Mối tương tác giữa các thể chế chính thức và
phi chính thức ở Tây Nguyên
phi chính thức ở Tây Nguyên
Hà Hữu Nga
Hệ thống thể chế phi chính thức được
tạo thành bởi các quy tắc, quy
định, chuẩn mực theo nguyên tắc bất thành văn, được sử dụng để điều chỉnh hành vi của cộng đồng.
Về phương diện này, khái niệm cộng đồng mang một nghĩa rộng, bao gồm cả các cộng
đồng DTTS (dân tộc thiểu số) địa phương Tây Nguyên, các cộng đồng DTTS nơi khác
di cư đến, cũng như các cộng đồng người Kinh
đã sinh sống lâu đời hoặc mới di cư đến sinh sống ở Tây Nguyên. Bên cạnh đó, nội hàm của khái niệm
cộng đồng không chỉ đơn thuần dựa trên các cộng đồng dân cư truyền thống, mà nó
còn là khái niệm để chỉ cả các cộng đồng hiện đại như các cộng đồng dân cư đô
thị (khu phố, phường, tổ dân phố), các cộng đồng doanh nghiệp, hội nghề nghiệp…vv.
Trong các cộng đồng đó hình thành các mạng lưới xã hội, quan hệ xã hội; tạo thành nguồn vốn
xã hội, nhằm giảm
chi phí giao dịch, trợ giúp cộng đồng, sinh hoạt tinh thần, bảo vệ quyền lợi
thành viên, giải quyết xung đột, bảo vệ môi trường…v.v. Các
tổ chức đó được gọi là xã hội dân sự, một hình thức thể chế xã hội được xây dựng
dựa trên nguyên tắc tự nguyện xung
quanh các giá trị, mục tiêu, sở thích, lợi ích chung. Nguyên tắc tự nguyện của
xã hội dân sự tạo thành tính đa dạng về phạm vi hoạt động, các thành viên tham
gia và các hình thái tổ chức, khác nhau về mức độ lễ thức, quyền tự do và quyền
lực chính trị. Trên cơ sở nguyên tắc tự nguyện, xã hội dân sự - một loại vốn xã
hội hiện đại - thường được hình thành dưới dạng các tổ chức như các hội từ
thiện, các hiệp hội, các công đoàn, các nhóm tương trợ, các phong trào xã hội,
các hội kinh doanh, các liên minh, và các hội nghề nghiệp [O'Connell, Brian 1999; Edwards,
Michael 2004].
Dù muốn hay không muốn thì trong thực tế Tây Nguyên,
đã, đang, và sẽ còn xuất hiện nhiều hình thức tổ chức của xã hội dân sự dựa
trên cơ sở hai nguyên tắc: 1) nguyên tắc bất thành văn của hệ thống thể chế phi
chính thức; và ii) nguyên tắc tự nguyện của xã hội dân sự. Nhìn từ quan điểm hệ
thống chính thức của nhà nước, ở Tây Nguyên đã và vẫn tồn tại những hình
thức tổ chức phi chính thức hoặc những
hình thức tổ chức mang danh/lợi dụng xã hội dân sự để: i) trục lợi về kinh tế
(chiếm đoạt các nguồn đất, rừng, khoáng sản, lâm sản, v.v… làm của riêng); ii)
làm mất ổn định xã hội (như tham nhũng, tội phạm, xung đột giữa các cộng đồng
địa phương và các cộng đồng di dân); iii) phá hoại hệ thống chính trị hiện hành ; iv) làm băng hoại các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp.
Vì vậy, để xây dựng luận cứ khoa học cho việc bổ
sung, và đổi mới hệ thống thể chế, góp phần đảm bảo tương lai phát triển bền
vững của các cộng đồng DTTS địa phương cũng như các cộng đồng di dân và các
cộng đồng cư dân hiện đại khác của Tây Nguyên liên quan đến các nguyên tắc và
hình thức thể chế trên, chúng ta cần đánh giá một cách khoa học vai trò của hệ
thống thể chế phi chính thức Tây Nguyên, dựa trên khung phân tích thể chế phi
chính thức [Gretchen Helmke and
Steven Levitsky 2004] đã được trình bày ở trên, như sau.
1. Vai trò bổ sung của hệ thống thể chế phi chính thức
Nói
đến vai trò bổ sung của hệ thống thể chế phi chính thức, trước hết là nói đến
đặc trưng mang tính tích cực của hệ thống này, góp phần khắc phục những thiếu hụt hoặc làm
tăng thêm hiệu quả và sức mạnh thực thi của hệ thống thể chế chính thức,
nhằm phát triển bền vững Tây Nguyên. Vai trò này được thể hiện ở mọi lĩnh vực
đời sống kinh tế, xã hội, môi trường, văn hóa Tây Nguyên, mà một trong những ví
dụ điển hình nhất là việc thực hiện Chỉ thị 24/1998/CT-TTg
của Thủ tướng Chính phủ về “Xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước của làng,
bản, thôn, ấp, cụm dân cư” của Tây Nguyên, cụ thể là hai tỉnh Gia Lai và Đak
Lak. Trong đó, Gia Lai triển khai thực hiện tuyên truyền vận động từ năm
2000 đến nay đã xây dựng được 108 quy ước bảo vệ rừng, trong đó được chuẩn y
thực hiện 101 quy ước. Đắc Lắk triển khai xây dựng quy ước bảo vệ và phát triển
rừng từ khi có Chỉ thị số 52/2001/CT – BNN – KL của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn. Đến nay, đã xây dựng được 88 quy ước trên địa bàn 39 xã
thuộc 19 huyện, thành phố, trong đó có 66 quy ước được chuẩn y thực hiện. Quy
ước bảo vệ và phát triển rừng được xây dựng dựa trên các luật tục truyền thống
của địa phương, được người dân trong các buôn làng tự nguyện tham gia đã nâng
cao nhận thức của các thành viên trong cộng đồng. Người dân thấy được sự cần
thiết phải liên kết giữa các hộ gia đình trong buôn, đã gắn được trách nhiệm
của mỗi người, mỗi gia đình với cả cộng đồng và các cộng đồng xung quanh cùng
nhau chia xẻ, bảo vệ và phát triển rừng, phát triển kinh tế – xã hội. [Đỗ Như
Khoa, Đàm Văn Long, Đoàn Hoài Nam 2013].
Kết
quả đánh giá theo phương pháp SWOT cho thấy: i) Điểm mạnh: Trong quá trình
triển khai thực hiện quy ước, đã có hệ thống chính sách liên quan khá đồng bộ
và đầy đủ; như chính sách về phân cấp quản lý, chính sách quyền hưởng lợi, các
chính sách ưu tiên cho phát triển nông thôn miền núi (chương trình 135; chương
trình phát triển kinh tế các tỉnh miền núi phía bắc; chương trình phát triển
kinh tế Tây Nguyên; Bảo vệ môi trường và cân bằng giới…) đã tạo nên nội dung
phong phú trong quy ước, đồng thời là môi trường và hành lang pháp lý cho việc
xây dựng quy ước. ii) Điểm yếu: Một số chính sách của Nhà nước chưa rõ ràng,
đồng bộ, cụ thể là: Công tác quy hoạch sử dụng đất lâm nghiệp kém hiệu quả,
thiếu quy hoạch tổng thể, quy hoạch sử dụng đất cấp xã, thôn, bản manh mún,
chưa có ranh giới hành chính cấp thôn, bản và không xác định rõ loại đất, loại
rừng. Do cộng đồng thôn, bản chưa được công nhận đầu đủ về tư cách pháp nhân và
quản lý rừng thôn, bản cũng chưa được nhà nước công nhận về mặt pháp lý, vì vậy
thông thường cộng đồng thôn bản không được giao hoặc thuê hoặc khoán rừng và
đất lâm nghiệp. Do đó rất khó khăn về thu nhập cho cộng đồng để chi phí cho các
hoạt động bảo vệ, giám sát và tuyên truyền chung trong cộng đồng. [Đỗ Như Khoa,
Đàm Văn Long, Đoàn Hoài Nam 2013].
Kết
quả đánh giá SWOT cho thấy đặc trưng bổ sung rất rõ ràng giữa
thể chế phi chính thức (nguyên tắc bất thành văn truyền thống của luật tục làm
cơ sở cho việc soạn thảo quy ước cộng đồng) và thể chế chính thức (nguyên tắc
thể chế hóa bằng hệ thống luật pháp, các chính sách, quy định của Nhà nước) thể
hiện qua điểm mạnh và điểm yếu trong quá trình kết hợp sử dụng hai loại thể chế
này.
Từ trường hợp trên, có thể rút ra
bài học quan trọng nhất làm luận cứ khoa học cho vai trò bổ sung của thể chế
phi chính thức đối với thể chế chính thức là: i) chế phi chính thức có vai trò
to lớn, không thể thiếu trong việc bổ sung, tăng cường hiệu quả thực thi cho hệ
thống thể chế chính thức, phục vụ cho mục tiêu phát triển bền vững Tây Nguyên;
ii) để sử dụng một cách hiệu quả vai trò bổ sung của thể chế phi chính thức thì
cần phải không ngừng hoàn thiện hệ thống thể chế chính thức thông qua việc hoàn
thiện hệ thống chính sách, pháp luật, quy định có liên quan đến các vấn đề phát
triển trong từng lĩnh vực cụ thể.
2. Vai trò điều chỉnh của hệ thống thể chế phi chính thức
Nói đến vai trò điều chỉnh của hệ
thống thể chế phi chính thức, cũng đồng nghĩa với việc nói đến tính tích cực của
hệ thống này, góp phần khắc phục tình trạng
lệch hướng và/hoặc tăng cường tính
phù hợp của hệ thống thể chế chính thức, nhằm phát triển bền vững Tây
Nguyên. Điều này thể hiện rõ ràng ở rất nhiều lĩnh vực tương quan giữa hệ thống
thể chế phi chính thức và hệ thống thể chế chính thức trong mọi lĩnh vực đời sống
Tây Nguyên, mà một trong những ví dụ điển hình nhất là vấn đề về địa vị pháp lý của cộng đồng dân
cư thôn buôn. Trước năm 2003, địa vị pháp lý của
cộng đồng dân cư thôn buôn chưa được đề cập trong các văn bản luật hiện hành
của nước ta, và Luật Dân sự năm 2005 cũng không quy định cộng đồng dân cư thôn buôn
là một pháp nhân, nhưng Luật này lại đưa ra khái niệm sở hữu chung của cộng
đồng. Theo đó, cộng đồng dân cư thôn buôn có quyền sở hữu đối với tài sản được
hình thành theo tập quán, tài sản do các thành viên trong cộng đồng đóng góp
nhằm mục đích thỏa mãn lợi ích chung hợp pháp của cả cộng đồng. Các thành viên
của cộng đồng cùng quản lý, sử dụng theo thoả thuận vì lợi ích của cộng đồng.
(Quốc hội 2005)
Nghị
định số 29/CP ngày 11 tháng 5 năm 1998 của Chính phủ về Quy chế thực hiện dân
chủ ở xã (Chính phủ 1998a) đã quy định làng, bản không phải là một cấp chính
quyền, nhưng là nơi sinh sống của cộng đồng dân cư và là nơi thực hiện dân chủ
một cách trực tiếp nhằm giải quyết các công việc trong nội bộ cộng đồng dân cư.
Văn bản này còn nhấn mạnh hội nghị làng, bản được tổ chức để thảo luận và quyết
định các công việc của nội bộ cộng đồng dân cư về sản xuất, xây dựng cơ sở hạ
tầng .v.v.; trưởng làng, bản là người đại diện cho cộng đồng dân cư. Một trong
những nhiệm vụ của trưởng làng, bản là phối hợp với các tổ chức kinh tế hướng
dẫn nhân dân phát triển sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Làng, bản có thể thành
lập các ban hoà giải, ban an ninh, tổ bảo vệ sản xuất, ban kiến thiết. Thực
hiện Nghị định trên, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 24/TTg ngày
19 tháng 6 năm 1998 về việc xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước của làng,
bản. (Chính phủ 1998b)
Văn
bản có tác động mạnh tới địa vị pháp lý của cộng đồng dân cư thôn buôn là Quyết
định số13/ 2002/QĐ-BNV ngày 06 tháng 12 năm 2002 của Bộ Nội vụ về việc ban hành
Quy chế tổ chức và hoạt động của thôn và Nghị định số79/2003/NĐ-CP ngày 07
tháng 7 năm 2003 của Chính phủ ban hành về Quy chế thực hiện dân chủ ở xã
thay thế Nghị định 29/CP. Hai văn bản này quy định thôn là tổ chức tự quản của
cộng đồng dân cư, trưởng thôn do nhân dân trực tiếp bầu và Chủ tịch UBND xã ra
quyết định công nhận là người đại diện cho nhân dân và đại diện cho chính quyền
xã, phường để thực hiện một số nhiệm vụ hành chính tại thôn (Chính phủ 2003). Nhấn
mạnh địa vị pháp lý của cộng đồng thôn buôn, Luật bảo vệ và phát triển rừng năm
2004, quy định các quan hệ liên quan đến rừng (với tư cách là tài sản trên đất)
quy định rõ, Nhà nước giao rừng phòng hộ, rừng sản xuất không thu tiền sử dụng
rừng cho cộng đồng dân cư thôn quản lý, sử dụng ổn định, lâu dài với tư cách
như một chủ rừng. Điều 29 quy định cộng đồng được giao rừng là cộng đồng dân cư
thôn có cùng phong tục, tập quán, có truyền thống gắn bó với rừng trong sản
xuất, đời sống, văn hóa, tín ngưỡng; có khả năng quản lý rừng, có nhu cầu và
đơn xin giao rừng. Việc giao rừng cho cộng đồng dân cư thôn phù hợp với quy
hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng đã được phê duyệt; phù hợp với khả
năng quỹ rừng của địa phương. (Quốc hội 2004)
Những
dẫn chứng trên cho thấy rất rõ sự chuyển biến của quá trình xây dựng hệ thống
thể chế chính thức thông qua việc ban hành các bộ luật, các chính sách, các quy
định dưới tác động điều chỉnh một
cách đúng đắn và hợp lý của các nguyên tắc truyền thống của hệ thống thể chế
phi chính, thể hiện qua vị thế pháp lý của các buôn làng. Điều đó chứng tỏ: i) hệ
thống thể chế phi chính thức Tây Nguyên có một vai trò rất to lớn trong việc điều
chỉnh quá trình phát triển của hệ thống thể chế chính thức, nhằm phát triển bền
vững vùng này; ii) tác động điều chỉnh của hệ thống thể chế phi chính thức là một
trong những luận cứ khoa học không thể thiếu trong quá trình bổ sung và đổi mới
hệ thống thể chế nhằm đảm bảo phát triển bền vững vùng Tây Nguyên một cách đúng
hướng và ngày càng phù hợp với thực tế của vùng, của đất nước và khu vực.
3. Vai trò cạnh tranh của hệ thống thể chế phi chính thức
3. Vai trò cạnh tranh của hệ thống thể chế phi chính thức
Khi đề cập đến vai trò cạnh tranh của hệ thống thể chế phi chính
thức, chúng ta dễ dàng nhận thấy tính chất hai mặt của nó. Cạnh tranh chỉ đóng
vai trò tích cực khi hệ thống thể chế phi chính thức tác động thuận chiều, tạo môi
trường đua tranh lành mạnh cho quá trình bổ sung và đổi mới hệ thống thể chính
thức hướng đến mục đích phát triển bền vững vùng. Ngược lại, cạnh tranh sẽ đóng
vai trò tiêu cực khi nó cản trở, làm lệch hướng quá trình bổ sung và đổi mới hệ
thống thể chính thức, làm cho quá trình phát triển vùng trở nên khó khăn và thiếu
bền vững.
Ở phần trên, chúng tôi đã phân tích một thực tế tại xã Đak Phơi,
huyện Lak, tỉnh Đak Lak thông qua hoạt động trao đổi hiện vật với tỷ lệ lãi rất cao luôn có lợi cho những người
cung cấp hàng hóa từ bên ngoài vào các hộ dân tộc thiểu số ở đây đã thể hiện một
loại hình thể chế cạnh tranh khốc liệt với hệ thống quy tắc chính thức của nhà
nước và/hoặc hệ thống quy tắc công bằng của một thị trường lành mạnh, bình thường.
Đây không chỉ là hiện tượng cá biệt ở Đak Phơi, mà nó tồn tại phổ
biến ở hầu hết các địa phương Tây Nguyên với nhiều dạng thức tương tự hoặc giống
hệt như ở Đak Phơi. Tuy nhiên bên cạnh hiện tượng cạnh tranh thể chế bất công bằng
và không lành mạnh như vậy trong lĩnh vực đời sống kinh tế của người dân Tây
Nguyên, cũng không thiếu những ví dụ cạnh tranh thể chế lành mạnh, mà điển hình
là hai ví dụ sau: Năm 2007, khi thực địa tại Xã Mang Cành, huyện Kon Plong, tỉnh
Kon Tum, chúng tôi đã ghi nhận một loại hình thể chế phi chính thức mới xuất hiện:
để đối phó với tình trạng ép giá và cho vay nặng lãi của các con buôn người
Kinh, nhiều người Rơ Mâm xã Mang Cành tập hợp lại thành một loại hình tổ hợp
tác tự nguyện. Họ kết nối với một người vừa là đồng tộc, vừa là đồng hương, là
cán bộ nhà nước đã nghỉ hưu tại thành phố Kon Tum, đề nghị người này làm đầu mối
thu mua/bán nông sản/cung cấp tín dụng với tỷ lệ lãi hợp lý cho bà con. Với
cách làm này, người Rơ Mâm đã cạnh tranh thành công với mô hình cho vay nặng
lãi và thu mua theo kiểu chộp giật của các con buôn người Kinh trong khu vực;
và họ cũng đã tạo dựng một loại hình thể chế phi chính thức cạnh tranh lành mạnh
với hệ thống thu mua nông sản, và cung cấp tín dụng chính thức của nhà nước.
Trong đợt thực địa Tây Nguyên năm 2006, chúng tôi còn được chứng
kiến một cách hợp tác tự nguyện thành công khác của người Bahnar tại xã Đak Tơ
Re, huyện Kon Rẫy, tỉnh Kon Tum. Ở buôn Tơ Re có một người là tên A. H., là kiều
dân tại Pháp, khi trở về thăm quê, ông này biếu chung cho cả buôn một số tiền
là 5000 USD để làm ăn. Dân làng họp nhau lại bàn mua một số bò để nuôi chung và
họ đã lập được một trại bò với 12 con, hầu hết là bò cái sinh sản. Họ cử ra một
người phụ trách trại này là ông A G. và hai thanh niên khác phụ giúp chăn bò.
Nguyên tắc chia sẻ sản phẩm là như sau: lứa bê con sinh ra trong hai năm đầu
tiên được chia cho những hộ gia đình nghèo nhất và chia cho những người phụ
trách trại bò; lứa bê năm sau được chia cho các hộ có phụ nữ làm chủ hộ và
tương đối khó khăn; lứa bê năm tiếp theo được chia cho những hộ trung bình; còn
những hộ khá giả thì được chia sau cùng. Mô hình trại bò A. G. đã giúp người
Bahnar trong buôn không bị phụ thuộc vào nguồn tín dụng đen nặng lãi của các
con buôn người Kinh và giải quyết được về cơ bản sinh kế cho các hộ gia đình
neo đơn nhất trong buôn.
Các
trường hợp trên cho thấy rất rõ tính chất hai mặt của vai trò cạnh tranh giữa
hệ thống thể chế phi chính thức và hệ thống thể chế chính thức trong đời sống
của người dân Tây Nguyên. Mặt tiêu cực trong cạnh tranh thể chế khiến cho người
dân gặp khó khăn, việc thực hiện xóa đói giảm nghèo của Nhà nước bị cản trở
(trường hợp cạnh tranh giữa hệ thống tín dụng đen dưới các hình thức trao đổi
hiện vật, cho vay nặng lãi với hệ thống tín dụng chính thức của nhà nước).
Ngược lại mặt tích cực trong cạnh tranh thể chế một cách lành mạnh thể hiện rất
rõ đối với trường hợp người Rơ Mâm ở Mang Cành và người Bahnar ở Đak Tơ Re.
Điều
đó chứng tỏ: i) tính hai mặt trong sự cạnh tranh giữa các hệ
thống thể chế phi chính thức với nhau và với hệ thống thể chế chính thức, có vai trò và có
tác động to lớn, trực tiếp đến quá trình phát triển bền vững Tây Nguyên; ii) vốn
xã hội có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc tạo dựng các loại hình thể chế
phi chính thức có khả năng cạnh tranh lành mạnh và công bằng giữa chính các loại
hình thể chế phi chính thức với nhau và với hệ thống thể chế chính thức; iii)
tính hai mặt trong sự cạnh tranh thể chế là một trong những luận cứ khoa học quan
trọng giúp nhận thức rõ mặt tích cực, và mặt tiêu cực trong quá trình bổ sung
và đổi mới hệ thống thể chế nhằm đảm bảo phát triển bền vững vùng Tây Nguyên.
4. Vai trò thay thế của hệ thống thể chế phi chính thức
Ở phần trên đã chỉ rõ, đối với thực tiễn các dân tộc thiểu số Tây Nguyên, hệ thống
phi chính thức cạnh tranh và hệ thống phi chính thức thay thế luôn là cặp bài
trùng và luôn song hành cùng nhau,
đặc biệt là trong mạng lưới
cung cấp tín dụng tư nhân của người Kinh cho người dân tộc thiểu số. Bên cạnh đó, tính chất thay thế của hệ thống thể chế phi chính thức
đối với hệ thống thể chế chính thức cũng thể hiện rất rõ trong các lĩnh vực được
xây dựng dựa trên nguyên tắc niềm tin, đặc biệt là lĩnh vực tín ngưỡng, tôn
giáo ở Tây Nguyên. Các con số về thực trạng phát triển của đạo Tin lành Tây
Nguyên cho thấy rất rõ điều đó. Đến năm 2009 đã có tổng số 362.689 người theo đạo Tin Lành
ở Tây Nguyên, trong đó hầu hết là người DTTS: ở Gia Lai người DTTS chiếm 98,3%;
Đắk Lắk 90,5%. Và hiện tượng đó được lý giải bằng chính niềm tin với lý do như
sau: “Khi mà gần ¼ đồng bào các dân tộc thiểu số Tây Nguyên không còn tin vào
các vị thần linh, không thực hiện các lễ nghi truyền thống, không còn thấy trong
cồng chiêng còn có thần linh trú ngụ…” [Đinh Văn Hạnh, 2010; Nguyễn Cao Thanh 2013].
Nhưng
có lẽ đạo Hà Mòn mới thể hiện rõ nhất mức độ khủng hoảng của hệ thống thể chế
phi chính thức Tây Nguyên được xây dựng trên cơ sở niềm tin, và một niềm tin
huyễn hoặc đã thay thế cho những niềm tin nhân bản của các tôn giáo, tín ngưỡng
truyền thống. Người ta tin cả vào những chuyện vô lý đến mức: nếu theo đạo này thì
mọi nợ nần về vật chất và tinh thần đều được xóa, kể cả nợ ngân hàng. Đến nay
số người theo Hà Mòn trên 3.500 người thuộc hai dân tộc Ba na và Sê đăng ở 34
thôn, làng của 17 xã thuộc 11 huyện trên địa bàn 3 tỉnh Kon Tum, Gia Lai và
Đaklak. Niềm tin thiếu cơ sở ấy đã khiến cho người dân bỏ bê lao động sản xuất,
nộp tiền cho các đối tượng cầm đầu "Hà Mòn", ảnh hưởng đến đời sống
kinh tế vốn đã rất khó khăn của đồng bào dân tộc thiếu số. Các cháu học sinh là
con em gia đình theo Hà Mòn bỏ học nhiều, riêng xã Ea Yiêng huyện Krông Pách,
tỉnh Đắk Lắk cuối tháng 4/2012 có 113 học sinh các cấp bỏ học. Việc tin chữa
bệnh bằng cầu nguyện, những điều nhảm nhí thay bằng đến các cơ sở y tế đã làm
ảnh hưởng đến sức khỏe của người dân; ảnh hưởng đến nhận thức trở lại của người
dân tộc về việc chữa bệnh bằng cầu cúng, bùa ngải [Phương Liên, 2013].
Các
thực tiễn của hệ thống thể chế phi chính thức mang tính thay thế ở Tây Nguyên
cho thấy: i) tính chất thay thể của hệ thống thể chế phi chính thức rõ
ràng có tác động to lớn, trực tiếp đến quá trình phát triển bền vững Tây
Nguyên, nhưng hầu hết đều mang tính tiêu cực; ii) vốn xã hội (quan hệ cộng đồng,
gia đình, dòng họ, thể chế già làng) đã bị lợi dụng một cách có mục đích trong
việc tạo ra môi trường lan truyền và nuôi dưỡng các tác động tiêu cực của các loại
hình thể chế phi chính thức thay thế ấy; iii) sự tồn tại của tính thay thế của
hệ thống thể chế phi chính thức là một trong những luận cứ khoa học quan trọng
giúp nhận thức rõ mặt tích cực, và mặt tiêu cực trong quá trình bổ sung và đổi
mới hệ thống thể chế nhằm đảm bảo phát triển bền vững vùng Tây Nguyên.
__________________________________
Nguồn: Hà
Hữu Nga 2014. Mối tương tác giữa các thể chế chính thức và phi chính thức ở Tây Nguyên. Bài
viết cho Đề tài cấp Nhà nước: Xây dựng luận
cứ khoa học cho việc bổ sung và đổi mới hệ thống thể chế phát triển bền vững
vùng Tây Nguyên. Mã số TN3/X09. 2013-2014.
Tài liệu dẫn
Bộ
Nội vụ 2002. Quyết định của Bộ Nội vụ về
việc ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của thôn. Quyết định số13/
2002/QĐ-BNV ngày 06 tháng 12 năm 2002, Hà Nội năm 2002.
Chính
phủ 1998a. Nghị định của Chính phủ về
việc ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã. Nghị định số 29/1998/NĐ-CP,
Hà Nội năm 1998.
Chính
phủ 1998b. Quyết định của Chính phủ về
việc xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước của làng, bản. Quyết định số 24/TTg
ngày 19 tháng 6 năm 1998, Hà Nội năm 1998.
Chính
phủ 2003. Nghị định của Chính phủ về Quy
chế thực hiện dân chủ ở xã thay thế Nghị định 29/CP. Nghị định số79/2003/NĐ-CP
ngày 07 tháng 7 năm 2003, Hà Nội 2003.
Đinh
Văn Hạnh 2010. Thực trạng phát triển Tin
Lành ở Tây Nguyên. Tạp chí Xưa và Nay - Số 370 Tháng 12/2010.
Đỗ
Như Khoa, Đàm Văn Long, Đoàn Hoài Nam 2012. Đánh giá và thực hiện
quy ước bảo vệ phát triển rừng trong cộng đồng dân cư thôn, làng, bản, ấp. Phòng Bảo vệ và
Phòng cháy Chữa cháy rừng, Cục Kiểm lâm. Trong http://mien nui. word press. com/ 2012/ 02/ 03/
Edwards,
Michael 2004. Civil Society. Cambridge, England: Polity Press, 2004.
Nguyễn Cao Thanh 2013. Đạo Tin lành ở Việt Nam từ 1975 đến nay, tư liệu và một số đánh giá ban đầu. Ban Tôn giáo Chính phủ http://btgcp.gov.vn/.
O'Connell,
Brian 1999. Civil Society: The Underpinnings of American Democracy.
Medford, Mass: Tufts University Press, 1999.
Phương
Liên 2013. "Hiện
tượng Hà Mòn" ở Tây Nguyên, những vấn đề cần quan tâm. Ban Tôn giáo Chính phủ http://btgcp.gov.vn/.
Quốc
hội 2004. Luật bảo vệ và Phát triển rừng.
Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 03 tháng 12 năm 2004, Hà
Nội 2004.
Quốc
hội 2005. Bộ Luật Dân sự. Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam khoá XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005, Hà Nội 2005.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét