Åmund Norum Resløkken and John Ødemark
Người dịch: Hà Hữu Nga
‘Câu chuyện’
Quan niệm của Callon về tính đối xứng và phiên dịch có những hệ quả quan trọng trong việc thiết lập một thể loại tự sự, và cái cách thức mà thể loại này xử lý các tác nhân phi-nhân. Chúng ta sẽ khảo sát lại điểm này bên dưới, nhưng trước tiên, chúng ta cần xem xét cốt truyện chính của Callon, cụ thể là ‘lời kể’ của người quan sát hay ‘câu chuyện’. ‘Câu chuyện’ là một tường thuật do chính Callon tạo ra, gồm (i) Những sự kiện mà chính ông, với tư cách là một tác giả-nhà dân tộc học, quan sát và mô tả, và; (ii) Những câu chuyện mà nhà khoa học, đối tượng nghiên cứu của ông, tổ chức các tác nhân khác (như sò điệp và ngư dân) tạo ra các sự kiện trong câu chuyện của họ về các sự kiện đó. Callon cung cấp cho chúng ta một danh sách các tác nhân (sò điệp, ngư dân, nhà khoa học) và mô tả họ là ‘một loạt tác nhân’ liên quan đến câu hỏi ban đầu của các nhà khoa học ‘Liệu Pecten Maximus có neo trụ được không?’ (ibid. 1986: 205). Chính các nhà khoa học, thông qua mối quan hệ của họ với câu hỏi này, quyết định cách thức mà các tác nhân khác sẽ được đưa vào câu chuyện. Hơn nữa, chính Callon, người quan sát, là người trích xuất những mô tả này và quyết định cách thức “tổng hợp” chúng lại (ibid. 1986: 204). Bằng cách chỉ tạo ra một thế giới tự sự cho người đọc, “câu chuyện”, trái ngược với “câu chuyện của tôi” hay “câu chuyện của họ” và lấp đầy bằng những tác nhân được gán cho cùng một loại tác tố, Callon đã mở đường cho bước tiến nhận thức luận mà Xã hội học Phiên dịch, và sau này là ANT, trở nên nổi tiếng với việc thực hiện, cụ thể là tính đối xứng—được cho là—giữa các tác nhân con người và phi-nhân.
Kẻ hành động
Sau khi xác định thế giới được tường thuật của Callon và cách thức mà các tác nhân được đưa vào đó, giờ đây chúng ta hãy chuyển sang cách khái niệm hóa “tác nhân” của ông. Điều quan trọng ở đây là một tham chiếu liên văn bản và liên ngành cụ thể; trong chú thích ngay sau câu được trích dẫn ở trên (nơi Callon xác định các tác nhân được đưa vào câu chuyện), ông liên hệ khái niệm “tác nhân” với ký hiệu học và tự sự học: [Tr.73] Thuật ngữ tác nhân được sử dụng theo cách mà các nhà ký hiệu học sử dụng khái niệm ‘actant’ kẻ hành động (Greimas và Courtés 1979; Latour 1984). Đối với hàm ý của các tác nhân bên ngoài trong việc kiến tạo tri thức khoa học hoặc các tác vật, hãy xem cách Pinch và Bijker (1984) sử dụng khái niệm về một nhóm xã hội. Lối tiếp cận được đề xuất ở đây khác với lối này theo nhiều cách: thứ nhất, như sẽ được đề xuất bên dưới, danh sách các tác nhân không bị giới hạn ở các thực thể xã hội; nhưng thứ hai, và quan trọng nhất, là vì định nghĩa về các nhóm, bản sắc/đồng nhất tính/danh tính và mong muốn của họ đều được thương lượng liên tục trong quá trình phiên dịch. Do đó, đây không phải là dữ liệu được cho trước, mà mang hình thức của một giả thuyết (một vấn đề hóa) được đưa ra bởi một số tác nhân nhất định và sau đó bị làm suy yếu, xác nhận hoặc chuyển đổi. (Ibid. 1986: 227–228, fn21, chúng tôi nhấn mạnh)
Đối với Callon—như chúng ta cũng sẽ thấy ở Latour bên dưới—ký hiệu học và tự sự học là những khoa học mẫu mực, chính xác là vì chúng nghiên cứu các dấu hiệu, sự kiện và hành động trong cả tự nhiên lẫn văn hóa. Do đó, lý do Callon chọn “cách sử dụng của nhà ký hiệu học” về “khái niệm actant kẻ hành động”, là vì nó mở rộng “danh sách các tác nhân” sang phạm vi phi-nhân (như loài sò điệp). Hơn nữa, ông sử dụng actant để làm nổi bật sự hình thành các nhóm trong “quá trình phiên dịch”. Tác nhân group-actant nhóm-kẻ hành động của Callon được định nghĩa theo ý nghĩa mà các nhóm cụ thể do “các tác nhân được nghiên cứu” gán cho, tức là chúng là các phạm trù emic. [Thuật ngữ emic trong nhân học bắt nguồn từ ngôn ngữ học, cụ thể là từ công trình của Kenneth Pike vào những năm 1950; Pike lấy “emic” từ “phonemic”, dùng để chỉ việc nghiên cứu các đơn vị âm thanh trong một ngôn ngữ cụ thể có chức năng phân biệt nghĩa; trong nhân học, “emic” biểu thị góc nhìn của người trong cuộc, tập trung vào việc hiểu các hiện tượng văn hóa từ những người thuộc chính nền văn hóa đó. HHN] Theo đúng nghĩa, group-actant luôn là kết quả của một tên gọi và bản dịch prior có trước được thực hiện bởi các tác nhân khác bên trong thế giới câu chuyện của mô tả ANT (giống như các nhà khoa học nói về các ngư dân và lũ sò điệp với tư cách là những nhóm khác với bản thân họ).
Những group-actants nhóm kẻ hành động như vậy gia nhập câu chuyện như một kết quả của cái mà Callon gọi là một bản dịch. Ta có thể nói, câu chuyện của Callon là về cách thức mà những tác nhân được phiên dịch này (giống như lũ sò điệp) hoàn thành hoặc thách thức những ý nghĩa và chức năng mà “các nhà khoa học” ban cho chúng. Một mặt, tên của collective agencies các tác tố tập thể là những phạm trù emic của người trong cuộc, tức là chúng phản ánh những phân loại được tạo ra bởi các nhân vật mà Callon kể cho chúng ta về chúng/họ; còn các nhà khoa học thì nói về sò điệp và ngư dân. Mặt khác, việc nói về bản dịch và các tác nhân được dịch lại nằm ngoài cái thế giới mà Callon nói đến—theo thuật ngữ tự sự học, nó là ngoại truyện, ngôn ngữ của khoa học xã hội, nó là etic của người ngoài cuộc — “kho tàng phiên dịch...không phải là của các tác nhân được nghiên cứu” (ibid. 1986: 200). Như Callon nói thêm, “từ vựng được chọn cho những mô tả và giải thích này có thể tùy thuộc vào suy xét của người quan sát. Anh ta không thể chỉ đơn giản lặp lại phân tích do các tác nhân mà anh ta đang nghiên cứu gợi ý” (ibid.: 200). Tuy nhiên, lựa chọn này đi kèm với một nghĩa vụ. “Sau khi chọn văn bản này làm vốn từ vựng để dịch, chúng tôi biết rằng câu chuyện của chúng tôi không hơn, nhưng cũng không kém giá trị so với bất kỳ vốn từ vựng nào khác” (ibid.: 200). Do đó, một vốn từ vựng rõ ràng là tốt hoặc xấu hệt như vốn từ vựng khác vậy.
Tuy nhiên, “quyền tự do” lựa chọn từ vựng sớm [tr.74] được kết nối với một nghĩa vụ, vì “với nguyên tắc đối xứng tổng quát, quy tắc mà chúng ta phải tôn trọng là không thay đổi các danh mục khi chúng ta chuyển từ khía cạnh kỹ thuật sang khía cạnh xã hội của vấn đề được nghiên cứu” (ibid.: 200). Vì vậy, nếu ngôn ngữ phiên dịch có vẻ là ngẫu nhiên là một trong nhiều ngôn ngữ mô tả có thể có, thì nó cũng được sử dụng để thực hiện nghĩa vụ đối xứng tổng quát, “thứ quy tắc mà chúng ta phải tôn trọng”. Do đó, trong Xã hội học Phiên dịch của Callon, bản dịch hóa ra lại giả định những người dịch thuộc hai loại rất khác nhau: thứ nhất, tác giả/người viết (người quan sát), là người dịch của “các tác nhân được nghiên cứu” và các hành động mà họ mô tả (tức là tạo ra một nhóm và một “lực lượng” tập thể từ các nhà khoa học). Thứ hai, các nhà khoa học là người dịch của các tác nhân khác do “các tác nhân được nghiên cứu” ghi danh. Do đó, quá trình dịch thuật diễn ra ở hai cấp độ tự sự hoặc văn bản khác nhau, một cấp độ thuộc bên trong thế giới câu chuyện, nơi các nhà khoa học, sò điệp và ngư dân cùng tồn tại, và một cấp độ bên ngoài thế giới câu chuyện này, nơi người quan sát và tác giả không tham gia vào thế giới được kể chuyện, mà là người kể chuyện, cư ngụ trong đó. Vì vậy, tính đối xứng giữa các tác nhân là con người và phi-con người của Callon, xét cho cùng, đều dựa trên cái mà chúng ta có thể gọi là tính bất đối xứng của người dịch, đặt ra những ý nghĩa khác nhau cho “các tác nhân” tùy thuộc vào việc người dịch đang ở cấp độ mà các nhà tự sự học gọi là cấp độ diegetic trong truyện hay extradiegetic ngoài truyện (Rimmon-Keenan 2002: 95, Chương 1). Callon vô tình tái lập tính bất đối xứng giữa các tác nhân trong câu chuyện của ông, các nhà khoa học mà ông, với tư cách là tác giả xây dựng thành một nhóm, và các tác nhân được hình thành trong văn bản của các nhà khoa học.
Tác nhân và Kẻ hành động—Lịch sử Khái niệm
Để tìm hiểu sâu hơn về cách diễn giải của Callon về actant “kẻ hành động” và “bản dịch”, chúng ta cần xem xét kỹ hơn hai tài liệu tham khảo khác mà ông trích dẫn để củng cố hiểu biết mới của ông về “khái niệm actant kẻ hành động”: công trình Sémiotique: Dictionnaire raisonné de la théorie du langage - Ký hiệu học: Từ điển Lý thuyêt Ngôn ngữ của Greimas và Courtés, và Les Microbes: guerre et paix suivi de Irréductions - Khử trùng nước Pháp của Latour. Đây là những văn bản có ảnh hưởng sâu rộng đến việc hiểu các tác nhân là con người và phi-con người trong ANT, và đến phong cách tự sự đặc trưng cho mô tả ANT, cách mô tả và tự sự mà Callon gọi một cách tùy tiện là “câu chuyện”. Trước tiên, chúng ta sẽ xem xét việc đề cập đến Greimas và Courtés, và cái phả hệ mà nó tạo nên. Thứ hai, chúng ta sẽ khảo sát văn bản của Latour để xem nó bổ sung những gì cho khái niệm actant “kẻ hành động”. Callon khẳng định: “Thuật ngữ actor tác nhân được sử dụng theo cách mà các nhà ký hiệu học sử dụng khái niệm actant kẻ hành động” (Callon 1986: 227–228). Tuy nhiên, nếu chúng ta quay lại tra cứu nguồn gốc của tính tương đương này, cụ thể là từ điển của Greimas và Courtés, thì sẽ thấy rằng các nhà ký hiệu học thực sự đã tạo ra hai mục từ riêng biệt cho actant và actor. Mặc dù hai thuật ngữ này có liên hệ về mặt khái niệm, nhưng cũng có những khác biệt rõ ràng về mặt khái niệm trong văn bản nguồn (từ điển). Chú giải của Callon đã xóa bỏ những khác biệt này. Các mục từ của Greimas và [tr.75] Courtés về các thuật ngữ này là những phát triển muộn của một khái niệm mà Greimas đã vật lộn trong suốt sự nghiệp của mình, đó là actant. Trong tiếng Pháp, actant là phân từ hiện tại của động từ acte, có nghĩa là vận hành hoặc hành động. Chúng ta hãy cùng xem xét lịch sử khái niệm và chuyên ngành bị che giấu bởi sự giống nhau được giả định của actant và actor.
Ngôn ngữ học: Ẩn dụ Kịch nghệ
Greimas lấy thuật ngữ này từ nhà ngôn ngữ học người Pháp Lucien Tesnière (1893–1954), là người đã sử dụng nó để xem xét hóa trị của động từ [verb valency - Trong ngôn ngữ học, valency hóa trị là số lượng và loại đối số và bổ ngữ được kiểm soát bởi một vị ngữ, trong đó động từ nội dung là các vị ngữ điển hình. Hóa trị có liên quan, mặc dù không giống hệt, đến tiểu phạm trù hóa và tính bắc cầu, chỉ tính các đối số tân ngữ – hóa trị tính tất cả các đối số, bao gồm cả chủ ngữ; Ý nghĩa ngôn ngữ học của hóa trị bắt nguồn từ định nghĩa về hóa trị trong hóa học; giống như hóa trị trong hóa học, có sự ràng buộc của các yếu tố cụ thể; trong lý thuyết ngữ pháp về hóa trị, các động từ sắp xếp câu bằng cách ràng buộc các yếu tố cụ thể; ví dụ về các yếu tố bị ràng buộc sẽ là bổ ngữ và actant kẻ hành động (Trong lý thuyết tự sự, một actant trong mô hình actantial model của phân tích tự sự ký hiệu học là một loại vai trò mà một nhân vật có thể có trong một câu chuyện; Bruno Latour viết: Một actor - tác nhân trong Lý thuyết Mạng-Tác nhân là một định nghĩa ký hiệu học - một actant kẻ hành động - tức là một cái gì đó hành động [act] hoặc hoạt động [activity] được những kẻ khác ban cho; nó không hàm ý động cơ đặc biệt nào của các tác nhân cá nhân con người, cũng không hàm ý con người nói chung; một actant kẻ hành động theo nghĩa đen có thể là bất cứ thứ gì miễn là nó được trao cho là nguồn gốc của một hành động; thuật ngữ actant kẻ hành động cũng được sử dụng trong ngôn ngữ học, xã hội học, lý thuyết lập trình máy tính và chiêm tinh học; mặc dù thuật ngữ này bắt nguồn từ hóa trị trong hóa học, hóa trị ngôn ngữ có sự tương đồng chặt chẽ trong toán học dưới cái tên arity; trong logic, toán học và khoa học máy tính, arity là số lượng đối số hoặc toán hạng được một hàm, phép toán hoặc quan hệ tiếp nhận; arity cũng có thể được gọi là rank, nhưng từ này có thể có nhiều nghĩa khác; trong logic và triết học, arity cũng có thể được gọi là adicity lượng và degree độ; trong ngôn ngữ học, nó thường được gọi là valency hóa trị, ẩn dụ hóa trị xuất hiện lần đầu tiên trong ngôn ngữ học trong bài luận “Logic Thân thuộc” của Charles Sanders Peirce vào năm 1897, và sau đó xuất hiện trong các tác phẩm của một số nhà ngôn ngữ học nhiều thập kỷ sau đó vào cuối những năm 1940 và 1950; Lucien Tesnière được ghi nhận là người đã thiết lập khái niệm hóa trị trong ngôn ngữ học; một chuyên gia có thẩm quyền lớn về hóa trị của động từ tiếng Anh là Allerton, đã đề xuất phân biệt quan trọng giữa hóa trị ngữ nghĩa và cú pháp. HHN].
Trong mô hình của Tesnière, động từ gắn với actant kẻ hành động để tạo thành mệnh đề, nghĩa là động từ có hóa trị tùy thuộc vào cách mà các actants liên kết chủ ngữ và bổ ngữ. Do đó, actants là mối quan hệ giữa hành động (được chỉ định bởi động từ) và chủ ngữ, bổ ngữ (được chỉ định bởi danh từ). Tesnière quan tâm đến việc các động từ khác nhau có hóa trị khác nhau như thế nào tùy thuộc vào cách thức mà chúng - với sự cần thiết về mặt ngữ pháp - yêu cầu một số lượng chủ ngữ và bổ ngữ cố định tùy thuộc vào loại hành động mà động từ mô tả. Ví dụ, “cho” [to give]. Trong câu “Bà lão tặng công chúa một thanh kiếm ma thuật”, động từ đòi hỏi một chủ ngữ (bà lão) và hai bổ ngữ, một bổ ngữ trực tiếp (thanh kiếm ma thuật) và một bổ ngữ gián tiếp (công chúa) (Tesnière 2015; Makaryk 1993: 505). Do đó, động từ trong câu này “đòi hỏi” sự nhập cuộc của chủ thể thực hiện hành động, một bổ ngữ trực tiếp chịu tác động, và một bổ ngữ gián tiếp được hưởng lợi từ hành động kia. Với Tesnière, vị thế thụ động của hai bổ ngữ này được trao cho một agency tác tố nhất định – bởi vì chúng được xem là những actants kẻ hành động.
Việc phân tích câu của Tesnière được thực hiện dựa trên phép loại suy trong kịch nghệ; các actants là các actors, hay dramatis personae các nhân vật của vở kịch, liên kết các hành động với chủ ngữ và bổ ngữ. Theo cách diễn đạt của Tesnière: §1) Nút động từ [Trong ngôn ngữ học, “nút động từ” dùng để chỉ một điểm hoặc thành phần trong cấu trúc câu, là một động từ hoặc cụm động từ; nó cũng có thể được hiểu là một điểm trong cây cú pháp, nơi hiện diện động từ hoặc cụm động; nói một cách đơn giản hơn, nó là một phần quan trọng của câu, biểu thị một hành động, trạng thái hoặc sự việc. HHN], thấy ở trung tâm của phần lớn các ngôn ngữ châu Âu…là một trình diễn sân khấu. Giống như một vở kịch, nó bắt buộc phải bao gồm một quá trình và thường là các diễn viên và hoàn cảnh.; §2) Được chuyển từ sân khấu sang cú pháp cấu trúc, quá trình, các diễn viên và hoàn cảnh lần lượt trở thành động từ, các actants và các tình huống; §3) Động từ thể hiện quá trình. Do đó, trong câu Alfred đánh Bernard… quá trình được thể hiện bằng động từ đánh.; §4) Các actants là những sinh vật hoặc sự vật, bất kể loại nào, tham gia vào quá trình đó, ngay cả khi chỉ là những extras nhân vật phụ đơn giản hoặc theo cách thụ động nhất.; §5) Vì vậy, trong các câu ‘Alfred đưa cuốn sách cho Charles’ (Stemma 77), thì Charles và cuốn sách không hề kém vai trò actants so với Alfred (64), mặc dù chúng không thực sự hành động (Chương 64, §15). (Tesnière 2015: 96, chúng tôi nhấn mạnh) [Tr.76] Do đó, công việc chính của các actants ở Tesnière là tạo điều kiện cho các mối quan hệ và cấu trúc, chứ không phải thúc đẩy hành động theo nghĩa kịch nghệ, vốn là chức năng của động từ. Tuy nhiên, với tư cách bắt buộc về mặt ngữ pháp, nên bổ ngữ trực tiếp và gián tiếp vẫn được coi là chủ động về ngữ nghĩa và cú pháp; không thể có quà tặng và việc tặng quà nếu không có các bổ ngữ, kẻ nhận và kẻ cho, mặc dù những kẻ này, trong ngôn ngữ hơi mơ hồ của Tesnière, ‘không thực sự hành động’.
Phiên dịch: Từ Câu cú đến Tự sự
Trong Sémantique Structurale (1966)3 Ngữ nghĩa học Cấu trúc, Greimas đã mở rộng khái niệm ‘actant’ của Tesnière bằng cách áp dụng nó ở cấp độ cao hơn câu, vào cấu trúc văn chương. Ở đây, ông mô tả actants là “phân loại các actors”, tức là phân loại loại hành động được thực hiện bởi một lớp actors tác nhân—hay literary characters nhân vật văn chương. Vậy là, ở đây, một bước chuyển liên ngành—hay phiên dịch—đã được thực hiện. Chắc chắn, đây là bước chuyển cốt lõi mà Cấu trúc luận thực hiện khi nó tự khẳng định mình là một khoa học về văn hóa, cụ thể là chuyển language ngôn ngữ linguistic explanation giải thích ngôn ngữ sang văn bản và diễn ngôn, như khi C. Lévi-Strauss sử dụng khái niệm cặp tối thiểu (mèo/dơi) để khám phá huyền thoại (Ricoeur 1991). Do đó Xã hội học Phiên dịch lặp lại bước chuyển này để tự khẳng định mình là một ngôn ngữ đối xứng. Nhưng trong khi the shift sự chuyển dịch cấu thành Cấu trúc luận như một khoa học về văn hóa (diễn ngôn, tự sự, huyền thoại có thể được phân tích theo cùng cách như các câu) là sự chuyển dịch về quy mô, thì sự chuyển dịch cấu thành Xã hội học Phiên dịch lại là sự chuyển dịch giữa các lĩnh vực (tự nhiên = văn hóa), điều này cũng xóa bỏ sự đối lập cấu trúc luận giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt (xem Phần giới thiệu và Chương 5).
Thể loại và Cấu trúc Tự sự
Khái niệm actant cũng liên kết liên văn bản với nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nga Vladimir Propp và những phân tích hình thức của ông về thể loại truyện cổ tích Nga.4 Greimas và Courtés khẳng định rằng: Khái niệm actant có lợi thế thay thế, đặc biệt là trong ký hiệu học văn chương, thuật ngữ character nhân vật, cũng như thuật ngữ dramatis persona (V. Propp), vì nó không chỉ áp dụng cho con người mà còn cho động vật, đồ vật hoặc khái niệm. Hơn nữa, thuật ngữ character nhân vật vẫn còn mơ hồ vì nó cũng tương ứng một phần với khái niệm actor tác nhân (nơi có thể xảy ra sự dung hợp các actants), được định nghĩa là hình tượng và/hoặc vị trí trống rỗng mà trong đó được đầu tư các hình thức cú pháp và ngữ nghĩa. (Greimas và Courtés 1982: 5) Do đó, trong thi pháp học văn học và tự sự học actant thay thế cho những gì Greimas và Courtés coi là các khái niệm mơ hồ mang tính phân tích về character và [tr.77] dramatis persona. Propp được trích dẫn như một tài liệu tham khảo về ý tưởng cho rằng narrative characters các nhân vật tự sự có thể hình thành nên các phạm vi hành động. Điều này là do dramatis personae các nhân vật kịch trong các tự sự xuất hiện nhờ những hành động mà họ thực hiện, chứ không phải ngược lại (X là nhân vật phản diện vì anh ta/cô ta đóng vai phản diện liên quan đến dự án của nhân vật chính).5 Do đó, hành động có vị trí ưu tiên hơn character nhân vật. Nhân vật không thực hiện một số loại hành động nhất định vì họ là những loại nhân vật nhất định với những đặc điểm tính cách ổn định, mà họ trở thành một loại nhân vật nhất định vì họ thực hiện một số hành động nhất định: người cho xuất hiện bằng việc cho, người giúp xuất hiện bằng việc giúp đỡ, v.v.
Propp đã xác định ba mươi mốt chức năng hành động trong các truyện dân gian Nga mà ông nghiên cứu.6 Điều quan trọng nhất trong bối cảnh của chúng ta là các chức năng này có thể được thực hiện bởi các nhân vật khác nhau theo nhiều cách khác nhau: ví dụ, chức năng “kẻ phản diện bị trừng phạt” có thể được thực hiện bởi các nhân vật khác nhau. Hơn nữa, cùng một nhân vật cũng có thể thực hiện các chức năng khác nhau. Do đó, các nhân vật hoặc dramatis personae nhân vật kịch do đó trở nên phụ thuộc vào logic tổng thể của plot cốt truyện và vai trò của họ trong việc cản trở hoặc thúc đẩy dự án của nhân vật chính (ví dụ: kết hôn với công chúa). Hơn nữa, các chức năng được Propp xác định có mặt trong toàn bộ tập truyện dân gian mà ông nghiên cứu và do đó đặc trưng cho một thể loại tự sự cụ thể (Propp 1968; Puckett 2016: 183; Rimon-Keenan 2002: 20–22). Do đó, hai đặc điểm quan trọng đặc trưng cho actant trong tiền sử của nó: (i) Nó được tìm thấy trong một loại truyện cụ thể, một thể loại, như các truyện dân gian của Propp; (ii) Nó được định nghĩa về mặt mục đích luận liên quan đến chức năng của nó trong cốt truyện, nghĩa là, ta không thể chắc chắn ai là nhân vật phản diện trước khi biết câu chuyện kết thúc như thế nào. Điều gì sẽ xảy ra nếu chúng ta đọc “câu chuyện” của Callon và cái cấu thành của Xã hội học Phiên dịch với những ý tưởng tự sự học này trong tâm trí? Sau đây, chúng ta sẽ sử dụng “kho tang” tự sự học để xem xét cấu trúc của Xã hội học Phiên dịch.
Phân tích Tự sự học về “Tác nhân” của Callon
Như chúng ta đã thấy, các “chức năng” của Propp xuất phát từ những gì người đọc gặp phải ở bề mặt của văn bản tự sự. Do đó, giống như ngữ pháp, loại tự sự học này quan tâm đến các lực lượng nội tại, hay “cấu trúc sâu” được cho đóng vai trò là những quy luật cơ bản điều chỉnh từng câu chuyện và cách kể chuyện. Đối với Greimas, actant đóng vai trò thiết yếu trong phương pháp “quy giản” các cấu trúc ngữ nghĩa của ông. Ở đây, ý nghĩa của từ vị được rút ra bằng cách quy giản một actantial function chức năng hành động thành ý nghĩa cốt lõi của nó thông qua sự đối lập, dựa trên sự phân đôi giữa chủ thể và đối tượng, hoặc kẻ gửi và kẻ nhận (Greimas và Courtés 1982: 258; Greimas 1983: 199). Vận hành mang tính phương pháp luận này [tr.78] nhằm mục đích quy giản số lượng các actantial function chức năng hành động trong một tập hợp các câu chuyện kể, và bằng cách này, cũng quy giản các nhân vật và hành động trên bề mặt của một câu chuyện hoặc loại truyện kể cụ thể thành các đơn vị ý nghĩa cốt lõi của nó, các đối lập nhị phân cấu thành của chúng (ibid.; Trifonas 2015: 1104). Theo Greimas, narrative actors các tác nhân tự sự trở nên có ý nghĩa theo hai vai trò. Một là vai trò hành động của nó, được xác định bởi thể loại của câu chuyện kể. Nhưng ngoài ra, chúng ta còn có vai trò chủ đề của actor tác nhân (Greimas và Courtés 1982: 8). Greimas lưu ý rằng trong khi actors các tác nhân có thể xuất hiện trong những câu chuyện cụ thể, thì các actants lại mang tính siêu ngôn ngữ và đặc trưng cho các thể loại cụ thể. Ông cũng lưu ý rằng việc xác định các actants đòi hỏi việc phân tích chức năng của thể loại đang được đề cập, mặc dù cần có các quy trình khác để phân tích vai trò chủ đề của actors các tác nhân (Greimas 1983: 200, 209).
Greimas và Courtés |
Latour |
Một actor có thể là cá nhân (ví dụ: Peter), hoặc tập thể (ví dụ: một đám đông), mang tính tượng trưng (nhân hóa hoặc động vật hóa), hoặc phi tượng trưng (ví dụ: đức tin) (Greimas và Courtés 1982: 7) |
Tôi sử dụng actor, agent, or actant mà không đưa ra bất kỳ giả định nào về việc chúng/họ có thể là ai và chúng/họ được ban cho những đặc tính gì. Tổng quát hơn nhiều so với character hoặc dramatis persona, họ có đặc điểm chính là những autonomous figures nhân vật tự chủ. Ngoài ra, họ có thể là bất cứ điều gì—cá nhân (‘Peter’) hoặc tập thể (‘đám đông’), mang tính tượng hình (nhân hóa hoặc động vật hóa), hoặc phi tượng hình (‘số phận’) (Greimas và Courtés 1979/1983; Latour 1988: 252, fn11) |
[Tr.80] Tổng quát hơn nhiều so với character “nhân vật” hay dramatis persona nhân vật kịch nghệ, chúng có đặc điểm chính là những nhân vật tự chủ. Ngoài ra, chúng có thể là bất cứ thứ gì—cá nhân (‘Peter’) hoặc tập thể (‘đám đông’), mang tính tượng trưng (phỏng nhân hoặc động vật) hoặc phi-hình tượng (‘số phận’). (Latour 1988: 252, chú thích 11) Ở đây, Latour diễn giải lại mục từ actor của Greimas và Courtés trong từ điển. Chúng ta thấy rõ điều này nếu đối chiếu các văn bản. Đối với Latour, actor, agent, hoặc actant có tính bao hàm về mặt bản thể học giống như đối với Greimas, và tính bao hàm này xuất phát từ một lựa chọn phương pháp luận cụ thể, đó là lần theo các hiệu ứng mà không giả định bất cứ điều gì về vị thế bản thể học nguyên nhân của chúng. Nhưng không giống như Greimas, “chúng/họ có đặc điểm chính là autonomous figures những nhân vật tự chủ”. Do đó, actor hay actant không phải là kết quả của các thuộc tính ngữ nghĩa của văn bản tự sự, như đối với Greimas, mà được xác định bởi tình trạng thiếu (được giả định) các giải định của Latour về các actors tác nhân mà ông đưa vào các văn bản của mình. Phương pháp luận này cố gắng tránh mô tả ý nghĩa ngoài-ngôn ngữ của các actors tác nhân, điều mà Greimas và Courtés gọi là “vai trò chủ đề” của tác nhân (Greimas và Courtés 1982: 8, 344). Latour định nghĩa lại phần lớn tự sự học của Greimas bằng cách bác bỏ cấu trúc sâu nơi các actants vận hành trong lược đồ cấu trúc luận của sự vật. Chúng tôi tin rằng cách dịch này về khái niệm actor của Greimas rất quan trọng đối với sự kết hợp giữa người dịch nội ngoại tại và người dịch nội tại mà chúng tôi đã xác định ở trên về Callon (các bản dịch của các nhà khoa học là nội tại đối với cái thế giới được kể chuyện, và các bản dịch của Callon). Chúng tôi cũng tin rằng điều này rất quan trọng đối với việc tái cấu trúc cái cấu trúc sâu thành những đặc điểm định hình-thể loại, tạo nên cách mpp tả của lý thuyết ANT, và cái narrative agency tác tố tự sự mà nó đầu tư cho actors các tác nhân.
Cuốn sách của Latour gồm hai phần: phần đầu là nghiên cứu về ảnh hưởng của Pasteur đối với diễn ngôn đại chúng ở Pháp; phần thứ hai, có tên là ‘Irreductions’ [Irreduction Khái niệm Latourian cho rằng không có gì có thể quy giản hoặc không thể quy giản thành bất cứ thứ gì khác; “bất quy giản” ám chỉ trạng thái không bị quy giản hoặc đơn giản hóa; nó có thể mô tả một thứ không thể được làm nhỏ hơn, đơn giản hơn, hoặc chia nhỏ thành các bộ phận cấu thành; về bản chất, nó có nghĩa là một thứ ở mức cơ bản nhất hoặc nền tảng nhất của nó và không thể được quy giản thêm nữa. HHN], trình bày [tr.81] triết lý đằng sau phương pháp của Latour. Trọng tâm của phần cuối cùng là—như tiêu đề đã chỉ ra— cái tiền đề cho rằng “không có gì, tự thân nó, có thể quy giản hoặc không thể quy giản thành bất cứ thứ gì khác” (Latour 1988: 158). “Đơn vị” hay “tồn tại” bất khả quy giản của Latour trong phân tích là cái mà ông luân phiên gọi là ἐντελέχεια entelechie (Aristotle) hiện thực, monad (Leibniz) đơn tử—hay sử dụng thuật ngữ mà ông thường dùng nhất, actant. Latour cho rằng tất cả những thuật ngữ này đều có thể thay thế cho force - lực, ám chỉ một tồn tại hay đơn vị chỉ có thể nhận biết được thông qua tác động của nó lên những thứ khác (Latour 1988: 159). Latour cho rằng con người coi trọng các “vật liệu”, văn bản, đồ vật, kẻ khác, v.v…theo cùng một cách, họ “làm những việc giống nhau với chúng” (ibid.: 156).
Theo đúng nghĩa, cái thứ lực mà chúng ta tương tác với vật liệu là có thể so sánh được, mặc dù bản thân vật liệu không thể so sánh hoặc quy giản thành bất kỳ vật liệu nào khác. Trong định nghĩa của Callon về actor tác nhân ở chú thích 21, thì Irreductions của Latour đóng vai trò là một sự củng cố liên văn bản cho việc ông sử dụng actor tác nhân như một actant. Nó cũng củng cố sự dao động giữa quan điểm emic ngoài cuộc và etic trong cuộc trong văn bản, bởi vì tuyên bố cơ bản của Latour, rằng không cái gì có thể quy giản thành bất cứ thứ gì khác, giúp xóa nhòa sự khác biệt giữa các lớp của tự sự, bởi vì về cơ bản, không quan trọng về việc ai có ý hướng về lực, mà chỉ có bản thân lực, mới quan trọng, do đó xóa bỏ sự khác biệt giữa những gì actors tác nhân và người quan sát “muốn”. Trong bối cảnh này, điều quan trọng là Latour trong Irreductions đã lập luận chống lại các phương pháp quy giản của cấu trúc luận. Latour dứt khoát bác bỏ khái niệm cấu trúc sâu của cấu trúc luận. Latour nói rằng những cấu trúc này chỉ tồn tại “trong các thẻ lưu trữ ở văn phòng Lévi-Strauss” (ibid.: 179).
Trái ngược với Greimas, Latour định nghĩa actant là một a priori đơn vị tiên nghiệm, một loại lực, vốn đã là nền tảng của bất kỳ hành động nào trước khi nó bắt đầu xác định actors các tác nhân. Từ tiền đề này, những khái niệm trừu tượng như actant, actors các tác nhân xã hội và tường thuật cụ thể, tất cả đều hoạt động ở cùng một cấp độ, như những ví dụ về các đơn vị cốt lõi: forces các lực. Nhưng lực lượng này phải được tìm thấy ở đâu? Đối với Greimas, chúng hiện hữu trong cấu trúc sâu của tự sự. Lực gắn kết các actants với nhau, agency tác tố của các actants, chỉ hiện diện trong cấu trúc sâu tạo nên kỳ vọng của người đọc. Ở cấp độ của câu chuyện, không có lực nào cả, bởi vì chúng ta chỉ theo dấu vết của các lực trong các hành động được ghi lại. Phát biểu của Latour về cấu trúc sâu là kết quả của sự nhấn mạnh vào các irreductions “bất quy giản”. Nhưng chúng cũng tước đi những đặc tính cơ bản của thuật ngữ actant tất yếu mang tính cấu trúc luận của Greimas. Trong văn bản của Callon, chúng ta đã thấy “phiên dịch” trượt từ phạm trù phương pháp luận của người quan sát sang phạm trù phân tích của actors studied “các tác nhân được nghiên cứu”. Đối với Greimas, các actants chính là mục tiêu của phương pháp, là mục đích của phân tích mang tính actantial. Với Latour, phạm trù phân tích mục tiêu của Greimas trở thành nền tảng bản thể luận cho phân tích của ông, là nguồn gốc để bản thân actors các tác nhân thực sự hành động, là điều cho phép chúng/họ có agency tác tố.
Từ quan điểm bản thể học này, actor tác nhân và actant kẻ hành động thực sự trở thành một, nhưng khi làm như vậy, thì cái thể loại mà actants kẻ hành động cấu thành lại trở thành xuất phát điểm [tr.82] của phân tích ANT. Do đó, các tác nhân được ban cho tác tố không phải bởi một “người quan sát” cá nhân, mà bởi một khung tự sự, một thể loại, mà chúng/họ được phép hành động trong đó. Chính với sự khẳng định rằng có một lực lượng thống nhất actors/actants các tác nhân/kẻ hành động, mặc dù phủ nhận rằng các tác nhân/kẻ hành động đó được tổ chức theo một cấu trúc tự sự dựa trên động lực mục đích luận hướng tới một mục tiêu, mà Latour đã khôi phục lại cái cấu trúc sâu này trong phân tích ANT, và thông qua đó cũng xây dựng một khung tự sự cho actors các tác nhân. Greimas đã lập luận rằng động lực mục đích luận trong các câu chuyện, “mong muốn” hay “lực” của ông, xuất phát từ những đầu tư về chủ đề hay “các lực chủ đề” được đầu tư vào actors các tác nhân (Greimas 1983: 209). Thay vì, Latour kết nối “lực” với khả tính hành động của actants kẻ hành động, hay nói cách khác, biến vai trò actantial hành động thành động lực tự sự.
Thứ mong muốn, mà trong cấu trúc tự sự của Greimas được kỳ vọng ở câu chuyện, và do đó hiện diện trong cấu trúc sâu làm cho câu chuyện có ý nghĩa, và hiện thân trong câu chuyện như một động lực tự sự, đối với Latour đã là một phần của actor/actant tác nhân/kẻ hành động, và theo đúng nghĩa thứ mong muốn đó tồn tại trong thế giới, nó cần được quan sát và mô tả bằng phương pháp luận ANT. Chính vì vậy, theo Latour, “cấu trúc sâu” mang tính tự sự đã hiện diện trong các sự kiện được mô tả. Và mặc dù Latour bác bỏ cấu trúc sâu, nhưng nó vẫn được phục hồi bởi bộ máy phương pháp luận làm phương tiện quan sát thế giới. Việc đặt tên và lựa chọn actors/actants các tác nhân/kẻ hành động, theo đó, sẽ tạo ra động lực tự sự của câu chuyện, và cấu trúc sâu sẽ được bộ máy phương pháp luận này mang theo. Việc dịch actant kẻ hành động thành force “lực”, trong khi nhấn mạnh rằng không có cấu trúc sâu cố hữu nào liên quan, đã nâng cấu trúc sâu của thể loại thành câu chuyện, bằng cách biến “các lực” (tức là các actants) thành một sự đầu tư chủ đề của actors các tác nhân (tức là một kỳ vọng ngoài-ngôn ngữ về drive “động lực” của một actor tác nhân). Ở đây, cuối cùng chúng ta cũng thấy được cái agency tác tố được cung cấp cho các tác nhân là con người và phi-nhân. Việc đặt tên cho các tác nhân là con người và phi-nhân trong một câu chuyện không chỉ đơn thuần là mô tả, mà còn đặt kỳ vọng về ý nghĩa vào các nhân vật tự sự được đặt tên bằng những thuật ngữ này, và do đó cũng đặt kỳ vọng vào cách chúng/họ hành động.
Tác tố Tự sự của các Tác nhân Phi-nhân
Trong chương này, chúng ta đã đọc Callon và Latour bằng cách sử dụng “kho tàng” tự sự học làm ngôn ngữ phân tích. Khi làm điều này, chúng ta cũng đã lịch sử hóa Xã hội học Phiên dịch bằng cách quay trở lại ngôn ngữ chuyên ngành mà nó đã lấy từ đó các khái niệm chính. Tóm lại, chúng ta có thể nói rằng việc phiên dịch cách khái niệm hóa actant “kẻ hành động” mang tính cấu trúc luận, mà Callon và Latour dùng để tạo ra các tác nhân là người và phi- nhân, là: a). Tạo ra một thể loại, “tường thuật ANT”, bằng cách a priory tiên nghiệm cung cấp “lực” cho actors các tác nhân (bằng cách coi chúng/họ là actants các nhân vật hành động); b). Ban cho một số actors tác nhân - những kẻ được các tác nhân khác trong câu chuyện phiên dịch – cái actantial function chức năng hành động của việc là tác nhân người và phi-nhân, trong đó [tr.83] hành động của chúng/họ bị giới hạn vào những gì có thể được giả định một cách đối xứng với các đối tác người và phi-nhân của chúng/họ; c). Cung cấp một khoản đầu tư chủ đề hoặc vai trò chủ đề cho actors các tác nhân bằng chính việc chỉ định các khái niệm tác nhân người và phi-nhân. Điều này báo hiệu cho người đọc về thứ “mong muốn” hoặc “lực” mà nhờ nó chủ thể tìm kiếm đối tượng. Nó cung cấp một khuôn khổ diễn giải trong đó actors và actants các tác nhân và kẻ hành động có thể được gộp chung, vừa là dấu hiệu của một thể loại, vừa là các actantial function chức năng hành động trong văn bản cụ thể.
Địa vị bản thể học của các tác nhân phi-nhân là một trong những di sản lý thuyết quan trọng nhất của Xã hội học Phiên dịch của Callon. Các khái niệm như “phi-nhân” và “hơn cả con người” ngày nay đã trở nên phổ biến trong giới học thuật, và là một cách để nghiên cứu các mối quan hệ vượt khỏi các phân đôi chủ thể-khách thể. Trong đó, các cách khái niệm hóa của Callon và Latour về actors tác nhân và translations bản dịch đóng một vai trò quan trọng (xem Selg 2016; Sage và Vitry 2018; West và cộng sự 2020). Trong chương này, chúng ta đã thấy rằng các cách khái niệm hóa quan hệ về actors tác nhân được diễn giải bởi sự thay đổi liên tục về việc ai được coi là kẻ dịch các mối quan hệ này. Khi lý thuyết ký hiệu học của Greimas được sử dụng như một lăng kính để nghiên cứu các tác phẩm đầu tiên của Xã hội học Phiên dịch, chúng ta không chỉ thấy cách thức mà câu chuyện tường thuật ANT chuyển động giữa các tầng tự sự, mà còn thấy được sự thay đổi trong quan niệm về kẻ được coi là kẻ phiên dịch thực tại xã hội giữa author tác giả và actor tác nhân được nghiên cứu xuyên suốt bản tường thuật. Các khái niệm “tác nhân con người” và “tác nhân phi-nhân” đóng vai trò then chốt trong việc tạo nên khả tính chuyển dịch của kẻ phiên dịch, nhưng chúng cũng phá vỡ sự phân biệt giữa actors các tác nhân trong thế giới được tường thuật và các sinh vật cùng sự vật cư ngụ trong cái thế giới đó.
______________________________________
(Còn nữa…)
Nguồn: Åmund Norum Resløkken and John Ødemark (2024). Narrating Non-Human Agency, The ‘ANT Account’ and the Literary Prehistory of the Actant. In The Sociology of Translation and the Politics of Sustainability, Explorations Across Cultures and Natures. Edited by John Ødemark, Åmund Norum Resløkken, Ida Lillehagen, and Eivind Engebretsen, First published 2024 by Routledge 605 Third Avenue, New York, NY 10158
Notes
3 Dịch sang tiếng Anh là Structural Semantics Ngữ nghĩa Cấu trúc (1983).
4 Greimas cũng trích dẫn phân tích của Étienne Souriau về các chức năng kịch nghệ trên sân khấu, cũng như các nghiên cứu cấu trúc gần đây của Levi-Strauss về thần thoại, và phê bình phân tâm học của Charles Mauron (Greimas 1983: 197–221).
5 Như đã đề cập trong Thi pháp học của Aristotle, tâm lý nhân vật, do đó, là hậu tác động “văn bản” của hành động tự sự.
6 Không phải tất cả các chức năng đều hiện diện trong mọi trường hợp của loại truyện dân gian, nhưng một số trong đó là có, và chúng luôn được huy động theo cùng một trật tự.
Works Cited
Callon, M. (1986) ‘Some Elements of a Sociology of Translation: Domestication of the Scallops and the Fishermen of St Brieuc Bay’, in J. Law (ed) Power, Action and Belief: A New Sociology of Knowledge?, London: Routledge and Kegan Paul, 196–233.
Callon, M. and B. Latour (1981) ‘Unscrewing the Big Leviathan: How Actors Macro-Structure Reality and How Sociologists Help Them to Do So’, in K. Knorr Cetina and A. Cicourell (eds) Advances in Social Theory and Methodology. Toward an Integration of Micro- and Macro-Sociologies, Boston: Routledge and Kagan Paul, 277–303.
Clark, N. and B. Szerszynski (2021) Planetary Social Thought: The Anthropocene Challenge to the Social Sciences, Cambridge: Polity Press.
Geertz, C. (1980) ‘Blurred Genres: The Refiguration of Social Thought’, The American Scholar 49(2):165–179.
Goffman, E. (1986) Frame Analysis: An Essay on the Organization of Experience, Boston: Northeastern University Press.
Golinski, J. (2005) Making Natural Knowledge: Constructivism and the History of Science, Chicago: University of Chicago Press.
Greimas, A.J. (1966) Sémantique Structurale. Recherche de métode, Paris: Librarie Larousse.
Greimas, A.J. (1983) Structural Semantics. An Attempt at a Method, Lincoln: University of Nebraska Press.
Greimas, A.J. and J. Courtés (1982) Semiotics and Language: An Analytical Dictionary, Bloomington: Indiana University Press.
Haraway, D. (2016) Staying with the Trouble: Making Kin in the Chthulucene. Experimental Futures Technological Lives, Scientific Arts, Anthropological Voices, Durham: Duke University Press.
Hollis, M. (1994) The Philosophy of Social Science: An Introduction, Cambridge: Cambridge University Press.
Latour, B. (2017) Facing Gaia: Eight Lectures on the New Climatic Regime, Cambridge: Polity Press.
Latour, B. (1984) Les microbes, guerre et pair, followed by Irréductions, Paris: A.M. Métailié.
Latour, B. (1988) The Pasteurization of France, Cambridge, MA: Harvard University Press.
Makaryk, I.R. (1993) Encyclopedia of Contemporary Literary Theory: Approaches, Scholars, Terms, Toronto: University of Toronto Press.
Propp, V. (1968) Morphology of the Folktale, second edition, Austin: University of Texas Press.
Puckett, K. (2016) Narrative Theory: A Critical Introduction, Cambridge: Cambridge University Press.
Ricoeur, P. (1991) ‘What is a Text? Explanation and Understanding’, in M.J. Valdés (ed) A Ricoeur Reader. Reflection and Imagination, Toronto: Toronto University Press, 43–64.
Rimmon-Kenan, S. (2002) Narrative Fiction. Contemporary Politics, second edition, London: Routledge.
Sage, D.J. and C. Vitry (2018) ‘From Relational to Regressive Place-Making: Developing an ANT Theory of Place with Housebuilding’, in D.J. Sage and C. Vitry (eds) Societies under Construction: Geographies, Sociologies and Histories of Building, Cham: Springer International Publishing, 205–236. Narrating Non-Human Agency 85.
Selg, P. (2016) ‘Two Faces of the “Relational Turn”’, Political Science and Politics 49(1):27–31.
Tesniére, L. (2015) Elements of Structural Syntax, translated by Timoty Osborne and Sylvain Kahane, Amsterdam: John Benjamins Publishing Company.
Trifonas, P.P. (2015) ‘From Semantics to Narrative: The Semiotics of A.J. Greimas, in P. P. Trifonas (ed.) International Handbook of Semiotics, Dordrecht: Springer Netherlands, 1099–1107.
Tsing, A.L., J. Deger, A.K. Saxena, and F. Zhou (2020) Feral Atlas: The MoreThan-Human Anthropocene, Stanford University Press.
Weber, M. (1978) Economy and Society: An Outline of Interpretive Sociology, Berkeley: University of California Press.
West, S., L.J. Haider, S. Stålhammar, and S. Woroniecki (2020) ‘A Relational Turn for Sustainability Science? Relational Thinking, Leverage Points and Transformations’, Ecosystems and People 16(1):304–325.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét