Javier Lezaun
Người dịch: Hà Hữu Nga
Lối phê phán này đúng khi xác định một điểm chuyển tiếp trong sự cam kết của ANT với luật pháp, một sự thay đổi hoặc tái định hướng động lực phê phán ban đầu của nó. Tuy nhiên, có thể đảo ngược lập luận và đọc sự tiến triển của ANT theo cách hồi tưởng từ lợi điểm được tạo ra bởi việc xây dựng “chế độ phát ngôn” pháp lý của nó. Túc tắc đọc lý thuyết này (chắc chắn là điều đáng nguyền rủa đối với bất kỳ học giả ANT xứng đáng nào), người ta có thể khám phá, hoặc ít nhất là trực giác, một “xung động định chuẩn” trong tất cả các kết nối và liên tưởng mà ANT đã dày công tìm hiểu kể từ khi ra đời với tư cách là một ngành xã hội học về phiên dịch (McGee 2014, xviii). [Trong lý thuyết mạng-tác nhân (ANT), phiên dịch là quá trình cho phép một mạng được tái hiện bởi một thực thể duy nhất, bản thân nó có thể là một cá nhân hoặc một mạng khác; nó bao gồm tất cả các cuộc đàm phán, âm mưu, tính toán và hành động thuyết phục, nhờ đó một tác nhân (hoặc actant kẻ hành động) có thẩm quyền để nói hoặc hành động thay mặt cho các tác nhân khác.( Callon, M. & Latour, B., 1981.) Theo ANT, một tác nhân là một actant kẻ hành động, một thứ gì đó được tạo ra để hành động, do đó nó bao gồm cả thực thể con người và phi-nhân; phi-nhân có thể có các lợi ích, chúng có thể lôi kéo những kẻ khác, theo cách hoàn toàn giống như con người.(Sismondo, Sergio 2009) Khái niệm phiên dịch được triết gia người Pháp Michel Serres phát triển bởi, và sau đó được Michel Callon áp dụng vào xã hội học. (Serres, Michel 1974; Callon, M., 1984) Năm 1984, Callon đã xuất bản bài báo có ảnh hưởng “Một số yếu tố của xã hội học phiên dịch”, trong đó sự phát triển của các mối quan hệ xã hội mới được xem xét thông qua việc hình thành nên kiến thức khoa học. Do sự suy giảm của quần thể sò điệp trên khắp nước Pháp vào đầu những năm 1970, ba nhà sinh vật học biển đã xây dựng một chiến lược bảo tồn với mục đích duy trì thuần hóa sò điệp. Các nhà nghiên cứu đã đưa ba tác nhân khác vào nghiên cứu của họ, cụ thể là các đồng nghiệp khoa học, ngư dân Vịnh St. Brieuc, và loài sò điệp. Sự phát triển tiến bộ của các mối quan hệ xã hội giữa các tác nhân này bao gồm bốn giai đoạn (“thời điểm chuyển đổi”), khi kết hợp lại, tạo thành chuyển đổi: i). Vấn đề hóa – xác định bản chất của vấn đề trong một tình huống cụ thể bởi một tác nhân (một nhóm hoặc một cá nhân) và thiết lập sự phụ thuộc sau đó; ii) Mối liên quan – “khóa” các tác nhân khác vào các vai trò được đề xuất cho họ trong cách tiếp cận của tác nhân đó để giải quyết vấn đề đó; iii) Việc ghi danh - là việc xác định và mối quan hệ tương hỗ của các vai trò đã được phân bổ cho các tác nhân khác trong bước trước; iv) Việc huy động - đảm bảo rằng những kẻ phát ngôn của các thực thể tập thể có liên quan đại diện đầy đủ cho tất cả các thành viên của mạng đang hoạt động như một single agent tác nhân duy nhất. Trong xã hội học, phiên dịch là một quá trình tạo ra tình huống mà một số tác nhân nào đó kiểm soát những tác nhân khác như là hệ quả của những thay đổi và biến đổi do một tác nhân thực hiện. Ví dụ, ba nhà nghiên cứu tự xác lập mình là obligatory passage point điểm chuyển tiếp bắt buộc trong mạng các mối quan hệ mà họ đang xây dựng, khiến họ trở nên không thể thiếu trong mạng. Đây chính là giai đoạn vấn đề hóa. Mối liên quan, trong trường hợp này, là hoạt động được ba nhà nghiên cứu thực hiện nhằm áp đặt và ổn định tính đồng nhất/bản sắc của các tác nhân khác. Nếu thành công, điều này khẳng định tính hợp lệ của giai đoạn đặt vấn đề, cũng như các liên minh mà nó hàm ý. Lý tưởng nhất thì, mối liên quan đạt được việc ghi danh tham gia, trong đó ba nhà nghiên cứu xác định và liên hệ các vai trò khác nhau mà họ phân bổ cho các tác nhân khác. Cuối cùng, các liên minh được huy động khi việc ghi danh/tham gia được chuyển thành sự ủng hộ tích cực. (Callon, M., 1984) Phiên dịch xã hội học là một quá trình, không bao giờ hoàn thành trọn vẹn, có thể phát triển thành một cuộc đấu tranh quyền lực, trong đó một số ít chiếm vị trí trung tâm trong khi các tác nhân khác bị bịt miệng. (Callon M., 1984) Trong bài viết của Callon, do điểm chuyển tiếp bắt buộc, nên cuối cùng tất cả các tác nhân đều được đại diện bởi ba nhà nghiên cứu, là những kẻ hành động và nói thay mặt họ. Do đó, các tác nhân khác đã bị ba nhà nghiên cứu này đại diện sai lệch. Sau đó sự bất mãn của các tác nhân khác dẫn đến nổ ra tranh cãi, làm thay đổi đồng nhất tính/bản sắc và đặc điểm của các tác nhân, và kết quả là mạng quan hệ được kiến tạo đã tan rã (Callon M., 1984). HHN ghi chú] Theo cách hiểu này, mọi liên kết trong chuỗi các phiên dịch, mọi ràng buộc trong mạng-tác nhân đều mang một normative force lực định chuẩn, một lực có thể được nắm bắt về mặt ký hiệu học như là giá trị thay đổi của một màn trình diễn. Theo McGee (2014, 55) “những thay đổi trong phương thức thực hiện tương quan với những thay đổi về giá trị—vì các mục đích thực tiễn, một thay đổi trong phương thức thực hiện không thể phân biệt được với sự thay đổi về giá trị. Do đó, đây là một hiệu ứng định chuẩn, nhưng không có tiêu chí định chuẩn nào đi trước nó: giá trị của hiệu ứng được xác định bởi sự thay đổi cụ thể đang được đề cập, chứ không phải bởi bất kỳ cấu trúc định chuẩn nào được đưa ra trước đó”. Giá trị định chuẩn này ngay từ đầu đã bị cả những người chỉ trích và những người ủng hộ ANT phủ nhận.
Nhóm chỉ trích đã mắng mỏ lý thuyết này vì nhận thức được tính phi đạo đức của nó (lối tấn công “quyền lực tạo ra lẽ phải” [trang 19] chống lại các nghiên cứu ANT khởi đầu về khoa học hành động); sau này, Latour rất tự hào vì không đặt ra bất kỳ nền tảng đạo đức tích cực nào (ví dụ như những ẩn dụ quân sự đặc trưng và những câu cách ngôn kiểu Machiavelli trong tác phẩm của Latour những năm 1980). Tuy nhiên, dần dần, ventriloquism thuật nói bụng được ngụ ý trong những tuyên bố ban đầu của ANT về việc “nói ngôn ngữ của chính các tác nhân” đã nhường chỗ cho những tuyên bố giá trị quyết đoán hơn. [Nói bụng hay thuật nói bụng là một trò diễn kịch trong đó giọng nói của kẻ diễn dường như xuất phát từ một vị trí khác, thường là thông qua một con rối được gọi là “hình nộm”. Ban đầu, nói bụng là một nghi lễ tôn giáo. Tên gọi ventriloquism bắt nguồn từ tiếng Latin có nghĩa là ‘nói từ bụng’: Venter (bụng) và loqui (nói). Người Hy Lạp cổ đại gọi engastrimythos (tiếng Hy Lạp cổ: ἐγγαστρίμυθος) hoặc engastrimantis (tiếng Hy Lạp cổ: ἐγγαστρίμαντις) là một người (chủ yếu là phụ nữ) truyền đạt lời sấm truyền bằng phương pháp này. Những âm thanh do dạ dày tạo ra được cho là tiếng nói của người chết, trú ngụ trong dạ dày của người nói bụng. Người nói bụng sau đó sẽ diễn giải những âm thanh này, vì họ cho rằng họ có thể nói chuyện với người chết, cũng như tiên đoán tương lai. Một trong những nhóm tiên tri được ghi nhận sớm nhất sử dụng kỹ thuật này là Pythia, nữ tư tế tại đền thờ Apollo ở Delphi, người đóng vai trò là cầu nối cho Nhà tiên tri Delphic. Người nói bụng thành công nhất thời kỳ đầu là Eurykles, một nhà tiên tri tại Athens. Các nơi khác trên thế giới cũng có truyền thống nói bụng cho các mục đích nghi lễ hoặc tôn giáo ở các dân tộc Zulu, Inuit và Māori, v.v... (Encyclopædia Britannica Eleventh Edition 1911; Henry George Liddell, Robert Scott, A Greek-English Lexicon, ἐγγαστρί-μυθος.) HHN]. Có lẽ chính nhờ tài năng so sánh độc hại và một loạt hành trình điều tra chuyên sâu qua các phương thức tồn tại vượt ra ngoài khoa học-công nghệ đã mang đến cho ANT sự sẵn sàng hơn trong việc phân biệt - bao gồm cả sự phân biệt giữa đúng và sai (hoặc ít nhất là giữa tốt hơn và tệ hơn). Chính trong bối cảnh này, ANT đã bắt đầu xây dựng lý thuyết xã hội của riêng mình, một siêu ngôn ngữ đặc biệt của cái xã hội.
Xã hội học các Hợp quần
Mặc dù ban đầu được biết đến là sociology of translation “xã hội học phiên dịch”, nhưng những khám phá ban đầu của ANT về thế giới khoa học công nghệ lại không có nhiều điểm đáng chú ý để giới thiệu chúng vào xã hội học chính thống. Trái ngược với những gì một số nhà xã hội học nghĩ về nó (hoặc mong muốn nó sẽ trở thành), ANT kiên quyết không phải là sự giải thích hay ứng dụng các phương thức giải thích xã hội học vào các lĩnh vực khoa học và công nghệ. Như Latour (2005, 94) đã nói: “ANT không phải là cành của khoa học xã hội đã thành công trong việc mở rộng các phương pháp của mình sang hoạt động khoa học và sau đó là phần còn lại của xã hội, mà là nhánh (hay đúng hơn là nhánh nhỏ) được tạo thành từ những người đã hoàn toàn bị lung lay khi cố gắng đưa ra một lời giải thích xã hội về những sự thật khó khăn của khoa học”. Trên thực tế, chính sự bất cập cơ bản của lý thuyết xã hội trong việc giải thích bất cứ điều gì cụ thể, hiệu quả và thú vị trong khoa học công nghệ đã thúc đẩy ANT tránh xa các giải thích “xã hội” trong nghiên cứu về việc tạo ra-sự thật khoa học và tìm kiếm một lý thuyết mới, đa năng về cái quần thể của mình để thay thế các khái niệm hóa đã cạn kiệt trong quá khứ. “[Chúng tôi] đã kết luận rằng, nhìn chung và về chi tiết, lý thuyết xã hội đã thất bại thảm hại trong khoa học đến mức có thể khẳng định chắc chắn rằng nó cũng đã luôn thất bại ở những nơi khác nữa” (Latour 2005, 95; nhấn mạnh trong bản gốc).
Trong cuốn sách Changer de société - Refaire de la sociologie Thay đổi Xã hội – Tái tạo Xã hội học, Latour trình bày phương án thay thế của ông cho một lý thuyết xã hội luôn thất bại thông qua sự tương phản giữa “xã hội học xã hội” truyền thống và “xã hội học hợp quần” của chính ANT. Sự tương phản này được thừa nhận là có tính sơ lược—Latour không bao giờ dành nhiều thời gian để phân tích các tác phẩm kinh điển của lý thuyết xã hội, vì vậy [tr.20] việc bác bỏ hoàn toàn các truyền thống xã hội học của ông cần được xem xét một cách thận trọng—nhưng nó chỉ ra động lực chính của phân nhánh khác biệt. Nói tóm lại, sociology of the social xã hội học về cái xã hội là ngành tìm kiếm “những giải thích xã hội” hoặc “nguyên nhân xã hội” cho các hiện tượng hoặc sự kiện hiện hữu. Nó hiểu xã hội là một tập hợp các lực lượng hoặc các tác tố khá ổn định, một thực thể hỗ trợ và đứng sau một thế giới của các hành động và tương tác cụ thể. Ngược lại, sociology of associations xã hội học về các hợp quần bận tâm đến việc truy tìm các bản dịch và các trung gian khởi dựng các tập thể. Theo cách diễn giải này, cái xã hội “là tên gọi của một loại hợp quần nhất thời, được đặc trưng bởi cách nó tập hợp lại thành những hình dạng mới” (Latour 2005, 65). Nó không phải là một cấp độ thực tại hay một loại vật chất mà là “một thể lỏng chỉ hữu hình khi những hợp quần mới được hình thành”. Ngay khi một “xã hội” hay “lĩnh vực xã hội” tồn tại từ trước được đặt ra và triển khai như một nguồn lực giải thích, thì loại hợp quần đang hình thành này trở nên vô hình; mục đích của xã hội học về các hợp quần là làm cho những tập hợp đó có thể được truy vết lại.11
Để hiểu được thách thức ngầm ẩn trong lời kêu gọi về một xã hội học về các hợp quần, chúng ta cần quay trở lại với một sự phân biệt cũ được giới thiệu trong các lý thuyết mạng-tác nhân ban đầu, đó là giữa mediator kẻ trung gian và intermediary phương tiện trung gian. Kẻ trung gian là một kẻ kết nối tạo ra sự dịch chuyển trong vị trí hoặc giá trị của các thực thể mới được liên kết. Kẻ trung gian “biến đổi, phiên diễn, bóp méo và sửa đổi ý nghĩa hoặc các yếu tố mà chúng/họ được cho là mang theo” (Latour 2005, 37). Ngược lại, các phương tiện trung gian kết nối nguyên nhân và kết quả một cách liền mạch: chúng vận chuyển các thực thể không bị biến dạng, tác động lực mà không làm thay đổi vật mang hoặc mục tiêu của nó. Trong tưởng tượng ANT, một mạng luôn là một chuỗi các trung gian—không phải, như cách hiểu thông thường về thuật ngữ này thường truyền tải, một mặt phẳng trơn tru, không ma sát mà trên đó các thực thể được kết nối mà không trải qua sự thay đổi. Do đó, việc truy vết một mạng bao gồm việc mô tả một thế giới đang biến đổi liên tục, một chuỗi các kết nối “mà mỗi điểm có thể được cho là hoạt động hoàn toàn” (Latour 2005, 59). Xã hội học về cái xã hội dựa vào các phương tiện trung gian: các vị trí, nhóm, cấu trúc hoặc mạng lưới “xã hội” là dei ex machine thiết bị cốt truyện giải thích những gì thực sự diễn ra trong thế giới. Ngược lại, xã hội học về các hợp quần làm tăng tỷ lệ tương đối của các kẻ trung gian so với các phương tiện trung gian, cố tình tự tước đoạt bất kỳ lực lượng hoặc thể chế xã hội nào đã tồn tại. Nó “phải trả giá, bằng tiền lẻ, cho những gì xã hội học dường như đang tích trữ trên kệ với nguồn cung vô tận” (Latour 2005, 35).
Do đó xã hội học về các hợp quần phải tiến hành chậm rãi—Latour (2003, 143) [tr.21] gọi đó là slowciology “xã hội học chậm”—mô tả tỉ mỉ “cấu trúc mong manh và tạm thời của các tổng hợp xã hội”. Điều này không có nghĩa là ANT quan tâm đến “tương tác” mà bỏ qua “bối cảnh” hoặc nhấn mạnh “tác tố” trong khi đánh giá thấp vai trò của các “cấu trúc”. Sự qua lại liên tục giữa các cực này chính xác là điều mà ANT hy vọng tránh được, thay thế nó bằng một loại hoạt động khác: sự chú ý tỉ mỉ đến những biến dạng và sai lệch mà mỗi bản dịch, mỗi kẻ trung gian, đưa vào thế giới. Theo nghĩa này, “tương tác” cũng là một khái niệm trừu tượng như “cấu trúc”. Sự khác biệt về quy mô—chẳng hạn như giữa một cá nhân “nhỏ” và xã hội “lớn hơn”—là kết quả của các quá trình hợp quần hoặc hình thành nhóm, chứ không phải là điều kiện tiên quyết của chúng. Giống như khoa học-công nghệ, ở đây ANT giới thiệu một địa hình phẳng đặc biệt với mục đích ghi lại tốt hơn các kết nối và các hợp quần mà không bị ràng buộc bởi sự phân đôi có sẵn giữa cái vi mô và cái vĩ mô (xem Callon và Latour [1981] để biết công thức ban đầu của chương trình này). Các tập thể xã hội có thể mở rộng theo thời gian, nhưng điều này không ngụ ý rằng chúng có tính nhất quán cụ thể do bản chất “xã hội” của chúng. Độ bền của một kết nối xã hội chỉ đơn giản chỉ ra sự kiên trì và sức chịu đựng của một nỗ lực nhất định để tập hợp thành một tập thể. “Một hợp quần không phải là một tòa nhà cần bảo trì và bảo dưỡng mà là một cử chỉ cần tiếp tục, màn trình diễn của một điệu nhảy hơn là một bản thiết kế vũ đạo” (Latour 2005, 45; về cử chỉ và ANT, xem Hennion 2007).
Vậy là, hẳn ta đã thấy rõ rằng môn xã hội học về các hợp quần này, giống như phần còn lại của ANT, thể hiện một sự hiểu biết đặc biệt về mối quan hệ giữa mô tả và giải thích. Mục đích của các khoa học xã hội là tạo ra các mô tả, và một mô tả tốt là mô tả “một chuỗi hành động mà mỗi kẻ tham gia được coi như một kẻ trung gian toàn diện” (Latour 2005, 128). Không thể có bất kỳ lực lượng giải thích nào lơ lửng phía sau, bên dưới hay bên trên mạng đang được truy dấu. “Nếu một mô tả vẫn cần được giải thích, thì điều đó có nghĩa là nó là một mô tả tồi” (Latour 2005, 137). Nói cách khác, điều đó có nghĩa là một số kẻ trung gian quan trọng vẫn chưa được đưa vào mô tả. Vậy thì, với Refaire de la sociologie – Tái tạo Xã hội học, ANT đưa ra một lý thuyết xã hội rõ ràng, ngay cả khi, theo cách đặc trưng, đó là một lý thuyết không có quan hệ nhân- quả, hoặc thậm chí không có một loại hình học cơ bản về các tác nhân hoặc hành động liên quan. Đây là một lý thuyết xã hội yếu và thực sự không có cơ sở (Blok và Jensen 2011, 110). Điều quan trọng nằm ở chỗ đây là một lý thuyết xã hội không nhằm mục đích làm cho việc lý thuyết hóa trở nên dễ dàng hơn. [Tr.22] Tuy nhiên, xã hội học về các hợp quần lại thực sự đại diện cho một bước ngoặt quan trọng trong quá trình tiến hóa của ANT. Như Gad và Jensen (2010, 63) đã lưu ý, nó biểu thị “một lập trường công kích hơn về năng lực của ANT”, và đặc biệt là mức độ sẵn sàng cao hơn trong việc đề cập đến cái “xã hội”, nếu không phải là một phạm vi hay một vùng của thực tại, thì ít nhất cũng là một loại lưu thông cụ thể. Cần nhớ rằng vào năm 1986, Latour và Woolgar đã loại bỏ tính từ “xã hội” khỏi phụ đề của cuốn Thí nghiệm Sống với lập luận rằng tính từ này giờ đây “không còn ý nghĩa gì nữa”. Hai mươi năm sau, Latour bắt tay vào một dự án nhằm tái tập hợp phạm trù tồn tại này, dù nó mang hình thức một đề xuất lập dị và cố tình phi hệ thống.12 Mặc dù điều đó đưa ANT đến gần hơn với các hình thức lý thuyết xã hội khác—đến mức nó mang lại một mức độ so sánh nhất định với các loại xã hội học thay thế—nhưng nó cũng hạn chế tính đổi mới triệt để của xã hội học dịch thuật nguyên gốc, đặc tính “phi-triệt để” của mạng-tác nhân.
Như López-Gómez và Tirado (2012, 5) lập luận, ANT đã trở thành một lý thuyết “có khả năng cung cấp những câu trả lời thú vị cho những câu hỏi thông thường”. Xã hội học về các hợp quần của ANT cũng là một lý thuyết của và dành cho một thời đại nhất định—không phải vì nó được điều chỉnh để bắt kịp đà phát triển của các phương tiện truyền thông mới hay sự xuất hiện được cho là của một “xã hội mạng”. Như chúng tôi đã lưu ý, cách hiểu của ANT về “mạng” khác biệt đáng kể—mà đúng ra thì, nó trái ngược với—những gì thường được hiểu về thuật ngữ này trong thời đại Internet. Đúng hơn, xã hội học về các hợp quần là một lý thuyết đương đại bởi vì nó tự đặt ra những câu hỏi chính trị và thực nghiệm then chốt của thời đại chúng ta. Trước hết, đây là một lý thuyết phù hợp với một thế giới được định hình hoàn toàn bởi khoa học-công nghệ, nơi những tranh cãi kỹ thuật và năng lực phản ánh sinh sôi nảy nở dường như không giới hạn. Khả năng tạo ra và truy vết các hợp quần giờ đây được tăng cường đáng kể và phân bổ rộng rãi đến mức bất kỳ lý thuyết xã hội nào có thể có được vị thế đặc quyền hoặc ngoại tại so với các tác nhân mà nó nghiên cứu đều mất đi phần lớn tính chính đáng của mình. Đây cũng là thời điểm mà câu hỏi về “cái xã hội” – bản chất, chất lượng, bản thân sự tồn tại của nó – lại xuất hiện với một bước ngoặt đặc biệt. Việc nhận thức sâu sắc hơn về tính kết nối trùng khớp với cảm giác mơ hồ sâu xa về ranh giới và tính nhất quán của các tập hợp xã hội của chúng ta. Các cấu trúc của tính gần gũi điện tử và kỹ thuật số “xã hội” theo cách nào, và các mô thức lưu thông tạo ra những cách tụ hội như vậy liên quan đến chất lượng chính trị của chúng như thế nào? Địa hình bằng phẳng của ANT cộng hưởng với tình huống “sụp đổ bối cảnh”, như các học giả truyền thông mới cất tiếng, khi các khái niệm tiền-kỹ thuật số về khoảng cách xã hội và quy mô xã hội dường như ngày càng không còn phù hợp với các thế giới sống hợp quần mới [tr.23].
Trong một bình luận về công trình của Gabriel Tarde, Latour cho rằng xã hội học đơn tử của vị tiền bối của ông đã xuất hiện quá sớm. “Có thể lập luận rằng một nhà tư tưởng về các mạng trước thời đại của họ không thể chuyển hóa trực giác của mình thành dữ liệu, bởi vì thế giới vật chất mà họ quan tâm vẫn chưa có để cung cấp cho họ bất kỳ hiểu biết thực nghiệm nào” (Latour 2002, 118). Thế giới vật chất hiện giờ cung cấp cho ANT rất nhiều hiểu biết thực nghiệm để theo đuổi xã hội học về các hợp quần. Điều thách thức là ở chỗ đảm bảo rằng xã hội học mới này không chỉ đơn thuần là phái sinh từ các quá trình đã tạo ra các điều kiện cho sự tồn tại của nó—mà lý thuyết thực sự có thể tạo ra sự khác biệt, phiên dịch cái thế giới mà trong đó nó vận hành. Nói cách khác, nó có thể trở thành một tác nhân trong thế giới đương đại và thực hiện cái xã hội bằng những cách cụ thể.13 Điều này ngụ ý năng lực phân biệt và tách biệt giữa tất cả các loại tổng hợp xã hội khả thể, và mong muốn thúc đẩy một chương trình nghị sự tích cực về các loại tập hợp giá trị tập thể. Điều này dẫn chúng ta đến câu hỏi cuối cùng: trong những điều kiện nào và theo cách nào, ANT đang trở thành một lý thuyết chính trị đặc trưng?
Phân biệt định chuẩn
Trong một cuộc thảo luận với John Tresch về dự án gần đây nhất của mình, L'Enquête sur les modes d'existence Khảo sát các Phương thức Tồn tại (EME), Latour nêu rõ sự cần thiết phải vượt ra khỏi động lực giải cấu trúc của ANT cổ điển để thiết lập một chương trình nghiên cứu có khả năng xác định (và có thể củng cố) các giá trị làm sống động cuộc sống của người Hiện đại. Latour lưu ý rằng ANT “rất giỏi trong việc tạo ra sự tự do di chuyển nhưng lại rất kém trong việc xác định sự khác biệt” (Latour, trong Tresch 2013, 304). Nó mở rộng phạm vi hoạt động bằng cách bỏ qua sự khác biệt giữa xã hội và tự nhiên, con người và phi-nhân, kiến thức và hành động. Theo Latour, đã đến lúc chuyển hóa sức mạnh giải phóng của ANT thành một nỗ lực kiến tạo, kiến tạo trên nền tảng do ANT cung cấp—trên “nền tảng vững chắc của thuyết tương đối”, như ông đã nói ở một công trình khác (Latour 2005, 58)—và tiến hành một nghiên cứu nhân học tích cực về những người Hiện đại. Latour lập luận rằng mục tiêu tối hậu của dự án trí tuệ mới này là “tái xây dựng các thể chế. Thiết lập những giá trị mà chúng ta cho là quan trọng” (Latour, trong Tresch 2013, 309). Việc chuyển sang “các phương thức tồn tại” ngụ ý một sự định nghĩa lại dự án định chuẩn của ANT—hoặc ít nhất là sẵn sàng hơn để khẳng định một dự án như vậy (xem Harman 2014).
[Tr.24] Latour đã hé lộ những nét chính về nỗ lực này trong các bài viết của mình. “[N]hững tiềm năng của ANT,” ông viết vào năm 1999, “phần lớn vẫn chưa được khai thác, đặc biệt là những hàm ý chính trị của một lý thuyết xã hội không tuyên bố giải thích hành vi và lý tính của các tác nhân, mà chỉ tìm ra các thủ tục giúp các tác nhân có thể thương lượng cách thức của chúng/họ thông qua hoạt động xây dựng thế giới của nhau” (Latour 1999, 21). Trong bài báo năm 2003 “Điều gì sẽ xảy ra nếu chúng ta nói về chính trị một chút?”, Latour đã đưa ra một khái niệm hạn hẹp và phân biệt hơn về chính trị như một “chế độ phát ngôn” kỳ lạ, một cách nói mong manh được thúc đẩy bởi một tiêu chí chân lý nội tại: liệu nó có thể “truy vết một nhóm đến tồn tại” (Latour 2003, 148), để định nghĩa và hiện thực hóa một tập thể luôn trong quá trình hình thành, phải liên tục bắt đầu lại. EME mang hình thức của một cuộc khảo sát tập thể—cuốn sách được xuất bản bằng tiếng Pháp năm 2012 và bằng tiếng Anh năm 2013 chỉ là “bản thảo” đầu tiên của một dự án đang diễn ra được lưu trữ tại ww.modesofexistence.org/—và nó tập trung vào việc xác định một loạt “phương thức tồn tại” đặc trưng của những người Hiện đại. Theo công thức của Latour, một phương thức tồn tại là một hình thức hoặc thể loại xây dựng-thế giới cụ thể được hướng dẫn bởi các điều kiện hạnh phúc và bất hạnh của chính nó và thể hiện sự phân biệt đặc thù giữa đúng và sai. Tri thức khoa học, giờ đây được định hình lại thành “tham chiếu”, sẽ chỉ là một phương thức như vậy (được thúc đẩy bởi sự phân biệt nhận thức luận về đúng và sai), nhưng “tôn giáo”, “luật pháp”, “mạng”, “biến thái” hoặc “nhấp đúp”, cũng vậy, để nêu tên một số ít ví dụ (cho đến nay EME tuyên bố đã xác định được mười lăm phương thức như vậy). Mỗi chế độ đại diện cho một lộ trình xác thực cụ thể, hướng tới một định nghĩa cụ thể, không thể so sánh được về chân lý và do đó mang tính đạo đức theo cách riêng của nó (Latour 2013a, 452).14
Latour đã thừa nhận rằng việc thực hành lập bản đồ này hoàn toàn mang tính địa phương - vấn đề đang bị đe dọa là cách đọc nghiêm ngặt hơn về “bản thể học khu vực của những người Hiện đại”, dựa vào đó Latour dường như muốn nói đến truyền thống Âu-Mỹ, hoặc, theo cách diễn đạt khác, là “phương Tây”. Một phần quan trọng của chủ nghĩa địa phương này bắt nguồn từ việc EME tham chiếu đến Kitô giáo và các giá trị Kitô giáo. Cuốn sách mở đầu bằng một câu châm ngôn từ Phúc âm của Thánh John, Si scires donum dei (Nếu con biết món quà của Chúa), và những hàm ý tôn giáo (và âm hưởng) của cuộc khảo sát là không thể nhầm lẫn. Ngay cả khi đây vẫn là “một tôn giáo không có niềm tin” (Golinski 2010), thì Latour ngày càng dứt khoát hơn về các nền tảng Công giáo trong nỗ lực trí tuệ của mình, bằng cách xác định một chủ đề bắt nguồn từ luận án tiến sĩ năm 1975 của ông về Charles Péguy và mối quan hệ giữa chú giải Kinh thánh và bản thể luận triết học (Latour 2013c; Bordeleau 2015; Smith [tr.25] 2016). Tính địa phương của sáng kiến này đưa ra hướng tấn công rõ ràng và hiển nhiên (Fisher 2014; Viveiros de Castro 2016). Tuy nhiên, nó được đặt ra như một dạng thực hành minh định, một hình thức tự-nhận thức hướng đến một nền ngoại giao tốt hơn “kể cả giữa các chế độ chân lý khác nhau ở phương Tây và giữa phương Tây với các nền văn hóa khác” (Latour trong Tresch 2013, 303).15
Việc EME nhấn mạnh vào nhận diện tích cực các giá trị và chức năng phân biệt của lý thuyết đã tạo cộng hưởng với các hướng nghiên cứu khác gần đây trong truyền thống ANT. Điều này thể hiện rõ ràng, chẳng hạn, trong việc Annemarie Mol (2013) tạo dựng khái niệm “ontonorm” [chuẩn mực bản thể - Khái niệm ontonorms của Annemarie Mol đề cập đến sự vướng mắc giữa các cam kết bản thể và chuẩn mực trong thực hành, cụ thể là cách các thực hành khác nhau tạo ra những thực tại khác nhau và đồng thời thiết lập những gì được coi là tốt hoặc đáng mong muốn trong những thực tại đó; nó nói về cách các thực hành không chỉ định hình những gì hiện hữu - bản thể học - mà còn định hình những gì nên tồn tại hoặc được coi trọng - chuẩn mực - trong bối cảnh cụ thể đó. HHN]) trong các nghiên cứu của bà về chế độ ăn uống, hoặc trong dự án của John Law và Marianne Lien (2013) nhằm tạo không gian cho một khái niệm về tính đa dạng bản thể học, vốn cũng bao hàm “những thực tại chưa hoàn toàn được nhận thức”. Khi ANT từ bỏ định kiến phản chuẩn mực ban đầu và có được một hình thái chính trị rõ ràng hơn, nó ngày càng đặt chương trình nghiên cứu của mình vào bối cảnh các cuộc khủng hoảng đương đại cấp bách. Ví dụ, Latour đã xây dựng phần lớn các công trình gần đây nhất của mình xoay quanh những thách thức do khủng hoảng sinh thái và sự xuất hiện của kỷ nguyên Anthropocene Nhân sinh đặt ra (Latour 2013b, 2014a). Callon và các đồng nghiệp đã xây dựng một chương trình “dân chủ hóa nền dân chủ” (Barthe, Callon và Lascoumes 2001), và một nhánh nghiên cứu của ANT về kinh tế học đã phát triển thành nghiên cứu về các thị trường “văn minh hóa” hoặc “được quan tâm” (Callon 2009, Geiger và cộng sự 2014). Điều đáng chú ý là sự tham gia ngày càng tăng của các học giả ANT vào các phong trào xã hội, công việc thiết kế hoặc biểu diễn nghệ thuật, một phần của định hướng rộng hơn trong các nghiên cứu khoa học hướng tới các hình thức thực hành hợp tác, đang thúc đẩy lý thuyết theo hướng thực nghiệm hơn, ít mang tính phân loại hơn (DiSalvo 2012; Marres 2012).
Bất kể định nghĩa sứ mệnh công dân của ANT như thế nào—và liệu người ta có chọn giữ lại biệt danh này hay thay thế nó bằng một cái tên mới (hy vọng là một cái gì đó độc đáo hơn “hậu ANT”)— thì rõ ràng một định nghĩa như vậy sẽ là chìa khóa cho sự tiến hóa của lý thuyết trong tương lai. Nếu đánh mất quyền tự do vận động mà chương trình ANT ban đầu đã tạo ra, thì chúng ta phải đạt được một chương trình hành động đầy cảm hứng. Có lẽ chúng ta có thể tự mình chấp nhận việc coi chính trị chỉ là một phương thức tồn tại trong nhiều phương thức, có khả năng đạt được nhiều nhất là một loại “tiểu-siêu việt” khiêm tốn (Latour 2003), nhưng điều này không làm cho hành động chính trị trở nên dễ dàng hơn. Những lời kêu gọi tham gia vào “hiến pháp của tập thể” (Barthe và cộng sự 2011) hoặc đóng góp vào “cấu thành của một thế giới chung” (Latour 2014b) cần phải đi kèm với những công thức hấp dẫn về mục đích hơn-cả-con-người của một nỗ lực như vậy. Việc khai thác [tr.26] toàn bộ tiềm năng của cái lý thuyết xã hội miễn cưỡng này đòi hỏi một nỗ lực liên tục để phiên dịch quan điểm đặc biệt của nó về thế giới thành các chương trình hấp dẫn để thay đổi.
___________________________________
Nguồn: Javier Lezaun (2017). Actor-Network Theory, Forthcoming in C. Benzecry, M. Krause and I. Reed (eds.) Social Theory Now. The University of Chicago Press, 2017.
Notes
11 Latour đã ghi nhận ảnh hưởng xã hội học đơn tử của Gabriel Tarde (1843–1904) lên quan niệm này của xã hội học hợp quần. Việc khôi phục lại các tác phẩm của Tarde đã cho phép Latour (2002) trình bày ANT như một phương án thay thế cho xã hội học chính thống được xây dựng dựa trên lời chỉ dẫn của Émile Durkheim về việc xem xét “sự thật xã hội” như những sự vật.
12 Một tiền thân quan trọng trong ANT của chương trình này là cuốn sách Organising Modernity Tổ chức Thời Hiện đại của John Law (1994). Dựa trên nghiên cứu dân tộc học về một trung tâm nghiên cứu hạt nhân, cuốn sách này đề cập rõ ràng đến lý thuyết xã hội và định nghĩa cái xã hội là một quá trình sắp xếp không đồng nhất về mặt vật chất. Law mở rộng một số hệ quả phương pháp luận của công trình này trong cuốn sách After Method: Mess in Social Science Research Đàng sau Phương pháp: Lộn xộn trong Nghiên cứu Khoa học Xã hội (Law 2004).
13 Như Latour (2014a) lập luận ở một công trình khác: “Có một sự khác biệt rất lớn giữa “hiện đại” và “đương đại”. Thực sự biết cách trở thành một người đương đại, tức là con người của thời đại mình, là điều khó khăn nhất.”
14 Việc Latour sử dụng “các phương thức tồn tại” trong EME giống với phạm trù “danh từ siêu biện chứng” trong công trình tái cấu trúc sứ mệnh phê phán lý thuyết xã hội của Luc Boltanski (2011). Cả hai tác giả đều đang cố gắng phát triển một bộ máy phê phán xây dựng trên năng lực phê phán của các tác nhân mà họ nghiên cứu nhưng cũng sở hữu định hướng định chuẩn riêng, hay còn gọi là xung lực. Để phân tích mối quan hệ giữa ANT và xã hội học về năng lực phê phán của Boltanski, xem Guggenheim và Potthast (2012).
15 Chủ nghĩa địa phương tự nhận của EME được hiểu rõ nhất là tương tự như “sự địa phương hóa của Châu Âu” do Dipesh Chakrabarty (2000) đề xuất, một tác giả chia sẻ với Latour mong muốn tái định vị sự phản ánh chính trị và đạo đức trong bối cảnh của Anthropocene kỷ Nhân sinh (xem Chakrabarty 2009).
References
Akrich, M., and B. Latour. 1992. “A Summary of a Convenient Vocabulary for the Semiotics of Human and Nonhuman Assemblies.” In Shaping Technology/Building Society Studies in Sociotechnical Change, 259–64. Cambridge, MA: MIT Press.
Barry, A. 2013. “The Translation Zone: Between Actor-Network Theory and International Relations.” Millennium-Journal of International Studies 41 (3): 413–29.
Barthe, Y., M. Callon, and P. Lascoumes. 2001. Agir dans un monde incertain. Essai sur la démocratie technique. Paris: Seuil.
Blok, A., and T. E. Jensen. 2011. Bruno Latour: Hybrid Thoughts in a Hybrid World. London: Routledge.
Bloor, D. 1973. “Wittgenstein and Mannheim on the Sociology of Mathematics.” Studies in History and Philosophy of Science Part A 4 (2): 173–91.
Boltanski, L. 2011. On Critique: A Sociology of Emancipation. London: Polity.
Bordeleau, E. 2015. “Bruno Latour and the Miraculous Present of Enunciation.” In Breaking the Spell: Contemporary Realism Under Discussion, edited by A. Longo and S. de Sanctis, 155-167. Milano: Mimesis International.
Brown, S. D. 2002. “Michel Serres.” Theory, Culture and Society 19 (3): 1–27.
Bryan, D., R. Martin, J. Montgomerie, and K. Williams. 2012. “An Important Failure: Knowledge Limits and the Financial Crisis.” Economy and Society 41 (3): 299–315.
Çalişkan, K. 2010. Market Threads: How Cotton Farmers and Traders Create a Global Commodity. Princeton, NJ: Princeton University Press.
Çalışkan, K., and M. Callon. 2009. “Economization, Part 1: Shifting Attention from the Economy towards Processes of Economization.” Economy and Society 38 (3): 369–98.
———. 2010. “Economization, Part 2: A Research Programme for the Study of Markets.” Economy and Society 39 (1): 1–32.
Callon, M. 1975. “L’opération de traduction comme relation symbolique.” Les incidences des rapports sociaux sur la science. Paris: Cordes.
———. 1981. “Struggles and Negotiations to Define What Is Problematic and What Is Not: The Socio-Logic of Translation.” In The Social Process of Scientific Investigation, 197–219. New York: Springer.
Callon, M., 1984. “Some Elements of a Sociology of Translation: Domestication of the Scallops and the Fishermen of St Brieuc Bay.” The Sociological Review. 32 (1_suppl): 196–233.
———. 1986. “Some Elements of a Sociology of Translation: Domestication of the Scallops and the Fishermen of St. Brieuc Bay.” Power, Action, and Belief: A New Sociology of Knowledge 32: 196–223.
———. 1998a.” Introduction: The Embeddedness of Economic Markets in Economics.” The Sociological Review 46 (1): 1–57.
———. 1998b.” An Essay on Framing and Overflowing: Economic Externalities Revisited by Sociology.” The Sociological Review 46 (1): 244–S69.
———. 1999. “Actor-Network Theory—the Market Test.” The Sociological Review 47 (S1): 181–S95.
———. 2007a. “What Does It Mean to Say That Economics Is Performative?” In Do Economists Make Markets? On the Performativity of Economic, edited by D. MacKenzie, F. Muniesa, and L. Siu, 311–57. Princeton, NJ: Princeton University Press.
———. 2007b. “An essay on the growing contribution of economic markets to the proliferation of the social.” Theory, Culture & Society 24(7-8): 139-163.
———. 2009. “Civilizing markets: Carbon trading between in vitro and in vivo experiments.” Accounting, Organizations and Society 34(3): 535-548.
———. 2013. “Qu’est-ce qu’un agencement marchand.” In Sociologie des agencements marchands: Textes choisis, edited by M. Callon et al, 325–440. Paris: Presses des Mines.
———. 2016. “Revisiting Marketization: From Interface-Markets to Market- Agencements.” Consumption Markets and Culture 19 (1): 17–37.
Callon, M., and B. Latour. 1981. “Unscrewing the big Leviathan: how actors macro-structure reality and how sociologists help them to do so.” In Advances in Social Theory and Methodology: Toward an Integration of Micro- and
Macro-Sociologies, edited by K. Knorr-Cetina and A.V. Cicourel, 277-303. London: Routledge & Kegan Paul.
———. 1992. “Don’t Throw the Baby Out with the Bath School! A Reply to Collins and Yearley.” In Science as Practice and Culture, edited by Andrew Pickering, 343–68. Chicago: University of Chicago Press.
Callon, M., Y. Millo, and F. Muniesa. 2007. Market Devices. Special issue of the Sociological Review 55 (1).
Callon, M. & Latour, B., 1981. "Unscrewing the big Leviathan: how actors macro-structure reality and how sociologists help them to do so". In K. Knorr-Cetina & A. V. Cicourel, eds. Advances in social theory and methodology: Towards an integration of micro- and macro-sociologies. Boston: Routledge & Kegan Paul, pp. 277-303.
Callon, M., and F. Muniesa. 2005. “Peripheral Vision Economic Markets as Calculative Collective Devices.” Organization Studies 26 (8): 1229–50.
Chakrabarty, D. 2000. Provincializing Europe: Postcolonial Thought and Historical Difference. Princeton, NJ: Princeton University Press.
———. 2009. “The Climate of History: Four Theses.” Critical Inquiry 35 (2): 197–222.
Cochoy, F. 2008. “Calculation, Qualculation, Calqulation: Shopping Cart Arithmetic, Equipped Cognition and the Clustered Consumer.” Marketing Theory 8 (1): 15–44.
———. 2014. “A Theory of ‘Agencing’: On Michel Callon’s Contribution to Organizational Knowledge and Practice.” The Oxford Handbook of Sociology,
Social Theory, and Organization Studies, 106–24. New York: Oxford University Press.
Collins, H. 1985. Changing Order: Replication and Induction in Scientific Practice. Chicago: University of Chicago Press.
Collins, H. M., and S. Yearley. 1992. “Epistemological Chicken.” In Science as Practice and Culture, edited by Andrew Pickering, Chicago: University of Chicago Press.
Deleuze, Giles. 1989. Qu’est-ce qu’un dispositif? In Michel Foucault philosophe. Rencontre international, Paris, 9, 10, 11 janvier 1988. Paris: Le Seuil., DiSalvo, C. 2012. Adversarial design. The MIT Press.
Fischer, M. M. 2014. “The Lightness of Existence and the Origami of ‘French’ Anthropology: Latour, Descola, Viveiros de Castro, Meillassoux, and Their So-Called Ontological Turn.” HAU: Journal of Ethnographic Theory 4 (1): 331–55.
Fourcade, M. 2011. “Cents and Sensibility: Economic Valuation and the Nature of ‘Nature.”’ American Journal of Sociology 116 (6): 1721–77.
Gad, C., and C. B. Jensen. 2010. “On the Consequences of Post-ANT.” Science, Technology and Human Values 35 (1): 55–80.
Geiger, S., Harrison, D., Kjellberg, H., and Mallard, A. 2014. Concerned Markets: Economic Ordering for Multiple Values. Cheltenham: Edward Elgar Publishing.
Golinski, J. 2008. Making Natural Knowledge: Constructivism and the History of Science. Chicago: University of Chicago Press.
Golinski, J. 2010. “Science and Religion in Postmodern Perspective: The Case of Bruno Latour.” In Science and Religion: New Historical Perspectives, edited by T. Dixon, G. Cantor and S. Pumfrey 50-68. Cambridge: Cambridge University Press.
Gomart, E., and Hennion, A. (1999). “A sociology of attachment: music amateurs, drug users.” The Sociological Review 47(S1): 220-247.
Granovetter, M. 1983. “The Strength of Weak Ties: A Network Theory Revisited.” Sociological Theory 1 (1): 201–33.
———. 1985. “Economic Action and Social Structure: The Problem of Embeddedness.” American Journal of Sociology 91 (3): 481–510.
Greimas, A. J. 1973. “Les actants, les acteurs et les figures.” In Sémiotique narrative et textuelle. Paris: Larousse. Pp. 161–176.
Guggenheim, M., and J. Potthast. 2012. “Symmetrical twins: On the relationship between Actor-Network theory and the sociology of critical capacities.” European Journal of Social Theory 15(2): 157-178.
Hacking, I. 1999. The Social Construction of What? Cambridge, MA: Harvard University Press.
Harman, G. 2014. Bruno Latour: Reassembling the Political. London: Pluto.
Hennion, A. 2007. “Those things that hold us together: Taste and sociology.” Cultural sociology, 1(1), 97-114.
———. 2013. “Review Essay: 2012. Enquête sur les modes d’existence.” Science, Technology & Human Values 38(4): 588-594.
———. 2015. The Passion for Music: A Sociology of Mediation. Farnham: Ashgate.
———. 2016. “From ANT to Pragmatism: A Journey with Bruno Latour at the CSI.” New Literary History 47(2): 289-308.
Heritage, J. 1987. “Ethnomethodology.” In Social Theory Today, edited by Anthony Giddens and Jonathan Turner, 224–72. Stanford, CA: Stanford University Press.
Latour, B. 1983. “Give Me a Laboratory and I Will Raise the World.” In Science Observed: Perspectives on the Social Study of Science, edited by K. D. Knorr-
Cetina and M. Mulkay, 141-170. London: Sage.
———. 1987. Science in Action: How to Follow Scientists and Engineers through Society. Cambridge, MA: Harvard University Press.
———. 1988a. The Pasteurization of France. Cambridge, MA: Harvard University Press.
———. 1988b. “The Politics of Explanation: An Alternative.” In Knowledge and Reflexivity: New Frontiers in the Sociology of Knowledge, edited by Steve
Woolgar, 155–76. London: Sage.
———. 1993. We Have Never Been Modern. Cambridge, MA: Harvard University Press.
———. 1999. “On Recalling ANT.” The Sociological Review 47 (S1): 15–25.
———. 2002. “Gabriel Tarde and the End of the Social.” In The Social in Question: New Bearings in History and the Social Sciences, edited by Patrick Joyce, 117–32. London: Routledge.
———. 2003. “What If We Talked Politics a Little?” Contemporary Political Theory 2 (2): 143–64.
———. 2004a. “Why Has Critique Run Out of Steam? From Matters of Fact to
Matters of Concern.” Critical Inquiry 30 (2): 225–48.
———. 2004b. Politics of Nature: How to Bring the Sciences into Democracy.
Cambridge, MA: Harvard University Press.
———. 2005. Reassembling the Social—An Introduction to Actor-Network-Theory. Oxford, UK: Oxford University Press.
———. 2010a. The Making of Law: An Ethnography of the Conseil d’État. London: Polity.
———. 2010b. “An Attempt at a ‘Compositionist Manifesto.’” New Literary History 41 (3): 471–90.
———. 2013a. An Inquiry into Modes of Existence: An Anthropology of the Moderns. Cambridge, MA: Harvard University Press.
———. 2013b. “Facing Gaia: Six Lectures on the Political Theology of Nature.”
Gifford Lectures, Edinburgh University.
———. 2013c. “Biography of an inquiry: On a book about modes of existence.” Social Studies of Science 43(2): 287-301.
———. 2014a. “Anthropology at the Time of the Anthropocene—A Personal View of What Is To Be Studied.” Distinguished lecture delivered at the American Anthropological Association annual meeting, Washington, DC, December.
———. 2014b. “Another Way to Compose the Common World.” HAU: Journal of Ethnographic Theory 4 (1): 301–7.
Latour, B., and Woolgar, S. 1979. Laboratory Life: The Social Construction of Scientific Facts. Beverly Hills, CA: Sage.
———. 1986. Laboratory Life: The Construction of Scientific Facts. Princeton, NJ: Princeton University Press.
Law, John. 1987. “Technology and Heterogeneous Engineering: The Case of Portuguese Expansion.” In The Social Construction of Technological Systems: New Directions in the Sociology and History of Technology, edited by Wiebe E. Bijker, Thomas P. Hughes, and Trevor Pinch, 13–34. Cambridge, MA: MIT Press.
———. 1994. Organizing Modernity. Oxford, UK: Blackwell.
———. 2004. After Method: Mess in Social Science Research. London: Routledge.
Law, J., and Lien, M. 2012. “Slippery: Field notes on empirical ontology.” Social Studies of Science 43(3): 363-378.
Lee, N., and S. Brown. 1994. “Otherness and the Actor Network.” American Behavioral Scientist 37 (6): 772–90.
Lépinay, V. A. 2011. Codes of Finance: Engineering Derivatives in a Global Bank. Princeton, NJ: Princeton University Press.
López Gómez, D., and F. J. Tirado. 2012. “Teoría del Actor-Red: Un pragmatism contemporáneo.” In Teoría del Actor-Red: Más allá de los estudios de ciencia y tecnología, edited by D. López Gómez and F. J. Tirado, 1-16. Barcelona, Spain: Armentia Editorial.
Lynch, M. 1997. Scientific Practice and Ordinary Action: Ethnomethodology and Social Studies of Science. Cambridge, UK: Cambridge University Press.
MacKenzie, D. 2004. “The Big, Bad Wolf and the Rational Market: Portfolio Insurance, the 1987 Crash and the Performativity of Economics.” Economy and Society 33 (3): 303–34.
———. 2006. An Engine, Not a Camera: How Financial Models Shape Markets. Cambridge, MA: MIT Press.
———. 2007. “Is Economics Performative? Option Theory and the Construction of Derivative Markets.” In Do Economists Make Markets? On the Performativity of Economics, edited by D. MacKenzie, F. Muniesa, and L. Siu, 54–86. Princeton, NJ: Princeton University Press.
———. 2009. Material Markets: How Economic Agents Are Constructed. Oxford, UK: Oxford University Press.
MacKenzie, D. A., and Y. Millo. 2003. “Constructing a Market, Performing Theory: The Historical Sociology of a Financial Derivatives Exchange.” American Journal of Sociology 109 (1): 107–45.
MacKenzie, D. A., F. Muniesa, and L. Siu, eds. 2007. Do Economists Make Markets? On the Performativity of Economics. Princeton, NJ: Princeton University Press.
Marres, N. 2012. Material Participation: Technology, the Environment and Everyday Publics. New York: Palgrave Macmillan.
McGee, K. 2014. Bruno Latour: The Normativity of Networks. London: Routledge.
Mirowski, P., and E. Nik-Khah. 2007. “Performativity, and a Problem in Science Studies, Augmented with Consideration of the FCC Auctions.” In Do Economists Make Markets? On the Performativity of Economics, edited by D. MacKenzie, F. Muniesa, and L. Siu, Princeton, NJ: Princeton University Press.
Mol, A. 2013. “Mind Your Plate! The Ontonorms of Dutch Dieting.” Social Studies of Science 43 (3): 379–96.
Muniesa, F. 2000. “Un robot walrasien. Cotation électronique et justesse de la découverte des prix.” Politix 13 (52): 121–54.
———. 2007. “Market Technologies and the Pragmatics of Prices.” Economy and Society 36 (3): 377–95.
———. 2014. The Provoked Economy: Economic Reality and the Performative Turn. London: Routledge.
Muniesa, F., and M. Callon. 2007. “Economic Experiments and the Construction of Markets.” In Do Economists Make Markets? On the Performativity of Economics, edited by D. MacKenzie, F. Muniesa, and L. Siu, 163–89. Princeton, NJ: Princeton University Press.
Muniesa, F., Y. Millo, and M. Callon. 2007. “An Introduction to Market Devices.” The Sociological Review 55 (S2): 1–12.
Pellandini-Simányi, L. 206. “Non-marketizing agents in the study of markets: competing legacies of performativity and actor-network-theory in the marketization research program.” Journal of Cultural Economy.
Pickering, A. 1995. The Mangle of Practice: Time, Agency & Science. Chicago: University of Chicago Press.
Pottage, A. 2012. “The Materiality of What?” Journal of Law and Society 39 (1): 167–83.
Preda, A. 2009. Framing Finance: The Boundaries of Markets and Modern Capitalism. Chicago: University of Chicago Press.
Riles, A. 2011. Collateral Knowledge: Legal Reasoning in the Global Financial Markets. Chicago: University of Chicago Press.
Sayes, E. 2014. “Actor-Network Theory and Methodology: Just What Does It Mean To Say That Nonhumans Have Agency?” Social Studies of Science 44 (1): 134–49.
Schaffer, S. 1991. “The Eighteenth Brumaire of Bruno Latour.” Studies in History and Philosophy of Science Part A 22 (1): 174–92.
Schmidgen, H. 2013. “The materiality of things? Bruno Latour, Charles Péguy, and the history of science.” History of the Human Sciences 26(1), 3-28.
Serres, M. 1974. La traduction. Paris: Editions de minuit.
———. 1980. Le parasite. Paris: Grasset.
———. 1995. The Natural Contract. Ann Arbor: University of Michigan Press.
———. 1988. “Following Scientists Around.” Social Studies of Science 18(3): 533–50.
Shapin, S. 1988. “Following scientists around.” Social Studies of Science 18(3): 533-550.
Sismondo, S. 1993. “Some Social Constructions.” Social Studies of Science 23(3):515–53.
Sismondo, Sergio (2009). “An Introduction to Science and Technology Studies.” John Wiley And Sons Ltd. pp. 81–92. ISBN 9781405187657.
Smith, B. H. 2016. “Anthropotheology: Latour Speaking Religiously.” New Literary History 47(2): 331-351.
Strum, S. S., and B. Latour. 1987. “Redefining the Social Link: From Baboons to Humans.” Social Science Information 26 (4): 783–802.
Tresch, J. 2013. “Another Turn after ANT: An Interview with Bruno Latour.” SocialStudies of Science 43 (2): 302–13.
Viveiros de Castro, E. 2016. “Sur les modes d’existence extramodernes.”
Williamson, O. E. 1993. “Calculativeness, Trust, and Economic Organization.” Journal of Law and Economics 36 (1): 453–86.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét