Kinh tế học Phật giáo - Trung đạo trong Thương trường (VII)
Ven. P.A. Payutto
Người dịch: Hà Hữu
Nga
Chương 4: Vai trò của
sự thịnh vượng trong Phật giáo
Mặc dù Phật giáo được đặc trưng như một tôn giáo khổ hạnh, thì chủ nghĩa khổ hạnh thực sự được trải nghiệm với và bị chối bỏ bởi Đức Phật trước khi ngài đại ngộ. Chừng nào Phật giáo còn được quan tâm thì ý nghĩa của từ “chủ nghĩa khổ hạnh” thật là mờ mịt và không nên được sử dụng mà không có sự định tính. Thuật ngữ “nghèo khổ” cũng làm cho người ta lầm đường lạc lối. Các khái niệm Phật giáo quen thuộc là mãn nguyện (santutthi) hay tiết dục (appicchata). Nghèo khổ (dadiddiya) trong Phật giáo không bao giờ được cổ vũ hay ngợi ca. Vì Đức Phật đã nói “Đối với các gia đình trên thế gian này, nghèo đói là khổ” [A.III.350]; “Điều tồi tệ trên thế gian này là nghèo khổ và nợ nần” [A.III.352].
Thực tế thì việc sở hữu của cải bởi bất cứ ai cũng đều được ca ngợi và cổ vũ trong Kinh Pali, khi xác định rằng của cải là một cái gì đó phải được tìm kiếm. Trong các giới luật của Đức Phật với các cư sĩ, thì hữu ích nhất và được ca ngợi nhiều nhất phần lớn là những người có tài sản, ví dụ như Cấp Cô Độc (Anathapindika) chẳng hạn. Ngay cả các nhà sư là những người không mong cầu tìm của cải, là người thường xuyên được nhận các đồ cúng dường thì thỉnh thoảng cũng vẫn được coi là một phẩm chất tốt. Nhà sư Sivali chẳng hạn, đã được Đức Phật ca ngợi như là một trong số “những con người xứng đáng nhất được nhận đồ cúng dường”. Tuy nhiên những bình luận này cần phải được giải thích rõ.
Chủ đề chính trong các kinh bổn Phật giáo là ở chỗ không phải của cải được ngợi ca hoặc phiền trách, mà là cái cách kiếm được và sử dụng của cải. Đối với các nhà sư, như đã đề cập đến ở trên, không phải là cách đạt được của cải như vậy bị khiển trách, cũng không phải sự nghèo khổ là cái được ngợi ca. Những phẩm cách đáng bị quở trách là lòng tham, sân, si trong việc giành được và tích trữ của cải. Việc tìm kiếm của cải là có thể chấp nhận nếu như nó hữu ích cho việc thực hành chính đạo hoặc nếu nó làm lợi cho các thành viên của Tăng đoàn. Nhưng như vậy không có nghĩa là các nhà sư nên có của cải riêng.
Chừng nào được Vinaya hoặc Giới Luật tự viện cho phép thì việc có của riêng mới có thể biện hộ được nếu những của cải đó thuộc về cộng đồng tự viện, nhưng nếu một nhà sư giàu có bằng những món sở hữu cá nhân thì đó chính là bằng chứng về lòng tham lam và luyến tiếc của ông ta và như vậy là ông ta không xứng với các giáo lý nhà Phật. Hành động đúng đắn của các nhà sư là không sở hữu cái gì ngoài những nhu cầu thiết yếu cho cuộc sống. Vấn đề ở đây không phải là ông ta trở nên giàu hay nghèo, mà là cần có một chút chăm sóc cá nhân, di chuyển thoải mái, tinh thần mãn nguyện và một chút ước muốn, và vì cuộc sống của nhà sư là tuỳ thuộc vào sự cúng dường của người khác, nên tự bản thân mình phải thanh thản để độ người. Vì luôn luôn nay đây mai đó và hầu như không có sự chăm sóc cá nhân nên các nhà sư có thể giành hầu hết thời gian và công sức cho sự hành thiện của họ dù đó là vì công quả cá nhân họ hay vì xã hội.
“Nhà sư mãn nguyện với mấy bộ y để che chở thân thể và khất thực khẩu phần vừa đủ cho nhu cầu cơ thể mình. Dù đi bất kỳ nơi đâu ông ta cũng có thể chỉ đem theo mấy thứ đó bên mình, giống như một con chim có đôi cánh, có thể bay đến bất cứ nơi đâu, cũng chỉ phải đem theo đôi cánh của mình” [A.II.209]. Vậy thì đó là sự mãn nguyện và sự tiết chế ước muốn luôn luôn đi liền với lời nguyện cho sự tinh tiến của điều thiện và từ bỏ điều ác. Đó chính là những phẩm chất được ca ngợi. Thậm chí ngay cả sự mãn nguyện và một vài ước nguyện ít ỏi cũng phải được tiết chế, có nghĩa là chúng phải được đi kèm với sự nỗ lực và sự siêng năng, chứ không phải là bởi tính tự mãn và sự vô công rồi nghề. Nhà sư tự bằng lòng với bất cứ cái gì mà ông ta có được sao cho ông ta có thể cống hiến nhiều hơn thời gian và công sức của mình cho sự tinh tiến cá nhân và lợi lạc cho người khác. Nói cách khác, trong khi rất cần có được nhiều của cải thì chính điều đó lại là không tốt nếu như ông ta sở hữu và tích trữ các của cải đó. Vì vậy cách tốt nhất là có được càng nhiều thì phải cho càng nhiều.
“Này, chúng tăng, một nhà sư cần phải thỏa nguyện với bất cứ nhu yếu nào dù đó là quần áo, đồ ăn khất thực, một nơi trú ngụ hoặc một chút thuốc thang mà ông ta kiếm được. Hỡi chúng tăng, một nhà sư liên tục tinh tiến để đoạn diệt các điều bất thiện bằng cách kiên tâm tinh tiến bằng điều thiện và không bao giờ rời bỏ giới luật”. [D.III.226, 296; A. V.23]
Một con đường thì dẫn đến của cải,
còn con đường kia thì dẫn đến Niết Bàn. Nếu một nhà sư là môn đệ của Phật, đã học
được điều này, thì ông ta sẽ không khát khao vinh quang, mà sẽ tu dưỡng mình ở
một nơi vắng vẻ” [Dh.75].
Đối với người thế tục, như đã
nói ở trên, không có một ví dụ nào nói rằng nghèo đói được khuyến khích. Ngược
lại, nhiều đoạn trong Kinh Phật chủ chương cổ vũ người thế tục tìm kiếm và tích
trữ của cải bằng cách chân chính. Trong số những quả nghiệp tốt có cả sự giàu
sang [3]. Điều bị quở trách liên quan đến giàu sang chính là cung cách đạt tới
sang giàu một cách bất lương. Lời quở trách này là đáng khi người ta kiếm được
của cải để rồi trở thành nô lệ cho của cải và cuối cùng phải đau khổ vì của cải.
Tương tự như vậy, việc làm giàu phi pháp cũng mắc tội và đáng trách không kém
gì việc tích lũy của cải theo cách keo kiệt, và không bao giờ dám bỏ ra để làm
phúc hoặc đem lại phúc lạc cho thân bằng quyến thuộc hoặc những người khác.
Trái lại, sự phung phí của cải một cách ngu ngốc hoặc hoang tàng hoặc để gây
đau khổ cho người khác cũng bị phê phán:
“Hỡi chư tăng, nếu thế gian biết
như ta biết về những công quả chung thì người ta sẽ không thọ dụng một mình những
công quả chung đó, người ta cũng sẽ không thọ dụng vật ô uế của sự keo kiệt.
Ngay cả khi chỉ còn một chút cuối cùng, một mẩu thức ăn cuối cùng thì họ cũng sẽ
không thọ dụng mà không chia sẻ cho kẻ khác nếu như có ai đó để mà chia sẻ”
[It.18].
Những người giàu sang tốt bụng
và đáng ca ngợi là những người tìm kiếm của cải theo cách chính trực và thọ dụng
nó để hành thiện và đem lại phúc lạc cho cả họ lẫn người khác. Theo cách đó,
nhiều đệ tử của Đức Phật đã cúng dường nhiều hoặc hầu hết của cải để hộ trì
tăng đoàn và để xóa bỏ đói nghèo và khổ đau. Chẳng hạn, phú hộ Cấp Cô Độc (Anathapindika) được Kinh Pháp cú (Dhammapada) ghi lại là hàng ngày đã tiêu
một phần lớn tiền của để nuôi một tăng đoàn hàng trăm vị cùng với hàng trăm người
nghèo khổ. Tất nhiên trong một xã hội lý tưởng dưới sự cai trị của một quân
vương chính trực và tài năng, với một nền cai trị hiệu quả, thì sẽ không còn
người nghèo, vì chí ít thì tất cả mọi người cũng đều đủ ăn, và các nhà sư sẽ chỉ
là một cộng đồng tách riêng, được nuôi dưỡng bằng khoản thặng dư của xã hội thế
tục.
Vì vậy, trái ngược với sự hình
dung của đại chúng về Phật giáo như một tôn giáo khổ hạnh, Kinh Phật thừa nhận
vai trò của tiện nghi vật chất trong sự tạo ra hạnh phúc. Tuy nhiên Phật giáo
nhắm vào sự phát triển tiềm năng của con người, và về phương diện này, sự thịnh
vượng về mặt vật chất được coi là thứ sinh. Một họat động kinh tế sinh lợi có
ích cho sự thịnh vượng có thể đóng góp cho sự phát triển của con người – sự
tích lũy của cải cho mục đích riêng không thể làm được.
Chính mệnh
Chính mệnh là một nhân tố trong
Bát chính đạo. Nó không được quyết định bởi lượng của cải mà nó sản xuất ra mà
đúng ra là được quyết định bởi sự thịnh vượng mà nó tạo ra. Nhiều sinh kế tạo
ra thặng dư của cải đã nuôi dưỡng những khát vọng chứ không phải là cung cấp
cho bất cứ một nhu cầu thực sự nào. Đối với cá nhân, mục tiêu của sinh kế là đạt
được bốn nhu cầu thiết yếu trong sự tồn tại của con người: lương ăn, quần áo, một
mái nhà che thân, và một chút thuốc thang. Hơn nữa việc có được tứ yếu phẩm này
dù là với số lượng đủ hoặc thừa thì đó
cũng không phải là mục đích tối hậu. Tứ yếu phẩm chỉ là cơ sở cho những
nỗ lực để thực hiện những mục tiêu cao hơn.
Một số người mãn nguyện với một
số của cải và chỉ cần một lượng của cải tối thiểu để dành năng lượng cho sự
tinh tiến tinh thần và tâm linh. Những người khác không thể sống hạnh phúc với
một lượng của cải nhỏ bé như vậy; họ phụ thuộc nhiều vào các sản phẩm vật chất.
Tuy nhiên chừng nào sinh kế của họ không bóc lột những người khác thì Phật giáo
không lên án sự giàu có của họ. Hơn nữa những ai có thiên hướng từ tâm có thể sử
dụng tài sản của họ bằng những cách thức lợi lạc cho xã hội như một tổng thể.
Trái ngược với các giá trị đô
thị đương đại, Phật giáo không đo lường giá trị của một con người hoặc một dân
tộc bằng sự thịnh vượng của cải. Phật giáo cũng không ngả sang một thái cực
trái ngược như các nhà tư tưởng Marxists đã thực hiện và lên án sự tích lũy của
cải như một hành động xấu trong chính bản thân hành động ấy. Thay vào đó, Phật
giáo đã xác định giá trị đạo đức của sự giàu có bằng những cách mà của cải đã
được tích lũy và được đem ra sử dụng.
Tính bủn xỉn
Việc kiếm được của cải bằng những
cách thức vô đạo và sử dụng nó cho những mục đích có hại là hai hành động tội lỗi
gắn liền với sự giàu có. Vấn đề thứ ba là tích trữ của cải – bằng cách chối từ
việc chia sẻ của cải với người khác hoặc đưa nó vào mục đích sử dụng chính
đáng. Trong câu chuyện dưới đây, Đức Phật đã kể lại chi tiết tội lỗi của sự bủn
sỉn như sau:
Một lần vua Ba Tư Nặc Câu Tát La (Pasenadi Kosala) viếng thăm Đức Phật. Nhà vua nói với Đức Phật rằng
có một người già giàu có nhưng bủn sỉn vừa mới chết mà không thừa kế cho ai khoản
tài sản khổng lồ của mình, và nhà vua đã đến giám sát việc trao khối tài sản đó
vào ngân khố của vương quốc. Vua Ba Tư Nặc mô tả khối tài sản mà ông đã phải
thu về: tám triệu đồng tiền vàng, không kể các loại tiền bằng bạc nhiều không đếm
xuể. Và ông nói khi người phú hộ già bủn xỉn đó còn sống, ông ta chỉ ăn cơm tấm
với nước dấm, mặc ba mảnh vải thô khâu tay, dùng một chiếc xe ọp ẹp để đi lại,
và che nắng bằng mấy tàu lá.
Nhận xét của Đức Phật:
“Thế đấy, thưa Đức Vua. Con người
ngớ ngẩn đó kiếm cho bằng được của cải mà không dùng cho bản thân, cũng không
chia sẻ cho người thân, cha mẹ, vợ con, người hầu kẻ hạ, bạn bè, tòng thuộc.
Ông ta không hề dâng tặng đống của cải quá lớn, nó vốn có thể đem lại lợi lạc
cho đời sống tâm linh, phúc lạc cho trần thế, cho chư thiên, và cho các thầy tu
hành khất. Số của cải không hề được tiêu dùng và không được ông ta sử dụng đó
đã bị các vua chúa sung công, bị kẻ cắp ăn trộm, bị lửa thiêu cháy, bị chôn vùi
trong lũ lụt, hoặc bị trao vào tay những kẻ bất xứng. Số của cải của ông ta đã
được tích lũy nhưng lại không được sử dụng đã bị biến đi không mục đích. Số của
cải của ông ta giống như một hồ nước trong rừng, trong sạch, mát lành nhưng lại
chỉ có lũ quỉ tận hưởng chúng. Không ai được uống, không ai được tắm rửa hoặc sử
dụng hồ nước đó.
Nếu là một con người khôn ngoan
khi có được của cải, ông ta tiêu dùng cho chính bản thân mình, cho mẹ cho cha,
cho vợ con, thân hữu, cho kẻ hầu người hạ một cách đầy đủ. Nếu ông ta cúng dường
thì đó chính là một công quả lớn, đem lại phúc lạc cho mình, cho mọi người, cho
chư thiên, cho các thầy tu hành khất. Số của cải mà ông ta có, nếu được sử dụng
chính trực thì sẽ không bị các vua chúa xung công, không bị kẻ cắp ăn cắp,
không bị lửa thiêu ra tro, không bị bão lũ cuốn trôi, không bị rơi vào tay những
kẻ bất xứng. Nếu số của cải đó được sử dụng một cách chính trực thì nó sẽ không
biến đi một cách vô ích. Của cải của ông ta giống như một hồ nước trong rừng,
cách xa làng mạc, thị thành, trong lành, mát mẻ, hữu ích. Mọi người có thể uống
đã cơn khát, tắm rửa thỏa thích hoặc mặc sức dùng theo ý muốn lợi lạc.
“Kẻ ác, có được của cải đã
không sử dụng nó lại cũng không cho ai sử dụng nó, giống hệt như một hồ nước
trong một khu rừng ma – nước không được dùng để uống, và không ai dám sử dụng
nước ở đó. Người trí có được của cải vừa sử dụng nó, lại vừa dùng để lợi lạc
cho người. Một con người như vậy là người mẫu mực, ông ta vừa phù trì cho người
thân lại vừa không bị mọi người quở trách. Người ấy đáng được sống cùng thiên
giới” [S.I.89-91].
“Thưa quân vương, những người nào khi có được
một khối của cải lớn mà không bị nó đầu độc dẫn đến sự lơ là và sự mê đắm khinh
xuất để gây hại cho người khác trên thế gian này thì thật là hiếm thấy; những
người nào khi có được một khối của cải lớn mà không bị nó đầu độc, không dẫn đến
sự lơ là và sự mê đắm khinh xuất để gây hại cho người khác trên thế gian này
thì thật sự là một con số còn quá nhỏ” [S.I.74].
Trong các Bộ kinh Phật người
keo kiệt còn được ví với một loài chim được gọi là “mayhaka” sống trên cây vả. Trong khi tất cả những con chim khác sống
thành đàn trên cây và cùng nhau ăn quả vả, thì con chim kia lại đậu đơn lẻ một
mình và kêu “mayham, mayham” (của ta,
của ta) [J.III.299-302].
Nói tóm lại, những hành động độc
ác gắn liền với của cải có thể xuất hiện dưới ba dạng: làm giàu một cách bất
lương; hoặc vô đạo; tích trữ của cải vì mục đích riêng; và sử dụng của cải một
cách tàn hại.
Tìm hiểu những giới hạn của giàu có
Những người giàu có đức hạnh sử
dụng của cải của mình để làm nhiều việc thiện cho bản thân họ và cho người
khác, nhưng trí nhân chân chính hiểu rõ rằng bản thân của cải không thể làm cho
họ được giải thoát. Trong những đoạn trích dẫn dưới đây, Đức Phật đã cắt nghĩa
về những hạn chế của của cải và chủ chương khuyến khích chúng ta cố gắng đạt tới
những gì cao cả hơn những sở hữu vật chất kia.
“Nghiệp, trí, phẩm chất, đạo đức
và cuộc sống lý tưởng: tất cả đều là phương tiện để định giá sự thuần khiết của
một con người, chứ không phải là của cải hoặc danh tính” [4].
“Ta thấy trong thế gian này những
người giàu có thay vì chia sẻ của cải cho những người xung quanh, thì lại trở
thành nô lệ của của cải; họ tích trữ của cải và ngày càng mãn nguyện vì của cải”.
“Các vị quân vương chinh phục
các vùng đất mới, thống trị những lãnh địa trải dài từ bờ biển này đến bờ biển
kia nhưng họ lại không bao giờ thỏa nguyện được với giới hạn của bờ biển dưới
quyền mình – họ mong muốn giới hạn ấy mở sang cả bờ bên kia nữa. Cả các vị quân
vương cũng như những người dân thường đều phải chết trong ham muốn không cùng của
dục vọng và thèm khát. Họ xả thân vì những thèm khát không cùng. Trên đời này
không gì có thể thỏa mãn được những dục vọng về cơn khát vật chất”.
Khi người thân nhắm mắt xuôi
tay từ giã cuộc đời này, chúng ta thường than van: “Ôi giời ơi, nỡ lòng nào người
bỏ chúng tôi mà đi”. Chúng ta cuốn thi thể người thân bằng manh chiếu, đặt trên
dàn và thiêu; chúng ta chất thêm củi đốt cho đến khi thi thể ấy ra tro. Tất cả
những gì mà con người ấy có thể mang theo chỉ là manh chiếu đã biến thành tro bụi,
còn bao nhiêu của cải đều gửi lại thế gian”.
“Khi thời khắc cuối cùng đã định,
thì không có bất cứ ai, không thân bằng quyến thuộc nào có thể ngăn được cái điều
tất yếu phải xảy ra kia. Toàn bộ của cải đã đành phải để lại, trong khi người
chết buộc phải ra đi theo nghiệp của mình. Khi thời khắc đã điểm, ta chẳng thể
đem theo được bất cứ vật gì ngay cả chồng, cả vợ cả con, cả đất đai, tiền bạc.
Trường thọ không thể có được nhờ của cải, tuổi già không thể xua đi được nhờ của
cải. Người trí hiểu rằng cuộc đời này quá ngắn ngủi, bất định, vô thường”.
“Cả người giàu lẫn kẻ nghèo đều
phải trải qua mọi ái ố hỉ nộ; cả người
ngu lẫn kẻ trí đều phải trải nghiệm nó. Nhưng kẻ ngu, vì không có trí khôn nên
nên bị nó đánh bẫy và cuốn đi. Trong khi đó kẻ trí mặc dù trải qua mọi cảm giác
kia nhưng anh ta không lay động. Vì vậy trí tuệ vẫn giá trị hơn của cải, vì nó
đưa ta đến những mục đích sống cao cả hơn” [M.II.72-3; Thag.776-784].
Thái độ tinh thần đối với của cải
Một cư sĩ tại gia không chỉ kiếm
tìm của cải đúng luật và tiêu dùng của cải đó vì mục đích lợi lạc, mà còn biết
thọ dụng sự giải thoát về tinh thần, bằng cách không tham luyến của cải, không
đắm chìm cùng của cải, không trở thành nô lệ cho của cải. Đó chính là nơi trần
thế và siêu thoát gặp cùng. Đức Phật đã phân người trần (kamabhogi – Dục ái, kẻ tham đắm dục lạc) thành nhiều cấp độ khác
nhau theo phương tiện luật pháp: làm giàu theo đúng pháp luật hay phi pháp,
tiêu dùng của cải vì hạnh phúc của mình và của người khác hay là thái độ tham
lam keo kiệt hoặc trí huệ khôn ngoan, không bị của cải giàng buộc. Loại người
cao thượng nhất là người thụ hưởng cuộc sống cả ở nhân giới lẫn thiên giới như
sau đây:
Trần thế:
1. Tìm kiếm sự thịnh vượng một cách hợp pháp và lương
thiện
2. Phù hợp với nhu cầu riêng
3. Chia sẻ với người khác và thực hành những hành động
chính đáng
Thiên giới:
4. Thọ dụng của cải nhưng phải tránh hoạ tham, sân,
si và thủ của đặng để đảm bảo tự do tinh thần.
Một người như vậy được gọi là Chính môn đệ tinh tiến
hướng đến quả vị Arahan (La Hán). Đặc biệt đáng lưu ý ở đây là tính tương hợp
giữa các phạm vi trần thế và siêu vượt của đời sống kết hợp để tạo nên tổng thể
thống nhất của đạo đức học Phật giáo, là một đạo đức học chỉ thành tựu khi được
thống nhất với phạm trù siêu vượt.
Tuy nhiên, dù là đại hữu ích, nhưng không nên gán cho của
cải một tầm quan trọng thái quá. Các hạn chế của nó liên quan đến việc thực hiện
mục đích Niết Bàn cũng nên được thừa nhận. Dẫu ở cấp độ trần gian nghèo khó là
một thứ cần phải tránh, nhưng một người nghèo vẫn không hoàn toàn bị tước đoạt
phương tiện để hành thiện cho bản thân hoặc xã hội. Thập công đức có thể bắt đầu
bằng cho, nhưng còn có cả thực hiện đạo đức, tinh tiến phẩm hạnh tinh thần,
giúp đỡ người khác, và thuyết Pháp. Vì nghèo khổ nên người ta có thể quá bận
tâm đến cuộc mưu sinh, làm bất cứ việc gì cho thành công riêng của mình, nhưng
khi các nhu cầu cơ bản của đời sống đã được thoả mãn nếu một người có phẩm hạnh
và có động cơ tinh thần thì không có lý do gì lại không thực hiện được quả vị
La Hán. Trong khi tài sản như là một nguồn để đạt được điều thiện cho xã hội
có thể giúp tạo ra những hoàn cảnh như ý để thực hiện quả vị La Hán thì cuối
cùng đó cũng là độ chín muồi tinh thần và trí tuệ, chứ không phải là của cải hiện
thực hoá được quá trình đó. Tài sản bị sử dụng sai và bị lạm dụng không chỉ
gây trở ngại cho sự phát triển cá nhân, mà có thể còn có thể làm hại xã hội nữa.
“Của cải tàn phá kẻ ngu, nhưng không động được đến người
tìm kiếm mục đích cao cả” [Dh.335].
Một cuộc sống tự do – là cuộc sống không quá phụ thuộc
vào của cải vật chất – là một cuộc sống không chím đắm trong vật chất. Cuộc sống
đó đòi hỏi một tri thức minh nhiên về những lợi lạc và giới hạn của các loại của
cải vật chất. Không có một trí tuệ như vậy, chúng ta đánh đổi toàn bộ hạnh phúc
của mình cho đống của cải vật chất, ngay cả khi chúng không bao giờ đưa ta đến
được với những cấp độ trí tuệ cao hơn. Vì bản chất thực của mình mà của cải vật
chất không có khả năng thỏa mãn được hoàn toàn khát vọng của con người: chúng
không vĩnh hằng và bền lâu, chúng không thể được kiểm soát tối hậu và rõ ràng
là cuối cùng chúng cũng tan biến đi. Tham luyến của cải, chúng ta phải chịu những
đau khổ không cần thiết. Khi sinh ra, của cải không sinh cùng chúng ta, khi chết
đi, chúng ta cũng không thể đem của cải đi cùng.
Được sử dụng một cách khôn ngoan, của cải vật chất có thể
giúp giảm bớt khổ đau, nhưng khi sử dụng không khôn ngoan, chúng sẽ chỉ chất
thêm gánh nặng cho con người. Nếu biết tiêu dùng của cải một cách chừng mực,
chúng ta có thể tìm thấy những giá trị thật của chúng.
Người nào trở nên giàu có bằng cách làm lụng chăm chỉ và
sử dụng số của cải đó cho mình và cho người xung quanh thì Phật giáo gọi là thù
thắng trong cả nhân giới lẫn thiên giới [D.III.181]. Khi trí huệ được sử dụng để
hướng đến kết giải (nissarana-panna)
thì người ta không bao giờ bị nô lệ cho của cải, cũng không bao giờ bị của cải
đè nặng cuộc đời.
Những đặc trưng
chính của Kinh tế học Phật giáo
1. Kinh tế học
Trung đạo: hiện thực hoá phúc lạc chân chính
Phật giáo là toàn bộ các Pháp
qui về Trung đạo, số lượng vừa đủ và hiểu biết về sự điều độ, và toàn bộ những
thuật ngữ này có thể được coi là đồng nghĩa với ý tưởng về sự thăng bằng hoặc
quân bình. Trong Kinh Phật, hiểu biết về sự điều độ được gọi là mattannuta. Mattannuta là sự xác định đặc trưng của kinh tế học Phật giáo. Hiểu
biết sự điều độ có nghĩa là hiểu biết một lượng tối ưu, biết được bao nhiêu
thì “vừa đủ”. Đó là một nhận thức về điểm tối ưu mà trong đó việc làm tăng tiến
phúc lạc chân chính trùng hợp với kinh nghiệm mãn nguyện. Điểm tối ưu hoặc điểm
cân bằng đạt được khi chúng ta trải qua sự thoả mãn đáp ứng được nhu cầu chất
lượng sống hoặc phúc lạc. Chẳng hạn việc tiêu thụ hoà hợp với Trung đạo, phải
được cân bằng với một số lượng phù hợp để đạt được hạnh phúc chứ không phải
là thoả mãn các dục vọng. Vì vậy, trái ngược với phương trình kinh tế học cổ
điển về việc tiêu thụ tối đa dẫn đến thoả mãn tối đa, chúng ta có phương trình
tiêu thụ khôn ngoan dẫn đến phúc lạc thực sự.
2. Kinh tế học
Trung đạo: không làm hại mình và sinh linh khác
Một ý nghĩa khác của thuật ngữ
“Độ lượng” – Một lượng điều độ – ẩm thực độ lượng) là không làm hại mình và
người khác. Đây là một nguyên tắc quan trọng khác và được sử dụng trong Phật
giáo như là một tiêu chuẩn cơ bản của hành động nhân tính, mà không chỉ liên
quan đến tiêu thụ, mà là đến toàn bộ hành vi của con người. Về vấn đề này có
thể lưu ý rằng trong Phật giáo “không làm hại người khác” không chỉ áp dụng
cho con người mà cho tất cả mọi sinh linh.
Từ quan điểm Phật giáo, các
nguyên tắc kinh tế liên quan đến ba khía cạnh tương hỗ của tồn tại con người:
con người, xã hội và môi trường tự nhiên. Kinh tế học Phật giáo phải hoà hợp
với toàn bộ quá trình nhân quả, và để làm được điều đó nó phải có một mối quan
hệ chính xác với tất cả ba lĩnh vực đó, và đến lượt mình, chúng phải hài hoà
và tương hỗ lẫn nhau. Hành vi kinh tế phải xảy ra theo cái cách là nó không
làm hại mình (bằng việc làm suy thoái chất lượng sống) và không làm hại sinh
linh (bằng cách gây ra những vấn đề xã hội hoặc mất cân bằng môi trường sinh
thái).
Thời đại ngày nay đang nổi lên
vấn đề môi trường tại các nước đang phát triển. Người ta đang lo lắng về các
họat động kinh tế bắt buộc phải sử dụng các hoá chất độc hại và các nhiên liệu
hoá thạch. Những hành vi như vậy làm hại đến sức khoẻ các cá nhân và đến phúc
lợi xã hội và môi trường. Chúng có thể bao gồm trong đoạn sau: “hại mình, hại
sinh linh” và đã trở thành một vấn nạn đối với loài người.
_________________________________________
Còn nữa...
Nguồn: Buddhist
Economics – A Middle Way for the Market place by Ven. P.A. Payutto.
Translated into English by Dhammavijaya and Bruce Evans; Compiled by Bruce
Evans and Jourdan Arenson. http://www.buddhanet.net/cmdsg/payutto.htm.
Ghi chú:
3. Xem chẳng hạn, A.II.204; Tiểu
kinh Phân biệt (Culakammavibhanga Sutta
trong M.III)
4. M.III.262; S.I.34, 55. Người
ta cho rằng “action” ở đây có nghĩa là Chính nghiệp (Right Action), “knowledge”
là Chính tư duy (Right Thought), và Chính kiến (Right View), Pháp (qualities)
là những yếu tố của Định (samadhi), Chính
mệnh (Right Livelihood).
5. Xem Phụ lục.
A. =
Anguttara Nikaya (5 vols.) (Tăng nhất A hàm, Tăng nhất bộ kinh 5 tập)
Comp. = Compendium of Philosophy
(Abhidhammatthasangaha) (A tì đạt ma bát tăng già luận)
D. = Digha Nikaya (3
vols.) (Trường bộ kinh – 3 tập)
S. = Samyutta Nikaya (5
vols.) (Kinh A hàm bộ 5 tập)
Vin. = Vinaya Pitaka (5
vols.) (Luật tạng, 5 tập)
Vism. = Visuddhimagga (Thanh tịnh
đạo luận)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét