Powered By Blogger

Thứ Ba, 17 tháng 7, 2012

Kinh Lăng già (I)



Kinh Lăng già (I)

Người dịch: Hà Hữu Nga*

Phân biệt

Tôi từng nghe như vầy: Đức Thế Tôn một lần đến thành Lăng Già, trên đỉnh Ma lại da nằm giữa biển lớn. Vô số các vị Bồ Tát Ma Ha Tát đã tụ hội về đây từ mọi Phật Địa cùng với hội chúng tì kheo đông đảo. Các vị Bồ Tát Ma Ha Tát do Bồ tát Đại Huệ (Mahamati) làm thượng thủ đều là các bậc tự tại chứng đắc các Tam Ma Địa, Thập chủng Tự tại, Thập lực và Lục thông. Các ngài đã được Đức Phật làm phép quán đỉnh, tất cả đều thấu hiểu ý nghĩa của cảnh giới; đều làu thông các phương tiện thiện xảo, các pháp và các phương tiện trí tuỳ thuộc vào tâm thức và hành vi của từng loại chúng sinh; tất cả đều thông đạt Năm pháp, Ba tự tính, Tám thức và Hai vô ngã. 

Đức Thế Tôn hiểu rõ những bối rối của chúng hội, giống như bề mặt của đại dương xao động những cơn sóng khi gió thổi qua; khởi tâm đại bi, Ngài mỉm cười nói: Chư Như Lai trong quá khứ khi còn là các La Hán và các bậc Chánh giác đã từng đến thành Lăng Già trên núi Ma lại da tuyên thuyết về Chân lý Tối hậu vượt khỏi tầm hiểu biết của ngoại đạo cũng như của hàng thanh văn duyên giác; chân lý đó chỉ có thể chứng ngộ bởi thâm diệu thức; nay ta vì các vị, sẽ thuyết giảng chính chân lý đó. Toàn bộ cảnh giới hiện bày trước mắt đều là không, bởi vì toàn bộ sự vật trong thế gian này cũng giống hệt một giấc mơ, một hình ảnh phản chiếu trong gương. Ngoại đạo và những kẻ vô minh không thể hiểu được điều này, chỉ những ai nhìn sự vật như vậy thì mới thấy biết. Những kẻ nhìn sự vật khác thế chỉ là những kẻ phân biệt và kết buộc vào phân biệt, họ là những kẻ chấp trước vào nhị biên thuyết. Cảnh giới khi được nhìn bởi con mắt phân biệt cũng hệt như khi ta nhìn vào một hình ảnh phản chiếu trong gương, hoặc nhìn thấy một cái bóng hoặc mặt trăng trong nước hoặc nghe một tiếng vọng trong thung lũng. Những kẻ kết ái vọng tưởng phân biệt luôn luôn chấp trước vào hữu vô mà không thể đoạn diệt được nhị biên thuyết nên họ cứ tiếp tục phân biệt mà không bao giờ đạt tới thanh tịnh. Thanh tịnh có nghĩa là Nhất thể, và Nhất thể khởi sinh đại định đạt được bằng thể chứng Thánh trí địa, trong thâm diệu thức.

Khi ấy toàn thể các vị Bồ tát Ma Ha Tát đồng đứng dậy bày tỏ lòng cung kính và Bồ tát Đại Huệ nương thần lực của Chư Phật bày vai áo phải quì gối chắp tay cung kính tán thán Đức Phật bằng bài kệ như sau:

Thế gian dường hoa đốm,
Khởi Đại từ bi tâm,
Khởi đại nhất thiết trí,
Sinh không, Diệt cũng không;
Thế gian dường huyễn mộng
Khởi đại từ bi tâm,
Khởi đại nhất thiết trí –
Thường, hoại, hữu, vô không;
Khởi đại từ bi tâm,
Khởi đại nhất thiết trí,
Vạn pháp lìa tâm thức,
Hữu không tất vô không;
Khởi đại nhất thiết trí,
Khởi đại từ bi tâm,
Vạn pháp thường vô ngã,
Cả nhân và phi nhân,
Thảy vô ngại thanh tịnh;
Không tịch diệt Niết bàn,
Không vĩnh hằng tĩnh lặng;
Niết bàn bất nhị tri,
Niết bàn bất vô hữu;
Kẻ trí thường như vậy,
Tĩnh lặng khởi vô niệm,
Lìa chấp, lìa lậu hoặc,
Trong trần cấu, vô cấu;
Trần gian như huyễn  mộng,
Vốn dựng thành nhị biên;
Nhưng tối hậu Pháp thân,
Đã sạch làu phân biệt,
Lấy gì làm thị phi?
Ôi cung kính Đấng thánh trí.

Khi ấy Bồ tát Ma Ha Tát Đại Huệ cung kính: Bạch Thế Tôn, Đấng Thiện thệ, Ứng cúng, Thế gian giải, xin hãy vì chúng con giải nói về con đường tự chứng Thánh trí, hầu giúp đại chúng Bồ Tát sạch làu vọng tưởng phân biệt ngoại đạo về hữu – phi hữu, nhất tính, tha tính, nhị tính và phi nhị tính, tồn tại và không tồn tại, thường và vô thường; sạch làu huân tập biệt tướng, cộng tướng, hoặc bất cứ vọng tưởng tâm khởi nào; hầu đạt tới tự chứng Thánh trí, tinh tiến lên các địa thanh tịnh cuối cùng thể chứng quả vị Như lai địa, nhờ đó, bằng năng lực của các lời nguyện vô công dụng, hành giả sẽ quán sát được vô lượng thế giới, giống như một viên ngọc toả dạng vô vàn sắc màu, hầu giúp chúng Bồ tát Ma ha tat đưa được tất thảy chúng sinh đến giải thoát.

Thế Tôn khen: Lành thay, Lành thay, Đại Huệ! Thực sự Lành thay! Vì lòng  từ bi của ông sẽ lợi lạc cho mọi chúng sinh kể cả thế gian lẫn chư thiên mà ông đã mong cầu ta giải nói. Vì vậy, này Đại Huệ, ông hãy lắng nghe và khéo ngẫm những điều ta sẽ nói, và ta sẽ chỉ bày cho ông.

Rồi đó Bồ tát Đại Huệ cùng chúng Đại Bồ tát cung kính lắng nghe Đức Thế tôn. Ngài dạy: Này Đại Huệ, vì kẻ phàm phu, ngu tối không biết rằng thế gian chỉ là cái thấy của tâm bởi chấp trước vạn hữu ngoại giới, chấp trước vọng tưởng tồn tại, không tồn tại, nhất tính - tha tính, nhị tính - bất nhị tính, hữu - vô, thường - vô thường và tưởng rằng chúng có một tự tính, tất thảy đều hiện khởi từ tâm phân biệt và chịu kết buộc bởi huân tập, và vọng tưởng. Tất cả chỉ là những ảo ảnh giống như bầy thú khát bỏng trên đồng cát, mắt hoa lửa nắng mê loạn lao về  phía trước ngỡ tưởng đó là suối mát. Này Đại Huệ, cũng hệt như vậy, kẻ phàm phu tăm tối tâm nung đốt bởi lửa tham sân si cầu tìm khoái lạc trong thế gian phân biệt chấp trước sinh, trụ, hoại mà không hề biết thế nào là hữu - vô, và rơi vào vọng tưởng phân biệt từ thời vô thuỷ, đắm chìm trong phiền não.    

Điều đó chẳng khác nào như ngôi thành của Càn Thát Bà chỉ là ảo ảnh giữa hư không bởi vì kẻ ngu chấp trước vào ký ức về một ngôi thành như một chủng tử; vì thế có thể coi ngôi thành là vừa tồn tại vừa không tồn tại. Cũng hệt như vậy việc kết buộc vào những phán đoán vọng tưởng và những ngụy biện tích tập từ thời vô thuỷ, thủ chấp những vọng tưởng như nhất tính, tha tính, tồn tại, không tồn tại, và họ không hề biết rằng tất cả những thứ đó chỉ là vọng tâm mà thôi. Chẳng khác nào kẻ kia mộng thấy vô số nam nữ, ngựa xe, làng mạc, thị thành, trâu bò, nhà cửa, vườn tược, núi sông, ao hồ, kẻ qua người lại trong ngôi thành đó; cho đến khi dứt mộng, y vẫn bâng khuâng luyến nhớ trong ký ức. Này, Đại Huệ, ông nghĩ sao? Kẻ để tâm trí mình cuốn theo những huyễn mộng đó là người trí hay kẻ ngu? Hệt như vậy, những kẻ u mê ái trước huyễn mộng của ngoại đạo không thể nhận ra rằng những ảo ảnh kia chỉ do tâm sinh bởi những bóng chớp của nhất tính và tha tính, của tồn tại và không tồn tại mà thôi. Chẳng khác nào trên tấm vải của họa công kẻ ngu vọng tưởng núi cao lũng thấp. Cũng hệt như vậy những kẻ vọng tưởng nhất tính, tha tính, nhị tính, bất nhị tính vì tâm trí họ bị huân tập bởi những ảo ảnh lại đổ thừa cho người tuyên thuyết chân lý bất sinh là hư vô; việc làm đó của họ không chỉ hại người mà còn huỷ hoại chính bản thân họ. Ái trước vào nhân quả, ngoại đạo tứ chấp đã bật rễ thiện căn, cản ngăn đạo thanh tịnh. Người cầu tầm chân lý cần tránh xa những kẻ đó.        

Chẳng khác nào kẻ mắt mờ nhìn vạn vật qua mạng che mặt mà vẫn cứ khăng khăng la lớn: “Tuyệt vời làm sao! Thưa tôn sư, Tuyệt vời làm sao!”. Nhưng sự thật lại chẳng hề có chiếc mạng che mặt nào cả. Nó không phải là một thực thể, cũng không phải là phi thực thể, vì người ta vừa thấy lại vừa không hề thấy nó. Cũng hệt như vậy, những kẻ chấp trước tâm phân biệt thủ ái vọng tưởng của ngoại đạo sẽ phủ nhận chân pháp và hậu quả sẽ vừa hại người lại vừa huỷ hoại chính bản thân mình.  

Chẳng khác nào kẻ ngu nhìn thấy chiếc vòng lửa khi quay khúc củi đang cháy, thực ra chẳng hề có chiếc vòng nào cả. Cũng giống hệt như vậy, tai quen phân biệt, tâm quen vọng tưởng của ngoại đạo sẽ coi vạn hữu sinh ra là không tồn tại và bị huỷ hoại bởi luật nhân quả là tồn tại. Còn như gương kia tuỳ duyên soi tỏ hình ảnh, màu sắc mà không bợn bất cứ một kiến hoặc nào. Trong khi đó tâm phân biệt thấy tiếng gió vọng trong thinh không lại tưởng giọng người, thấy huyễn ảnh tưởng suối tuôn trong sa mạc. Cũng hệt như vậy, tâm phân biệt của kẻ phàm phu bị thiêu đốt bởi những huyễn ảnh và kiến chấp luôn bị khuấy động bởi những cơn gió sinh trụ hoại. Chẳng khác nào Đạm Tinh quỷ dùng mê phương làm cho một hình nhân gỗ hoặc một tử thi máy động như người sống mặc dầu nó chẳng có mảy may sinh khí. Hệt như vậy, kẻ phàm phu ngu dốt ngập chìm trong vọng tưởng nhất tính, tha tính ngoại đạo. Vì vậy, này Đại Huệ, ông cùng chúng Đại bồ tát Ma ha tát cần rời xa phân biệt chấp trước vào các vọng tưởng sinh, trụ, diệt, các vọng tưởng nhất tính, tha tính, nhị tính, bất nhị tính; giải chấp các vọng tưởng hữu, vô, xa lìa huân tập phân biệt hầu đạt Tự chứng Thánh trí.           

Rồi đó Bồ tát Đại Huệ cung kính bạch Đức Thế tôn: Tại sao kẻ ngu phải từ bỏ phân biệt còn người trí thì không thưa Thế tôn?

Đức Thế tôn đáp: đó là vì kẻ ngu kết ái vào danh tướng, sắc tướng, tưởng tướng; khi tâm họ máy động theo những tướng trạng này thì chúng nuôi dưỡng vạn hữu phân biệt và đắm chìm trong vọng tưởng ngã chấp tập khí**; họ phân biệt mọi danh tướng, sắc tướng, tưởng tướng thành tốt xấu và ái kết với kẻ biểu đồng tình, để rồi lại rơi vào vô minh, luân hồi trong tam độc kiếp tham sân si. Nghiệp lực càng tích tụ họ càng đắm chìm vào phân biệt mà không thể nào giải thoát khỏi luân hồi sinh tử.

Vì si mê nên họ không thể biết được rằng vạn hữu chỉ là ảo hoá, chẳng khác nào mặt trăng trong đáy nước, chẳng hề có tự tính nào như vọng tưởng của ngã chấp tập khí, và hết thảy mọi vọng tưởng của họ đều khởi lên từ phân biệt vạn hữu, đều hệt như vạn hữu tâm khởi. Họ không hề biết rằng vạn hữu không hề liên quan gì đến sinh, trụ, hoại, thay vào đó họ xác quyết rằng hết thảy đều do một tạo hoá, do thời gian, do các chủng tử, các chư thiên sinh khởi. Vì thế kẻ ngu cần từ bỏ phân biệt, là thứ luôn máy động cùng các tướng trạng, còn người trí thì lại không cần, vì tâm không còn máy động cùng các tướng trạng đó nữa.
_________________________________  

Còn nữa…

Nguồn: The Lankavatara Sutra - Self-Realisation of Noble Wisdom, Bản tiếng Anh của D.T Suzuki dịch (công bố lần đầu năm 1932) từ tiếng Phạn, có đối chiếu với bản tiếng Pali và tiếng Hán, Dwight Goddard, học trò của D.T. Suzuki biên soạn.

Ghi chú của Người dịch

* Gần đây, Liam C. Kelley viết về Việt Nam, thấy loay hoay quá mức với những ý niệm vô nghĩa như bản sắc, căn cước làm cho người đọc phát chán; những lúc như vậy, cách tốt nhất là quay về với dòng suối mát Lankavatara Sutra và ghi đi ghi lại bằng tiếng Việt; cho đến khi nào thấy thật bình tâm, vì vậy đây không chỉ đơn thuần là bản dịch, mà còn là một lần đắm mình trong Lankavatara Sutra, dù đó là bản tiếng Việt, tiếng Phạn, tiếng Hán, hay tiếng Anh thì cũng vẫn là một. 

** Năm từ năm 2001 đến 2004, khi bắt tay vào đọc tập Lankavatara Sutra này của Suzuki và Goddard tôi đang làm chuyên gia tư vấn về dân tộc thiểu số cho một Dự án của Ngân hàng Thế giới tại miền Trung và Tây Nguyên. Sở dĩ tôi đọc Suzuki bằng tiếng Anh, vì nghĩ rằng Kinh Lăng già gốc được viết bằng chữ Phạn (Sanskrit), một thứ ngôn ngữ Ấn - Âu, trong khi đó Lankavatara Sutra lại do bậc thầy Suzuki dịch trực tiếp từ một thứ ngôn ngữ Ấn - Âu này (Sanskrit) sang một thứ ngôn ngữ Ấn - Âu khác (tiếng Anh) thì chắc chắn mức độ chính xác sẽ rất cao. Hầu hết thời gian tôi và vợ rời nhà, lang thang khắp các buôn làng xa xôi héo lánh nhất của 5 tỉnh Tây Nguyên là Lâm Đồng, Đak Lak, Đak Nông (tách khỏi Đak Lak từ 2003), Gia Lai, Kon Tum; và 6 tỉnh miền Trung là Phú Yên, Bình Định, Quảng Ngãi, Quảng Nam, Thừa Thiên Huế, và Quảng Trị, một năm chỉ về Hà Nội 2-3 lần, mỗi lần 1-2 tuần là nhiều, nên tôi không có điều kiện đi thư viện tra cứu tư liệu. Vì vậy khi gặp từ ego-soul trong bản tiếng Anh của Lankavatara Sutra tôi thực sự không hiểu đó là gì; cả egosoul theo cách hiểu phương Tây đều là những khái niệm hoàn toàn không có trong ngữ vựng Phật học. Tôi mất 5 tháng để suy nghĩ về thuật ngữ kép này, và cuối cùng đành chịu, không dịch được, vì nếu dịch ngã-linh hồn theo cách word-for-word thì hoàn toàn vô nghĩa. Mãi đến khi kết thúc Dự án, trở về Hà Nội vào năm 2005 tôi mới có điều kiện tham khảo Phạn bản và được biết Suzuki dùng ego-soul để dịch cụm từ Ātman-gráha-vāsanā आत्मनग्रहवासना của tiếng Sanskrit, mà tiếng Hán dịch là ngã chấp tập khí. Vì vậy tôi đã dịch ego-soul là ngã chấp tập khí.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét