Powered By Blogger

Thứ Sáu, 4 tháng 5, 2012

Tiền sử Việt Nam (I)


Tiền sử Việt Nam (I)

Người viết: Hà Hữu Nga

Theo đặt hàng của GS. Phan Huy Lê (2005)


Lưu ý đầu trang: Đây là bản draft đầu tiên tôi [Hà Hữu Nga] viết theo đặt hàng của GS. Phan Huy Lê, dưới sự hướng dẫn của GS. Trần Quốc Vượng. Vì vậy xin có ba lưu ý quan trọng:

1. Bản draft này được lưu ở đây với tư cách cá nhân và là bản draft chưa được chỉnh sửa.
2. Mọi hình thức sử dụng như: sao chép, trích dẫn v.v…là không hợp lệ.  
3.Vì GS. Trần Quốc Vượng ốm nặng và mất trước khi đọc bản draft này vào năm 2005 nên mọi sai sót có trong draft đều thuộc về người viết; nhiều quan điểm trong bài viết không chắc đã được GS. Trần Quốc Vượng đồng ý.

1. Thời đại đá cũ, sự phát triển từ Người vượn đến Người hiện đại ở Việt Nam

Trong lịch sử trái đất, thời gian hình thành và phát triển của con người được gọi là kỷ Nhân sinh, các nhà địa chất gọi đó là kỷ thứ Tư và chia thành hai thế: Cánh tân (Pleistocene) và Toàn tân (Holocene); về phương diện lịch sử, buổi bình minh của thời tiền sử của nhân loại chính là sự khởi đầu của kỷ nhân sinh, và kết thúc với sự ra đời của chữ viết. Về cơ bản thời tiền sử bao gồm thời đại đá và thời đại đồ đồng. Hầu hết thời đại đá cũ nằm trong thế Cánh tân, từ thời đại đá mới qua thời đại đồ đồng, thời đại đồ sắt cho đến nay thuộc vào thế Toàn tân. Thế Cánh tân được chia thành ba giai đoạn từ sớm đến muộn: Sơ kỳ Cánh tân từ khoảng 1.800.000 đến 700.000 năm cách ngày nay. Trung kỳ Cánh tân từ khoảng 700.000 năm đến 125.000 năm cách ngày nay. Hậu kỳ Cánh tân từ khoảng 125.000 năm đến 10.000 năm cách ngày nay. Và ranh giới 10.000 năm thường được các nhà khảo cổ học coi là mốc kết thúc thời đại đá cũ, mở đầu thời đại đá mới. Thời đại đồ đồng bắt đầu từ khoảng 6000 năm trước và kết thúc vào khoảng 4000 – 3000 năm trước. Tiếp đó là thời đại đồ sắt và thời kỳ lịch sử của nhân loại.

Vấn đề tiến hoá của muôn loài nói chung và con người nói riêng lần đầu tiên được đề cập một cách khoa học trong cuốn Nguồn gốc các loài (The Origin of Species) của Charles Darwin, xuất bản năm 1859. Theo ông thì trong bất kỳ loài nào các cá thể cũng có nhiều cách biến đổi, nhiều cá thể được sinh ra, nhưng chỉ có ít cá thể tồn tại được, là nhờ ở những đặc trưng riêng của chúng. Đó là  “những cá thể thích nghi tốt nhất với môi trường sống của mình, và chúng truyền các đặc trưng riêng đó cho hậu duệ của mình. Vì vậy, nhiều loài mới xuất hiện, có những đặc trưng thích ứng tốt nhất với môi trường của chúng” [Bowler S. 2001]. Qúa trình tiến hoá của người vượn trong khu vực và trên thế giới cũng có thể được hình dung như vậy.

Công cuộc nghiên cứu quá trình tiến hoá của người Vượn tại khu vực Đông Nam á do Eugene Dubois khởi xướng. Ông là một nhà khảo cổ học Hà Lan, làm việc tại Đại học Leiden. Năm 1887, ông đến Sumatra (Indonesia), và đã phát hiện được một khúc xương đùi, nằm cùng với một chỏm sọ và những chiếc răng hàm ở vùng Trinil bên bờ sông Solo. Việc nghiên cứu khúc xương đùi khiến Dubois đi tới kết luận: sinh vật này đã biết đứng thẳng như một con người, vì thế Dubois gọi nó là Pithecanthropus erectus – Người vượn đi thẳng. 21 năm trước khi Dubois đến Indonesia, vào năm 1856, người ta đã tìm thấy những di cốt hoá thạch người sớm tại một vài hang động thuộc thung lũng Neander ở Đức và chúng được gọi là người Neanderthal. Giai đoạn tiếp theo, một loại hình hiện đại hơn đã được phát hiện tại Cro-Magnon nước Pháp. Cái tên người Cro-Magnon đã ra đời. Vậy là thuyết tiến hoá của Charles Darwin cùng với các phát hiện trên đã giúp cho các nhà khảo cổ và cổ nhân học xây dựng dần dần một lịch sử tiến hoá người, trong đó, căn cứ vào niên đại địa chất, Dubois cho rằng Pithecanthropus erectus sống cách ngày nay khoảng 500.000 năm. Các nhà khoa học khác cho rằng Homo neanderthalensis là dạng người sớm, sống cách ngày nay vào khoảng từ 200.000 đến 100.000 năm và sau đó đã tiến hoá thành người hiện đại Cro-Magnon - Homo sapiens (Người khôn ngoan) vào thời Băng hà cuối cùng.

Vào năm 1924, một cốt sọ trẻ em đã được phát hiện tại Tauong, Nam Phi. Nhà giải phẫu học Raymond Dart nghiên cứu hoá thạch này và đặt tên cho nó là Autralopithecus Africanus (Người vượn Phương nam thuộc Châu Phi). Tiếp theo, vào năm 1930, Robert Brown cũng phát hiện được tại Nam Phi một hoá thạch khác. Ông gọi nó là Paranthrobus robustus, và sau đó được thừa nhận là Australopithecus robustus (Vượn người Phương nam Lực lưỡng). Trước đó, vào năm 1927, tại hang Chu Khẩu Điếm, gần Bắc Kinh (Trung Quốc) một đoàn nghiên cứu hỗn hợp gồm các học giả Thuỵ Điển, Canada, áo, Pháp, Mỹ, và Trung Quốc đã phát hiện được một răng hàm hominid (họ người). Đến năm 1930, một sưu tập hoá thạch đã được phát hiện tại hang này, gồm có 5 cốt sọ gần như nguyên vẹn cùng nhiều mảnh xương khác. Các nhà khoa học đã đặt tên cho chúng là Sinanthropus pekinensis (Người vượn Trung Quốc hay Người vượn Bắc Kinh). Ngày nay tập hợp này cũng được xếp vào Homo erectus. Ngoài ra, thập kỷ 30 của thế kỷ XX dưới sự chỉ đạo khoa học của Ralph von Koenigswald, người ta đã phát hiện được hoá thạch Pithecanthropus khác tại Gia Va (Indonesia) thuộc khu vực Ngandong, Sangiran và Mojokerto. Các phát hiện quan trọng nhất kể từ sau Chiến tranh Thế giới II tại Châu Phi trước hết thuộc về công lao của gia đình Leakey tại Kenia và Tanzania, trong đó có hoá thạch người vượn tại Olduwai. Loài này sớm hơn Homo erectus, được đặt tên là Homo habilis (Người khéo léo), với niên đại vào khoảng 1.6 triệu năm trước. Cùng với các hoá thạch này, còn có các công cụ đá ghè đẽo thô sơ. Với các phát hiện tại Đông Phi, niên đại sớm của con đã được đẩy lên đến khoảng từ 2 đến 2.5 triệu năm. Kỹ nghệ đá có niên đại tương đương với Homo erestus cũng được phát hiện tại vùng Acheul nước Pháp và chúng được gọi tên là kỹ nghệ Acheulian. Đó là những chiếc rìu tay, những hòn ghè, cùng một số mảnh tước thô. Kỹ nghệ này phân bố trong một khu vực rộng lớn từ Châu Phi, Châu Âu, một số khu vực tại Trung Đông và ấn Độ. Các công cụ Acheulian tiếp tục tồn tại đến khoảng 100.000 năm trước và không biến đổi nhiều về hình dáng và kỹ thuật chế tác. Một trong những vấn đề khoa học liên quan đến lịch sử tiến hoá người được tranh luận sôi nổi nhất là sự xuất hiện của người hiện đại. Theo nhà giải phẫu học người Đức Franz Weidenreich, người lãnh đạo khai quật Chu Khẩu Điếm từ 1935 đến 1937 thì có một dòng tiến hoá liên tục từ Pithecanthropus đến Homo soloensis (Người Solo ở Indonesia) [Weidenreich, F. 1943].

Quan điểm của Weidenreich đã được nhiều người chấp nhận và họ đã phát triển thành mô hình phát tán của Homo erectus từ Châu Phi ra khắp Cựu Thế giới, gồm có châu Phi, Châu á và Châu Âu. Đối với Châu á, Homo erectus Chu Khẩu Điếm được coi là cội nguồn của đại chủng Mongoloid, còn Homo erectus Gia Va thì tiến hoá qua dạng người Ngandong để trở thành Australoid. Sau đó loại hình Mongoloid đã dần dần đẩy lùi người Australoid ở Đông Nam Á. Còn ở Châu Âu thì Homo erectus phát triển qua người Neanderthal để trở thành tổ tiên của người Châu Âu hiện đại, đó là loại hình Cro-Magnon - Homo sapiens (Người khôn ngoan). Trong những năm gần đây, các nhà sinh học phân tử đã sử dụng phương pháp nghiên cứu DNA (deoxyribonuclei acid) trong đó loại gen di truyền sinh học xác định sự biến đổi của DNA với một tốc độ không đổi, tạo ra một loại “đồng hồ phân tử”. Khi so sánh DNA ở các thành viên thuộc những cư dân khác nhau thì có thể xác định được sự chênh lệch số lượng các DNA đó, người ta cũng tính toán được khoảng thời gian cho sự chênh lệch đó. Để xác định quá trình tiến hoá của con người, các nhà khoa học đã sử dụng DNA lấy từ mitochondria (ty thể, thể hạt sợi) chỉ di truyền theo dòng nữ mà không lấy từ các nhiễm sắc thể. Với phương pháp này, các nhà nghiên cứu kết luận rằng tất cả các con người hiện đại đều sinh ra từ một tổ tiên chung ở Châu Phi trong khoảng 200.000 năm trước [Bowler, Sandra 2001, 62 – 63]. Tuy nhiên tư liệu hoá thạch người dường như lại không hoàn toàn ủng hộ cho quan điểm một trung tâm phát sinh người duy nhất này.

Di tích hoá thạch người Vượn ở Việt Nam

Di tích hoá thạch người vượn ở Việt Nam được phát hiện và khai quật từ lớp trầm tích màu đỏ tại các hang đá vôi Thẩm Khuyên và Thẩm Hai thuộc xã Tân Văn, huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn. Hai hang này nằm ở độ cao khoảng 20 m so với bề mặt thung lũng và cách nhau khoảng 150m. Hang Thẩm Hai được phát hiện và thám sát năm 1964, tìm thấy 1 chiếc răng hoá thạch. Năm sau Hang Thẩm Khuyên được khai quật và đã phát hiện được 9 răng hoá thạch. Các nhà khoa học đã đi đến kết luận rằng đây là những chiếc răng hoá thạch của người vượn.

Cùng với các hoá thạch người còn có di tích xương cốt động vật thuộc Trung kỳ Cánh Tân. Từ các tàn tích còn lại trong các hang động đá vôi, các nhà khoa học cho biết thế Cánh tân ở Nam Trung Quốc và Bắc Việt Nam tồn tại các loài vật, trong đó có những động vật lớn như vượn khổng lồ (Gigantopithecus blacki), đười ươi (Pongo pygmaeus pygmaeus)...vv; voi cổ (Palaeoloxodon namadicus); voi răng kiếm (Stegodon orientalis); lợn vòi lớn (Tapirus (Megatapirus) augustus); tê giác (Rhinoceros sinenesis); gấu tre lớn (Ailuropoda melanoleuca fovealis)...vv. Quần động vật trên được đánh giá là phong phú hơn quần động vật hiện tại, và cho đến nay nhiều loài đã bị tuyệt diệt. Tuy chưa phát hiện được công cụ của người vượn và cũng chưa tìm được dấu vết của con người để lại trên xương cốt động vật hoá thạch, nhưng các nhà khoa học cho rằng những loài trên chắc chắn là đối tượng săn bắt của người vượn nơi đây. Thậm chí một học giả Mỹ còn cho rằng Người vượn (Homo erectus) và Vượn khổng lồ (Gigantopithecus) đã cạnh tranh sinh thái với nhau và Vượn khổng lồ đã bị Người vượn tiêu diệt [Ciochon R.L, 1988].

Sơ kỳ thời đại đá cũ Việt Nam
              
Di tích Núi Đọ, Quan Yên, và Núi Nuông: các di tích này phân bố tại khu vực hữu ngạn Sông Chu, gần ngã ba sông Chu và sông Mã, thuộc huyện Thiệu Yên tỉnh Thanh Hoá, được phát hiện trong thời gian từ năm 1961 đến năm 1980. Theo các nhà địa chất thì các ngọn núi này được cấu tạo chủ yếu bằng đá ba dan (basalt) thuộc đại Trung sinh (Mézozoique) có niên đại khoảng 150-200 triệu năm cách ngày nay. Hiện vật đá của nhóm di tích này là những công cụ chặt thô (thuật ngữ tiếng Anh là choppers), các mảnh tước thô loại hình Cơ lác tôn (Clacton), các hạch đá loại hình A Sơn (Acheulian) cũng rất thô sơ được làm từ chính nguồn nguyên liệu đá ba dan được khai thác tại chỗ. Chúng được coi là những công cụ đơn giản nhất do những người vượn sơ kỳ đá cũ chế tác. Nhóm di tích Núi Đọ được coi là loại hình di chỉ xưởng, vừa là nơi con người sinh sống, vừa là nơi họ khai thác nguyên liệu và chế tác công cụ tại chỗ. Nhưng gần đây đã có những ý kiến khác nhau về sưu tập hiện vật, và niên đại của nhóm di tích Núi Đọ. Việc xác định niên đại chỉ dựa vào loại hình học hiện vật đá mà không có các bằng chứng cổ nhân, cổ sinh hoặc địa tầng đã làm cho nhiều nhà nghiên cứu băn khoăn, một số người đã đặt lại vấn đề về nhóm di tích này. Bên cạnh các hiện vật sơ kỳ đá cũ điển hình, các nhà nghiên cứu còn phát hiện được cả những phác vật tiêu biểu của thời đại đồ đồng. Nhưng dẫu sao thì “nếu so sánh với những nền văn hoá đã biết trên lãnh thổ Việt Nam, chúng ta có thể thấy rằng kỹ nghệ Núi Đọ khác và cổ hơn các kỹ nghệ Ngườm, Sơn Vi và Hoà Bình” [Hà Văn Tấn (chủ biên) 1998, 60-63].

Các dấu ấn tiền sử thời sơ kỳ đá cũ trên đất nước ta còn được tìm thấy cả ở miền Đông Nam Bộ. Các địa điểm này do E. Saurin, nhà nghiên cứu người Pháp phát hiện. Đó là Hàng Gòn VI, Dầu Giây, đồi Sáu Lé, Suối Đá, Núi Đất, Núi Cẩm Tiên, Cầu Sắt, Gia Tân, Phú Qúi (thuộc tỉnh Đồng Nai) và An Lộc (thuộc tỉnh Sông Bé cũ). Các địa điểm này phân bố rải rác trên một khu vực hoạt động của các núi lửa cổ. Riêng tại địa điểm Hàng Gòn VI, đã phát hiện được 15 công cụ đá, trong đó Saurin thấy có 3 rìu tay A Sơn (Acheulian) điển hình. Từ năm 1975 trở đi, các nhà nghiên cứu Việt Nam cũng phát hiện được loại hình hiện vật này tại xã Gia Tân, huyện Thống Nhất (Đồng Nai) [Nguyễn Văn Long và Lê Trung Khá 1977], địa điểm An Lộc, huyện Lộc Ninh (Sông Bé), và các địa điểm Núi Đất, Cẩm Tiên, Phú Qúi [Hoàng Xuân Chinh và Nguyễn Văn Bình 1978]. Về mặt loại hình và kỹ thuật, những chiếc rìu tay sơ kỳ đá cũ miền Đông Nam Bộ rõ ràng là tiến bộ hơn, định hình hơn và nhỏ gọn hơn các công cụ chặt thô nhóm di tích Núi Đọ.

Ngoài ra, dấu ấn ban đầu của thời sơ kỳ đá cũ còn được phát hiện ở Tây Nguyên. Các nhà nghiên cứu Viện Khảo cổ học đã công bố một số công cụ đá cũ chế tác từ đá opal có nguồn gốc núi lửa, được tìm thấy ở xã Xuân Phú, huyện Ea Kar, tỉnh Đak Lak. Việc xác định niên đại bằng cách so sánh loại hình học, đã giúp các nhà khảo cổ học đi tới kết luận sơ bộ nó có tuổi tương đương với sưu tập Jangkwanli thuộc tỉnh Jincheon (Trung Hàn Quốc) vào khoảng 85.000 - 125.000 năm cách ngày nay [Vũ Thế Long, Hà Hữu Nga 2004]. Ngoài loại nguyên liệu có nguồn gốc đá lửa, ở Tây Nguyên còn tìm thấy nhiều gỗ hoá thạch. Đây là loại nguyên liệu quí mà người tiền sử thời sơ kỳ đá cũ ở đất nước Miến Điện đã sử dụng để chế tác công cụ. Đó cũng là một gợi ý bổ ích để các nhà khảo cổ học Việt Nam định hướng tìm tòi các sưu tập công cụ sơ kỳ đá cũ Tây Nguyên từ loại nguyên  liệu này.

Càng ngày các nhà nghiên cứu càng phát hiện được thêm bằng chứng cho thấy khả năng đã có một quá trình tiến hoá từ vượn thành người vượn rồi trở thành người Khôn ngoan trên chính đất nước chúng ta. Theo quan điểm của các nhà nhân học nhận thức, lịch sử phát triển của con người là lịch sử phát triển của hành vi và trí tuệ thông qua sự phát triển của cơ thể và hệ thống thần kinh. Trong một cuốn sách đang có ảnh hưởng lớn tại các nước Âu Mỹ hiện nay, nhà nghiên cứu người Canada Merlin Donald cho rằng trong hai triệu năm qua, loài người đã trải qua ba giai đoạn [Donald, M. 1991]. Giai đoạn đầu tiên là quá trình các hominid (họ người) tách ra khỏi các giống vượn khác, và những con người đầu tiên đã biết sử dụng cơ thể của họ để bắt chước những người già có nhiều kinh nghiệm hơn và các thành viên tinh khôn hơn của nhóm. Giai đoạn thứ hai con người phát triển các hệ thống cơ thể về mặt giải phẫu và hệ thống thần kinh. Điều đó cho phép họ sử dụng ngôn ngữ nói để sáng tạo ra và kể lại các sự kiện, các câu truyện với đồng loại. Giai đoạn thứ ba con người hiện đại xuất hiện và họ sáng tạo ra các hệ thống ký hiệu và biểu tượng để lưu giữ thông tin vào ký ức và phát triển các loại hình văn hoá phức tạp, trong đó có nghệ thuật và khoa học. Lý giải của Donald được coi là một lý thuyết lớn và được rất nhiều học giả trên thế giới cho là một phác thảo hợp lý về nguồn gốc và lịch sử phát triển của loài người [Gardner, H. 1997].

Mô hình ba giai đoạn phát triển nhận thức tiền sử của Merlin Donald đã được các nhà khảo cổ học khai thác và ứng dụng vào lý giải sự phát triển của các loại hình tư duy tiền sử. Trong số đó nổi tiếng nhất là công trình của giáo sư khảo cổ học người Anh Steven Mithen [Mithen, Steven J. 1996]. Trong cuốn sách của ông, tương ứng với giai đoạn I của Donald là quá trình phát triển từ loại hình Australopithecus thành Homo habilis. Bước phát triển đó diễn ra từ 4.500.000 năm đến 1.800.000 năm cách ngày nay. Tương ứng với giai đoạn II của Donald là sự xuất hiện của Homo erectus từ đầu Pleistocene, cách đây 1.800.000 năm đến 100.000 năm trước. Trong giai đoạn này, não của Homo erectus lớn hơn và Những người đi thẳng ấy đã chế tác được những chiếc rìu tay đầu tiên vào khoảng 1.400.000 năm trước. Tương ứng với giai đoạn III của Donald là sự ra đời của Người khôn ngoan Homo sapiens sapiens – loại hình người hiện đại - cách ngày nay vào khoảng 100.000 năm. Theo các cách phân kỳ tiền sử như trên thì người Núi Đọ, Thẩm Khuyên, Thẩm Hai, Xuân Lộc...vv, thuộc trung kỳ của giai đoạn đoạn II. Đó là người Homo erectus ở giai đoạn phát triển cao. Họ không còn đơn giản là những bầy người nguyên thuỷ nữa, mà đã là các cộng đồng có tổ chức chặt chẽ, được phân chia địa vực rõ ràng. Di chỉ xưởng Núi Đọ có thể là một bằng chứng cho sự phát triển đó. Đây có thể là một trung tâm cung cấp nguyên liệu và các dạng phác vật công cụ đá ba dan cho một vùng rộng lớn thuộc Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ ngày nay. Nhóm di tích Núi Đọ cũng có thể gợi ý cho chúng ta về một mô hình tương tự tại khu vực Xuân Phú (huyện Ea Kar, Đak Lak) nếu các nghiên cứu tiếp theo có thể làm rõ được niên đại địa tầng, nguồn nguyên liệu đá opal và các công cụ đá thô sơ ở đó. Nếu đúng như vậy thì đây có thể là nơi cung cấp nguyên liệu và phác vật công cụ cho cả vùng Tây Nguyên, Nam Trung Bộ và một phần Đông Nam Bộ ngày nay.

Về phương diện cấu trúc xã hội, chưa có bất cứ bằng chứng nào cho thấy các Homo habilis đã xây dựng “những ngôi nhà nhỏ, vừa đủ chỗ cho một đôi vợ chồng và các con nhỏ” cả. Cách hình dung về một cấu trúc xã hội Homo habilis như vậy là sự ngoại suy từ cấu trúc của mô hình gia đình hạt nhân hiện đại. Ngay cả các Homo erectus phát triển như cộng đồng người Núi Đọ cũng không có một cấu trúc gia đình hạt nhân như vậy. Trong thực tế, cấu trúc gia đình là một dạng cấu trúc xã hội, vì vậy khái niệm “gia đình hạt nhân” và “gia đình mở rộng” đều không phản ánh đúng và đầy đủ thực chất đa dạng của cấu trúc gia đình. Với tư liệu đã biết cho đến bây giờ, chúng ta chỉ có thể suy đoán rằng trong giai đoạn Homo erectus không có hình thức cấu trúc gia đình hạt nhân. Các cộng đồng tiền sử sơ kỳ đá cũ có thể đã manh nha một hình thức thị tộc nào đó, nhưng không chắc chắc chỉ có hình thức gia đình mẫu quyền. Ngay cả khái niệm chế độ mẫu hệ hay mẫu quyền cũng là một nội hàm đa tạp. Đó không chỉ đơn giản là quyền của người mẹ, mà theo nữ sử gia Riane Eisler thì quyền lực thực sự lại nằm trong tay những người đàn ông phụ tá cho những người đàn bà mẫu quyền [Eisler R. 1987].  

Ngày nay các nhà nghiên cứu có khuynh hướng nhìn nhận cấu trúc xã hội theo quan điểm đa mô hình, tuỳ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử, môi trường sống và truyền thống của từng cộng đồng. Chắc chắn rằng các cộng đồng người Thẩm Khuyên, Thẩm Hai, Núi Đọ, Xuân Lộc và Xuân Phú sống trong những điều kiện môi trường và hoàn cảnh khác nhau. Vì vậy cấu trúc xã hội của họ cũng không hoàn toàn đồng nhất. Người Thẩm Hai, Thẩm Khuyên sống trong các hang động và mái đá thuộc sơn khối đá vôi Bắc Sơn có thể là những nhóm nhỏ từ 15 – 20 người. Trong điều kiện rừng núi và thung lũng chia cắt khó khăn cho hoạt động kinh tế như vậy, người ta sống chủ yếu bằng săn bắt thú rừng lớn. Vì vậy quyền điều hành xã hội ấy có thể thuộc về những người đàn ông. Trong khi đó Núi Đọ là một di chỉ xưởng, việc khai thác và chế tác đá có thể tạo ra cho họ một cuộc sống ổn định hơn thông qua giao lưu, trao đổi thì vai trò của người phụ nữ là rất lớn. Vì vậy cộng đồng xã hội ở đây có thể là những nhóm khoảng 30 – 35 người và đang ở giai đoạn manh nha một hình thức thị tộc nguyên khởi. Còn những cộng đồng người Xuân Phú thì lại có thể di động kiếm sống theo mùa trên khắp vùng Tây Nguyên rộng lớn với loại hình xã hội mẫu quyền sơ khai có khoảng 45 - 50 người, nhằm duy trì sợi dây cố kết cộng đồng.

Hậu kỳ thời đại đá cũ Việt Nam

Lịch sử tiến hoá liên tục từ Người vượn đến người Người Khôn ngoan (Homo sapiens) giai đoạn sớm, và sau đó là Người Khôn ngoan giai đoạn muộn tại Việt Nam còn được phát hiện ở các địa điểm Hang Thẩm ồm (Nghệ An) và Hang Hùm (Yên Bái). Những người khai quật Thẩm ồm định niên đại cho các hoá thạch phát hiện ở đây là từ 140.000 đến 250.000 năm cách ngày nay. Niên đại 250.000 năm được xác định dựa vào sự có mặt của một chiếc răng cửa được cho là của vượn khổng lồ (Gigantopithecus) [Vũ Thế Long, Lê Trung Khá, và Hoàng Văn Dư 1977]. Nhưng thực ra chiếc răng cửa ấy lại là của Pongo chứ không phải của vượn khổng lồ [Vũ Thế Long 1982]. Hơn nữa quần động vật Thẩm ồm không khác nhiều so với so với Hang Hùm nên niên đại của nó có thể vào khoảng cuối Trung kỳ hoặc Hậu kỳ Cánh tân.  Niên đại hoá thạch Hang Hùm được xác định vào khoảng 70.000 – 60.000 năm cách ngày nay [Nguyễn Lân Cường 1988]. Các hoá thạch Người Khôn ngoan giai đoạn muộn tìm thấy ở hang Thung Lang (Ninh Bình) và hang Kéo Lèng (Lạng Sơn), có niên đại vào khoảng 30.000 năm cách ngày nay [Nguyễn Lân Cường 1992]. Giai đoạn này Việt Nam và khu vực trở nên lạnh dữ dội. Đó chính là nguyên nhân dẫn đến những thay đổi to lớn về môi trường sinh thái. Một số loài bị tuyệt diệt, và con người cũng phải thay đổi đáng kể phương thức sống của mình [Hà Văn Tấn 1984].

Hệ thống văn hoá Ngườm: hệ thống này bao gồm các hang động hầu hết phân bố ở phía tây nam của Sơn khối đá vôi Bắc Sơn, nằm trong địa phận tỉnh Thái Nguyên và một phần tỉnh Lạng Sơn. Đó là các hang Miệng Hổ, Nà Khù và Mái đá Ngườm (Thái Nguyên). Nằm trong hệ thống này còn có thể kể đến các hang Nà Cooc, Nà Nông (Cao Bằng), Lạng Nắc, lớp dưới Hang Dơi (Lạng Sơn)...vv. Hệ thống văn hoá này được phát hiện và khai quật lần đầu vào năm 1972 tại hang Miệng Hổ, còn gọi là hang Phiêng Tung. Hang Nà Khù, xã Thần Sa, Võ Nhai, Thái Nguyên cũng được thám sát trong đợt này. Đặc biệt là năm 1980, các nhà nghiên cứu Việt Nam đã phát hiện thêm được khoảng 10 địa điểm khác xung quanh khu vực hang Miệng Hổ, trong đó quan trọng nhất là Mái Đá Ngườm. Địa điểm khảo cổ học này đã được khai quật ngay sau đó vào các năm 1981, 1982.
  
Địa tầng di chỉ Ngườm có ba mức văn hoá phát triển liên tục từ sớm đến muộn. Mức I, sớm nhất nằm ở độ sâu từ 1.10 đến 1.45 m, cấu tạo bằng lớp sét vôi vàng nhạt, có các xương động vật bán hoá thạch của đười ươi (Pongo), lợn  (Sus Scrofa), nai (Rusa sp.), nhím (Hystrix sp.). Căn cứ vào sự có mặt của Pongo và phổ bào tử phấn hoa ở đây các nhà khoa học cho rằng mức này có niên đại Pleistocene muộn. Mẫu phân tích niên đại C14 lấy ở trên lớp dăm đá vôi giáp với lớp đáy mức II có tuổi là 23.000 ± 200 và 23.100 ± 300 năm cách ngày nay. Mức II ở độ sâu 0.60 đến 1.10 m, cấu tạo từ lớp sét vôi màu xám nhạt, có chứa xương răng động vật chớm hoá thạch của Pongo, bò (Bos sp.), lửng lợn (Arctonyx collaris), khỉ (Macaca sp.) và nhiều vỏ ốc núi (Cyclophorus). Mức III, trên cùng dày trung bình 0.60m, đất sét vôi tơi xốp, màu xám xẫm, có chứa nhiều vỏ ốc suối, một số xương răng động vật. Trong mức này còn phát hiện được hai mộ với ba cá thể người chôn nằm nghiêng. Mẫu niên đại C14 lấy ở độ sâu 0.60 m có tuổi là 19.040 ± 40 và 18.000 ± 200 năm cách ngày nay. Sau hai lần khai quật Mái Đá Ngườm 1981- 1982, đã thu được 618 công cụ hạch cuội, 302 công cụ mảnh lớn, 10146 công cụ mảnh tước, 13.494 mảnh tước, và 75 hạch đá [Hà Văn Tấn (chủ biên) 1998]. Dựa vào đặc trưng công cụ mảnh tước của sưu tập Mái đá Ngườm, đã có đề xuất về một kỹ nghệ riêng, Kỹ nghệ Ngườm [Hà Văn Tấn 1986]. Tuy nhiên gần đây, có ý kiến cho rằng khái niệm kỹ nghệ của phương Tây thuần tuý mang tính kỹ trị và vắng bóng lịch sử của con người, vì vậy nên gọi nhóm di tích Ngườm là một Hệ thống văn hoá. Sở dĩ nó được gọi là một hệ thống văn hoá, vì quá trình cư trú của con người tiền sử nơi đây khá liên tục, từ hậu kỳ đá cũ đến giai đoạn Hoà Bình, Bắc Sơn sớm [Hà Hữu Nga 2004]. Cái gọi là “kỹ nghệ Ngườm” chỉ thích hợp cho tập hợp công cụ mảnh tước. Trong khi đó người tiền sử Ngườm là các cư dân săn bắt, hái lượm và chế tác công cụ đá, tuy chưa biết đến nông nghiệp nhưng vẫn có một quá trình lịch sử của mình.

Do thời kỳ băng hà Wurm kéo dài trong khoảng thời gian 60.000 năm (từ 70.000 năm đến 10.000 năm cách ngày nay) nên điều kiện môi trường thay đổi từ nóng sang lạnh dữ dội. Việt Nam và Đông Nam á nằm trong vùng nhiệt đới thì chí ít cũng phải chịu ảnh hưởng của băng hà Wurm trong khoảng 50.000 năm (từ 70.000 năm đến 20.000 năm cách ngày nay). Đây là thời kỳ thiếu năng lượng mặt trời, ít mưa nên rất hiếm các nguồn nước lưu chuyển (hệ thống sông suối); các hệ thống sinh thái có thể bị tiêu diệt hoặc trở nên nghèo nàn, đơn điệu. Trong điều kiện ấy những nhóm người có nguồn gốc khác nhau buộc phải co rút lại trong các “ốc đảo” sinh thái còn sót lại giống như Mái đá Ngườm để tìm nơi tránh rét, tìm đồ ăn, nước uống và các nguồn khác. Điều đó có thể gây nên tình trạng quá tải về dân số tại một số địa điểm thuận lợi. Sức ép dân số càng làm tăng thêm nguy cơ khan hiếm các nguồn. Thực tế đó đòi hỏi con người phải có những hành vi thích ứng với một môi trường khan hiếm các đầu vào, trong đó có các đầu vào nguyên liệu dùng để chế tác công cụ đá.

Tình trạng ấy đã buộc các cư dân tiền sử phải tìm kiếm các giải pháp thay thế, chẳng hạn như: 1) Khai thác các mỏ đá gốc; 2) Đi thật xa để tìm nguồn nguyên liệu; 3) Tăng cường trao đổi với các cộng đồng khác; 4) Tiết kiệm, tận dụng nguyên liệu phế thải; 5) Cải tiến kỹ thuật chế tác; 6) Hạn chế sử dụng nguồn chính, tăng cường các nguồn thay thế, bổ sung; 7) Tái chế các sản phẩm cũ, hỏng. Các giải pháp trên có thể được coi là các biến số khắc phục tình trạng khan hiếm nguyên liệu chế tác công cụ trong hệ thống văn hoá Ngườm, để rồi tạo nên một truyền thống mới trong toàn bộ hệ thống sinh thái sơn khối đá vôi Bắc Sơn. Như vậy, từ góc độ sinh thái, việc xác lập một truyền thống nào đó không nhất thiết chỉ được quyết định bởi các nguồn thông tin lịch sử, mà nó còn là một giải pháp tình huống nữa. Vào thời kỳ lạnh nhất mật độ cư dân nơi đây chắc chắn là rất lớn, riêng mái đá Ngườm cũng có thể lên đến trên dưới 100 người. Di tích thức ăn để lại trong tầng văn hoá chứng tỏ người tiền sử nơi đây đã có sự phân công lao động theo giới tính và lứa tuổi. Đàn ông khoẻ mạnh thì chế tác công cụ và săn bắt động vật hoang dã, phụ nữ thì thu lượm ốc núi, ốc suối và các loại rau, củ, quả. Cư dân Ngườm giai đoạn muộn cũng có thể chưa biết đến kỹ thuật mài đá.

Hệ thống văn hoá Sơn Vi: Cho đến nay tối thiểu đã có khoảng 200 địa điểm văn hoá Sơn Vi được phát hiện trên hầu khắc các vùng thuộc Bắc Trung Bộ và Bắc Bộ Việt Nam, dọc theo các hệ thống sông Hồng, sông Thao, sông Lô, sông Gâm, sông Đà, sông Cầu, sông Thương, sông Kỳ Cùng ở Bắc Bộ; sông Mã, sông Chu ở Thanh Hoá, sông Lam, sông La ở Nghệ An và Hà Tĩnh, sông Thạch Hãn ở Quảng Trị...vv. Thậm chí loại hình công cụ đá văn hoá Sơn Vi còn thấy cả ở trên bề mặt laterite của di chỉ khảo cổ học thuộc thời đại kim khí Lung Leng (Sa Thầy, Kon Tum). Như vậy Sơn Vi không đơn giản là một văn hoá thuần nhất, mà nó là một phức hợp hệ thống văn hoá trải trên rất nhiều khu vực địa lý khác nhau trên đất nước ta. Về mặt môi trường sinh thái, có thể nói rằng nếu hệ thống văn hoá Ngườm là một quá trình co rút của người tiền sử vào các ốc ảo sinh thái vì lạnh và hiếm nước thì tiếp theo nó, hệ thống văn hoá Sơn Vi là một quá trình ngược lại. Cuối thời kỳ băng hà Wurm, khí hậu trái đất ấm dần lên, đặc biệt tại khu vực nhiệt đới như đất nước chúng ta, ảnh hưởng của băng hà có thể giảm đi đáng kể ngay từ khoảng 20.000 năm đến 15.000 năm trước. Lượng mưa tăng dần làm cho các hệ thống dòng chảy cổ lan tràn trên khắp mọi miền đất nước ta. Cùng với hiện tượng đó là một quá trình phát triển phong phú của các dải môi trường dọc theo các dòng sông suối. Ban đầu dọc theo các dòng chảy là những dải đồng cỏ mênh mông thụân lợi cho các loài thú ăn cỏ và ăn thịt. Sau đó là sự sinh sôi nảy nở của các khu rừng nhiệt đới. Các dòng sông suối cũng tạo ra nguồn nguyên liệu cuội vô tận cho người tiền sử khai thác để chế tác công cụ.

Khi thời kỳ mưa bắt đầu, các cộng đồng cư dân thuộc hệ thống văn hoá Sơn Vi đầu tiên có thể là những người rời khỏi các khu vực tập trung dân số cao trong thời kỳ khô lạnh như Ngườm chẳng hạn. Họ kiếm sống phân tán dọc hai bờ các con sông suối lúc này đã bắt đầu có nước bằng lối sống săn bắt và thu lượm di động. Bằng chứng cho lối sống này chính là những di chỉ Sơn Vi phân bố tương đối dày đặc hai bên bờ sông Thao từ Phú Thọ lên đến Lào Cai; từ Lập Thạch (Vĩnh Phúc) dọc sông Lô lên đến Hà Giang. Tại địa điểm Đồi Thông thuộc thị xã Hà Giang đã phát hiện được hàng nghìn công cụ cuội Sơn Vi. Ngoài ra trong địa tầng sâu hơn 3 m cũng tìm được các công cụ cuội có thể cổ hơn Sơn Vi nhiều. Giống như ở di chỉ Lung Leng Kon Tum, tại di chỉ Làng Vạc (Nghệ An) công cụ Sơn Vi cũng được phát hiện trên bề mặt lớp laterite. Người Sơn Vi sử dụng nguồn nguyên liệu là các hòn đá cuội quartz và quartzite có kích thước vừa phải, thuận tiện cho công việc ghè đẽo và sử dụng trong quá trình lao động. Bộ công cụ của họ là các mũi nhọn dùng để chặt cây, đào bới đất, xẻ thịt thú; công cụ một rìa cạnh, công cụ 1/4 viên cuội dùng để cắt, thái; các mảnh tước có cạnh sắc có thể sử dụng như một con dao nhỏ. Ngoài ra chắc chắn người Sơn Vi đã biết sử dụng những đoạn gỗ và tre nứa làm công cụ, vũ khí, làm cung tên và làm bẫy bắt thú...vv.

Bên cạnh đó cũng có những cộng đồng Sơn Vi sống định cư trong một số hang động, hoặc sử dụng hang động như một nơi cư trú chính và họ kiếm sống di động theo mùa rồi lại trở về hang động. Điển hình cho phương thức sống này là các di chỉ Sơn Vi ở hang Nậm Tun (Phong Thổ, Lai Châu), hang Thẩm Khương và hang Bản Phố. Các di chỉ này có niên đại khá sớm. Niên đại C14 lớp dưới của hang Thẩm Khương là 23.130 ± 200 và 33.150 ± 250 năm cách ngày nay. Dấu tích Sơn Vi hang động còn được phát hiện ngay trong khu vực văn hoá Hoà Bình. Đó là các hang Con Moong, Mái đá Điều, Mái đá Nước (Thanh Hoá); hang Ông Quyền thuộc huyện Mai Châu, tỉnh Hoà Bình. Tại các địa điểm này, các công cụ điển hình cho văn hoá Sơn Vi đều phân bố ở lớp dưới. Trong lớp này ít có ốc suối, mà chủ yếu là ốc núi và xương thú. Lớp Hoà Bình bên trên gồm có các công cụ Sumatralith (loại hình công cụ cuội văn hoá Hoà Bình điển hình lần đầu tiên được phát hiện ở đảo Sumatra Indonesia) và ốc suối. Đặc biệt tại hang Con Moong thuộc huyện Cẩm Thuỷ, tỉnh Thanh Hoá, tầng văn hoá Sơn Vi có niên đại C14 khá muộn, là 11.755 ± 75 năm và 11.840 ± 75 năm cách ngày nay. Niên đại C14 trong tầng Sơn Vi hang Pông (Mộc Châu, tỉnh Sơn La) là 11.915 ± 120 năm và 11.330 ± 180 năm cách ngày nay. Đây có thể là thời điểm kết thúc của văn hoá Sơn Vi. Còn thời điểm mở đầu của hệ thống văn hoá này chưa được xác định rõ ràng, nhưng niên đại C14 hang Ông Quyền 18.390 ± 120 năm cách ngày nay là một gợi ý tin cậy. 

Chủ nhân của hệ thống văn hoá Sơn Vi đã được xác định thông qua một số di cốt người tìm được ở hang Con Moong. Thành phần chủng tộc của người Con Moong là Australo-Negroid (Chủng đen Phương Nam) còn cốt sọ Sơn Vi ở Mái đá Nước và Mái đá Điều là Australoid [Nguyễn Lân Cường 1977]. Trong khi đó, các cốt sọ Hoà Bình chủ yếu lại là dạng chuyển tiếp từ Australo-Mongoloid sang Vedoid Indonesian [Nguyễn Đình Khoa 1986].

Căn cứ vào sự xác định thành phần chủng tộc của người Sơn Vi như trên, chúng ta biết chắc rằng chủ nhân văn hoá Sơn Vi là những người bản địa. Họ phân bố trên một địa bàn rộng lớn thuộc vùng Đông Nam Á và một phần các đảo thuộc châu Đại Dương. Lịch sử phát triển của các cư dân này chính là quá trình hoà huyết qua giao lưu, trao đổi hoặc hôn nhân với các chủng tộc láng giềng là các cư dân Nam á và Đông Bắc Á. Cho đến nay vẫn chưa có những bằng chứng chắc chắn để xác định cấu trúc xã hội của các nhóm cư dân Sơn Vi. Tuy nhiên trong một số hang động như Con Moong, Nậm Tun, Thẩm Khương, và Mái đá Điều đã tìm thấy dấu vết bếp lửa. Các nhà nghiên cứu đã so sánh chúng với các dấu tích bếp lửa thuộc văn hoá Hoà Bình giai đoạn sau và thấy rằng “bếp Sơn Vi có số lượng ít hơn, nhưng kích thước lớn hơn và nằm ở trung tâm hang hơn. Điều này có thể liên quan phần nào tới cơ cấu tổ chức bộ lạc” [Hà Văn Tấn (chủ biên) 1998, 93].

Với một bằng chứng gián tiếp như vậy, có lẽ còn quá sớm để suy luận về một cơ cấu tổ chức bộ lạc người Sơn Vi. Tuy nhiên trong qui mô của một hang động không lớn như các hang vừa kể thì chúng ta có thể hình dung một cơ cấu nhỏ hơn bộ lạc, đó là cơ cấu nhóm cho xã hội Sơn Vi hang động này, theo mô hình do các nhà nhân học tiến hoá Mỹ Sahlins và Service đề xuất [Sahlins. M.D., and E. R. Service, eds. 1960]. Đó là mô hình tiến hoá từ nhóm - bộ lạc – thủ lĩnh địa – nhà nước được các nhà nghiên cứu sử dụng phổ biến vì mỗi khái niệm đều được định nghĩa rất rõ ràng. Trong đó mỗi cơ cấu tổ chức xã hội được xác định dựa trên các tiêu chuẩn có liên quan, bao gồm qui mô dân số, mức độ phức tạp trong tổ chức xã hội và các phương thức kiếm sống. Theo mô hình này, nhóm là một xã hội nhỏ, bình quân chủ nghĩa, thoả mãn nhu cầu sống bằng các hoạt động săn bắn và hái lượm. Mỗi nhóm có một lãnh thổ riêng nhưng họ không sống định cư mà bằng phương thức di động kiếm sống theo mùa phù hợp với nguồn thức ăn và nước uống có thể kiếm được. Về phương diện tổ chức, mỗi nhóm là một nhóm gia đình duy nhất. Chẳng hạn như nhóm đó có những người đàn ông cùng dòng máu cùng những người vợ của họ lấy về từ các nhóm khác và những đứa con của họ. Nhóm không có hình thức tổ chức chính trị, cũng không có chuyên môn hoá về kinh tế, không có một phân cấp xã hội nào khác ngoài phân cấp dựa trên giới tính và lớp tuổi. Qui mô dân số từ khoảng 25 – 100 người [Sharer, Robert J. and Wendy Ashmore 1992].

Trong khi đó bộ lạc cũng là một cơ cấu xã hội bình quân chủ nghĩa, nhưng có qui mô dân số lớn hơn, họ có nhiều chiến lược kiếm sống hơn, vì vậy có thể duy trì được các làng định cư bền vững. Các phương thức kiếm sống chuyên biệt thường gồm có việc sản xuất lương thực – làm nông hoặc làm vườn, nhưng vẫn có thể tồn tại phương thức săn bắt, hái lượm. Hệ thống bộ lạc có các thiết chế xã hội chằng chéo, dựa trên các mối quan hệ họ hàng, liên kết các thành viên xã hội với nhau. Trong đó có cả các hội kín, các nhóm đồng tuế, các nhóm chức nghiệp chẳng hạn như chiến binh hoặc các tổ chức tôn giáo. Không có những vị trí lãnh đạo hoặc quyền lực bền vững, mặc dù một số cá nhân có thể có vai trò thủ lĩnh lâm thời trong những tình thế khẩn cấp như các thủ lĩnh của các bên tham chiến chẳng hạn. Hệ thống bộ lạc có qui mô dân số từ 500 đến vài nghìn người. Cũng có những tình huống bất thường, các bộ lạc “cô đặc” có qui mô dân số đến 10.000 người [Sharer, Robert J. and Wendy Ashmore 1992, 561-562].

Như vậy chúng ta có thể hình dung về cơ bản xã hội Sơn Vi được cấu trúc chủ yếu trên cơ sở nhóm. Có thể có những nhóm mở rộng, bao gồm cả những nhóm họ hàng khác nhau; cũng có thể có những nhóm “cô đặc” trong các tình huống bất thường như thiên tai, xung đột giữa các nhóm, hoặc thậm chí họ có thể tập trung khai thác một vài loại sản vật nào đó, theo mùa, ở một khu vực nhất định, để rồi sau đó họ lại phân tán thành những nhóm nhỏ, kiếm sống di động. Tuy nhiên cũng không loại trừ khả năng người Sơn Vi giai đoạn muộn, sống tại khu vực thềm sông Hồng thuộc huyện Lâm Thao (Phú Thọ) đã có cấu trúc xã hội theo tổ chức bộ lạc manh nha, trên cơ sở một loại hình hoạt động kinh tế phức hợp bao gồm săn bắt, hái lượm, trao đổi sản vật và khởi đầu một nghề làm vườn sơ khai. Một nghề làm vườn thực sự và có thể cùng với nó là một nền nông nghiệp sơ khai chỉ có thể xuất hiện từ giai đoạn văn hoá Hoà Bình.

(Còn nữa….)


Tài liệu Tham khảo


Aung-Thwin, Michael 1985. Pagan: the Origins of Modern Burma. Honolulu: University of Hawaii Press., p. 87.

Bellwood P. 1997. Prehistory of the Indo-Malaysian Archipelago. 2nd Edition. Honolulu: University of Hawaii Press.

Bentley, G. Carter 1986. Indigenous States of Southeast Asia. Annual Review of Anthropology 15: 275 – 305.

Bowler, Sandra 2001. Nguồn gốc Châu á Khảo cổ học và Nhân học, trong Bức khảm văn hoá Châu Á - Tiếp cận Nhân học (Grant Evans chủ biên), bản tiếng Việt, do Cao Xuân Phổ dịch, Nhà xuất bản Văn hoá Dân tộc, Hà Nội 2001. Trang 51.

Bùi Vinh 1993. Khai quật di chỉ Làng Còng (Thanh Hoá) – 1992. Trong Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1992, Hà Nội, trang 50 -51.

Bùi Vinh 2003. Cư dân văn hoá Đa Bút trong các đợt biển tiến (Nhận thức qua tư liệu Địa - Khảo cổ học ở Làng Còng và Hang Sáo). Tạp chí Khảo cổ học, số 2 (122) (III-IV), trang 3-15.

Chử Văn Tần 1976. Tìm hiểu quá khứ xa xưa của Tây Bắc. Khảo cổ học, số 18-1976, trang 40-53.

Ciochon R.L, 1988. Gigantopithecus the King of all apes. Animal Kingdom, Vol. 91, No. 2, 1988.

Colani, M. 1928. Notice sur la préhistoire du Tonkin, BSGI, vol. XVIIIV, 1, pp. 71-72.

Diệp Đình Hoa 1978: Về những hiện vật kim loại ở buổi đầu thời đại đồ đồng thau Việt Nam, Tạp chí Khảo cổ học số 2, trang 11-20.

Donald, M. 1991. Origins of the Modern Mind: Three Stages in the Evolution of Culture and Cognition. Cambridge, MA: Harvard University Press.

Đào Qúi Cảnh 2004. Vấn đề nông nghiệp trong văn hoá Hoà Bình ở Việt Nam. Trong Một thế kỷ Khảo cổ học Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội. Trang 64.

Đào Thế Tuấn 1988.   trang 44. Về những hạt gạo cháy phát hiện ở Đồng Đậu (Vĩnh Phú) năm 1984. Tạp chí Khảo cổ học, số 4, trang 44-46.

Earle, Timothy, ed. 1991. Chiefdom: Power, Economy and Ideology. New York: Cambridge University Press.

Eblen, Ruth A. and William R. Eblen, Editors 1994. The Encyclopedia of the Environment. The René Dubos Center for Human Environments. Huston Mifflin Company, Boston New York 1994. p. 4.

Eisler R. 1987. The Chalice and The Blade: Our History, Our Future. New York, Harper & Row, 1987.

Gardner, H. 1997. Thinking about thinking. New York Review of Books. 9-10-1997.

Gorman C.E. 1970. Excavations at Spirit Cave, North Thailand: some interim interpretations. Asian Perspectives 13: 79-107.

Gorman C.E. 1971. The Hoabinhian and after: subsistence patterns in Southeast Asia during the late Pleistocene and early Recent periods. World Archaeology 2 (3): 300 – 320.

Grenier, Louise 1998. Working with Indigenous Knowledge, a Guide for Researchers. International Development Research Centre, Ottawa, Canada.  pp. 1-9.

Hà Hữu Nga 1982. Thời đại đá mới Việt Nam: Môi trường – Văn hóa và một mô hình tổng quát. Trong Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 1982. Hà Nội.
         
Hà Hữu Nga, Nguyễn Cường, và Bùi Vinh 1996. Báo cáo Khai quật di chỉ Mai Pha (Lạng Sơn). Tư liệu Viện Khảo cổ học.

Hà Hữu Nga 1998. Có một nền văn hoá Soi Nhụ tại khu vực vịnh Hạ Long. Kỷ yếu Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 1997. Hà Nội 1998, trang 91.

Hà Hữu Nga, Nguyễn Văn Hảo 1999. Hạ Long thời tiền sử. Nhà xuất bản Thế giới, Hà Nội 1999.

Hà Hữu Nga 2000. Soi Nhụ – Nền văn hoá cổ nhất hiện biết trên vịnh Hạ Long.  Hội thảo Vịnh Hạ Long 5 năm di sản Thế giới, do UBND Tỉnh Quảng Ninh – Bộ Văn hoá Thông tin và Uỷ ban UNESCO Việt Nam tổ chức, Hạ Long 4-2000, trang 72-80.

Hà Hữu Nga 2004. Khảo cổ học Đông Bắc Việt Nam từ những hệ thống sinh thái nhân văn tới các cấu trúc xã hội tiền nhà nước. Trong Một thế kỷ Khảo cổ học Việt Nam, Tập I, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, năm 2004. Trang 117-139.

Hà Văn Tấn 1962. Về vấn đề người Indonesian và loại hình Indonesian trong thời đại nguyên thuỷ Việt Nam. Thông báo Khoa học Đại học Tổng hợp, Sử học I, trang 168 – 202.

Hà Văn Tấn 1976. Nguồn gốc văn hóa Phùng Nguyên và vấn đề Tiền Việt Mường (một giả thiết công tác mới).

Hà Văn Tấn 1982. Từ Bàu Tró đến Sa Huỳnh. Trong Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1980, Hà Nội, trang 142-144.

Hà Văn Tấn 1984. Lớp dăm đá vôi ở Ngườm với khí hậu cuối Pleistocene ở Đông Nam á. Kỷ yếu Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1984, trang 18-20.

Hà Văn Tấn 1986. Kỹ nghệ Ngườm trong một phối cảnh rộng hơn. Tạp chí Khảo cổ học, số 3, 1986, trang 3-10.

Hà Văn Tấn (chủ biên) 1998. Khảo cổ học Việt Nam. Tập I. Thời đại đá Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội. Trang 76.

Hà Văn Tấn (chủ biên) 1999. Khảo cổ học Việt Nam. Tập II. Thời đại kim khí Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội. 

Hà Văn Tấn, Nguyễn Xuân Mạnh,...1985. Khai quật lần thứ hai di chỉ Thành Dền (Hà Nội), trong Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 1984, trang 95.

Hà Văn Tấn (chủ biên) 1998. Khảo cổ học Việt Nam. Tập I. Thời đại đá Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội. Trang 60 – 63.

Hà Văn Tấn, Bùi Vinh và Võ Qúi 1990. Những dấu hiệu về một nền văn hoá khảo cổ mới ở Hà Tuyên. Tạp chí Khảo cổ học, số 1-2-1990. trang 34-38.

Hall, Keneth R. 1985. Maritime Trade and State Development in Early Southeast Asia. Honolulu: University of Hawaii Press.

Higham, Charles F. W. 1989. The later Prehistory of Mainland Southeast Asia. Journal of World Prehistory 3: 235 – 282.

Hoàng Xuân Chinh và Nguyễn Văn Bình 1978. Điều tra khảo cổ học thời đại đá cũ ở Đồng Nai và Sông Bé. Kỷ yếu Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1978.

Hodder, Ian 1991. Reading the Past – Current Approaches to Interpretations in Archaeology. Second Edition. Cambridge University Press. pp. 121-149.

Lê Văn Thuế, Vũ Thế Long 1976. Nghiên cứu di tích xương răng động vật ở di chỉ Hoa Lộc (Thanh Hóa). Trong Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1976, Hà Nội, trang 145.

Lê Văn Thuế – Vũ Thế Long 1986. Di cốt động vật ở Hang Dơi (Lạng Sơn). Trong Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1985, Hà Nội 1986, trang 49.

Lê Xuân Diệm – Phạm Quang Sơn – Bùi Chí Hoàng 1991. Khảo cổ học Đồng Nai thời Tiền sử. Nhà xuất bản Đồng Nai.

Lưu Tỳ, Nguyễn Thế Tiệp, Nguyễn Tứ Dần ... 1985. Đặc điểm địa mạo thềm lục địa Việt Nam và các vùng lân cận, Tạp chí Khảo cổ học, số 2-1985, trang 16 – 18.

Mansuy H. 1924. Stations préhistoriques dans les carvenes du massif calcaire de Bacson (Tonkin). MSGI. Vol. 11,No. 2.

Mansuy H. 1925. Stations préhistoriques de Keo Phay (suit) de Khac Kiem (suit) de Lai Ta (suit) et Bang Mac dans le massif calcaire de Bac Son (Tonkin). MSGI. Vol. 12, No. 2.

Mansuy H. et M. Colani 1925. Néolithique inferieur (Bacsonien) et néolithique superieur dans les Haut Tonkin. MSGI. 12, f.3.

Mansuy, H. 1925. Nouvelles de cauvertes dans les carvens du massif calcaire de Bac Sơn (Tonkin). MSGI. Vol. 12, N0 1, p. 34.

Mithen, Steven J. 1996. The Prehistory of the Mind: The Cognitive Origins of Art, Religion and Science. Cambridge: Cambridge University Press.

Nguyễn Cường 2002. Văn Hoá Mai Pha. Sở Văn hoá Thông tin Lạng Sơn, trang 90.

Nguyễn Duy và Nguyễn Quang Quyền 1966. Nghiên cứu về hai sọ cổ ở Quỳnh Văn – Nghệ An. Trong Một số báo cáo về Khảo cổ học Việt Nam. Hà Nội, trang 351-366.

Nguyễn Duy Tỳ, Đào Linh Côn 1985. Kỹ thuật luyện kim đồng thau ở địa điểm Dốc Chùa. Tạp chí Khảo cổ học, số 3, trang 24-30.
   
Nguyễn Đình Khoa 1986. Con người thuộc văn hoá Hoà Bình. Tạp chí Khảo cổ học số 1-1986.

Nguyễn Khắc Sử 1983. Sự phát triển kinh tế và tổ chức xã hội của cư dân cổ Cúc Phương, Tạp chí Khảo cổ học, số 1 - 1983, trang 20.

Nguyễn Khắc Sử 1995. Văn hóa Biển Hồ ở Tây Nguyên. Tạp chí Khảo cổ học, số 3- 1995, trang 7 – 16.

Nguyễn Khắc Sử và cộng sự 1998. Báo cáo điều tra khảo cổ học vùng ngập nước tỉnh Lai Châu (chủ biên). Tư liệu Viện Khảo cổ học.

Nguyễn Kim Thuỷ 2004. Cư dân Đa Bút qua tài liệu Sinh khảo cổ. Tạp chí Khảo cổ học, số 1 (127) (I-II), trang 15-23.

Nguyễn Lân Cường 1977. Di cốt người cổ ở hang Con Moong. Kỷ yếu Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1976. Hà Nội 1977. Trang 112

Nguyễn Lân Cường 1988a. Trở lại vấn đề niên đại của hoá thạch người ở Việt Nam. Tạp chí Khảo cổ học số 1-2, 1988, trang 4-11.

Nguyễn Lân Cường 1988b. Di cốt người cổ trên đất Lạng Sơn. Tuyển tập luận văn Hội nghị khoa học Xứ Lạng, Lạng Sơn 1988, trang 39.

Nguyễn Lân Cường 1992. Những hoá thạch người cổ ở Việt Nam và Đông Nam á trong thời kỳ Pleistocene. Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam á, số 1, trang 5-12.

Nguyễn Lân Cường 1996. Đặc điểm nhân chủng cư dân văn hoá Đông Sơn
ở Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội 1996.

Nguyễn Thị Kim Dung 1986. Báo cáo khai quật công xưởng Tràng Kênh lần thứ hai. Tư liệu Viện Khảo cổ học.

Nguyễn Thị Kim Dung, Đặng Văn Thắng...1995. Đồ trang sức trong mọ chum ở Cần Giờ. Trong Khảo cổ học, số 2, trang 27-45.

Nguyễn Trung Chiến 2003. Mối quan hệ và liên hệ ở bình tuyến đá mới hậu Hoà Bình – Bắc Sơn ven biển Đa Bút – Quỳnh Văn – Cái Bèo – Bàu Dũ. Tạp chí Khảo cổ học, số 4 (124) (VII-VIII), 2003, trang 11 - 12.

Nguyễn Trường Kỳ 1983. Bước đầu tìm hiểu nghề thủy tinh ở nước ta. Tạp chí Khảo cổ học, số 1, trang 47-54.

Nguyễn Văn Long và Lê Trung Khá 1977. Về những hiện vật đá cũ mới tìm được ở Vườn Dũ (Sông Bé) và Gia Tân (Đồng Nai). Tạp chí Khảo cổ học, số 4-1977.

Patte E. 1932. Le Kjokkenmodding néolithique de Dabut et ses sépultures (province de Thanh Hoa, Indochine). BSGI, Vol. XIX, pt.3, 1932.

Phạm Đức Mạnh 1985. Qua đồng Long Giao. Tạp chí Khảo cổ học, số 1, trang  37 – 68.

Phạm Quang Sơn 1978. Bước đầu tìm hiểu sự phong phú văn hóa hậu kỳ đá mới, sơ kỳ đồng thau ở lưu vực sông Đồng Nai. Tạp chí Khảo cổ học, số 1, trang 35-40. 

Phạm Thị Ninh 1995. Văn hoá Bàu Tró - đặc trưng và loại hình.Luận án Phó tiến sĩ, Khoa học lịch sử, Hà Nội, trang 9 – 11.

Sahlins. M.D., and E. R. Service, eds. 1960. Evolution and Culture. Ann Arbor: University of Michigan Press.

Saurin E. 1939. Les cranes préhistoriques inédit de Lang Cuom. Far Eastern Association of Tropical Medicine 10ème Congrès. T. I. Hanoi.

Saurin E. 1956. Outilage Hoabinhien à Giap Khau, Port Courbet (Nord Vietnam). BEFEO. Vol. XLVIII, No. 2, 1956.

Sharer, Robert J. and Wendy Ashmore 1992. Archaeology Discovering Our Past. Second Edition. Mayfield Publishing Company, Mountain View, California. London . Toronto. Pp. 561-562.

Taylor, Keith W. 1992. The early Kingdoms. Pp. 137 - 182 in The Cambridge History of Southeast Asia, N. Tarling, ed. Cambridge: Cambridge University Press. P. 181. 

Tỉnh uỷ, Uỷ ban Nhân dân tỉnh Quảng Ninh 2001. Địa chí Quảng Ninh. Tập I, Nhà xuất bản Thế giới, Hà Nội, trang 421.

Trần Quốc Vượng 1974. Vài suy nghĩ tản mạn về trống đồng. Trong Khảo cổ học, số 14, Hà Nội, tr. 71-81.

Trần Quốc Vượng 1986. Văn hoá Hoà Bình, văn hoá Thung lũng. Tạp chí Khảo cổ học, số 2-1986, trang 1- 6.

Trần Quốc Vượng 1993. Mấy nét khái quát lịch sử cổ xưa về cái nhìn về biển của Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 1, 1993.

Trần Quốc Vượng 1996. Mấy ý kiến về trống đồng và Tâm thức Việt cổ. Trong Theo dòng lịch sử - Những vùng đất, thần và tâm thức người Việt. Nxb. Văn hóa, Hà Nội, tr 39-65.

Trần Quốc Vượng 2000. Việt Nam và biển Đông, Tạp chí Văn hoá dân gian, số 3(71), 2000.

Trình Năng Chung 1991. Kỹ nghệ Ngườm và văn hoá Bắc Sơn, Tạp chí Khảo cổ học, số 2, trang 16 – 21.

Verneau R. 1909. Les cranes humains du gisement de Pho Binh Gia (Tonkin). L’Anthropologie. No. 20: 545-549.

Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam 1969. Những hiện vật tàng trữ tại Viện Bảo tàng Việt Nam về văn hoá Bắc Sơn, Hà Nội, trang 140.

Vũ Quốc Hiền, Chu Văn Vệ 1996. Công cụ đá và đồ trang sức bằng vỏ nhuyễn thể ở di chỉ Bích Đầm (Khánh Hòa). Trong Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1976, Hà Nội, trang 90.

Vũ Thế Long, Lê Trung Khá, và Hoàng Văn Dư 1977. Khai quật Thẩm ồm (Nghệ An) đợt I. Kỷ yếu Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1977, trang 13.

Vũ Thế Long 1982. Về những chiếc răng vượn khổng lồ. Kỷ yếu Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1982, trang 67-69.

Vũ Thế Long 1984. Người Hoà Bình và thế giới động vật. Tạp chí Khảo cổ học, số 1-2, 1984. Trang 126.

Vũ Thế Long, Hà Hữu Nga 2004. Phát hiện công cụ thời đại đá cũ ở Đak Lak. Kỷ yếu Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 2003. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội.

Wheatley, Paul 1979. Urban genesis in mainland South East Asia. Pp. 288 – 303 in Early South East Asia: Essays in Archaeology, History and Historical Geography. R. B. Smith and W. Watson, eds. New York: Oxford University Press.

Weidenreich, F. 1943 “The skull of Sinanthropus pekinensis”, Palaeontologica Sinica (n.s. D), Vol. 10, pp. 1 – 298.

Welch, David and Rudith R. McNeill 1991. Settlement, agriculture and population changes in the Phi Mai region, Thailand. Pp. 210 – 228 in Indo-Pacific Prehistory 1990: Proceedings of the 14th Congress of the Indo-Pacific Prehistory Association, Yogyakarta, Indonesia, vol. 2. Bulletin of the Indo-Pacific Prehistory Association 11.

Wisseman C. Jan 1985. Theater States and Oriental Despotisms: Early Southeast Asia in the Eyes of the West. Hull: University of Hull Center for South-East Asian Studies Occasional Paper no. 10., p.9.

Wisseman C. Jan 1992. Trade and settlement in early Java: integrating the epigraphic and archaeological data. Pp. 181 – 197 in Early Metallurgy, Trade and Urban Centers in Thailand and Southeast Asia. I. Glover, P. Suchitta, and J. Villiers, eds. Bankok: White Lotus.

White C. Joyce. 1995. Incorporating Heterarchy into Theory on Socio-Political Development: The Case from Southeast Asia. In Heterarchy and the Analysis of Complex Societies. Robert. M. Ehrenreich, Carole L. Crumley, and Janet E. Levy, eds. Archaeological Papers of the American Anthropological Association, Number 6. Arlington, Va.: American Anthropological Association. Pp. 101 – 123.

Wolter, O. W. 1982. History, Culture, and Region in Southeast Asian Perspectives. Singapore: Institute of Southeast Asian Studies.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét