Javier Lezaun
Người dịch: Hà Hữu Nga
Kinh tế học và Việc tính toán
Vào những năm 1990, các nghiên cứu được cho là có liên hệ với ANT bắt đầu lan rộng trong các ngành khoa học xã hội và cả các ngành khác nữa. Sự mở rộng này của ANT được thúc đẩy bởi tính tối giản trong việc xây dựng lý thuyết, nhưng sự dễ dàng di chuyển đôi khi dẫn đến việc áp dụng trực tiếp các diễn ngôn của nó vào những “lĩnh vực” khác nhau, mà không cần phải sửa đổi, định tính hay nâng cao phương thức nghiên cứu. Nói cách khác, đây là những dịch chuyển không ma sát, những phiên dịch không phản bội, và do đó, chúng không mang lại cơ hội để tinh chỉnh bộ máy đã được chứng minh là rất hiệu quả trong việc nghiên cứu các tranh cãi khoa học và kỹ thuật. Như Andrew Barry (2013, 418) đã lập luận, ANT được nhận thức tốt nhất là “một loạt các thiết bị lý thuyết, có thể cần được thử nghiệm, sửa đổi hoặc loại bỏ, chứ không bao giờ chỉ đơn giản là áp dụng. Một phần khó khăn của việc xây dựng lý thuyết mạng-tác nhân như một tập hợp các nguyên tắc hoặc khái niệm là nó cần được điều chỉnh để đáp ứng với kinh nghiệm nghiên cứu thực nghiệm” (về việc ANT thiếu "khả năng áp dụng", xem thêm Latour 2005, 141–56).
Hai điều chỉnh như vậy đối với kinh nghiệm nghiên cứu thực nghiệm nổi bật trong lịch sử ANT và sự phát triển của nó hướng tới một lý thuyết xã hội ngày càng rõ ràng: nghiên cứu thị trường và sự tham gia vào luật pháp. Ở đây, tôi sẽ khảo sát ngắn gọn một số công trình quan trọng nhất về thị trường và kinh tế học trước khi tiếp tục thảo luận về những hiểu biết của ANT đối với thủ tục pháp lý và hiệu lực định chuẩn của luật pháp. Kinh tế thị trường thể hiện một thách thức hấp dẫn cho ANT: nó đặt ra một form of agency hình thức tác tố – con người, ý hướng, tính toán và thể hiện một loại lý tính trừu tượng đặc biệt – dường như hoàn toàn trái ngược với các loại hybrid actants kẻ hành động lai mà ANT [tr.11] nêu bật trong thế giới khoa học-công nghệ. Callon (1999, 182) nhận xét: “Thị trường là một thách thức đáng kể đối với ANT bởi vì nó tạo ra sự tách biệt nghiêm ngặt giữa những gì lưu thông (hàng hóa trơ ì, thụ động và được phân loại là phi-người) và human agents tác nhân con người chủ động, có khả năng đưa ra các quyết định phức tạp (nhà sản xuất, nhà phân phối và người tiêu dùng). Hơn nữa, trên thị trường, dù chúng ta đang nói đến thị trường thực tế hay thị trường của lý thuyết kinh tế, thì các agents tác nhân liên quan đều được đặc trưng bởi những năng lực rất cụ thể và đòi hỏi cao: họ tính toán, hiểu biết và theo đuổi lợi ích của riêng mình, và đưa ra những quyết định sáng suốt.”
Một lý thuyết có xu hướng xóa bỏ tính trung tâm của human agencies các tác tố con người và vai trò của năng lực nhận thức sẽ nói gì về homo economicus con người kinh tế, thứ quái thú huyền thoại sống trong giới hạn của thị trường? Trên thực tế, ANT sẽ cố gắng vạch ra một con đường bác bỏ các giải pháp được đưa ra bởi cả kinh tế học chính thống và xã hội học kinh tế. “Trong khi kinh tế học duy trì ý tưởng về một thực tại tính toán ‘thuần túy’,” Michel Callon và Fabian Muniesa (2005, 1230) viết, “thì trái ngược, các ngành khoa học xã hội khác lại cố gắng chỉ ra rằng các thực tiễn hiện thực vô cùng phức tạp và không nhường chỗ cho các thực tiễn thực sự tính toán.” Nói cách khác, thách thức đối với ANT là giải quyết những gì kinh tế học coi là hiển nhiên và các ngành khoa học xã hội khác quy giản thành vị thế epiphenomenon hiện tượng sót của các trật tự hành động khác: loại năng lực tính toán cụ thể đặc trưng cho hành động kinh tế trong bối cảnh thị trường. Như Callon và Muniesa (2005, 1229) đã nói, nhiệm vụ là “giải quyết bằng thực nghiệm cái đặc trưng tính toán của thị trường mà không làm nó tan rã.”
Thị trường, theo cách diễn đạt của Callon và Muniesa (2005, 1229), là “những thiết bị được tổ chức tập thể, tính toán các thỏa hiệp về giá trị hàng hóa.” Thiết bị [Trong triết học của Michel Foucault, dispositif hay dispositive thiết bị là bất kỳ cơ chế thể chế, vật lý, hành chính và cấu trúc kiến thức nào giúp tăng cường và duy trì việc thực thi quyền lực trong cơ thể xã hội; mối liên hệ giữa các yếu tố này được cho là không đồng nhất vì tri thức, thực hành, kỹ thuật và thể chế được thiết lập và tái thiết lập trong mỗi thời đại; chính thông qua những mối liên hệ này mà các mối quan hệ quyền lực được cấu trúc. HHN] là thuật ngữ hoạt động ở đây và được hiểu, theo nghĩa Deleuzian, là một mớ hỗn độn hoặc tập hợp các yếu tố không đồng nhất tạo ra một loại trật tự cụ thể (hoặc lắng đọng) đồng thời mở ra các quỹ đạo kháng cự và chạy trốn (hoặc sáng tạo) (Deleuze 1989). Callon (1998b) sẽ định hình lại hai chiều góc này thành khuôn khổ và tràn đầy, sử dụng mối quan hệ giữa hai yếu tố này để đúc kết lại khái niệm quan trọng về ngoại tại tính. Theo quan điểm này, thị trường là một nỗ lực luôn liên tục để bỏ trong ngoặc hoặc đóng khung các khía cạnh nhất định của một đối tượng hoặc một tập hợp các chiều góc rời rạc của một mối quan hệ. Việc đóng khung này tạo ra một không gian hoặc một vùng có thể tính toán bằng cách phân định một phạm vi hẹp các cân nhắc liên quan đến một giao dịch cụ thể. Tính toán không bao giờ là “thuần túy” và chắc chắn không phải là kết quả của một quá trình “trừu tượng hóa”. Đúng hơn, đó là một hoạt động được trung gian hóa hoàn toàn bởi các thiết bị, và thường bao gồm một sự kết hợp phức tạp [tr.12] giữa phán đoán định tính và tính toán định lượng.7 Các tác nhân kinh tế được hiểu rõ nhất là agencements các xếp đặt—một vay mượn khác của Deleuz—tức là chúng thể hiện thứ tác tố liên quan đến một sự sắp xếp cụ thể các công cụ, thiết bị, con người, tác vật, thuật toán, văn bản, v.v. (Callon 2007a, 2016; xem thêm Cochoy 2014). Khái niệm “thiết bị thị trường” đã được các học giả kinh tế học của ANT sử dụng rộng rãi. Nó đề cập đến “các tập hợp vật chất và diễn ngôn can thiệp vào việc xây dựng thị trường” (Muniesa, Millo và Callon 2007, 2) và có thể bao hàm cả các loại thiết bị mà chúng ta thường liên tưởng đến thuật ngữ công nghệ—máy móc, sàn giao dịch chứng khoán, cơ sở hạ tầng viễn thông—và vô số các thực thể dường như nhỏ hơn—từ các kỹ thuật kế toán thông thường đến việc bố trí bàn làm việc trong phòng giao dịch.8
Ví dụ, nghiên cứu của Muniesa (2000, 2007) về quá trình sản sinh giá cả tại sàn giao dịch chứng khoán điện tử Paris Bourse tập trung vào một thuật toán tạo ra một tập hợp giá khác nhau trong những phút cuối của phiên giao dịch. Theo cách diễn giải của Muniesa (2007, 390), giá cả là “những thực thể vật chất, luôn gắn liền với những sắp xếp cụ thể”. Khả năng biểu đạt của chúng (theo nghĩa “dấu hiệu” do C. S. Peirce đề xuất) tối thiểu phụ thuộc vào ba khía cạnh có liên quan: “hình dạng vật chất và cách thể hiện của chúng, cách chúng tồn tại như một dấu vết của một điều gì đó và cuối cùng, sự phù hợp của chúng với một loạt các kết nối với các hành động khác” (Muniesa 2007, 390). Tóm lại, ANT hiểu hành động kinh tế là một thành tựu vật chất—homo economicus con người kinh tế không phải là hư cấu mà nhiều nhà khoa học xã hội cho rằng nó là (một phiên bản rút gọn, ngụy tạo của homo sociologicus) [Homo sociologicus là một khái niệm lý thuyết trong xã hội học, mô tả con người chủ yếu được xác định bởi vai trò xã hội, hành vi và các mối quan hệ của họ trong xã hội; nó trái ngược với homo economicus", vốn coi cá nhân là những chủ thể vị kỷ, tập trung vào việc tối đa hóa lợi ích của bản thân; về cơ bản, homo sociologicus nhấn mạnh cách các cấu trúc xã hội, chuẩn mực và tương tác định hình hành vi và bản sắc cá nhân. HHN], cũng không phải là biểu hiện phi hình thể của một khả năng bẩm sinh để hành xử theo cách tối đa hóa tiện ích, như ngụ ý của kinh tế học tân cổ điển. Homo economicus—và theo hàm ý, hành động kinh tế—đúng hơn là nhánh ngẫu nhiên của một tập hợp các tác tố công cụ. Điều nổi lên từ những tập hợp hay tổ chức này không phải là tính toán với tư cách là một năng lực của con người mà là tính toán với tư cách là một phẩm chất mới nổi của các sắp xếp kỹ thuật-vật chất.9 Trong phạm vi rộng lớn của các thực thể có thể đóng vai trò cấu thành trong việc tạo ra các thực tại thị trường mới, ANT đã đặc biệt chú ý đến các công cụ do chính các nhà kinh tế phát minh ra. Theo cách diễn giải này, kinh tế học (được hiểu rộng rãi là bao gồm tiếp thị, kế toán và một loạt các ngành học phụ trợ khác) không quan sát hoặc phân tích thực tại kinh tế bên ngoài nhưng lại đóng góp quan trọng vào việc đưa một nền kinh tế cụ thể vào hoạt động (Callon 2007a; Muniesa và Callon 2007). Điểm này đã được kết tinh trong một loạt lập luận về “tính hiệu suất” của kinh tế học, đặc biệt là liên quan đến thị trường tài chính [tr.13] (MacKenzie, Muniesa và Siu 2007). Các mô hình, lý thuyết và công thức toán học phức tạp của tài chính đương đại hoạt động như “một động cơ, chứ không phải một chiếc máy ảnh”, theo cách diễn đạt súc tích của Donald MacKenzie (2006; MacKenzie và Millo 2003).
Mặc dù cách tiếp cận thị trường và các hiệu ứng thực hành của kinh tế học về nguyên tắc có phạm vi thực nghiệm rất rộng (xem Çalışkan và Callon [2009, 2010] để tái khái niệm hóa xã hội học kinh tế dưới góc độ nghiên cứu các quá trình “kinh tế hóa”), một lượng lớn các nghiên cứu được tạo ra trong thập kỷ qua lại tập trung vào thị trường tài chính và công nghệ tài chính (Lépinay 2011; Preda 2009; Riles 2011). Mặc dù điều này có thể phản ánh sự phụ thuộc nhất định vào đường hướng của lĩnh vực này - phần lớn công trình ban đầu lấy sàn giao dịch chứng khoán và sàn giao dịch tài chính làm đối tượng nghiên cứu - nhưng nó đặt ra một câu hỏi thú vị về mối quan hệ tự chọn giữa bộ máy lý thuyết do ANT phát triển để nghiên cứu kinh tế học và các đặc điểm cũng như năng lực cụ thể của thị trường tài chính. Dường như tài chính được thể hiện dưới dạng thuần túy nhất hoặc dễ quan sát nhất chính là loại tính toán mà ANT đặt vào trung tâm hiểu biết của mình về kinh tế học. Hoặc, có lẽ, kinh tế học tài chính thể hiện rõ nét nhất chất lượng thực hành của kinh tế học bởi vì trong chế độ chính trị-kinh tế hiện tại, dường như chỉ có tài chính mới có khả năng tạo ra các thực tại thị trường một cách mới mẻ. Những lập luận, phản biện, minh định và định tính đi kèm với sự phát triển của luận đề performativity tính thực hành đã tạo ra một khu vực giao thương hiệu quả giữa ANT và xã hội học kinh tế chính thống (xem ví dụ, Fourcade 2011). Tuy nhiên, chúng cũng đóng vai trò phân định các tuyến đối lập chính giữa ANT và những người chỉ trích nó. Về bản chất, các nhà phê bình này cho rằng ANT áp dụng ngôn ngữ và các giả định của kinh tế học một cách thiếu phê phán—một lập luận không khác mấy so với lời cáo buộc mà các nhà xã hội học tri thức khoa học đưa ra chống lại các lý giải ban đầu của ANT về khoa học-công nghệ. Như Daniel Miller (2002, 219) lập luận, “thứ lý thuyết mà Callon tạo ra, ở hầu hết các khía cạnh, chính là sự bảo vệ quan điểm của các nhà kinh tế về thế giới và bác bỏ bằng chứng về cách thức mà các nền kinh tế thực tế vận hành như là nó hiện có đối với các nhà nhân học và xã hội học”. Tính khác biệt mà Miller lưu ý có thể là do những khác biệt trong việc lựa chọn đối tượng thực nghiệm—có lẽ nếu các nhà nhân học và xã hội học dành nhiều thời gian hơn để khám phá loại thị trường tài chính và công nghệ hóa cao mà ANT đã mở ra để xem xét kỹ lưỡng, thì họ sẽ phải điều chỉnh lại các giải thích “xã hội” của mình cho phù hợp—nhưng quan điểm rộng hơn của lời chỉ trích [tr.14] thì vẫn đứng vững. Luận đề về tính thực hành đã đặt ANT vào một địa hình rất nguy hiểm, buộc nó phải đi trên một ranh giới rất mong manh giữa việc cung cấp một bản tường trình chi tiết về những gì Muniesa (2014) mô tả là “hiệu quả của kinh tế học” và việc tin tưởng và làm theo các lý thuyết kinh tế, do đó hợp pháp hóa “quan điểm của các nhà kinh tế về thế giới”.
Khi tuyến đó tuân theo một cách khéo léo, thì kết quả sẽ là một mô tả sáng tỏ về chất lượng được tạo ra của thực tại kinh tế, với mức độ chú ý đến các hoạt động nội tại của thị trường và vai trò của kinh tế học trong việc kiến tạo chúng, điều này là độc nhất trong khoa học xã hội. Tuy nhiên, khi hành động cân bằng thất bại, thì việc phân tích có thể nhanh chóng thoái hóa thành sự chấp nhận đầy vướng víu các tuyên bố của các nhà kinh tế và kinh tế học, bằng cách đưa ra một tái mô tả thứ thực tại chỉ đơn thuần vọng lại quyền lực kiêu ngạo của các nhà tạo lập thị trường. Một phần của vấn đề ở đây là sự lựa chọn người đối thoại của ANT trong chuyên ngành kinh tế. Ngoài sức hấp dẫn đối với thị trường tài chính đã thảo luận ở trên, ANT còn bị thu hút một cách không cân xứng vào các lý thuyết và các nhà lý thuyết kinh tế chính thống hoàn hảo và nó thường bỏ qua các nhà kinh tế có định nghĩa mở rộng hơn về tính duy lý kinh tế hoặc quan điểm sâu sắc hơn về thị trường. Ví dụ, Callon mượn khái niệm chính của mình về calculativeness phép tính từ nhà kinh tế học chi phí giao dịch đoạt giải Nobel Oliver E. Williamson (1993), là người đã xác định nó là “điều kiện chung” của “phương pháp tiếp cận kinh tế”.[Calculativeness - phép tính trong kinh tế học chi phí giao dịch của Oliver Williamson - đề cập đến mức độ mà các tác nhân kinh tế có thể dự đoán và lập kế hoạch cho các tình huống bất ngờ trong tương lai trong một giao dịch, cho phép họ đàm phán và thực thi hợp đồng một cách hiệu quả; nó liên quan đến khả năng dự đoán các vấn đề tiềm ẩn, phép tính chi phí liên quan đến các phương án hành động khác nhau và đưa ra quyết định dựa trên những tính toán này.HHN] Có rất ít sự cam kết với các trường phái tư tưởng kinh tế thay thế hoặc với các tác giả đặt nghiên cứu về thị trường vào phạm vi xem xét rộng hơn về kinh tế chính trị hoặc lợi ích công. Đối với một số nhà phê bình gay gắt nhất của ANT, de facto trên thực tế điều này đồng nghĩa với một liên minh trí tuệ với kinh tế học tân cổ điển (Bryan và cộng sự, 2012; Mirowski và Nik-Khah, 2007). Đối với những độc giả đồng cảm hơn, thì giải pháp là phát triển một phiên bản ANT bao hàm hơn và ít chất “kinh tế-trung tâm” hơn, cho dù bằng cách mở rộng định nghĩa về tính biểu hiện để bao hàm hoạt động của các chủ thể chính trị (Blok, 2011), hay bằng cách kết hợp vấn đề về tính biểu hiện trong một nghiên cứu rộng hơn về sự hình thành, ổn định và chuyển đổi của thị trường (Pellandini-Simányi, 2016).
Dù sao đi nữa, các tranh luận này đã thúc đẩy ANT nêu rõ hơn lập trường của mình đối với nomos in oikonomos. [Từ οἰκονόμος oikonomos người quản lý, còn νόμος nomos thường được hiểu là luật pháp, quy tắc, hoặc nguyên tắc; vì vậy the nomos in the oikonomos có thể hiểu là luật lệ hoặc nguyên tắc mà người quản lý sử dụng hoặc tuân theo trong việc quản lý tài sản, gia đình, hoặc công việc được giao; nó liên quan đến cách thức người quản lý thực hiện công việc dựa trên những quy tắc, chuẩn mực đã được thiết lập. HHN] Kết quả là một sự mâu thuẫn. Chẳng hạn, khi Callon (2016, 17) lập luận rằng “sự phản ánh chính trị và đạo đức nằm ở trung tâm của thị trường chứ không phải bị đẩy ra ngoài rìa”, có nghĩa là ông đang cho phép có hai cách diễn giải song song. Một mặt, ông khẳng định rằng việc tổ chức thị trường là một vấn đề hoàn toàn chính trị và đạo đức và do đó, nó đòi hỏi các cơ chế giám sát của công chúng và [tr.15] quản trị dân chủ. Đồng thời, ông cũng đưa sự phản ánh chính trị và đạo đức nội tại vào cấu thành thị trường, một trong những thành phần cấu thành chúng, và bằng cách đó, ông đặt ra câu hỏi về chính khả tính của một vị thế ngoại tại mà từ đó bản thân thị trường – với tư cách là một hình thức trao đổi và tổ chức xã hội đặc thù – có thể được quan sát hoặc chịu thách thức. Thật vậy, trong phần lớn công trình của ANT về hành động kinh tế, việc mở rộng logic thị trường thường được coi là fait accompli một sự đã rồi. Hơn nữa, bản thân thị trường trở thành động lực chính cho việc sản sinh ra những thực tại chính trị mới. Theo Callon (2007b, 158), thị trường “là một công cụ đặc biệt hiệu quả để thúc đẩy sự phát triển của các bản sắc xã hội mới và khơi mào sự hình thành các nhóm bất ngờ, những nhóm mà một khi đã tồn tại, có thể đòi hỏi được lắng nghe, công nhận và tiếp nhận vào một tập thể được tái cấu trúc”. Đến nay, rõ ràng là ANT luôn phản đối việc áp dụng một lập trường xa lạ hoặc “cực hạn” để phân xử các vấn đề quan tâm. Câu hỏi đặt ra là liệu nó có thể phát triển một định hướng chuẩn mực rõ ràng và mạnh mẽ hơn trên cơ sở một lý giải hành động hoàn toàn mang tính nội tại luận (hoặc nội tại hóa) hay không. Sự cam kết của ANT với luật pháp và các thể chế pháp lý đã làm nổi bật tình thế khó xử này.
Luật pháp và Tính chuẩn mực
Nếu cách tiếp cận kinh tế học của ANT tìm cách bảo tồn phẩm chất đặc trưng của hành động kinh tế - phép tính toán - đồng thời cải tiến cách chúng ta lý giải sự xuất hiện và phân bố của nó, thì hành trình của ANT vào thế giới luật pháp đã nỗ lực thực hiện một kỳ công tương tự: tạo ra một cách hiểu về tính hợp pháp không mang tính nội tại luận - luật như một “lĩnh vực” hay “hệ thống” tự chủ bị chi phối bởi lý tính pháp lý hay logic tự tạo [Autopoietic logic Logic tự tạo là một khái niệm xuất phát từ autopoiesis lý thuyết tự tạo, được sử dụng để mô tả cách một hệ thống có khả năng tự sản xuất và duy trì bản thân bằng cách tạo ra các thành phần của chính nó; thuật ngữ này được đưa ra để phân biệt hệ thống sống với hệ thống vô tri; trong bối cảnh khoa học máy tính, hệ thống tự tạo được hiểu là một hệ thống tự tổ chức và tự sinh sản, trong đó giao tiếp là đơn vị cơ bản và hành động được xem như một chuỗi giao tiếp. HHN] – cũng không mang tính ngoại tại luận - luật như một hiệu ứng hay triệu chứng của thực tại vượt ra ngoài phạm vi phân biệt đối xử của chính nó. Như chúng ta sẽ thấy, luật pháp nổi lên từ cuộc thẩm vấn này như một “chế độ phát ngôn” đặc biệt, tự do trong phạm vi các tác tố và mạng-tác nhân mà nó triển khai, nhưng có khả năng kết hợp và tinh chỉnh chúng để tạo ra một phương thức xác minh đặc thù. Nhìn lại những tranh cãi xung quanh sự xuất hiện của ANT vào những năm 1980, dự án này dường như khó có thể xảy ra: các lý thuyết về mạng-tác nhân thường bị chỉ trích là hoàn toàn không quan tâm đến các phán đoán giá trị và không ủng hộ bất kỳ khái niệm nào về đặc tính hay định hướng định chuẩn trong khoa học hay bất kỳ lĩnh vực nào khác. Các mô tả về khoa học trong [tr.16] hành động như một thực hành mang tính đối kháng (xem đặc biệt Latour 1987) dường như ngăn cản bất kỳ việc xem xét nào về các trật tự hành động siêu việt (xem Schmidgen (2013) để có cách diễn giải nhiều sắc thái hơn).
Tuy nhiên, vẫn có những tiếng rì rầm về một phương thức tư duy pháp lý trong ANT cổ điển. Việc nhấn mạnh vai trò của các dòng khắc ghi và việc thêu dệt sự thật bằng văn bản trong các cuộc điều tra dân tộc học sớm về thực hành khoa học (ví dụ, Latour và Woolgar 1979) cuối cùng đã đưa ra một điểm so sánh rõ ràng với các giao thức viết và quy trình xử lý giấy tờ của luật. Hơn nữa, khái niệm “phiên dịch” chủ chốt của ANT vẫn được lưu giữ trong phiên bản tiếng Pháp (traduire) với những cộng hưởng pháp lý đã được khai thác sâu rộng trong tác phẩm của Michel Serres (xem đặc biệt là Serres 1985). Cuối cùng, Latour thường đưa ra một cách hiểu theo chủ nghĩa hiến pháp về hiện đại và các lựa chọn thay thế của nó—Hiến pháp Hiện đại là cách Latour mô tả sự phân ly giữa trật tự tự nhiên và xã hội được thiết lập bởi Cách mạng Khoa học và Khai sáng, một sự dàn xếp dựa trên sự “phân tách quyền lực” rõ ràng giữa khoa học và chính trị (Latour 1993). Sự tham gia thực nghiệm bền vững nhất của ANT vào luật pháp và thực tiễn pháp lý là nghiên cứu dân tộc học của Latour về Litigation Section of France’s Conseil d’État Ban Tố tụng thuộc Hội đồng Nhà nước Pháp (Conseil d’État) (xuất bản bằng tiếng Pháp năm 2002 với tựa đề La Fabrique du Droit – Làm Luật, và bằng tiếng Anh năm 2010 với tựa đề The Making of Law - Làm luật). Việc lựa chọn Hội đồng làm đối tượng dân tộc học là một ngoại lệ (ít người ngoài cuộc, nếu có, từng được tiếp cận với thể chế này ở mức độ như Latour), và có ý nghĩa sâu sắc đối với cách ANT suy nghĩ về tính chuẩn mực pháp lý. Như McGee (2014, 126) đã lưu ý, Hội đồng có lẽ là thể chế pháp lý “phi-Pháp” nhất của Pháp, mang những nét đặc trưng của chủ nghĩa thủ tục thông luật về tranh luận bằng tiền lệ và kiện tụng đối kháng. [Chủ nghĩa thủ tục trong bối cảnh Common law Thông luật đề cập đến một cách tiếp cận pháp lý tập trung vào thủ tục và trình tự tố tụng hơn là nội dung của các quy tắc pháp luật; nó nhấn mạnh việc tuân thủ nghiêm ngặt các quy trình pháp lý để đảm bảo tính công bằng và minh bạch trong quá trình giải quyết tranh chấp. HHN] Trong cuốn La Fabrique du Droit – Xưởng làm Luật, Latour đi sâu vào những hoạt động thường ngày của Hội đồng. Ông không chỉ nhận thấy, theo kiểu mạng-tác nhân khuôn mẫu, cách thức các tập hợp thực thể phi nhân (từ kẹp giấy đến cách bố trí phòng xử án) định hình nên luật-đang-được-xây-dựng ngay cả trong lĩnh vực hiếm hoi nhất của luật hành chính. Ông cũng tập trung chú ý đến thứ hiện thực nổi bật là đơn vị cuối cùng của tố tụng, hồ sơ, vừa là hiện vật hữu hình (tập tài liệu và tuyên bố phân định các sự kiện đang được xem xét) vừa là phạm trù pháp lý (vụ án hoặc vấn đề cụ thể mà Hội đồng sẽ xét xử). Latour viết (2010a, 192): “Các thẩm phán không lý luận: họ vật lộn với một hồ sơ tác động lên họ, [tr.17] thúc đẩy, thúc ép họ, và buộc họ phải làm một điều gì đó.” Latour lần theo sự tiến triển quanh co của hồ sơ qua các phòng và phòng chờ của Hội đồng. Điều ông quan sát được là một loại chuyển động kỳ lạ: một hình thức lý luận quanh co, do dự, tiến triển từng chút một, kết nối các tài liệu văn bản một cách có phương pháp với các sự kiện trần tục cho đến khi đạt đến phán quyết cuối cùng và dứt khoát. “Bước thông qua pháp luật” (le passage du droit) là cụm từ mà Latour (2010a, 119) sử dụng để mô tả quỹ đạo của những thay đổi và dịch chuyển vô cùng nhỏ bé này—“sự nghiền ngẫm chậm rãi này cho phép kết nối các trạng thái sự kiện với các đoạn văn bản rời rạc.”
Việc thảo luận về bước “thông qua pháp luật” này dẫn Latour đến việc giải thích chi tiết câu hỏi mà các cố vấn và ủy viên của Hội đồng (và các học giả pháp lý nói chung) rất quan tâm: sự xuất hiện của hiệu lực định chuẩn của luật, hay, theo cách diễn đạt của Latour (2010a, 143), mối quan hệ “giữa sự chuyển giao hiệu lực và sự vận động đặc thù của luật”. Như người ta mong đợi, câu hỏi này được giải quyết mà không cần viện dẫn đến bất kỳ khuôn khổ tham chiếu bên ngoài nào—tức là không cần viện dẫn, không cần dựa vào Bản chất làm nền tảng cho các lý thuyết về luật tự nhiên, hoặc không cần dựa vào các Quy ước Xã hội và Sự kiện Xã hội tạo nên nền tảng cho chủ nghĩa thực chứng pháp lý. Câu hỏi này phải được trả lời bằng các thuật ngữ pháp lý. Vì Hội đồng có thể huy động vô số tác tố tham gia vào hoạt động của mình, nhưng nó tập hợp những lực lượng này thông qua một hình thức liên kết đặc trưng của thể chế. Nói cách khác, luật pháp được đặc trưng bởi một phương thức phát biểu mang tính pháp lý đặc trưng và không thể quy giản được. Cách diễn đạt này không hàm ý trùng lặp; nó chỉ đơn giản mô tả một hình thức đệ quy. Như Latour (2010a, 81) đã nói, “Không có siêu ngôn ngữ nào mạnh mẽ hơn để giải thích luật pháp so với chính ngôn ngữ của luật pháp. Hay nói chính xác hơn, luật pháp chính là siêu ngôn ngữ của chính nó.”
Đặc điểm của phương thức xác minh pháp lý nổi lên mạnh mẽ nhất từ cuốn La Fabrique du Droit – Xưởng làm Luật chính là bản chất do dự của nó. Nói cách khác, tính định chuẩn của luật pháp không dựa trên sự vững chắc được cho là thuộc các nền tảng của nó, mà dựa trên tính mong manh và tinh tế đặc biệt của các hoạt động đạt được giải pháp chính thức cho một tranh chấp pháp lý. Sự do dự này thể hiện rõ trong mỗi thay đổi nhỏ của lập luận pháp lý, và nó tạo ra một hiệu ứng kép. Một mặt, nó mở rộng không gian cho sự vận động—nó “sản sinh ra tự do phán quyết bằng cách tháo gỡ các sự vật trước khi chúng lại được kết nối” (Latour 2010a, 194–95). Mặt khác, việc liên tục mở và mở lại vấn đề đang được xem xét, cuối cùng mang lại cho phán quyết kết luận một sức mạnh đặc biệt. Việc chậm rãi nghiền nát hồ sơ dẫn đến một phán quyết cứng rắn và mạch lạc đến kinh ngạc, một phán quyết [tr.18] có thể loại trừ bất kỳ sự cân nhắc hay yếu tố bên ngoài nào, và có thể đứng vững dựa trên sức mạnh của chính lập luận ngập ngừng và tỉ mỉ của nó. Latour (2010a, 193–94) viết: “Những người ban hành luật dường như đo lường việc hiện thực hóa các thực hành của họ bằng khả năng do dự kỹ lưỡng, sâu rộng và đầy đủ.”10
Bất chấp sự so sánh thường xuyên của Latour về việc tạo ra sự kiện pháp lý và khoa học (Hội đồng như một phòng thí nghiệm pháp lý, v.v.), rõ ràng là việc kiểm tra thực tiễn pháp lý và thủ tục pháp lý đã biến ANT thành một mối quan tâm mới, hoặc ít nhất là rõ ràng hơn, đối với sự phân biệt và khác biệt, một mối bận tâm với những gì đặc biệt đối với một thể chế vốn không rõ ràng trong các cuộc kiểm tra ban đầu của ANT về khoa học-công nghệ. Một số người đã thấy trong mối quan tâm tới việc xác định một "chế độ tuyên bố" pháp lý này tồn tại một hành động làm cùn đi chiếc lưỡi bén phê phán của ANT. Alain Pottage (2012, 170) đã chỉ trích La Fabrique du Droit – Xưởng làm Luật vì “quá nuông chiều ý thức pháp luật của luật sư”, nên không chỉ ưu tiên, mà còn loại trừ hầu hết mọi phương tiện, sổ sách, hoặc các quy trình chế tạo pháp lý bằng văn bản khác. Theo Pottage (2012, 167), Latour “đã chấp nhận một cách thiếu phê phán cái tiền đề khẳng định rằng có một thể chế theo đùng nghĩa ‘luật pháp’ cần được giải thích hoặc hiện thực hóa bằng khoa học xã hội, do đó làm giảm năng lượng phê phán mà lý thuyết mạng-tác nhân hoặc các dispositifs thiết bị có thể mang lại cho việc nghiên cứu luật pháp.”
_________________________________
Nguồn: Javier Lezaun (2017). Actor-Network Theory, Forthcoming in C. Benzecry, M. Krause and I. Reed (eds.) Social Theory Now. The University of Chicago Press, 2017.
Notes
Nguồn: Javier Lezaun (2017). Actor-Network Theory, Forthcoming in C. Benzecry, M. Krause and I. Reed (eds.) Social Theory Now. The University of Chicago Press, 2017.
Notes
7 Frank Cochoy (2008) đã giới thiệu một loạt các thuật ngữ—ví dụ, định tính, tính toán—để nắm bắt các dạng số học “không thuần túy” đặc trưng cho hành vi thị trường.
8 Để biết thêm chi tiết thực nghiệm về cách một thị trường hình thành từ sự kết hợp của các yếu tố trung gian vật chất và năng lực kỹ thuật, hãy xem xã hội học về thị trường bông quốc tế của Coray Çalışkan (2010) hoặc nghiên cứu về các công cụ phái sinh cổ phiếu của Vincent Antonin Lépinay (2011).
9 Có những điểm tương đồng nhưng cũng có những khác biệt rõ ràng giữa khái niệm liên kết của ANT và khái niệm xã hội học về sự gắn kết. Cả hai đều mô tả hành động kinh tế là xuất hiện từ các mô hình quan hệ phức tạp. Ví dụ, cách hiểu của Granovetter về “mạng” không quá khác biệt so với ANT: ông coi mạng là việc tạo ra các thực tại kinh tế mới thông qua hình dạng hoặc hình thái của chúng, thay vì chỉ đơn giản là kết nối các tác nhân và lợi ích đã tồn tại từ trước (Granovetter 1983, 1985). Tuy nhiên, sự khác biệt có lẽ còn đáng nói hơn. Trong ANT, một economic agent tác nhân kinh tế (thường không phải) là một cá nhân, chứ đừng nói đến một con người: nó thường là một vật lai (hoặc người máy) kết hợp vô số yếu tố con người và phi con người. Hơn nữa, trong tác phẩm của Granovetter, và trong xã hội học kinh tế nói chung, hành động kinh tế có xu hướng xuất hiện và phát triển mạnh mẽ thông qua sự nhân lên của các kết nối. Ngược lại, ANT có xu hướng tập trung nhiều hơn vào các hành vi ngắt kết nối và gỡ rối, vào cách thức hình thức tính toán đặc trưng của nền kinh tế thị trường xuất hiện từ các quá trình phân tách hoặc đóng khung.
10 Trong các tác phẩm sau này của Latour, sự do dự sẽ trở thành một trong những dấu ấn của “chế độ phát ngôn” tôn giáo, hay của tôn giáo như một “phương thức tồn tại” dựa trên sự hoài nghi và lặp lại. Latour (2013a, 310) viết, “Kinh Thánh chỉ là một sự do dự vô cùng lớn về cách hiểu một thông điệp mà đặc điểm riêng biệt của nó là không truyền tải thông tin và luôn đòi hỏi phải có một hướng đi mới để điều chỉnh cách diễn giải.”
References
Akrich, M., and B. Latour. 1992. “A Summary of a Convenient Vocabulary for the Semiotics of Human and Nonhuman Assemblies.” In Shaping Technology/Building Society Studies in Sociotechnical Change, 259–64. Cambridge, MA: MIT Press.
Barry, A. 2013. “The Translation Zone: Between Actor-Network Theory and International Relations.” Millennium-Journal of International Studies 41 (3): 413–29.
Barthe, Y., M. Callon, and P. Lascoumes. 2001. Agir dans un monde incertain. Essai sur la démocratie technique. Paris: Seuil.
Blok, A., and T. E. Jensen. 2011. Bruno Latour: Hybrid Thoughts in a Hybrid World. London: Routledge.
Bloor, D. 1973. “Wittgenstein and Mannheim on the Sociology of Mathematics.” Studies in History and Philosophy of Science Part A 4 (2): 173–91.
Boltanski, L. 2011. On Critique: A Sociology of Emancipation. London: Polity.
Bordeleau, E. 2015. “Bruno Latour and the Miraculous Present of Enunciation.” In Breaking the Spell: Contemporary Realism Under Discussion, edited by A. Longo and S. de Sanctis, 155-167. Milano: Mimesis International.
Brown, S. D. 2002. “Michel Serres.” Theory, Culture and Society 19 (3): 1–27.
Bryan, D., R. Martin, J. Montgomerie, and K. Williams. 2012. “An Important Failure: Knowledge Limits and the Financial Crisis.” Economy and Society 41 (3): 299–315.
Çalişkan, K. 2010. Market Threads: How Cotton Farmers and Traders Create a Global Commodity. Princeton, NJ: Princeton University Press.
Çalışkan, K., and M. Callon. 2009. “Economization, Part 1: Shifting Attention from the Economy towards Processes of Economization.” Economy and Society 38 (3): 369–98.
———. 2010. “Economization, Part 2: A Research Programme for the Study of Markets.” Economy and Society 39 (1): 1–32.
Callon, M. 1975. “L’opération de traduction comme relation symbolique.” Les incidences des rapports sociaux sur la science. Paris: Cordes.
———. 1981. “Struggles and Negotiations to Define What Is Problematic and What Is Not: The Socio-Logic of Translation.” In The Social Process of Scientific Investigation, 197–219. New York: Springer.
———. 1986. “Some Elements of a Sociology of Translation: Domestication of the Scallops and the Fishermen of St. Brieuc Bay.” Power, Action, and Belief: A New Sociology of Knowledge 32: 196–223.
———. 1998a.” Introduction: The Embeddedness of Economic Markets in Economics.” The Sociological Review 46 (1): 1–57.
———. 1998b.” An Essay on Framing and Overflowing: Economic Externalities Revisited by Sociology.” The Sociological Review 46 (1): 244–S69.
———. 1999. “Actor-Network Theory—the Market Test.” The Sociological Review 47 (S1): 181–S95.
———. 2007a. “What Does It Mean to Say That Economics Is Performative?” In Do Economists Make Markets? On the Performativity of Economic, edited by D MacKenzie, F. Muniesa, and L. Siu, 311–57. Princeton, NJ: Princeton University Press.
———. 2007b. “An essay on the growing contribution of economic markets to the proliferation of the social.” Theory, Culture & Society 24(7-8): 139-163.
———. 2009. “Civilizing markets: Carbon trading between in vitro and in vivo experiments.” Accounting, Organizations and Society 34(3): 535-548.
———. 2013. “Qu’est-ce qu’un agencement marchand.” In Sociologie des agencements marchands: Textes choisis, edited by M. Callon et al, 325–440. Paris: Presses des Mines.
———. 2016. “Revisiting Marketization: From Interface-Markets to Market- Agencements.” Consumption Markets and Culture 19 (1): 17–37.
Callon, M., and B. Latour. 1981. “Unscrewing the big Leviathan: how actors macro-structure reality and how sociologists help them to do so.” In Advances in Social Theory and Methodology: Toward an Integration of Micro- and
Macro-Sociologies, edited by K. Knorr-Cetina and A.V. Cicourel, 277-303. London: Routledge & Kegan Paul.
———. 1992. “Don’t Throw the Baby Out with the Bath School! A Reply to Collins and Yearley.” In Science as Practice and Culture, edited by Andrew Pickering, 343–68. Chicago: University of Chicago Press.
Callon, M., Y. Millo, and F. Muniesa. 2007. Market Devices. Special issue of the Sociological Review 55 (1).
Callon, M., and F. Muniesa. 2005. “Peripheral Vision Economic Markets as Calculative Collective Devices.” Organization Studies 26 (8): 1229–50.
Chakrabarty, D. 2000. Provincializing Europe: Postcolonial Thought and Historical Difference. Princeton, NJ: Princeton University Press.
———. 2009. “The Climate of History: Four Theses.” Critical Inquiry 35 (2): 197–222.
Cochoy, F. 2008. “Calculation, Qualculation, Calqulation: Shopping Cart Arithmetic, Equipped Cognition and the Clustered Consumer.” Marketing Theory 8 (1): 15–44.
———. 2014. “A Theory of ‘Agencing’: On Michel Callon’s Contribution to Organizational Knowledge and Practice.” The Oxford Handbook of Sociology, Social Theory, and Organization Studies, 106–24. New York: Oxford University Press.
Collins, H. 1985. Changing Order: Replication and Induction in Scientific Practice. Chicago: University of Chicago Press.
Collins, H. M., and S. Yearley. 1992. “Epistemological Chicken.” In Science as Practice and Culture, edited by Andrew Pickering, Chicago: University of Chicago Press.
Deleuze, Giles. 1989. Qu’est-ce qu’un dispositif? In Michel Foucault philosophe. Rencontre international, Paris, 9, 10, 11 janvier 1988. Paris: Le Seuil., DiSalvo, C. 2012. Adversarial design. The MIT Press.
Fischer, M. M. 2014. “The Lightness of Existence and the Origami of ‘French’ Anthropology: Latour, Descola, Viveiros de Castro, Meillassoux, and Their So-Called Ontological Turn.” HAU: Journal of Ethnographic Theory 4 (1): 331–55.
Fourcade, M. 2011. “Cents and Sensibility: Economic Valuation and the Nature of ‘Nature.”’ American Journal of Sociology 116 (6): 1721–77.
Gad, C., and C. B. Jensen. 2010. “On the Consequences of Post-ANT.” Science, Technology and Human Values 35 (1): 55–80.
Geiger, S., Harrison, D., Kjellberg, H., and Mallard, A. 2014. Concerned Markets: Economic Ordering for Multiple Values. Cheltenham: Edward Elgar Publishing.
Golinski, J. 2008. Making Natural Knowledge: Constructivism and the History of Science. Chicago: University of Chicago Press.
Golinski, J. 2010. “Science and Religion in Postmodern Perspective: The Case of Bruno Latour.” In Science and Religion: New Historical Perspectives, edited by T. Dixon, G. Cantor and S. Pumfrey 50-68. Cambridge: Cambridge University Press.
Gomart, E., and Hennion, A. (1999). “A sociology of attachment: music amateurs, drug users.” The Sociological Review 47(S1): 220-247.
Granovetter, M. 1983. “The Strength of Weak Ties: A Network Theory Revisited.” Sociological Theory 1 (1): 201–33.
———. 1985. “Economic Action and Social Structure: The Problem of Embeddedness.” American Journal of Sociology 91 (3): 481–510.
Greimas, A. J. 1973. “Les actants, les acteurs et les figures.” In Sémiotique narrative et textuelle. Paris: Larousse. Pp. 161–176.
Guggenheim, M., and J. Potthast. 2012. “Symmetrical twins: On the relationship between Actor-Network theory and the sociology of critical capacities.” European Journal of Social Theory 15(2): 157-178.
Hacking, I. 1999. The Social Construction of What? Cambridge, MA: Harvard University Press.
Harman, G. 2014. Bruno Latour: Reassembling the Political. London: Pluto.
Hennion, A. 2007. “Those things that hold us together: Taste and sociology.” Cultural sociology, 1(1), 97-114.
———. 2013. “Review Essay: 2012. Enquête sur les modes d’existence.” Science, Technology & Human Values 38(4): 588-594.
———. 2015. The Passion for Music: A Sociology of Mediation. Farnham: Ashgate.
———. 2016. “From ANT to Pragmatism: A Journey with Bruno Latour at the CSI.” New Literary History 47(2): 289-308.
Heritage, J. 1987. “Ethnomethodology.” In Social Theory Today, edited by Anthony Giddens and Jonathan Turner, 224–72. Stanford, CA: Stanford University Press.
Latour, B. 1983. “Give Me a Laboratory and I Will Raise the World.” In Science Observed: Perspectives on the Social Study of Science, edited by K. D. Knorr-Cetina and M. Mulkay, 141-170. London: Sage.
———. 1987. Science in Action: How to Follow Scientists and Engineers through Society. Cambridge, MA: Harvard University Press.
———. 1988a. The Pasteurization of France. Cambridge, MA: Harvard University Press.
———. 1988b. “The Politics of Explanation: An Alternative.” In Knowledge and Reflexivity: New Frontiers in the Sociology of Knowledge, edited by Steve Woolgar, 155–76. London: Sage.
———. 1993. We Have Never Been Modern. Cambridge, MA: Harvard University Press.
———. 1999. “On Recalling ANT.” The Sociological Review 47 (S1): 15–25.
———. 2002. “Gabriel Tarde and the End of the Social.” In The Social in Question: New Bearings in History and the Social Sciences, edited by Patrick Joyce, 117–32. London: Routledge.
———. 2003. “What If We Talked Politics a Little?” Contemporary Political Theory 2 (2): 143–64.
———. 2004a. “Why Has Critique Run Out of Steam? From Matters of Fact to Matters of Concern.” Critical Inquiry 30 (2): 225–48.
———. 2004b. Politics of Nature: How to Bring the Sciences into Democracy. Cambridge, MA: Harvard University Press.
———. 2005. Reassembling the Social—An Introduction to Actor-Network-Theory. Oxford, UK: Oxford University Press.
———. 2010a. The Making of Law: An Ethnography of the Conseil d’État. London: Polity.
———. 2010b. “An Attempt at a ‘Compositionist Manifesto.’” New Literary History 41 (3): 471–90.
———. 2013a. An Inquiry into Modes of Existence: An Anthropology of the Moderns. Cambridge, MA: Harvard University Press.
———. 2013b. “Facing Gaia: Six Lectures on the Political Theology of Nature.” Gifford Lectures, Edinburgh University.
———. 2013c. “Biography of an inquiry: On a book about modes of existence.” Social Studies of Science 43(2): 287-301.
———. 2014a. “Anthropology at the Time of the Anthropocene—A Personal View of What Is To Be Studied.” Distinguished lecture delivered at the American Anthropological Association annual meeting, Washington, DC, December.
———. 2014b. “Another Way to Compose the Common World.” HAU: Journal of Ethnographic Theory 4 (1): 301–7.
Latour, B., and Woolgar, S. 1979. Laboratory Life: The Social Construction of Scientific Facts. Beverly Hills, CA: Sage.
———. 1986. Laboratory Life: The Construction of Scientific Facts. Princeton, NJ: Princeton University Press.
Law, John. 1987. “Technology and Heterogeneous Engineering: The Case of Portuguese Expansion.” In The Social Construction of Technological Systems: New Directions in the Sociology and History of Technology, edited by Wiebe E. Bijker, Thomas P. Hughes, and Trevor Pinch, 13–34. Cambridge, MA: MIT Press.
———. 1994. Organizing Modernity. Oxford, UK: Blackwell.
———. 2004. After Method: Mess in Social Science Research. London: Routledge.
Law, J., and Lien, M. 2012. “Slippery: Field notes on empirical ontology.” Social Studies of Science 43(3): 363-378.
Lee, N., and S. Brown. 1994. “Otherness and the Actor Network.” American Behavioral Scientist 37 (6): 772–90.
Lépinay, V. A. 2011. Codes of Finance: Engineering Derivatives in a Global Bank. Princeton, NJ: Princeton University Press.
López Gómez, D., and F. J. Tirado. 2012. “Teoría del Actor-Red: Un pragmatism contemporáneo.” In Teoría del Actor-Red: Más allá de los estudios de ciencia y tecnología, edited by D. López Gómez and F. J. Tirado, 1-16. Barcelona, Spain: Armentia Editorial.
Lynch, M. 1997. Scientific Practice and Ordinary Action: Ethnomethodology and Social Studies of Science. Cambridge, UK: Cambridge University Press.
MacKenzie, D. 2004. “The Big, Bad Wolf and the Rational Market: Portfolio Insurance, the 1987 Crash and the Performativity of Economics.” Economy and Society 33 (3): 303–34.
———. 2006. An Engine, Not a Camera: How Financial Models Shape Markets.
Cambridge, MA: MIT Press.
———. 2007. “Is Economics Performative? Option Theory and the Construction of Derivative Markets.” In Do Economists Make Markets? On the Performativity of Economics, edited by D. MacKenzie, F. Muniesa, and L. Siu, 54–86. Princeton, NJ: Princeton University Press.
———. 2009. Material Markets: How Economic Agents Are Constructed. Oxford, UK: Oxford University Press.
MacKenzie, D. A., and Y. Millo. 2003. “Constructing a Market, Performing Theory: The Historical Sociology of a Financial Derivatives Exchange.” American Journal of Sociology 109 (1): 107–45.
MacKenzie, D. A., F. Muniesa, and L. Siu, eds. 2007. Do Economists Make Markets? On the Performativity of Economics. Princeton, NJ: Princeton University Press.
Marres, N. 2012. Material Participation: Technology, the Environment and Everyday Publics. New York: Palgrave Macmillan.
McGee, K. 2014. Bruno Latour: The Normativity of Networks. London: Routledge.
Mirowski, P., and E. Nik-Khah. 2007. “Performativity, and a Problem in Science Studies, Augmented with Consideration of the FCC Auctions.” In Do Economists Make Markets? On the Performativity of Economics, edited by D.
MacKenzie, F. Muniesa, and L. Siu, Princeton, NJ: Princeton University Press.
Mol, A. 2013. “Mind Your Plate! The Ontonorms of Dutch Dieting.” Social Studies of Science 43 (3): 379–96.
Muniesa, F. 2000. “Un robot walrasien. Cotation électronique et justesse de la découverte des prix.” Politix 13 (52): 121–54.
———. 2007. “Market Technologies and the Pragmatics of Prices.” Economy and Society 36 (3): 377–95.
———. 2014. The Provoked Economy: Economic Reality and the Performative Turn. London: Routledge.
Muniesa, F., and M. Callon. 2007. “Economic Experiments and the Construction of Markets.” In Do Economists Make Markets? On the Performativity of Economics, edited by D. MacKenzie, F. Muniesa, and L. Siu, 163–89. Princeton, NJ: Princeton University Press.
Muniesa, F., Y. Millo, and M. Callon. 2007. “An Introduction to Market Devices.” The Sociological Review 55 (S2): 1–12.
Pellandini-Simányi, L. 206. “Non-marketizing agents in the study of markets: competing legacies of performativity and actor-network-theory in the marketization research program.” Journal of Cultural Economy.
Pickering, A. 1995. The Mangle of Practice: Time, Agency & Science. Chicago: University of Chicago Press.
Pottage, A. 2012. “The Materiality of What?” Journal of Law and Society 39 (1): 167–83.
Preda, A. 2009. Framing Finance: The Boundaries of Markets and Modern Capitalism. Chicago: University of Chicago Press.
Riles, A. 2011. Collateral Knowledge: Legal Reasoning in the Global Financial Markets. Chicago: University of Chicago Press.
Sayes, E. 2014. “Actor-Network Theory and Methodology: Just What Does It Mean To Say That Nonhumans Have Agency?” Social Studies of Science 44 (1): 134–49.
Schaffer, S. 1991. “The Eighteenth Brumaire of Bruno Latour.” Studies in History and Philosophy of Science Part A 22 (1): 174–92.
Schmidgen, H. 2013. “The materiality of things? Bruno Latour, Charles Péguy, and the history of science.” History of the Human Sciences 26(1), 3-28.
Serres, M. 1974. La traduction. Paris: Editions de minuit.
———. 1980. Le parasite. Paris: Grasset.
———. 1995. The Natural Contract. Ann Arbor: University of Michigan Press.
———. 1988. “Following Scientists Around.” Social Studies of Science 18(3): 533–50.
Shapin, S. 1988. “Following scientists around.” Social Studies of Science 18(3): 533-550.
Sismondo, S. 1993. “Some Social Constructions.” Social Studies of Science 23(3):515–53.
Smith, B. H. 2016. “Anthropotheology: Latour Speaking Religiously.” New Literary History 47(2): 331-351.
Strum, S. S., and B. Latour. 1987. “Redefining the Social Link: From Baboons to Humans.” Social Science Information 26 (4): 783–802.
Tresch, J. 2013. “Another Turn after ANT: An Interview with Bruno Latour.” SocialStudies of Science 43 (2): 302–13.
Viveiros de Castro, E. 2016. “Sur les modes d’existence extramodernes.”
Williamson, O. E. 1993. “Calculativeness, Trust, and Economic Organization.” Journal of Law and Economics 36 (1): 453–86.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét