Michel Callon
Người dịch: Hà Hữu Nga
Sò điệp và Ngư dân
[Tr.57] Được người tiêu dùng Pháp đánh giá cao, việc khai thác sò điệp chỉ mới bắt đầu có hệ thống trong hai mươi năm trở lại đây. Chỉ trong một thời gian ngắn, chúng đã trở thành một món ăn được săn đón nồng nhiệt đến mức mặc dù giá cả cao ngất ngưởng, doanh số bán ra vẫn tăng đáng kể trong mùa Giáng sinh. Ở Pháp, sò điệp được đánh bắt tại ba địa điểm: dọc theo bờ biển Normandy, tại bến tàu Brest và Vịnh St. Brieuc. Có vài loài sò điệp khác nhau. Một số loài, như ở Brest, được đánh bắt quanh năm. Tuy nhiên, tại St. Brieuc, sò điệp không được đánh bắt vào mùa xuân và mùa hè. Những đặc điểm này rất quan trọng về mặt thương mại bởi vì, theo nhận định của ngư dân, người tiêu dùng ưa chuộng sò điệp được đánh bắt hơn là loại được nuôi trồng. Trong suốt những năm 1970, trữ lượng ở Brest ngày càng giảm sút do ảnh hưởng tổng hợp của các loài săn mồi sò điệp như sao biển, cùng một loạt mùa đông khắc nghiệt khiến nhiệt độ nước biển hạ thấp, mà ngư dân vì muốn thỏa mãn nhu cầu tiêu thụ vô độ, đã nạo vét đáy đại dương để đánh bắt sò điệp quanh năm, không cho chúng thời gian sinh sản. Sản lượng ở St. Brieuc cũng giảm đều đặn [tr.58] trong cùng thời kỳ, nhưng may mắn thay, vịnh đã tránh được thảm họa. Ít động vật săn mồi hơn và nhu cầu tiêu thụ sò điệp đánh bắt đã buộc họ phải ở trên bờ nửa năm. Do những yếu tố này, khả năng sinh sản của sò điệp ở Vịnh St. Brieuc giảm ít hơn ở Brest.1
Mục tiêu của nghiên cứu này là xem xét sự phát triển nhanh chóng của các mối quan hệ xã hội mới thông qua việc hình thành “tri thức khoa học” diễn ra trong những năm 1970.2 Câu chuyện bắt đầu từ một hội nghị được tổ chức tại Brest vào năm 1972. Các nhà khoa học và đại diện của cộng đồng ngư dân đã tập hợp lại để xem xét khả năng tăng sản lượng sò điệp bằng cách kiểm soát việc nuôi trồng chúng. Các cuộc thảo luận được tập trung xung quanh ba yếu tố sau.
1. Ba nhà nghiên cứu là thành viên của Trung tâm Quốc gia Khai thác Đại dương (CNEXO - Centre National d’Exploitation des Oceans)3 trong một chuyến thăm Nhật Bản đã phát hiện ra sò điệp đang được nuôi thâm canh ở đó. Kỹ thuật này như sau: ấu trùng được thả vào các collectionneurs bầu ươm được nhúng dưới biển, nơi chúng được bảo vệ khỏi các loài săn mồi trong quá trình lớn lên. Khi sò điệp đạt kích thước đủ lớn, chúng được semées “gieo” dọc theo đáy đại dương, nơi chúng có thể phát triển an toàn trong hai hoặc ba năm trước khi được thu hoạch. Theo lời kể của các nhà nghiên cứu về chuyến đi, kỹ thuật này đã giúp gia tăng trữ lượng sò điệp hiện có. Tất cả các đóng góp khác nhau của hội nghị đều tập trung vào báo cáo này.
2. Hoàn toàn thiếu thông tin về các cơ chế đằng sau sự phát triển của sò điệp. Cộng đồng khoa học chưa bao giờ thực sự quan tâm đến chủ đề này. Hơn nữa, do việc khai thác sò điệp chuyên sâu chỉ mới bắt đầu gần đây, nên ngư dân không biết gì về các giai đoạn phát triển ban đầu của sò điệp. Họ chỉ nhìn thấy sò điệp trưởng thành trong lưới vét của mình. Vào đầu những năm 1970, không có mối quan hệ trực tiếp nào giữa ấu trùng và ngư dân. Như chúng ta sẽ thấy, mối liên hệ này đã dần được thiết lập thông qua hành động của các nhà nghiên cứu.
3. Việc đánh bắt đã được thực hiện ở cấp độ chuyên sâu đến mức hậu quả của việc khai thác này bắt đầu hiện rõ ở Vịnh St. Brieuc. Vịnh Brest gần như đã bị xóa khỏi bản đồ. Sản lượng tại St. Brieuc đã giảm dần đều. Ngành công nghiệp sò điệp ở St. Brieuc đặc biệt sinh lời và đại diện của ngư dân bắt đầu lo lắng về sự suy giảm nguồn lợi. Sự suy giảm của quần thể sò điệp dường như là không thể tránh khỏi và nhiều người lo ngại rằng thảm họa ở Brest cũng sẽ xảy ra ở St. Brieuc. Đây chính là điểm khởi đầu được chọn cho bài viết này. Mười năm sau, một tri thức “khoa học” đã được tạo ra và chứng thực; một nhóm xã hội được thành lập (ngư dân Vịnh St. Brieuc) thông qua các đặc quyền mà nhóm này có thể thiết lập, bảo tồn; và một cộng đồng chuyên gia được tổ chức để nghiên cứu sò điệp và [tr.59] thúc đẩy việc nuôi trồng chúng. Dựa trên phân tích của tôi về cái mà tôi đề xuất là Sociologie de la traduction xã hội học phiên dịch, giờ đây tôi sẽ lần theo một phần của quá trình tiến hóa này và xem xét sự sản sinh tri thức đồng thời và việc kiến tạo một mạng quan hệ, trong đó các thực thể xã hội và tự nhiên cùng kiểm soát lẫn nhau xem chúng/họ là ai và mong muốn điều gì.
Bốn Thời điểm Phiên dịch
Để xem xét sự phát triển này, chúng tôi đã chọn theo chân một acteur tác nhân qua quá trình kiến tạo-giải cấu trúc của anh ta đối với tự nhiên và xã hội. Điểm khởi đầu của chúng tôi ở đây là ba nhà nghiên cứu trở về sau chuyến hành trình đến Viễn Đông. Họ đến từ đâu và tại sao họ hành động không mấy quan trọng tại thời điểm này của cuộc điều tra. Họ là những primum movens [Primum movens là một thuật ngữ tiếng Latin có nghĩa là “động lực đầu tiên” hoặc “động lực chính”; trong triết học và thần học, nó đề cập đến một nguyên nhân ban đầu khiến mọi thứ khác chuyển động, mà bản thân nó không bị tác động bởi bất kỳ hành động nào trước đó; nó thường được liên hệ với khái niệm motor immutabilis “động lực bất biến”. HHN] động lực chủ chốt của câu chuyện được phân tích ở đây. Chúng tôi sẽ đồng hành cùng họ trong nỗ lực thuần hóa đầu tiên. Nỗ lực này bao gồm bốn thời điểm thực tế có thể gối xếp lên nhau. Các thời điểm này cấu thành các giai đoạn khác nhau của một quá trình chung được gọi là phiên dịch, trong đó danh tính [đồng nhất tính/bản sắc] của các tác nhân, khả tính tương tác và biên độ vận động được thương lượng và phân định.
Xây dựng Vấn đề
Sau khi trở về, các nhà nghiên cứu đã viết một loạt báo cáo và bài viết, trong đó họ chia sẻ những ấn tượng về chuyến đi và những dự án tương lai mà họ muốn khởi động. Chính mắt họ đã chứng kiến ấu trùng bám chặt vào các collectionneurs bầu ươm và lớn lên mà không bị quấy rầy và lại được che chở khỏi những kẻ săn mồi. Câu hỏi của họ rất đơn giản: Liệu trải nghiệm này có thể áp dụng cho Pháp, và cụ thể hơn là Vịnh St. Brieuc, hay không? Không thể đưa ra câu trả lời rõ ràng vì các nhà nghiên cứu biết rằng briochine (Pecten maximus) sò điệp lớn khác với loài sò điệp khổng lồ Pecten patinopecten yessoeusis được nuôi ở vùng biển Nhật Bản. Vì không ai phản bác lại lời khẳng định của các nhà nghiên cứu, nên chúng tôi cho rằng tuyên bố của họ là không thể chối cãi. Do đó, việc nuôi trồng sò điệp ở St. Brieuc đặt ra một vấn đề. Không thể đưa ra câu trả lời cho câu hỏi quan trọng sau: Liệu Pecten maximus sò điệp lớn có tự trụ vững trong bầu ươm ở những khoảnh khắc tồn tại đầu tiên của nó không? Những câu hỏi khác cũng quan trọng không kém đi kèm với câu hỏi đầu tiên. Quá trình biến thái của ấu trùng diễn ra khi nào? Tốc độ phát triển của ấu trùng là bao nhiêu? Liệu có đủ ấu trùng được neo vào các collectionneurs bầu ươm để biện minh cho dự án nuôi thả trong vịnh hay không?
Nhưng trong các tài liệu viết khác nhau của mình, ba nhà nghiên cứu không chỉ giới hạn ở việc hình thành các câu hỏi trên một cách đơn giản. Họ đã xác định một tập hợp các tác nhân4 và xác định danh tính của chúng/họ bằng cách tự thiết lập một Point de Passage Obligé [PPO] thông điểm bắt buộc trong mạng quan hệ mà họ đang xây dựng. [Tr.60] Chuyển động kép này, khiến chúng/họ trở nên không thể thiếu trong mạng, chính là điều mà tôi gọi là xây dựng vấn đề. L'interdéfinition des acteurs Liên-định nghĩa giữa các tác nhân. Những câu hỏi do ba nhà nghiên cứu xác lập và những bình luận mà họ cung cấp đã trực tiếp đưa ba tác nhân khác vào câu chuyện: loài sò điệp (Pecten maximus); những người đánh cá ở Vịnh St. Brieuc; và các đồng nghiệp khoa học. Các định nghĩa tác nhân này, như được trình bày trong báo cáo của các nhà khoa học, còn khá sơ lược. Tuy nhiên, nó vẫn đủ chính xác để giải thích tại sao các tác nhân này nhất thiết phải liên quan đến các câu hỏi khác nhau được xây dựng. Những định nghĩa này, do chính ba nhà nghiên cứu đưa ra, có thể được tổng hợp theo cách sau.
1. Ngư dân St. Brieuc: Họ đánh bắt sò điệp đến con sò cuối cùng mà không lo lắng về nguồn lợi; họ kiếm được lợi nhuận lớn; nếu họ không giảm bớt tính cố kiết ăn cả của mình, thì họ sẽ tự hủy hoại chính bản thân mình. Tuy nhiên, chúng ta vẫn cho rằng các ngư dân này nhận thức được lợi ích kinh tế lâu dài của họ và do đó, dường như họ cũng quan tâm đến dự án tái tạo nguồn lợi cho vịnh và tán thành các nghiên cứu đã được triển khai để đạt được kế hoạch này. Không có giả thuyết nào khác được đưa ra về danh tính/đồng nhất tính/bản sắc của họ. Ba nhà nghiên cứu không bình luận gì về một nhóm xã hội thống nhất. Họ định nghĩa một ngư dân trung bình là một đơn vị cơ sở của một cộng đồng bao gồm các yếu tố có thể hoán đổi cho nhau.
2. Các đồng nghiệp khoa học: tham gia các hội nghị hoặc được trích dẫn trong các ấn phẩm khác nhau, họ không biết gì về sò điệp nói chung cũng như về sò điệp ở St. Brieuc nói riêng. Ngoài ra, họ không thể trả lời câu hỏi về cách thức đeo bám của những loài sò điệp này. Người ta cho rằng họ quan tâm đến việc nâng cao kiến thức đã được đề xuất. Chiến lược này bao gồm việc nghiên cứu sò điệp in situ bản địa thay vì ương trong các bể thí nghiệm.
3. Sò điệp St. Brieuc: một loài đặc biệt (Pecten maximus) mà mọi người đều đồng ý chỉ được khai thác sáu tháng trong năm. Chúng chỉ được nhìn thấy khi trưởng thành, hiện tại chúng được bòn mót từ đáy biển. Câu hỏi ba nhà nghiên cứu đặt ra là liệu chúng có thể tự neo bám và “chấp nhận” một nơi trú ẩn cho phép chúng sinh sôi nảy nở và tồn tại hay không.5
Tất nhiên, và nếu không có điều này thì việc xây dựng vấn đề sẽ thiếu cơ sở, ba nhà nghiên cứu cũng bộc lộ bản thân họ là ai và họ muốn gì. Họ tự giới thiệu mình là những nhà nghiên cứu “cơ bản”, ấn tượng trước thành tựu của nước ngoài, nên tìm cách nâng cao tri thức hiện có về một loài mà trước đây chưa từng được nghiên cứu kỹ lưỡng. Bằng cách thực hiện cuộc khảo sát này, các nhà nghiên cứu hy vọng sẽ giúp cuộc sống của ngư dân dễ dàng hơn và gia tăng trữ lượng sò điệp ở Vịnh St. Brieuc. Ví dụ này cho thấy việc đặt vấn đề, thay vì quy giản cuộc khảo sát thành một công thức đơn giản, đã đề cập đến các yếu tố, ít nhất là một phần [tr.61] và cục bộ, vốn là các bộ phận của cả thế giới xã hội và tự nhiên. Chỉ một câu hỏi duy nhất – Liệu Pecten maximus có đeo bám trụ vững không? – là đủ để liên quan đến toàn bộ một loạt các tác nhân bằng cách xác định danh tính/đồng nhất tính/bản sắc và mối liên hệ giữa chúng/họ.6
Định nghĩa về Point de Passage Obligé [PPO] thông điểm bắt buộc. Ba nhà nghiên cứu không chỉ giới hạn bản thân trong việc xác định một vài tác nhân. Họ còn cho thấy rằng mối quan tâm của những tác nhân này nằm ở việc chấp nhận chương trình nghiên cứu được đề xuất. Lập luận mà họ phát triển trong bài báo của mình liên tục được lặp lại: nếu sò điệp muốn sống sót (bất kể cơ chế nào giải thích cho động lực này), nếu các đồng nghiệp khoa học của chúng/họ hy vọng nâng cao kiến thức về chủ đề này (bất kể động cơ của chúng/họ là gì), nếu ngư dân hy vọng bảo vệ lợi ích kinh tế lâu dài của họ (bất kể lý do của họ là gì), thì họ phải (1) biết lời đáp cho câu hỏi, Sò điệp đeo bám để trụ vững như thế nào?, và (2) nhận ra rằng liên minh của chúng/họ xung quanh câu hỏi này có thể mang lại lợi ích cho mỗi bên. Việc xây dựng vấn đề có được một số đặc tính động lực nhất định là: nó chỉ ra những chuyển động và đường vòng phải được chấp nhận cũng như những liên minh phải được hình thành. Sò điệp, ngư dân và các đồng nghiệp khoa học bị trói buộc: chúng/họ không thể tự mình đạt được điều mình muốn. Con đường của chúng/họ bị khóa chặt bởi một loạt các chướng ngại vật-vấn đề. Tương lai của Pecten maximus liên tục bị đe dọa bởi đủ loại động vật săn mồi luôn sẵn sàng tiêu diệt chúng; ngư dân, tham lam lợi nhuận ngắn hạn, dám mạo hiểm cả sự tồn tại lâu dài của chúng/họ; các đồng nghiệp khoa học muốn phát triển tri thức buộc phải thừa nhận việc thiếu các quan sát sơ bộ và thiết yếu về sò điệp in situ bản địa. Đối với ba nhà nghiên cứu, toàn bộ dự án của chúng/họ xoay quanh vấn đề đeo bám trụ vững của Pecten maximus. Đối với các tác nhân này, lựa chọn thay thế là rõ ràng; hoặc là thay đổi hướng đi hoặc là nhận ra nhu cầu nghiên cứu và thu thập kết quả về cách thức mà ấu trùng sò điệp đeo bám trụ vững. 7
Việc đặt vấn đề mô tả một hệ thống liên minh, hay các hợp quần, giữa các thực thể, từ đó xác định danh tính/bản sắc/đồng nhất tính và những gì chúng/họ “muốn”. Trong trường hợp này, một liên minh thần thánh phải được hình thành để kích thích sò điệp ở Vịnh St. Brieuc sinh sôi. Các thiết bị liên quan, hay cách các đồng minh được gắn kết vào vị trí. Chúng tôi đã nhấn mạnh khía cạnh giả định của việc xây dựng vấn đề. Trên bài viết, hay chính xác hơn, trong các báo cáo và bài báo do ba nhà nghiên cứu trình bày, các nhóm được xác định có sự tồn tại thực sự. Nhưng thực tế là một quá trình. Giống như một khối hóa học, nó trải qua các trạng thái liên tiếp. Đến thời điểm này trong câu chuyện của chúng ta, các thực thể được xác định và các mối quan hệ được hình dung vẫn chưa được kiểm chứng [tr.62]. Bối cảnh được thiết lập cho một loạt các thử nghiệm về sức mạnh mà kết quả của chúng sẽ quyết định tính vững chắc của việc xây dựng vấn đề của các nhà nghiên cứu. Các phương tiện liên can Les dispositifs d'interssement, hay cách thức mà các đồng minh được gắn kết vào vị trí. Mỗi thực thể được tuyển dụng bởi quá trình xây dựng vấn đề có thể chấp nhận được tích hợp vào kế hoạch ban đầu, hoặc ngược lại, từ chối giao dịch bằng cách xác định danh tính/bản sắc/đồng nhất tính, mục tiêu, dự án, định hướng, động lực hoặc lợi ích của mình theo một cách khác. Trên thực tế, tình hình chưa bao giờ rõ ràng đến thế. Như cụm từ xây dựng vấn đề đã chỉ ra, sẽ là vô lý nếu người quan sát mô tả các thực thể như thể đang hình thành danh tính/bản sắc/đồng nhất tính và mục tiêu của mình một cách hoàn toàn độc lập. Chúng chỉ được hình thành và điều chỉnh trong quá trình hành động.
Liên can d'interssement là nhóm các hành động mà một thực thể (ở đây là ba nhà nghiên cứu) cố gắng áp đặt và ổn định các tác nhân khác mà nó xác định thông qua quá trình xây dựng vấn đề. Các phương tiện khác nhau được sử dụng để thực hiện những hành động này. Tại sao lại nói về sự liên can? Từ nguyên của từ này interessement biện minh cho sự lựa chọn của nó. Có liên can là phải ở giữa (inter-esse), là được xen vào. Nhưng giữa cái gì? Hãy quay lại với ba nhà nghiên cứu. Trong quá trình xây dựng vấn đề, họ hợp lực với sò điệp, [tr.63] ngư dân và các đồng nghiệp của họ để đạt được một mục tiêu nhất định. Khi làm như vậy, họ cẩn thận xác định danh tính/bản sắc/đồng nhất tính, mục tiêu hoặc khuynh hướng của các đồng minh. Nhưng các đồng minh này cũng bị lôi kéo một cách thận trọng vào quá trình xây dựng vấn đề của các tác nhân. Do đó, danh tính/bản sắc/đồng nhất tính của chúng/họ được xác định theo những cách thức cạnh tranh khác. Chính theo nghĩa này mà ta nên hiểu liên can. Việc thu hút các tác nhân khác là tạo dựng các thiết bị có thể được đặt giữa chúng/họ và tất cả các thực thể khác muốn xác định danh tính/bản sắc/đồng nhất tính của chúng/họ theo cách khác. A thu hút B bằng cách cắt đứt hoặc làm suy yếu mọi liên kết giữa B và nhóm các thực thể vô hình (hoặc đôi khi lại khá hữu hình) khác là C, D, E, v.v., những thực thể có thể muốn liên kết với B (xem Hình 5-3).
Các thuộc tính và danh tính/bản sắc/đồng nhất tính của B (dù là vấn đề về sò điệp, đồng nghiệp khoa học hay ngư dân) đều được củng cố và/hoặc định nghĩa lại trong quá trình liên can. B là “kết quả” của hợp quần gắn kết nó với A. Mối liên kết này tách B khỏi tất cả các C, D và E (nếu có) đang cố gắng định nghĩa nó theo một cách khác. Chúng ta gọi mối quan hệ cơ bản này, vốn bắt đầu định hình và củng cố mối liên kết xã hội, là tam giác liên can. Phạm vi các chiến lược và cơ chế khả thể được áp dụng để tạo ra những gián đoạn này là vô hạn: bất cứ điều gì cũng được. Đó có thể là các lực thuần túy và đơn giản nếu các liên kết giữa B, C và D được thiết lập vững chắc. Đó có thể là sự quyến rũ hoặc một lời chào mời đơn giản nếu B đã gần với việc xây dựng vấn đề A. Ngoại trừ những trường hợp cực kỳ hiếm hoi khi việc định hình B hoàn toàn trùng khớp với việc xây dựng vấn đề được đề xuất, danh tính/bản sắc/đồng nhất tính và “hình dạng” của các thực thể quan tâm đều bị biến đổi trong suốt quá trình liên can. Chúng ta có thể minh họa những điểm này bằng câu chuyện về việc thuần hóa sò điệp. [Tr.64] Việc thuần hóa sò điệp minh họa một cách nổi bật các cơ chế liên can chung. Ba nhà nghiên cứu lấy cảm hứng từ một kỹ thuật do người Nhật Bản phát minh. Dây phao của các bầu ươm được thả xuống biển. Mỗi bầu ươm mang theo một túi lưới mịn chứa giá đỡ để neo bám ấu trùng. Những túi này giúp đảm bảo dòng chảy tự do của nước và ấu trùng, đồng thời ngăn không cho sò điệp non lọt ra ngoài. Thiết bị này cũng ngăn chặn động vật săn mồi tấn công ấu trùng. Bằng cách này, ấu trùng được bảo vệ trong giai đoạn chúng không có khả năng tự vệ: tức là khi chúng chưa có lớp vỏ cứng.8 Các bầu ươm được buộc thành một chuỗi dọc dây phao. Đầu của hai dây được gắn vào các phao giữ cố định bằng hệ thống neo.
Dây phao và các bầu ươm tạo thành nguyên mẫu của thiết bị liên can. Ấu trùng được “trích xuất” ra khỏi bối cảnh của chúng. Chúng được bảo vệ khỏi những kẻ săn mồi (sao biển) muốn tấn công và tiêu diệt chúng, khỏi những dòng hải lưu cuốn chúng đến nơi tuyệt diệt và khỏi lưới vét của ngư dân hủy hoại chúng. Về mặt vật lý, chúng tách biệt khỏi tất cả các tác nhân đe dọa. Ngoài ra, các thiết bị liên can này lại mở rộng và hiện thực hóa các giả thuyết do các nhà nghiên cứu đưa ra liên quan đến sò điệp và ấu trùng: (1) ấu trùng không có khả năng tự vệ nên liên tục bị đe dọa bởi những kẻ săn mồi; (2) ấu trùng có thể đeo bám trụ vững; (3) kinh nghiệm của người Nhật có thể được chuyển sang Pháp vì sò điệp St. Brieuc về cơ bản không khác biệt so với họ hàng Nhật Bản của chúng. Các bầu ươm sẽ mất hết hiệu quả nếu ấu trùng “từ chối” trú ngụ, phát triển, biến đổi và sinh sôi trong điều kiện nuôi nhốt (tương đối). Nếu thành công, thiết bị liên can này sẽ xác nhận (ít nhiều hoàn toàn) tính hợp lệ của việc xây dựng vấn đề và cái liên minh mà nó ngụ ý. Trong trường hợp nghiên cứu cụ thể này, cuối cùng thì việc đặt vấn đề đã bị bác bỏ. Mặc dù các bầu ươm là cần thiết cho việc liên can của sò điệp và ấu trùng của chúng, nhưng loại “lập mưu” này tỏ ra không cần thiết đối với cuộc liên can của ngư dân và các đồng nghiệp khoa học. Hơn nữa, ba nhà nghiên cứu không có ý định thuyết phục toàn bộ nhóm đầu tiên. Thay vào đó, chính đại diện của các tổ chức chuyên môn mới là mục tiêu mà các nhà nghiên cứu nhắm đến.
Ba nhà nghiên cứu tổ chức nhiều cuộc họp và tranh luận để giải thích cho ngư dân nguyên nhân đằng sau sự tuyệt chủng của sò điệp. Các nhà nghiên cứu lập ra và bình luận về các biểu đồ đường cong “không thể chối cãi” cho thấy sự suy giảm đáng kinh ngạc của nguồn sò điệp ở Vịnh St. Brieuc. Họ cũng trình bày một cách đầy thuyết phục những kết quả “ngoạn mục” của người Nhật. Các đồng nghiệp khoa học bị cuốn hút tham gia các hội nghị và thông qua các ấn phẩm. Lập luận luôn giống nhau: một đánh giá toàn diện về tài liệu cho thấy không có gì được biết về sò điệp. Sự thiếu hiểu biết này thật đáng tiếc vì sự tồn tại của một loài có tầm quan trọng kinh tế ngày càng tăng đang bị đe dọa (ít nhất là ở Pháp).9 Đối với trường hợp của loài sò điệp (giống như những người đánh cá và các đồng nghiệp khoa học), mối liên can được xây dựng dựa trên một cách diễn giải nhất định về những gì mà các tác nhân chưa-được-ghi-danh và mong muốn cũng như những thực thể mà các tác nhân này cùng hợp quần. Các thiết bị liên can tạo ra sự cân bằng quyền lực thuận lợi: đối với nhóm đầu tiên, các thiết bị này là những dây phao bầu ươm được thả xuống Vịnh St. Brieuc; đối với nhóm thứ hai, các thiết bị ấy là các văn bản và các cuộc trò chuyện thu hút các tác nhân liên quan theo dõi dự án của ba nhà nghiên cứu. Đối với tất cả các nhóm liên quan, mối liên can giúp dồn các thực thể cần được ghi danh vào một góc. Ngoài ra, nó cố gắng làm gián đoạn tất cả các hợp quần cạnh tranh tiềm tàng và kiến tạo một hệ thống liên minh. Các cấu trúc xã hội bao gồm cả các thực thể xã hội và tự nhiên được định hình và củng cố.
Xác định và Phối hợp các Vai trò bằng Nhập cuộc
Cho dù công cụ bẫy có hạn chế đến đâu, cho dù lập luận có thuyết phục đến đâu, thì cũng không bao giờ đảm bảo thành công. Nói cách khác, thiết bị liên can không nhất thiết dẫn đến các liên minh, tức là thực sự nhập cuộc. Vấn đề ở đây là chuyển đổi một câu hỏi thành một loạt các tuyên bố chắc chắn hơn: Pecten maximus đeo bám; các ngư dân muốn bổ sung nguồn cung cho vịnh. Tại sao lại nói đến nhập cuộc? Khi sử dụng thuật ngữ này, chúng ta không viện dẫn đến một loại xã hội học chức năng luận hay văn hóa luận, vốn định nghĩa xã hội tính là một thực thể được tạo thành từ các vai trò và những người nắm giữ các vai trò đó. Enrollment Nhập cuộc không ngụ ý, cũng không loại trừ các vai trò đã được thiết lập trước. Nó chỉ ra loại thiết bị mà qua đó một tập hợp các vai trò liên can được xác định và gán cho các tác nhân chấp nhận chúng. Mối liên can tạo ra nhập cuộc khi nó [tr.66] thành công. Do đó, mô tả nhập cuộc là mô tả các đàm phán đa phương, các thử thách sức mạnh và các mánh khóe đi kèm với liên can và làm cho chúng thành công.
Nếu muốn sò điệp nhập cuộc, trước tiên chúng phải sẵn sàng neo mình vào các bầu ươm. Nhưng việc neo đậu này không dễ dàng. Trên thực tế, ba nhà nghiên cứu sẽ phải dẫn dắt cuộc đàm phán dài nhất và khó khăn nhất của mình với sò điệp. Giống như trong truyện thần tiên, có rất nhiều thế lực thù địch cố gắng ngăn cản dự án của các nhà nghiên cứu và đánh lạc hướng ấu trùng trước khi chúng bị bắt. Đầu tiên là dòng chảy: trong số sáu dây phao bầu ươm, thì bốn dây hoạt động bình thường trước khi các biến số khác nhau can thiệp. Có vẻ như ấu trùng neo mình tốt hơn ở những phần sâu nhất của vịnh, nơi dòng thủy triều yếu nhất. 10 Việc đàm phán với sò điệp trước tiên là đàm phán với dòng chảy vì sự nhiễu loạn do thủy triều gây ra là một trở ngại cho việc neo đậu. Nhưng các nhà nghiên cứu còn phải xử lý các yếu tố khác ngoài dòng chảy. Đủ loại ký sinh gây trở ngại cho thí nghiệm và hiện diện cản trở việc bắt ấu trùng. Một phần lớn sự khác biệt là do cách thức thu hút các vật ký sinh. Chúng tôi đã gặp rất nhiều du khách gây họa, làm dây phao bị dịch chuyển, làm vướng rối các bầu ươm. Điều này ngay lập tức gây ra những hệ quả tiêu cực. Dường như loài sò điệp cực kỳ nhạy cảm với mọi tác động (dây phao bị dịch chuyển, bầu ươm cọ xát vào nhau, v.v.) và phản ứng bằng cách tách khỏi giá đỡ của chúng.11
Danh sách còn dài. Một cuộc chiến thực sự đang diễn ra. Dòng chảy và du khách chỉ là một vài trong số những lực cản đối với các liên minh mà các nhà nghiên cứu muốn xây dựng với loài sò điệp.12 Trong cái tam giác A-B-C mà chúng ta đã nói trước đó, thì C, bên bị loại trừ (dù được gọi là dòng chảy hay sao biển) không dễ dàng đầu hàng. C (sao biển) có khả năng làm gián đoạn mối quan hệ giữa A (các nhà nghiên cứu) và B (ấu trùng). C làm điều này bằng cách cũng thu hút B (ấu trùng) mà tất cả các bên đều thèm muốn. Cuộc điều tra dân số do nhà nghiên cứu thực hiện cũng cho thấy số lượng các điểm neo dây phao ở độ cao 5 mét nhiều hơn so với đáy biển và chính đáy biển. Điều này có lẽ là do độ sâu cũng như hành vi đặc trưng của sò điệp khi chúng neo đậu: ấu trùng để mình chìm xuống và neo vào chướng ngại vật đầu tiên ngăn cản nó chìm xuống.13 Dây phao, một thiết bị liên can, cho người quan sát thấy rõ độ sâu neo đậu. Các giả thuyết và diễn giải của các nhà nghiên cứu chẳng qua chỉ là một chương trình đàm phán: Kìa Ấu trùng, bọn ta nên tìm kiếm các ngươi dưới đáy vịnh hay nên đợi các ngươi tìm đường chìm xuống để bẫy các ngươi? [Tr.67] Chưa hết. Các nhà nghiên cứu còn sẵn sàng nhượng bộ bất kỳ hình thức nào để dụ ấu trùng vào bẫy. Ấu trùng thích neo mình vào loại vật chất nào? Cần phải có một loạt trao đổi khác để trả lời câu hỏi này. Cần lưu ý rằng sự phát triển của sò điệp chậm hơn khi sử dụng các bầu ươm làm bằng rơm, chổi hoặc cải lông ngựa. Những loại giá đỡ này bị bện quá chặt và ngăn nước lưu thông đúng cách qua bầu ươm.14 Do đó, một modus vivendi lối sống hòa bình được sắp xếp dần dần. Nếu tất cả các điều kiện này được kết hợp, ấu trùng sẽ neo mình một cách ổn thỏa. Nhưng tính từ “ổn thỏa” biểu thị điều gì? Để trả lời câu hỏi này, chúng ta phải giới thiệu, như trong các hội nghị ba bên tại Việt Nam được tổ chức tại Paris, tác nhân thứ hai mà ba nhà nghiên cứu phải đàm phán: các đồng nghiệp khoa học. Ban đầu, đã có sự đồng thuận chung: ý tưởng cho rằng sò điệp neo mình đã không được bàn thảo. 15
Tuy nhiên, những kết quả đầu tiên đã không được chấp nhận nếu không có các cuộc đàm phán sơ bộ. Đề xuất: “Pecten maximus tự neo mình trong trạng thái ấu trùng” là một khẳng định mà các thí nghiệm được thực hiện tại St. Brieuc cuối cùng đã đặt ra câu hỏi. Không có điểm neo nào được quan sát thấy trên một số bầu ươm và số lượng ấu trùng neo trên bầu ươm chưa bao giờ đạt đến các mức độ của Nhật Bản. Vậy thì với số lượng bao nhiêu thì có thể khẳng định và chấp nhận được rằng sò điệp, nói chung, tự tụ bám? Ba nhà nghiên cứu đã chuẩn bị cho phản biện này bởi vì trong lần trao đổi đầu tiên, họ khẳng định rằng điểm tụ bám được quan sát không phải là ngẫu nhiên: chính ở đây, chúng ta thấy tầm quan trọng của các cuộc đàm phán được thực hiện với sò điệp nhằm tăng sự hấp dẫn và các hành vi dụ dỗ được sử dụng để giữ ấu trùng (cải lông ngựa thay vì nylon, v.v.). Với các đồng nghiệp khoa học, các giao dịch rất đơn giản: việc thảo luận về kết quả cho thấy họ đã sẵn sàng tin vào nguyên lý tụ bám và họ đánh giá thí nghiệm là thuyết phục. Điều kiện duy nhất mà các đồng nghiệp đặt ra là phải công nhận sự tồn tại của các công trình trước đó, các công trình đã dự đoán, mặc dù chưa hoàn chỉnh, về năng lực tụ bám của sò điệp. 16 Với mức giá này, số lượng điểm neo đậu mà các nhà nghiên cứu tuyên bố sẽ được đánh giá là đủ. Ba nhà nghiên cứu chấp nhận, sau khi lưu ý mỉa rằng tất cả các khám phá chân chính đều kỳ diệu hé lộ các tiền bối, những kẻ trước đây đã bị bỏ qua.17
Không có giao dịch nào với ngư dân, hay đúng hơn là với các đại diện của họ. Họ quan sát như những khán giả thích thú và chờ đợi phán quyết cuối cùng. Họ sẵn sàng chấp nhận kết luận của các chuyên gia. Sự đồng ý của họ đã đạt được [từ trước] mà không cần thảo luận. [Tr.68] Do đó, phần lớn quá trình đàm phán được thực hiện giữa ba bên vì đối tác thứ tư đã nhập cuộc mà không có bất kỳ sự phản kháng nào. Ví dụ này minh họa các cách khác nhau mà các tác nhân nhập cuộc: bạo lực thể xác (chống lại động vật ăn thịt), dụ dỗ, giao dịch và đồng ý mà không cần thảo luận. Ví dụ này chủ yếu cho thấy việc xác định và phân bổ vai trò (những con sò điệp tự tụ bám, những ngư dân bị thuyết phục để tin rằng bầu ươm có thể giúp tái bổ sung lượng sò điệp trong vịnh, các đồng nghiệp tin tưởng vào the anchorage mức tụ bám là kết quả của các cuộc đàm phán đa phương, trong đó bản sắc/đồng nhất tính/danh tính của các tác nhân được xác định và kiểm tra. Việc huy động đồng minh: Người phát ngôn có đại diện cho ai không? Ai phát biểu nhân danh ai? Ai đại diện cho ai? Những câu hỏi quan trọng này cần được trả lời nếu dự án do các nhà nghiên cứu dẫn dắt muốn thành công. Lý do là, cũng như việc mô tả mối liên can và việc nhập cuộc, chỉ có một số ít cá nhân hiếm hoi tham gia, dù là sò điệp, ngư dân hay các đồng nghiệp khoa học.
________________________________________
Nguồn: Michel Callon (1986). Some Elements of a Sociology of Translation Domestication of the Scallops and the Fishermen of St. Brieuc Bay. In John Law (ed.) Power, Action and Belief. A new Sociology of Knowledge? Sociological Review Monograph 32, 1986. Reproduced with the kind permission of Sociological Review Monograph.
Notes
1 Khái niệm stock “quần thể” được sử dụng rộng rãi trong nhân khẩu học dân số. Trong trường hợp này, “quần thể” chỉ hợp quần sò điệp sống và sinh sản ở Vịnh St. Brieuc. Một quần thể nhất định được xác định bằng một loạt các thông số thay đổi theo thời gian: tổng số lượng, đàn, kích thước, tỷ lệ tử vong tự nhiên, tỷ lệ sinh sản, v.v. Do đó, việc hiểu biết về quần thể đòi hỏi các biện pháp có hệ thống để có thể dự báo những thay đổi. Trong động lực học quần thể, các mô hình toán học xác định ảnh hưởng của một loạt các biến số (ví dụ: cường độ đánh bắt và sự phân chia sản lượng đánh bắt giữa các đàn) đến sự phát triển của quần thể. Do đó, động lực học quần thể là một trong những công cụ thiết yếu cho cái mà các chuyên gia nghiên cứu về nghề biển gọi là quản lý hợp lý các quần thể.
2 Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã có sẵn tất cả các bài báo, báo cáo và tường thuật về các cuộc họp liên quan đến các thí nghiệm tại St. Brieuc và việc thuần hóa sò điệp. Khoảng hai mươi cuộc phỏng vấn với những người đóng vai trò chủ đạo cũng đã được thực hiện.
3 Centre National d’Exploitation des Océans Trung tâm Quốc gia Khai thác Đại dương (CNEXO) là một cơ quan công được thành lập vào đầu những năm 1970 để thực hiện nghiên cứu nhằm nâng cao kiến thức và phương tiện khai thác tài nguyên biển.
4 Thuật ngữ actor tác nhân được sử dụng theo cách các nhà ký hiệu học sử dụng khái niệm actant tác nhân (Greimas và Courtes 1979). Để hiểu rõ hơn về hàm ý của các tác nhân bên ngoài trong việc xây dựng tri thức khoa học hoặc tác vật, hãy xem cách Pinch và Bijker (1984) sử dụng khái niệm nhóm xã hội. Cách tiếp cận được đề xuất ở đây khác với cách tiếp cận này ở nhiều điểm: thứ nhất, như sẽ được đề xuất bên dưới, danh sách các tác nhân không chỉ giới hạn ở các thực thể xã hội; nhưng thứ hai, và quan trọng nhất, bởi vì định nghĩa về các nhóm, danh tính/đồng nhất tính/bản sắc và mong muốn của chúng/họ đều được đàm phán liên tục trong quá trình dịch thuật. Do đó, đây không phải là dữ liệu được cho trước mà mang hình thức của một giả thuyết (xây dựng một vấn) được đưa ra bởi một số tác nhân nhất định và sau đó được làm suy yếu, xác nhận hoặc chuyển đổi.
5 Người đọc không nên gán cho những cụm từ này tính phỏng nhân luận! Nguyên nhân dẫn đến hành vi của loài sò điệp – dù nằm ở gen, trong những kế hoạch được sắp đặt bởi thần thánh hay bất cứ điều gì khác – đều không quan trọng! Điều duy nhất đáng kể là định nghĩa về hành vi của chúng được xác định bởi các tác nhân khác nhau. Loài sò điệp được cho là gắn bó với nhau giống như ngư dân được cho là theo đuổi lợi ích kinh tế ngắn hạn của họ. Do đó, chúng/họ hành động.
6 Về tính chất có thể thương lượng của lợi ích và danh tính/đồng nhất tính/bản sắc của các tác nhân, xem Callon (1980).
7 Như có thể thấy từ nguồn gốc của nó, từ “vấn đề” chỉ những trở ngại được chắn ngang đường đi của một tác nhân và cản trở sự vận động của kẻ đó. Vì vậy, thuật ngữ này được sử dụng theo cách hoàn toàn khác với cách sử dụng phổ biến trong triết học khoa học và nhận thức luận. Các vấn đề không tự phát sinh bởi trạng thái tri thức hay bởi động lực của tiến bộ trong nghiên cứu. Thay vào đó, chúng là kết quả của việc định nghĩa và mối quan hệ giữa các tác nhân trước đây không liên quan đến nhau. Xây dựng vấn đề đồng thời cũng là việc xác định một loạt các tác nhân và những trở ngại ngăn cản chúng/họ đạt được các mục tiêu hoặc mục đích đã được gán cho. Các vấn đề, và những tương đương được giả định giữa chúng/họ, xuất phát từ sự tương tác giữa một tác nhân nhất định và tất cả các thực thể xã hội và tự nhiên mà nó xác định và dường như trở nên không thể thiếu đối với chúng.
8 Khi lớp vỏ được hình thành, nó tạo thành một lá chắn hiệu quả chống lại một số loài săn mồi như sao biển.
9 Nhiều phân tích đã chỉ ra rõ ràng rằng một lập luận khoa học có thể được xem như một thiết bị liên can. Xem Michel Callon, John Law và Arie Rip (1986). Vì quan điểm này đã được xác lập rõ ràng, nên chi tiết về các cơ chế tu từ mà các học giả và ngư dân quan tâm không được mô tả trong bài viết này.
10 D. Buestel, J-C. Dao, A. Muller-Fuega (1974). Kết quả sơ bộ của trải nghiệm sưu tập cá đuối gai độc Saint-Jacques ở vùng biển Brest và vịnh Sainte-Brieuc tại Hội thảo về Nuôi trồng Thủy sản, Brest, tháng 10 năm 1973. Actes de Colloque I, CNEXO.
11 Ibid.
12 Mô tả được sử dụng ở đây không cố ý mang tính tính phỏng nhân luận. Việc các dòng hải lưu can thiệp để cản trở các thí nghiệm của các nhà nghiên cứu không có nghĩa là chúng ta ban cho chúng những động cơ cụ thể. Các nhà nghiên cứu đôi khi sử dụng một từ vựng cho rằng sao biển, biến đổi khí hậu và các dòng hải lưu đều có động cơ và mục đích riêng. Nhưng chính ở đây, người ta thấy được khoảng cách giữa người quan sát và tác nhân, cũng như tính trung lập của người quan sát so với quan điểm của chủ tác nhân. Từ vựng được sử dụng, đó là liên can và nhập cuộc, cho phép theo dõi các nhà nghiên cứu trong cuộc vật lộn của họ với những lực lượng đối lập mà không cần phải xem xét bản chất của các lực lượng đó.
13 Buestal và cộng sự. Kết quả sơ bộ.
14 Ibid.
15 Các cuộc thảo luận đã được ghi lại trong các báo cáo đã được công bố.
16 Một người tham gia thảo luận, khi bình luận về báo cáo của Buestel và cộng sự, đã lưu ý: “Ở cấp độ lý thuyết, chúng ta không được phép xem nhẹ những gì chúng ta đã biết về sò điệp. Điều quan trọng cần nhớ là đặc điểm sinh học của Pecten được biết đến nhiều hơn những gì bạn đề xuất.”
17 Buestel và cộng sự. Kết quả sơ bộ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét