Åmund Norum Resløkken and John Ødemark
Người dịch: Hà Hữu Nga
Xã hội học và Tự sự về Tác tố
[Tr.65] Chương này xem xét việc kiến tạo agency tác tố trong Xã hội học Phiên dịch. Chúng tôi sẽ đặc biệt quan tâm đến việc một vị trí dành cho nonhuman agency tác tố phi- nhân đã được hình thành như thế nào thông qua sự chuyển hướng sang ký hiệu học, tự sự học và thi pháp văn chương. Chúng tôi lập luận rằng khái niệm đối xứng về tác tố phụ thuộc vào một thể loại cụ thể, mà chúng tôi gọi là ANT account “tường thuật ANT”, một thể loại tự sự được thiết kế để nắm bắt tác tố của các non-human actors tác nhân phi-nhân —đặc trưng của Xã hội học Phiên dịch. Để lý giải sự hình thành của một khái niệm tác tố cụ thể vận hành trong Xã hội học Phiên dịch, chúng tôi sẽ nghiên cứu kỹ lưỡng một trong những văn bản quan trọng của thể loại này, đó là cuốn Eléments pour une sociologie de la traduction. La domestication des coquilles Saint-Jacques et des marins-pêcheurs dans la baie de Saint-Brieuc “Một số Yếu tố Xã hội học Phiên dịch: Thuần hóa của Sò điệp và Ngư dân Vịnh St. Brieuc” của M. Callon (1986). Hơn nữa, chúng ta sẽ theo dõi các liên kết liên văn bản đằng sau phát triển của Callon về tính đối xứng tổng quát của “các tác nhân”, và cách diễn giải cụ thể về tác tố mà nó tương tác - cũng như sự tái cấu hình sau này của Latour về actant chủ thể hành động.
Chắc chắn, những câu hỏi liên quan đến các loại hành động và tác tố khác nhau từ lâu đã là trọng tâm của khoa học xã hội. Ví dụ, M. Weber nổi tiếng với việc phân biệt bốn loại hành động xã hội lý tưởng: lý trí - mục đích, lý trí - giá trị, tình cảm và truyền thống (Weber 1978: 24–26). Trong khi Weber nhấn mạnh sự cần thiết phải hiểu các khái niệm của chính các tác nhân và điều chỉnh ý nghĩa trong việc giải thích hành động,1 thì các nhà xã hội học theo truyền thống Durkheim lại chỉ ra rằng xã hội tính là một thực tại sui generis riêng cần được nghiên cứu bằng cách tham khảo các sự kiện xã hội; xã hội học nên bắt đầu từ xã hội, chứ không phải từ cá nhân. Do đó, các câu hỏi triết học và phương pháp luận về mối quan hệ giữa hành động và cấu trúc xã hội đã đóng vai trò trung tâm trong xã hội học hiện đại kể từ khi nó được thành lập (xem, ví dụ, Hollis 1994). Chúng ta có nên bắt đầu với cái xã hội và giải thích hành động như một chức năng của một tổng thể xã hội – hoặc chúng ta xem xã hội như một tập hợp các hành động cá nhân, một cái ‘tên’ hoặc ‘khái niệm phân tích’ thuần túy chỉ được sử dụng như một chữ viết tắt để tham chiếu đến tất cả các hành động và tương tác diễn ra? Vai trò của ý nghĩa và ý định của ‘tác nhân’ liên quan đến các ràng buộc xã hội và [tr.66] cấu trúc khác nhau đối với hành động là gì? Xung quanh những vấn đề như vậy, nhận thức luận của khoa học xã hội diễn ra với chính trị, các giá trị và định hướng chính trị. Việc kết hợp các tác nhân phi-nhân vào xã hội học về hành động chắc chắn là một sự mở rộng phi-nhân trung tâm luận của chính trị hướng tới tự nhiên - và có thể hướng tới sinh thái học và tính bền vững. Nhấn mạnh vào những gì mà ai đó hoặc cái gì đó làm (hành động đã được thực hiện), thay vì những gì các tác nhân là (bản chất, nhân vật, con người, phi-nhân, trừu tượng, cụ thể) tránh được sự cần thiết phải phân biệt nhận thức luận và bản thể luận giữa con người, động vật và sự vật. Chính nhờ sự thay đổi quan điểm này mà Lý thuyết Mạng-Tác nhân (ANT) đã xác định được những mối quan hệ quan trọng đối với sự hình thành các vấn đề môi trường, cũng như tạo ra một cách thức mới để mô tả tương tác tự nhiên-văn hóa (Callon và Latour 1981; Latour 2017; Haraway 2016; Tsing và cộng sự 2020; Clark và Szerszynski 2021).
Có thể nói, thi pháp mô tả mới, mà chúng tôi gọi là lý giải ANT ấy, đã có tác động lớn hơn với tư cách là một phê phán nhận thức luận và bản thể luận “thường thức”, và (có lẽ là nghịch lý, nhưng chắc chắn không có gì đáng ngạc nhiên) khoa học nhân văn, hơn là đối với chính sách hay khoa học tự nhiên. Để mở rộng khái niệm con người-trung tâm của tác tố và hành động được phát triển trong khoa học xã hội, Xã hội học Phiên dịch đã chuyển hướng từ xã hội học sang các khoa nhân văn, chính xác hơn là sang thi pháp văn chương và tự sự học—một lĩnh vực có lịch sử lâu đời trong việc khái niệm hóa và phân tích các tác nhân và hành động. Chắc chắn, thuật ngữ xã hội học “tác nhân” [actor] tự thân đã được du nhập vào khoa học xã hội và nhân văn từ ngôn ngữ sân khấu, ngôn ngữ thi pháp và phê bình văn chương. Hơn nữa, phép loại suy giữa kịch nghệ và văn bản ngày càng trở nên phổ biến trong xã hội học (ví dụ, Goffman 1986) và nhân học xã hội vào những năm 1980 (xem, ví dụ, Geertz 1980 về ẩn dụ kịch nghệ).
Vậy là khi nhìn lại, việc tái sử dụng tự sự học cấu trúc trong ANT và Xã hội học Phiên dịch có thể được xem là một phần của bước chuyển rộng lớn hơn sang ẩn dụ văn bản và kịch nghệ trong nhân học và khoa học nhân văn nói chung. Việc lựa chọn ký hiệu học và tự sự học làm lĩnh vực nguồn cho việc phiên dịch khái niệm và liên ngành trong Xã hội học Phiên dịch hoàn toàn liên quan đến tham vọng nắm bắt cả tác tố phi-nhân. Trọng tâm của dự án này là khái niệm actant kẻ hành động trong ký hiệu học và thi pháp văn chương. Như đã đề cập trong phần giới thiệu của cuốn sách này, việc đạt được các hình thức đối xứng phân tích giữa các tác nhân là con người và phi-nhân là mục tiêu cốt lõi của Xã hội học Phiên dịch. Như chúng tôi sẽ trình bày trong chương này, các tác nhân phi-nhân đã được xác lập vững chắc trong tự sự học và thi pháp văn chương. Chúng tôi chứng minh rằng việc dịch các thuật ngữ từ tự sự học và ngôn ngữ học cấu trúc đóng vai trò trung tâm trong thiết lập cách tiếp cận đối xứng, cũng như khái niệm tác tố và tác nhân của nó. Trọng tâm tính đối xứng này của các tác nhân là khái niệm actant kẻ hành động, mà Callon và Latour lấy từ nhà tự sự học Julien Algirdas Greimas.
[Tr.67] Sau đây, trước hết chúng ta sẽ xem xét việc xây dựng khái niệm ‘tác nhân’ từ một trong những công thức kinh điển của Xã hội học Phiên dịch. Chúng ta sẽ theo dõi việc xây dựng khái niệm ‘tác nhân’ trong cuốn Eléments pour une sociologie de la traduction. La domestication des coquilles Saint-Jacques et des marins-pêcheurs dans la baie de Saint-Brieuc “Một số Yếu tố của Xã hội học Phiên dịch: Sự thuần hóa của Sò điệp và Ngư dân Vịnh St. Brieuc” của Michel Callon (1986). Lưu ý đến thực tế là ‘tác nhân’ và khái niệm tác tố của Callon đã có ảnh hưởng sâu sắc đến Lý thuyết Mạng-Tác nhân, thứ hai chúng ta sẽ theo dõi phả hệ của khái niệm actant ‘kẻ hành động’. Bằng cách theo dõi phả hệ của khái niệm, chúng ta sẽ hướng chú ý đến lịch sử khái niệm của nó trong tự sự học, ký hiệu học và ngôn ngữ học, cùng những hệ quả mà việc phiên dịch từ các lĩnh vực chuyên ngành này gây ra cho phong cách tự sự của ANT. Chúng ta sẽ xem xét hai nguồn mà Callon trích dẫn để bảo đảm cho sự hiểu biết mới của ông về actant ‘kẻ hành động’: i) Sémiotique: Dictionnaire raisonné de la théorie du langage - Ký hiệu học: Từ điển Lý thuyêt Ngôn ngữ của Greimas và Courtés, và ii) Les Microbes: guerre et paix suivi de Irréductions - Khử trùng nước Pháp của Latour. Bằng cách xem xét sự phụ thuộc của Callon và Latour vào khái niệm về tác nhân của Greimas, chúng ta sẽ lập luận rằng tác nhân của ANT phụ thuộc vào sự hình thành cái mà Greimas gọi là genre “thể loại”. Chúng tôi cho rằng điều này rất quan trọng đối với cách thức mà tác tố được cung cấp cho các tác nhân phi-nhân.
Greimas đã khẳng định rằng sự khác biệt giữa các thể loại có thể được quy giản thành sự khác biệt trong các mối quan hệ chức năng, tức là các actants kẻ hành động khác nhau, “một cách diễn đạt về các actors tác nhân tạo nên một tale tích truyện cụ thể, một cấu trúc của các các actants kẻ hành động tạo nên một genre thể loại” (Greimas 1983: 200, nhấn mạnh trong bản gốc). Khi Latour và Callon sử dụng các tác nhân là người và phi-nhân để giải thích—hoặc đưa ra ví dụ về các mối quan hệ chức năng khác nhau, họ cũng tạo ra một genre narratif thể loại tự sự. Chúng ta có thể gọi thể loại này là mô tả ANT. Như chúng ta sẽ thấy, mô tả ANT đã cung cấp một phương pháp để mô tả tác tố của các tác nhân phi-nhân ngang bằng với con người. Đồng thời, các khái niệm của Greimas, khi được triển khai trong lý thuyết ANT, đã mở ra cơ hội cho việc đầu tư cho chính các tác nhân này những kỳ vọng a priori tiên nghiệm về cách họ phải hành xử. Về mặt này, chúng ta có thể thấy một loại tác tố trong lý thuyết ANT, được đầu tư với những kỳ vọng nhất định về cách con người và phi-nhân liên hệ với nhau. Chính với những kỳ vọng này, liên quan đến cách thức hiểu rõ các mô tả, mà các các thức đó tạo thành một thể loại tự sự, và theo cách này, lý thuyết ANT cũng đặt ra một số vấn đề như một khuôn khổ để khám phá các khả tính hình thành một thứ chính trị bền vững. Rồi chúng ta sẽ làm rõ, những vấn đề này là vấn đề của phiên dịch, hay nói đúng hơn là vấn đề bất chấp công việc phiên dịch giữa các cấp độ tự sự khác nhau.
Đối xứng và lối Tự sự của Tác tố Tự nhiên
Eléments pour une sociologie de la traduction. La domestication des coquilles Saint-Jacques et des marins-pêcheurs dans la baie de Saint-Brieuc “Một số Yếu tố của Xã hội học Phiên dịch: Sự thuần hóa của Sò điệp và Ngư dân Vịnh St. Brieuc” của Michel Callon là công thức chuẩn mực của việc phiên dịch với tư cách là một phương pháp cho một loại xã hội học giao thoa tự nhiên-văn hóa. Callon muốn chỉ ra bản chất bấp bênh của các bản dịch trong bài viết của mình, theo chính lời của ông, thì “phiên dịch là một quá trình” (Callon 1986: 196). [P.68] Về phương diện kinh nghiệm, văn bản này xem xét một nhóm gồm ba nhà khoa học người Pháp có mục tiêu tăng sản lượng sò điệp ở Vịnh St Brieuc bằng cách nhập khẩu một kỹ thuật của Nhật Bản để nhân giống chúng. Điều đáng chú ý là giống sò điệp Pechten Maximus ở St Brieuc thuộc một loài khác với loài mà các nhà khoa học Nhật Bản đã nghiên cứu. Theo nghiên cứu của Nhật Bản, thì ấu trùng sò điệp được neo vào các collectors bầu ươm dưới đáy biển, từ đó các nhà khoa học Pháp tìm cách áp dụng kỹ thuật tương tự này ở St Brieuc. Vì vậy, theo Callon, toàn bộ dự án xoay quanh một câu hỏi duy nhất; liệu Pechten Maximus có trụ lại được không? Ngoài ba nhà khoa học và các đồng nghiệp của họ, ngư dân địa phương và sò điệp là key agents những tác nhân chủ chốt trong dự án này. Ngư dân được cho là những người hưởng lợi từ nghiên cứu, trong khi sự thành công của dự án lại phụ thuộc vào loài sò điệp và khả năng sinh sản của chúng trong môi trường mới. Callon mô tả công trình của ba nhà khoa học trong việc “phiên dịch” các kết quả khoa học của Nhật Bản sang thực tế xã hội và tự nhiên của Vịnh St. Brieuc. Bài viết của Callon đề cập đến sự hình thành của dự án sò điệp, sự tham gia của các actors tác nhân, và sau đó là sự thất bại của dự án, thông qua cái ông gọi là bốn thời điểm phiên dịch: “vấn đề hóa”, “liên can”, “nhập cuộc” và “huy động”. Chính mô tả bốn “thời điểm” này (bên cạnh phê phán nguyên lý đối xứng) là nền tảng làm nên danh tiếng của bài viết, bởi những giai đoạn này tạo nên khuôn khổ cho việc phân tích việc thực hiện các dự án khoa học.
Tác nhân và Người dịch
Vậy là nhà khoa học, các đồng nghiệp khoa học, ngư dân và sò điệp, là những tác nhân được gợi lên trong văn bản, nhưng Callon đã lên khuôn các tác nhân này như thế nào? Đầu tiên, bằng một động thái kết hợp giữa nhận thức luận và bản thể luận. Ngay từ đầu văn bản, ông đã nhấn mạnh đến “tính bất đối xứng” trong các mô tả xã hội học về các tác nhân và hành động: Khi nói đến việc thừa nhận quyền của các nhà khoa học và kỹ sư là họ nghiên cứu để tranh luận, thì lòng khoan dung của các nhà xã hội học là vô hạn. Các nhà xã hội học hành động một cách vô tư và gọi các nhân vật chính khác nhau bằng cùng một thuật ngữ, ngay cả khi một trong số họ thành công trong việc áp đặt ý chí của mình. Các nhà xã hội học không gán cho các tác nhân bằng lý trí, phương pháp khoa học, chân lý hay hiệu quả, bởi vì những khuôn khổ này biểu thị sự thành công của tác nhân mà không giải thích lý do cho điều đó. Quan điểm này đã là nền tảng của những mô tả rất sống động và chi tiết về quá trình định hình khoa học. Tuy nhiên, chủ nghĩa tự do của các nhà xã hội học này không mở rộng đến mức cho phép các tác nhân được nghiên cứu thảo luận về xã hội và các thành phần của nó một cách cởi mở. Một khi đã xem xét các khía cạnh khoa học và kỹ thuật tranh cãi, các nhà xã hội học khôi phục trung thực [tr.69] các quan điểm hiện có về đúng vị trí của chúng, ngoài ra, họ thực sự tránh đứng về phía nào. (Callon 1986: 197)
Ở đây, Callon phê phán cái gọi là nguyên tắc đối xứng trong Xã hội học Tri thức Khoa học (SSK - Sociology of Scientific Knowledge). Nguyên tắc này khẳng định rằng cùng một loại giải thích phải được sử dụng cho cả những tuyên bố tri thức thành công lẫn thất bại, đúng hay sai.2 Vậy thì, về nguyên tắc, các phát biểu (ví dụ, về phép thuật phù thủy và vật lý lượng tử) nên được xử lý bằng cùng một giao thức giải thích. Có lẽ triệt để nhất, niềm tin đúng đắn không tự nó giải thích, mà đòi hỏi cùng một cách xử lý xã hội học như các niềm tin sai lầm. Do đó, cả niềm tin đúng và niềm tin sai đều cần sự quan tâm xã hội học như nhau. Tuy nhiên, như Callon nhận xét, SSK vẫn đặt các tác nhân là con người và phi-người trong một mối quan hệ bất đối xứng. Có thể nói, tính giống hệt về mặt giải thích không liên quan gì đến sự khác biệt về bản thể học, bởi vì sự khác biệt tự nhiên-văn hóa không bị đặt thành vấn đề. Callon đã chỉ ra điểm [được cho là] yếu ấy khi ông viết rằng “chủ nghĩa tự do của các nhà xã hội học này không mở rộng đến mức cho phép các tác nhân được nghiên cứu thảo luận về xã hội và các thành phần của nó một cách cởi mở” (Callon 1986: 197). Các nhà khoa học chỉ được phép nói về tự nhiên, để lại việc giải thích xã hội của khoa học cho các nhà xã hội học. Hơn nữa, các tác nhân được nghiên cứu trong SSK luôn là các nhà khoa học thảo luận về tự nhiên, chứ không phải bản thân “tự nhiên”, tức là các tác nhân phi-nhân. Do đó, chúng ta có thể nói rằng các sự kiện diễn ra ở Vịnh St. Brieuc được huy động như một sự tương phản với SSK, và cách thức mà trường phái này diễn giải về tính đối xứng. Việc Callon xét lại SSK dựa trên một cách khái niệm hóa mới về “phiên dịch”; nó xoay quanh việc phiên dịch làm cái công việc trung gian cho sự phân chia giữa tự nhiên và văn hóa, và do đó tạo ra một loại đối xứng mới.
Thực hành Kể chuyện Lãng quên của ANT
Callon sử dụng thuật ngữ actor “tác nhân” như thế nào để tạo ra các mô tả đối xứng? Như chúng ta đã thấy, ngay từ đầu của Eléments pour une sociologie de la traduction. La domestication des coquilles Saint-Jacques et des marins-pêcheurs dans la baie de Saint-Brieuc “Một số Yếu tố của Xã hội học Phiên dịch: Sự thuần hóa của Sò điệp và Ngư dân Vịnh St. Brieuc” của Michel Callon, chúng ta thấy đối tượng điều tra được chỉ định là “các tác nhân được nghiên cứu”, ba nhà khoa học đã tạo ra các tài liệu mà Callon đang nghiên cứu, mặc dù bây giờ họ cũng được phép thảo luận về các mối quan tâm xã hội. Callon cho rằng những tác nhân này nên được nghiên cứu theo nguyên tắc đối xứng tổng quát. Tuy nhiên, sau đó trong văn bản, Callon đã thêm một loại tác nhân nữa, cũng quan trọng trong việc tạo ra Xã hội học Phiên dịch. Trong khi mô tả cách thức mà các nhà khoa học dịch các tác nhân khác vào lĩnh vực quan tâm của họ, ông viết rằng: [c]ác câu hỏi do ba nhà nghiên cứu đưa ra và các bình luận mà họ cung cấp đã đưa ba tác nhân khác trực tiếp vào câu chuyện: [chú thích 21 của Callon] [tr.70] sò điệp (Pecten maximus), những người đánh cá ở Vịnh St. Brieuc và các đồng nghiệp khoa học. (Callon 1986: 204, chúng tôi nhấn mạnh) Chúng ta sẽ quay lại chú thích 21 ở cuối câu đầu tiên, giải thích khái niệm actor “tác nhân” của Callon. Nhưng trước tiên, hãy cùng xem xét các cấp độ mà các tác nhân khác nhau của Callon xuất hiện. Một mặt, ba nhà khoa học được gọi là “các tác nhân được nghiên cứu”, như chúng ta đã thấy trong trích dẫn ở trên (“Tuy nhiên, chủ nghĩa tự do của các nhà xã hội học này không mở rộng đến việc cho phép các tác nhân được nghiên cứu thảo luận về xã hội và các thành phần của nó một cách cởi mở” (xem trích dẫn ở trên: ibid. 1986: 197)). Hành động của các nhà khoa học được theo dõi thông qua các ghi chép và tài liệu do chính họ tạo ra. Nhưng mặt khác, chúng ta có các tác nhân được thảo luận trong các tài liệu do các nhà khoa học tạo ra. Do đó, những tác nhân này là các tác nhân trong câu chuyện của các nhà khoa học về các sự kiện mà họ nghiên cứu—và được tìm thấy trong các tài liệu và bài báo.
Điều quan trọng là Callon gọi cả hai nhóm (nhà khoa học và sò điệp) bằng cùng một tên, cả hai đều là actors “tác nhân”. Do đó, chúng ta cũng có hai tập tác nhân: các nhà khoa học, những người liên quan đến một tập tác nhân khác (sò điệp, nhưng còn là ngư dân nữa). Sự mở rộng của khái niệm “tác nhân” vượt ra ngoài con người đã định nghĩa phong cách mô tả và kể chuyện mà chúng ta biết với tư cách là ANT. Tuy nhiên, như chúng ta đã thấy ở trên, Callon nói rằng sò điệp, ngư dân và các đồng nghiệp khoa học đã được đưa vào “câu chuyện” (ibid. 1986: 204). Do đó, những tập thể phi-nhân (sò điệp) và con người (ngư dân, các đồng nghiệp khoa học) được đưa vào lời kể của Callon như những nhân vật tự sự hoặc tác nhân đã được lên khuôn, hoặc theo lời Callon được dịch ra, trong các văn bản khoa học do “các tác nhân được nghiên cứu” viết ra. Cả những tập thể phi-nhân và con người đều đóng góp vào câu chuyện về sự kiện diễn ra ở St Brieuc. Bây giờ chúng ta xem xét cách mở rộng cái (được cho là) đối xứng của việc phiên dịch mang hình thức tự sự.
Như đã quan sát ở trên, mục tiêu của Callon đối với cách tiếp cận đối xứng trong nghiên cứu khoa học là cho phép mọi tác nhân giải thích các tranh cãi khoa học trong cả khuôn khổ nhân quả tự nhiên và văn hóa. Để đạt được mục tiêu này, Callon nói: [chúng ta] yêu cầu người quan sát sử dụng một kho tàng duy nhất khi chúng [các tranh cãi khoa học] được mô tả. Từ vựng được chọn cho những mô tả và giải thích này có thể tùy thuộc vào quyết định của người quan sát. Anh ta không thể chỉ đơn giản lặp lại phân tích do các tác nhân mà anh ta đang nghiên cứu đề xuất. Tuy nhiên, có thể có vô số kho tàng. Nhà xã hội học phải chọn kho tàng phù hợp nhất với nhiệm vụ của mình và sau đó thuyết phục đồng nghiệp rằng mình đã đưa ra lựa chọn đúng đắn. Sau khi chọn văn bản này làm kho tàng phiên dịch, chúng ta biết rằng câu chuyện của mình không hơn, nhưng cũng không kém phần giá trị so với bất kỳ kho tàng nào khác. Nhưng [tr.71], xét theo nguyên tắc đối xứng tổng quát, quy tắc mà chúng ta phải tuân thủ là không thay đổi ngữ cảnh khi chuyển từ khía cạnh kỹ thuật sang khía cạnh xã hội của vấn đề được nghiên cứu. Chúng tôi hy vọng rằng kho tàng phiên dịch, vốn không phải là kho tàng của các tác nhân được nghiên cứu, sẽ thuyết phục được người đọc. (Ibid. 1986: 200, chúng tôi nhấn mạnh)
Callon lập luận cho tính đối xứng dưới dạng một tự sự không thay đổi ngữ cảnh khi chuyển từ khía cạnh kỹ thuật sang khía cạnh xã hội. Trong siêu tự sự của Callon, một phần được trích dẫn ở trên, có hai loại tác nhân khác nhau: người quan sát chọn ngôn ngữ mô tả và các “tác nhân” được mô tả. Từ vựng phiên dịch của Callon thuộc về người quan sát, đó là ngôn ngữ được sử dụng để mô tả “các tác nhân được nghiên cứu”. Callon nói rằng từ vựng phiên dịch không nằm trong ‘kho tàng’ của các tác nhân được nghiên cứu. Tuy nhiên, trong khi theo cách này, siêu tự sự của Callon tạo thành hai cấp độ tự sự, một cấp độ từ giọng nói của người quan sát và một cấp độ từ góc nhìn của các nhân vật được nghiên cứu, thì thực tế lại có ba cấp độ tự sự. Ngay sau đó trong văn bản, chúng ta tìm thấy câu nói được trích dẫn ở trên, nói rằng ba nhà nghiên cứu (những “nhân vật được nghiên cứu”) “đưa ba nhân vật khác trực tiếp vào câu chuyện” (ibid. 1986: 204). Như vậy, rõ ràng là câu chuyện của Callon hoạt động trên ba cấp độ tự sự, cụ thể là cấp độ 1). “Người quan sát”, mà vốn từ vựng của việc phiên dịch thuộc về kẻ này; 2). “Các tác nhân được nghiên cứu”, là những tác nhân xã hội (và con người) theo nghĩa họ là các chủ thể được quan sát bởi “người quan sát”; và 3). “Các tác nhân khác [được] đưa trực tiếp vào câu chuyện”, là những tác nhân được “các nhân vật được nghiên cứu” mô tả, và như vậy chúng/họ là narrative actors “các tác nhân tự sự”.
Do đó, Callon là “người dịch” các sự kiện tường thuật về “các tác nhân được nghiên cứu”. Những tác nhân được nghiên cứu này, hay những tác nhân xã hội và con người, đưa một tập người và phi-nhân, “vào câu chuyện”. Những tác nhân người và phi-nhân này, được xử lý đối xứng và được xác định bởi vai trò của họ trong diễn biến của các sự kiện ở St Brieuc, là những nhân vật hoặc tác nhân trong một câu chuyện, và như vậy là những narrative actors tác nhân tự sự. Đây là lý do tại sao tác nhân của họ có thể là tập thể, giống như những người đánh cá, nhà khoa học, phi-nhân (và tập thể), giống như những con sò điệp. Hình tượng các tác nhân này được lấy từ quan niệm của Greimas về các actants kẻ hành động. Nhưng Callon mô tả tất cả các nhóm này, cả những “tác nhân xã hội được nghiên cứu” và những tác nhân tự sự được xử lý đối xứng với tư cách con người và phi-nhân, là “tác nhân”. Tuy nhiên, mặc dù ông gộp các tác nhân ở các cấp độ tự sự, nhưng ông lại không nhất thiết gộp chuỗi tự sự theo cùng một cách. “Câu chuyện” mà người quan sát kiểm soát thông qua vốn từ vựng của bản dịch, ở một mức độ nào đó, có thể đối lập với “câu chuyện” về các sự kiện [tr.72], liên quan đến tất cả các tác nhân như những tác nhân tự sự, với một vai trò trong câu chuyện, và bản dịch không phải như một từ vựng để mô tả, mà như những mô hình cho các hành động. Tính đối xứng được áp dụng cho cấp độ thứ hai và thứ ba của tự sự, dựa trên vốn từ vựng của bản dịch ở cấp độ thứ nhất. Tuy nhiên, không có cân nhắc nào về tính đối xứng hoặc lời giải thích trong cùng một phạm vi giữa cấp độ tự sự thứ nhất, thứ hai và thứ ba.
_____________________________________
(Còn nữa…)
Nguồn: Åmund Norum Resløkken and John Ødemark (2024). Narrating Non-Human Agency, The ‘ANT Account’ and the Literary Prehistory of the Actant. In The Sociology of Translation and the Politics of Sustainability, Explorations Across Cultures and Natures. Edited by John Ødemark, Åmund Norum Resløkken, Ida Lillehagen, and Eivind Engebretsen, First published 2024 by Routledge 605 Third Avenue, New York, NY 10158
Notes
1 Xem khái niệm “emic” trong chương 1.
2 Bốn nguyên lý của Chương trình Mạnh là như sau: “Nhân quả” (tri thức khoa học phải được giải thích là do các điều kiện xã hội gây ra); “công bằng” (cả những tuyên bố khoa học thành công và không thành công đều phải được nghiên cứu); “đối xứng” (cùng một loại giải thích phải được mở rộng cho cả những tuyên bố thành công và không thành công về tri thức); và cuối cùng là “tính phản ánh” (những giải thích do Xã hội học Tri thức đưa ra cũng nên được áp dụng cho chính nó) (xem Golinski 2005: 22)
Works Cited
Callon, M. (1986) ‘Some Elements of a Sociology of Translation: Domestication of the Scallops and the Fishermen of St Brieuc Bay’, in J. Law (ed) Power, Action and Belief: A New Sociology of Knowledge?, London: Routledge and Kegan Paul, 196–233.
Callon, M. and B. Latour (1981) ‘Unscrewing the Big Leviathan: How Actors MacroStructure Reality and How Sociologists Help Them to Do So’, in K. Knorr Cetina and A. Cicourell (eds) Advances in Social Theory and Methodology. Toward an Integration of Micro- and Macro-Sociologies, Boston: Routledge and Kagan Paul, 277–303.
Clark, N. and B. Szerszynski (2021) Planetary Social Thought: The Anthropocene Challenge to the Social Sciences, Cambridge: Polity Press.
Geertz, C. (1980) ‘Blurred Genres: The Refiguration of Social Thought’, The American Scholar 49(2):165–179.
Goffman, E. (1986) Frame Analysis: An Essay on the Organization of Experience, Boston: Northeastern University Press.
Golinski, J. (2005) Making Natural Knowledge: Constructivism and the History of Science, Chicago: University of Chicago Press.
Greimas, A.J. (1966) Sémantique Structurale. Recherche de métode, Paris: Librarie Larousse.
Greimas, A.J. (1983) Structural Semantics. An Attempt at a Method, Lincoln: University of Nebraska Press.
Greimas, A.J. and J. Courtés (1982) Semiotics and Language: An Analytical Dictionary, Bloomington: Indiana University Press.
Haraway, D. (2016) Staying with the Trouble: Making Kin in the Chthulucene. Experimental Futures Technological Lives, Scientific Arts, Anthropological Voices, Durham: Duke University Press.
Hollis, M. (1994) The Philosophy of Social Science: An Introduction, Cambridge: Cambridge University Press.
Latour, B. (2017) Facing Gaia: Eight Lectures on the New Climatic Regime, Cambridge: Polity Press.
Latour, B. (1984) Les microbes, guerre et pair, followed by Irréductions, Paris: A.M. Métailié
Latour, B. (1988) The Pasteurization of France, Cambridge, MA: Harvard University Press.
Makaryk, I.R. (1993) Encyclopedia of Contemporary Literary Theory: Approaches, Scholars, Terms, Toronto: University of Toronto Press.
Propp, V. (1968) Morphology of the Folktale, second edition, Austin: University of Texas Press
Puckett, K. (2016) Narrative Theory: A Critical Introduction, Cambridge: Cambridge University Press.
Ricoeur, P. (1991) ‘What is a Text? Explanation and Understanding’, in M.J. Valdés (ed) A Ricoeur Reader. Reflection and Imagination, Toronto: Toronto University Press, 43–64.
Rimmon-Kenan, S. (2002) Narrative Fiction. Contemporary Politics, second edition, London: Routledge.
Sage, D.J. and C. Vitry (2018) ‘From Relational to Regressive Place-Making: Developing an ANT Theory of Place with Housebuilding’, in D.J. Sage and C. Vitry (eds) Societies under Construction: Geographies, Sociologies and Histories of Building, Cham: Springer International Publishing, 205–236. Narrating Non-Human Agency 85.
Selg, P. (2016) ‘Two Faces of the “Relational Turn”’, Political Science and Politics 49(1):27–31.
Tesniére, L. (2015) Elements of Structural Syntax, translated by Timoty Osborne and Sylvain Kahane, Amsterdam: John Benjamins Publishing Company.
Trifonas, P.P. (2015) ‘From Semantics to Narrative: The Semiotics of A.J. Greimas, in P. P. Trifonas (ed.) International Handbook of Semiotics, Dordrecht: Springer Netherlands, 1099–1107.
Tsing, A.L., J. Deger, A.K. Saxena, and F. Zhou (2020) Feral Atlas: The MoreThan-Human Anthropocene, Stanford University Press.
Weber, M. (1978) Economy and Society: An Outline of Interpretive Sociology, Berkeley: University of California Press.
West, S., L.J. Haider, S. Stålhammar, and S. Woroniecki (2020) ‘A Relational Turn for Sustainability Science? Relational Thinking, Leverage Points and Transformations’, Ecosystems and People 16(1):304–325.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét