tĩnh, sông Thạch Hãn ở Quảng Trị...vv. Thậm chí loại hình công cụ đá văn hoá
Sơn Vi còn thấy cả ở trên bề mặt laterite của di chỉ khảo cổ học thuộc thời đại
kim khí Lung Leng (Sa Thầy, Kon Tum). Như vậy Sơn Vi không đơn giản là một văn
hoá thuần nhất, mà nó là một phức hợp hệ thống văn hoá trải trên rất nhiều khu
vực địa lý khác nhau trên đất nước ta. Về mặt môi trường sinh thái, có thể nói
rằng nếu hệ thống văn hoá Ngườm là một quá trình co rút của người tiền sử vào
các ốc ảo sinh thái vì lạnh và hiếm nước thì tiếp theo nó, hệ thống văn hoá Sơn
Vi là một quá trình ngược lại. Cuối thời kỳ băng hà Wurm, khí hậu trái đất ấm
dần lên, đặc biệt tại khu vực nhiệt đới như đất nước chúng ta, ảnh hưởng của
băng hà có thể giảm đi đáng kể ngay từ khoảng 20.000 năm đến 15.000 năm trước.
Lượng mưa tăng dần làm cho các hệ thống dòng chảy cổ lan tràn trên khắp mọi
miền đất nước ta. Cùng với hiện tượng đó là một quá trình phát triển phong phú
của các dải môi trường dọc theo các dòng sông suối. Ban đầu dọc theo các dòng
chảy là những dải đồng cỏ mênh mông thụân lợi cho các loài thú ăn cỏ và ăn
thịt. Sau đó là sự sinh sôi nảy nở của các khu rừng nhiệt đới. Các dòng sông
suối cũng tạo ra nguồn nguyên liệu cuội vô tận cho người tiền sử khai thác để
chế tác công cụ.
Khi thời kỳ
mưa bắt đầu, các cộng đồng cư dân thuộc hệ thống văn hoá Sơn Vi đầu tiên có thể
là những người rời khỏi các khu vực tập trung dân số cao trong thời kỳ khô lạnh
như Ngườm chẳng hạn. Họ kiếm sống phân tán dọc hai bờ các con sông suối lúc này
đã bắt đầu có nước bằng lối sống săn bắt và thu lượm di động. Bằng chứng cho
lối sống này chính là những di chỉ Sơn Vi phân bố tương đối dày đặc hai bên bờ
sông Thao từ Phú Thọ lên đến Lào Cai; từ Lập Thạch (Vĩnh Phúc) dọc sông Lô lên
đến Hà Giang. Tại địa điểm Đồi Thông thuộc thị xã Hà Giang đã phát hiện được
hàng nghìn công cụ cuội Sơn Vi. Ngoài ra trong địa tầng sâu hơn 3 m cũng tìm
được các công cụ cuội có thể cổ hơn Sơn Vi nhiều. Giống như ở di chỉ Lung Leng
Kon Tum, tại di chỉ Làng Vạc (Nghệ An) công cụ Sơn Vi cũng được phát hiện trên
bề mặt lớp laterite. Người Sơn Vi sử dụng nguồn nguyên liệu là các hòn đá cuội
quartz và quartzite có kích thước vừa phải, thuận tiện cho công việc ghè đẽo và
sử dụng trong quá trình lao động. Bộ công cụ của họ là các mũi nhọn dùng để
chặt cây, đào bới đất, xẻ thịt thú; công cụ một rìa cạnh, công cụ 1/4 viên cuội
dùng để cắt, thái; các mảnh tước có cạnh sắc có thể sử dụng như một con dao
nhỏ. Ngoài ra chắc chắn người Sơn Vi đã biết sử dụng những đoạn gỗ và tre nứa
làm công cụ, vũ khí, làm cung tên và làm bẫy bắt thú...vv.
Bên cạnh đó
cũng có những cộng đồng Sơn Vi sống định cư trong một số hang động, hoặc sử
dụng hang động như một nơi cư trú chính và họ kiếm sống di động theo mùa rồi
lại trở về hang động. Điển hình cho phương thức sống này là các di chỉ Sơn Vi ở
hang Nậm Tun (Phong Thổ, Lai Châu), hang Thẩm Khương và hang Bản Phố. Các di
chỉ này có niên đại khá sớm. Niên đại C14 lớp dưới của hang Thẩm Khương là
23.130 ± 200 và
33.150 ± 250 năm
cách ngày nay. Dấu tích Sơn Vi hang động còn được phát hiện ngay trong khu vực
văn hoá Hoà Bình. Đó là các hang Con Moong, Mái đá Điều, Mái đá Nước (Thanh
Hoá); hang Ông Quyền thuộc huyện Mai Châu, tỉnh Hoà Bình. Tại các địa điểm này,
các công cụ điển hình cho văn hoá Sơn Vi đều phân bố ở lớp dưới. Trong lớp này
ít có ốc suối, mà chủ yếu là ốc núi và xương thú. Lớp Hoà Bình bên trên gồm có
các công cụ Sumatralith (loại hình công cụ cuội văn hoá Hoà Bình điển hình lần
đầu tiên được phát hiện ở đảo Sumatra Indonesia) và ốc suối. Đặc biệt tại hang
Con Moong thuộc huyện Cẩm Thuỷ, tỉnh Thanh Hoá, tầng văn hoá Sơn Vi có niên đại
C14 khá muộn, là 11.755 ± 75 năm và 11.840 ± 75 năm cách ngày nay. Niên đại C14 trong tầng Sơn Vi hang Pông (Mộc Châu,
tỉnh Sơn La) là 11.915 ± 120 năm và 11.330 ± 180 năm cách ngày nay. Đây có thể là thời điểm kết thúc của văn hoá Sơn
Vi. Còn thời điểm mở đầu của hệ thống văn hoá này chưa được xác định rõ ràng,
nhưng niên đại C14 hang Ông Quyền 18.390 ± 120 năm cách ngày nay là một gợi ý tin cậy.
Chủ nhân của
hệ thống văn hoá Sơn Vi đã được xác định thông qua một số di cốt người tìm được
ở hang Con Moong. Thành phần chủng tộc của người Con Moong là Australo-Negroid
(Chủng đen Phương Nam) còn cốt sọ Sơn Vi ở Mái đá Nước và Mái đá Điều là Australoid
[Nguyễn Lân Cường 1977]. Trong khi đó, các cốt sọ Hoà Bình chủ yếu lại là dạng
chuyển tiếp từ Australo-Mongoloid sang Vedoid và Indonesian [Nguyễn
Đình Khoa 1986].
Căn cứ vào
sự xác định thành phần chủng tộc của người Sơn Vi như trên, chúng ta biết chắc
rằng chủ nhân văn hoá Sơn Vi là những người bản địa. Họ phân bố trên một địa
bàn rộng lớn thuộc vùng Đông Nam Á và một phần các đảo thuộc châu Đại Dương.
Lịch sử phát triển của các cư dân này chính là quá trình hoà huyết qua giao
lưu, trao đổi hoặc hôn nhân với các chủng tộc láng giềng là các cư dân Nam á và
Đông Bắc Á. Cho đến nay vẫn chưa có những bằng chứng chắc chắn để xác định cấu
trúc xã hội của các nhóm cư dân Sơn Vi. Tuy nhiên trong một số hang động như
Con Moong, Nậm Tun, Thẩm Khương, và Mái đá Điều đã tìm thấy dấu vết bếp lửa.
Các nhà nghiên cứu đã so sánh chúng với các dấu tích bếp lửa thuộc văn hoá Hoà
Bình giai đoạn sau và thấy rằng “bếp Sơn Vi có số lượng ít hơn, nhưng kích
thước lớn hơn và nằm ở trung tâm hang hơn. Điều này có thể liên quan phần nào
tới cơ cấu tổ chức bộ lạc” [Hà Văn Tấn (chủ biên) 1998, 93].
Với một bằng
chứng gián tiếp như vậy, có lẽ còn quá sớm để suy luận về một cơ cấu tổ chức bộ
lạc người Sơn Vi. Tuy nhiên trong qui mô của một hang động không lớn như các
hang vừa kể thì chúng ta có thể hình dung một cơ cấu nhỏ hơn bộ lạc, đó là cơ
cấu nhóm cho xã hội Sơn Vi hang động này, theo mô hình do các nhà nhân học tiến
hoá Mỹ Sahlins và Service đề xuất [Sahlins. M.D., and E. R. Service, eds.
1960]. Đó là mô hình tiến hoá từ nhóm - bộ lạc – thủ lĩnh địa – nhà nước được
các nhà nghiên cứu sử dụng phổ biến vì mỗi khái niệm đều được định nghĩa rất rõ
ràng. Trong đó mỗi cơ cấu tổ chức xã hội được xác định dựa trên các tiêu chuẩn
có liên quan, bao gồm qui mô dân số, mức độ phức tạp trong tổ chức xã hội và
các phương thức kiếm sống. Theo mô hình này, nhóm là một xã hội nhỏ, bình quân
chủ nghĩa, thoả mãn nhu cầu sống bằng các hoạt động săn bắn và hái lượm. Mỗi
nhóm có một lãnh thổ riêng nhưng họ không sống định cư mà bằng phương thức di
động kiếm sống theo mùa phù hợp với nguồn thức ăn và nước uống có thể kiếm
được. Về phương diện tổ chức, mỗi nhóm là một nhóm gia đình duy nhất. Chẳng hạn
như nhóm đó có những người đàn ông cùng dòng máu cùng những người vợ của họ lấy
về từ các nhóm khác và những đứa con của họ. Nhóm không có hình thức tổ chức
chính trị, cũng không có chuyên môn hoá về kinh tế, không có một phân cấp xã
hội nào khác ngoài phân cấp dựa trên giới tính và lớp tuổi. Qui mô dân số từ khoảng 25 – 100 người [Sharer, Robert J. and Wendy Ashmore
1992].
Trong khi đó
bộ lạc cũng là một cơ cấu xã hội bình quân chủ nghĩa, nhưng có qui mô dân số
lớn hơn, họ có nhiều chiến lược kiếm sống hơn, vì vậy có thể duy trì được các
làng định cư bền vững. Các phương thức kiếm sống chuyên biệt thường gồm có việc
sản xuất lương thực – làm nông hoặc làm vườn, nhưng vẫn có thể tồn tại phương
thức săn bắt, hái lượm. Hệ thống bộ lạc có các thiết chế xã hội chằng chéo, dựa
trên các mối quan hệ họ hàng, liên kết các thành viên xã hội với nhau. Trong đó
có cả các hội kín, các nhóm đồng tuế, các nhóm chức nghiệp chẳng hạn như chiến
binh hoặc các tổ chức tôn giáo. Không có những vị trí lãnh đạo hoặc quyền lực
bền vững, mặc dù một số cá nhân có thể có vai trò thủ lĩnh lâm thời trong những
tình thế khẩn cấp như các thủ lĩnh của các bên tham chiến chẳng hạn. Hệ thống
bộ lạc có qui mô dân số từ 500 đến vài nghìn người. Cũng có những tình huống
bất thường, các bộ lạc “cô đặc” có qui mô dân số đến 10.000 người [Sharer,
Robert J. and Wendy Ashmore 1992, 561-562].
Như vậy
chúng ta có thể hình dung về cơ bản xã hội Sơn Vi được cấu trúc chủ yếu trên cơ
sở nhóm. Có thể có những nhóm mở rộng, bao gồm cả những nhóm họ hàng khác nhau;
cũng có thể có những nhóm “cô đặc” trong các tình huống bất thường như thiên
tai, xung đột giữa các nhóm, hoặc thậm chí họ có thể tập trung khai thác một
vài loại sản vật nào đó, theo mùa, ở một khu vực nhất định, để rồi sau đó họ
lại phân tán thành những nhóm nhỏ, kiếm sống di động. Tuy nhiên cũng không loại
trừ khả năng người Sơn Vi giai đoạn muộn, sống tại khu vực thềm sông Hồng thuộc
huyện Lâm Thao (Phú Thọ) đã có cấu trúc xã hội theo tổ chức bộ lạc manh nha,
trên cơ sở một loại hình hoạt động kinh tế phức hợp bao gồm săn bắt, hái lượm,
trao đổi sản vật và khởi đầu một nghề làm vườn sơ khai. Một nghề làm vườn thực
sự và có thể cùng với nó là một nền nông nghiệp sơ khai chỉ có thể xuất hiện từ
giai đoạn văn hoá Hoà Bình.
(Còn nữa….)
Tài liệu Tham khảo
Aung-Thwin, Michael 1985. Pagan: the Origins of Modern Burma.
Honolulu: University of Hawaii Press., p. 87.
Bellwood P. 1997. Prehistory of the Indo-Malaysian Archipelago.
2nd Edition. Honolulu: University of Hawaii Press.
Bentley, G. Carter 1986. Indigenous States of Southeast Asia.
Annual Review of Anthropology 15: 275 – 305.
Bowler, Sandra 2001. Nguồn
gốc Châu á Khảo cổ học và Nhân học, trong Bức khảm văn hoá Châu Á - Tiếp
cận Nhân học (Grant Evans chủ biên), bản tiếng Việt, do Cao Xuân Phổ dịch,
Nhà xuất bản Văn hoá Dân tộc, Hà Nội 2001. Trang 51.
Bùi Vinh 1993. Khai quật di
chỉ Làng Còng (Thanh Hoá) – 1992. Trong Những phát hiện mới về Khảo cổ
học năm 1992, Hà Nội, trang 50 -51.
Bùi Vinh
2003. Cư dân văn hoá Đa Bút trong các đợt biển tiến (Nhận thức qua tư liệu
Địa - Khảo cổ học ở Làng Còng và Hang Sáo). Tạp chí Khảo cổ học, số
2 (122) (III-IV), trang 3-15.
Chử Văn Tần
1976. Tìm hiểu quá khứ xa xưa của Tây Bắc.
Khảo cổ học, số 18-1976, trang 40-53.
Ciochon R.L, 1988. Gigantopithecus
the King of all apes. Animal Kingdom, Vol. 91, No. 2, 1988.
Colani, M. 1928. Notice sur la préhistoire du Tonkin, BSGI, vol.
XVIIIV, 1, pp. 71-72.
Diệp Đình Hoa 1978: Về những hiện vật kim loại ở buổi đầu thời đại đồ đồng thau Việt Nam,
Tạp chí Khảo cổ học số 2, trang
11-20.
Donald, M. 1991. Origins of
the Modern Mind: Three Stages in the Evolution of Culture and Cognition.
Cambridge, MA: Harvard University Press.
Đào Qúi Cảnh 2004. Vấn đề
nông nghiệp trong văn hoá Hoà Bình ở Việt Nam. Trong Một thế kỷ Khảo cổ
học Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội. Trang 64.
Đào Thế Tuấn 1988.
trang 44. Về những hạt gạo cháy phát hiện ở Đồng Đậu (Vĩnh Phú) năm 1984. Tạp
chí Khảo cổ học, số 4, trang 44-46.
Earle, Timothy, ed. 1991. Chiefdom: Power, Economy and Ideology.
New York: Cambridge University Press.
Eblen, Ruth A. and William R.
Eblen, Editors 1994. The Encyclopedia of the Environment. The René Dubos
Center for Human Environments. Huston Mifflin Company, Boston New York 1994. p.
4.
Eisler R. 1987. The Chalice
and The Blade: Our History, Our Future. New York, Harper & Row, 1987.
Gardner, H. 1997. Thinking
about thinking. New York Review of Books. 9-10-1997.
Gorman C.E. 1970. Excavations
at Spirit Cave, North Thailand: some interim interpretations. Asian
Perspectives 13: 79-107.
Gorman C.E. 1971. The
Hoabinhian and after: subsistence patterns in Southeast Asia during the late Pleistocene
and early Recent periods. World Archaeology 2 (3): 300 – 320.
Grenier, Louise 1998. Working
with Indigenous Knowledge, a Guide for Researchers. International
Development Research Centre, Ottawa, Canada. pp. 1-9.
Hà Hữu Nga 1982. Thời đại đá mới Việt Nam: Môi trường – Văn
hóa và một mô hình tổng quát. Trong Những
phát hiện mới về khảo cổ học năm 1982. Hà Nội.
Hà Hữu Nga, Nguyễn Cường, và
Bùi Vinh 1996. Báo cáo Khai quật di chỉ Mai Pha (Lạng Sơn). Tư liệu Viện
Khảo cổ học.
Hà Hữu Nga 1998. Có một nền
văn hoá Soi Nhụ tại khu vực vịnh Hạ Long. Kỷ yếu Những phát hiện mới về
khảo cổ học năm 1997. Hà Nội 1998, trang 91.
Hà Hữu Nga, Nguyễn Văn Hảo
1999. Hạ Long thời tiền sử. Nhà xuất bản Thế giới, Hà Nội 1999.
Hà Hữu Nga
2000. Soi Nhụ – Nền văn hoá cổ nhất hiện biết trên vịnh Hạ Long.
Hội thảo Vịnh Hạ Long 5 năm di sản Thế giới, do UBND Tỉnh Quảng Ninh – Bộ Văn
hoá Thông tin và Uỷ ban UNESCO Việt Nam tổ chức, Hạ Long 4-2000, trang 72-80.
Hà Hữu Nga
2004. Khảo cổ học Đông Bắc Việt Nam từ những hệ thống sinh thái nhân văn tới
các cấu trúc xã hội tiền nhà nước. Trong Một thế kỷ Khảo cổ học Việt Nam,
Tập I, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, năm 2004. Trang 117-139.
Hà Văn Tấn
1962. Về vấn đề người Indonesian và loại hình Indonesian trong thời đại
nguyên thuỷ Việt Nam. Thông báo Khoa học Đại học Tổng hợp, Sử học I, trang
168 – 202.
Hà Văn Tấn
1976. Nguồn gốc văn hóa Phùng Nguyên và
vấn đề Tiền Việt Mường (một giả thiết công tác mới).
Hà Văn Tấn
1982. Từ Bàu Tró đến Sa Huỳnh. Trong Những
phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1980, Hà Nội, trang 142-144.
Hà Văn Tấn
1984. Lớp dăm đá vôi ở Ngườm với khí hậu cuối Pleistocene ở Đông Nam á.
Kỷ yếu Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1984, trang 18-20.
Hà Văn Tấn
1986. Kỹ nghệ Ngườm trong một phối cảnh rộng hơn. Tạp chí Khảo cổ học,
số 3, 1986, trang 3-10.
Hà Văn Tấn
(chủ biên) 1998. Khảo cổ học Việt Nam. Tập I. Thời
đại đá Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội. Trang 76.
Hà Văn Tấn
(chủ biên) 1999. Khảo cổ học
Việt Nam. Tập II. Thời đại kim khí Việt Nam.
Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội.
Hà Văn Tấn, Nguyễn Xuân
Mạnh,...1985. Khai quật lần thứ hai di
chỉ Thành Dền (Hà Nội), trong Những
phát hiện mới về khảo cổ học năm 1984, trang 95.
Hà Văn Tấn
(chủ biên) 1998. Khảo cổ học Việt Nam. Tập I. Thời
đại đá Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội. Trang 60 – 63.
Hà Văn Tấn,
Bùi Vinh và Võ Qúi 1990. Những dấu hiệu về một nền văn hoá khảo cổ mới ở Hà
Tuyên. Tạp chí Khảo cổ học, số 1-2-1990. trang 34-38.
Hall, Keneth R. 1985. Maritime Trade and State Development in
Early Southeast Asia. Honolulu: University of Hawaii Press.
Higham, Charles F. W. 1989. The later Prehistory of Mainland Southeast
Asia. Journal of World Prehistory 3: 235 – 282.
Hoàng Xuân Chinh và Nguyễn Văn
Bình 1978. Điều tra khảo cổ học thời đại đá cũ ở Đồng Nai và Sông Bé. Kỷ
yếu Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1978.
Hodder, Ian 1991. Reading
the Past – Current Approaches to Interpretations in Archaeology. Second
Edition. Cambridge University Press. pp. 121-149.
Lê Văn Thuế, Vũ Thế Long 1976.
Nghiên cứu di tích xương răng động vật ở
di chỉ Hoa Lộc (Thanh Hóa). Trong Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm
1976, Hà Nội, trang 145.
Lê Văn Thuế – Vũ Thế Long
1986. Di cốt động vật ở Hang Dơi (Lạng Sơn). Trong Những phát hiện
mới về Khảo cổ học năm 1985, Hà Nội 1986, trang 49.
Lê Xuân Diệm
– Phạm Quang Sơn – Bùi Chí Hoàng 1991. Khảo
cổ học Đồng Nai thời Tiền sử. Nhà xuất bản Đồng Nai.
Lưu Tỳ,
Nguyễn Thế Tiệp, Nguyễn Tứ Dần ... 1985. Đặc
điểm địa mạo thềm lục địa Việt Nam và các vùng lân cận, Tạp chí Khảo cổ học, số 2-1985, trang 16 – 18.
Mansuy H. 1924. Stations préhistoriques dans les
carvenes du massif calcaire de Bacson (Tonkin). MSGI. Vol. 11,No. 2.
Mansuy H. 1925. Stations préhistoriques de Keo
Phay (suit) de Khac Kiem (suit) de Lai Ta (suit) et Bang Mac dans le massif
calcaire de Bac Son (Tonkin). MSGI. Vol. 12, No. 2.
Mansuy H. et M. Colani 1925. Néolithique
inferieur (Bacsonien) et néolithique superieur dans les Haut Tonkin. MSGI.
12, f.3.
Mansuy, H. 1925. Nouvelles de cauvertes dans les
carvens du massif calcaire de Bac Sơn (Tonkin). MSGI. Vol.
12, N0 1, p. 34.
Mithen, Steven J. 1996. The
Prehistory of the Mind: The Cognitive Origins of Art, Religion and Science.
Cambridge: Cambridge University Press.
Nguyễn Cường 2002. Văn Hoá
Mai Pha. Sở Văn hoá Thông tin Lạng Sơn, trang 90.
Nguyễn Duy
và Nguyễn Quang Quyền 1966. Nghiên cứu về hai sọ cổ ở Quỳnh Văn – Nghệ An.
Trong Một số báo cáo về Khảo cổ học Việt Nam. Hà Nội, trang 351-366.
Nguyễn Duy
Tỳ, Đào Linh Côn 1985. Kỹ thuật luyện kim
đồng thau ở địa điểm Dốc Chùa. Tạp chí Khảo cổ học, số 3, trang 24-30.
Nguyễn Đình
Khoa 1986. Con người thuộc văn hoá Hoà Bình. Tạp chí Khảo cổ học số 1-1986.
Nguyễn Khắc
Sử 1983. Sự phát triển kinh tế và tổ chức xã hội của cư dân cổ Cúc Phương,
Tạp chí Khảo cổ học, số 1 - 1983, trang 20.
Nguyễn Khắc
Sử 1995. Văn hóa Biển Hồ ở Tây Nguyên. Tạp chí Khảo cổ học, số 3- 1995, trang 7
– 16.
Nguyễn Khắc
Sử và cộng sự 1998. Báo cáo điều tra khảo
cổ học vùng ngập nước tỉnh Lai Châu (chủ biên). Tư liệu Viện Khảo cổ học.
Nguyễn Kim
Thuỷ 2004. Cư dân Đa Bút qua tài liệu Sinh khảo cổ. Tạp chí Khảo cổ học, số 1 (127) (I-II), trang 15-23.
Nguyễn Lân
Cường 1977. Di cốt người cổ ở hang Con
Moong. Kỷ yếu Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1976. Hà Nội 1977.
Trang 112
Nguyễn Lân
Cường 1988a. Trở lại vấn đề niên đại của hoá thạch người ở Việt Nam. Tạp
chí Khảo cổ học số 1-2, 1988, trang 4-11.
Nguyễn Lân
Cường 1988b. Di cốt người cổ trên đất Lạng Sơn. Tuyển tập luận văn Hội
nghị khoa học Xứ Lạng, Lạng Sơn 1988, trang 39.
Nguyễn Lân
Cường 1992. Những hoá thạch người cổ ở Việt Nam và Đông Nam á trong thời kỳ
Pleistocene. Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam á, số 1, trang 5-12.
Nguyễn Lân
Cường 1996. Đặc điểm nhân chủng cư dân văn hoá Đông Sơn
ở Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà
Nội 1996.
Nguyễn Thị
Kim Dung 1986. Báo cáo khai quật công
xưởng Tràng Kênh lần thứ hai. Tư liệu Viện Khảo cổ học.
Nguyễn Thị
Kim Dung, Đặng Văn Thắng...1995. Đồ trang sức trong mọ chum ở Cần Giờ. Trong Khảo cổ học, số 2, trang 27-45.
Nguyễn Trung Chiến 2003. Mối
quan hệ và liên hệ ở bình tuyến đá mới hậu Hoà Bình – Bắc Sơn ven biển Đa Bút –
Quỳnh Văn – Cái Bèo – Bàu Dũ. Tạp chí Khảo cổ học, số 4 (124) (VII-VIII),
2003, trang 11 - 12.
Nguyễn Trường Kỳ 1983. Bước đầu tìm hiểu nghề thủy tinh ở nước ta.
Tạp chí Khảo cổ học, số 1, trang 47-54.
Nguyễn Văn Long và Lê Trung
Khá 1977. Về những hiện vật đá cũ mới tìm được ở Vườn Dũ (Sông Bé) và Gia
Tân (Đồng Nai). Tạp chí Khảo cổ học, số 4-1977.
Patte E. 1932. Le Kjokkenmodding néolithique de
Dabut et ses sépultures (province de Thanh Hoa, Indochine). BSGI, Vol. XIX,
pt.3, 1932.
Phạm Đức Mạnh 1985. Qua đồng Long Giao. Tạp chí Khảo
cổ học, số 1, trang 37 – 68.
Phạm Quang
Sơn 1978. Bước đầu tìm hiểu sự phong phú
văn hóa hậu kỳ đá mới, sơ kỳ đồng thau ở lưu vực sông Đồng Nai. Tạp chí Khảo cổ học, số 1, trang 35-40.
Phạm Thị
Ninh 1995. Văn hoá Bàu Tró - đặc trưng và loại hình.Luận án Phó tiến sĩ, Khoa
học lịch sử, Hà Nội, trang 9 – 11.
Sahlins. M.D., and E. R.
Service, eds. 1960. Evolution and Culture. Ann Arbor: University of Michigan
Press.
Saurin E. 1939. Les
cranes préhistoriques inédit de Lang Cuom. Far Eastern
Association of Tropical Medicine 10ème Congrès. T. I. Hanoi.
Saurin E. 1956. Outilage
Hoabinhien à Giap Khau, Port Courbet (Nord Vietnam). BEFEO. Vol. XLVIII, No. 2, 1956.
Sharer, Robert J. and Wendy
Ashmore 1992. Archaeology Discovering Our Past. Second Edition. Mayfield
Publishing Company, Mountain View, California. London . Toronto. Pp.
561-562.
Taylor, Keith W. 1992. The early Kingdoms. Pp. 137 - 182 in The Cambridge History of Southeast Asia,
N. Tarling, ed. Cambridge: Cambridge University Press. P. 181.
Tỉnh uỷ, Uỷ ban Nhân dân tỉnh
Quảng Ninh 2001. Địa chí Quảng Ninh. Tập I, Nhà xuất bản Thế giới, Hà
Nội, trang 421.
Trần Quốc
Vượng 1974. Vài suy nghĩ tản mạn về trống
đồng. Trong Khảo cổ học, số 14,
Hà Nội, tr. 71-81.
Trần Quốc
Vượng 1986. Văn hoá Hoà Bình, văn hoá Thung lũng. Tạp chí Khảo cổ học,
số 2-1986, trang 1- 6.
Trần Quốc
Vượng 1993. Mấy nét khái quát lịch sử cổ xưa về cái nhìn về biển của Việt
Nam, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 1, 1993.
Trần Quốc
Vượng 1996. Mấy ý kiến về trống đồng và
Tâm thức Việt cổ. Trong Theo dòng
lịch sử - Những vùng đất, thần và tâm thức người Việt. Nxb. Văn hóa, Hà
Nội, tr 39-65.
Trần Quốc
Vượng 2000. Việt Nam và biển Đông, Tạp chí Văn hoá dân gian, số 3(71),
2000.
Trình Năng
Chung 1991. Kỹ nghệ Ngườm và văn hoá Bắc Sơn, Tạp chí Khảo cổ học, số 2,
trang 16 – 21.
Verneau R. 1909. Les cranes humains du gisement de Pho Binh Gia (Tonkin).
L’Anthropologie. No. 20: 545-549.
Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam 1969. Những hiện
vật tàng trữ tại Viện Bảo tàng Việt Nam về văn hoá Bắc Sơn, Hà Nội, trang
140.
Vũ Quốc
Hiền, Chu Văn Vệ 1996. Công cụ đá và đồ
trang sức bằng vỏ nhuyễn thể ở di chỉ Bích Đầm (Khánh Hòa). Trong Những
phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1976, Hà Nội, trang 90.
Vũ Thế Long,
Lê Trung Khá, và Hoàng Văn Dư 1977. Khai quật Thẩm ồm (Nghệ An) đợt I. Kỷ yếu Những
phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1977, trang 13.
Vũ Thế Long
1982. Về những chiếc răng vượn khổng lồ. Kỷ yếu Những phát hiện mới về Khảo
cổ học năm 1982, trang 67-69.
Vũ Thế Long
1984. Người Hoà Bình và thế giới động vật. Tạp chí Khảo cổ học, số 1-2,
1984. Trang 126.
Vũ Thế Long,
Hà Hữu Nga 2004. Phát hiện công cụ thời đại đá cũ ở Đak Lak. Kỷ yếu Những
phát hiện mới về Khảo cổ học năm 2003. Nhà xuất bản
Khoa học Xã hội.
Wheatley, Paul 1979. Urban genesis in mainland South East Asia.
Pp. 288 – 303 in Early South East Asia:
Essays in Archaeology, History and Historical Geography. R. B. Smith and W.
Watson, eds. New York: Oxford University Press.
Weidenreich, F. 1943 “The
skull of Sinanthropus pekinensis”, Palaeontologica Sinica (n.s. D), Vol.
10, pp. 1 – 298.
Welch, David and Rudith R.
McNeill 1991. Settlement, agriculture and
population changes in the Phi Mai region, Thailand. Pp. 210 – 228 in Indo-Pacific Prehistory 1990: Proceedings of
the 14th Congress of the Indo-Pacific Prehistory Association,
Yogyakarta, Indonesia, vol. 2. Bulletin of the Indo-Pacific Prehistory
Association 11.
Wisseman C. Jan 1985. Theater States and Oriental Despotisms:
Early Southeast Asia in the Eyes of the West. Hull: University of Hull
Center for South-East Asian Studies Occasional Paper no. 10., p.9.
Wisseman C. Jan 1992. Trade and settlement in early Java:
integrating the epigraphic and archaeological data. Pp. 181 – 197 in Early Metallurgy, Trade and Urban Centers in
Thailand and Southeast Asia. I. Glover, P. Suchitta, and J. Villiers, eds.
Bankok: White Lotus.
White C. Joyce. 1995. Incorporating Heterarchy into Theory on
Socio-Political Development: The Case from Southeast Asia. In Heterarchy and the Analysis of Complex
Societies. Robert. M. Ehrenreich, Carole L. Crumley, and Janet E. Levy,
eds. Archaeological Papers of the American Anthropological Association, Number
6. Arlington, Va.: American
Anthropological Association. Pp. 101 – 123.
Wolter, O. W. 1982. History, Culture, and Region in Southeast
Asian Perspectives. Singapore: Institute of Southeast Asian Studies.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét