Thần
thoại và Văn hóa Dân gian (I)
Franz
Boas
Người dịch: Hà Hữu Nga
Thần thoại và truyện dân gian. Không thể vạch một ranh giới rõ ràng giữa thần
thoại và tích truyện dân gian, vì
những câu chuyện kể tương tự xảy ra khi
các chuyện thần thoại cũng xuất hiện dưới dạng
các tích truyện dân gian. Nếu
chúng ta định nghĩa những câu chuyện thần thoại là các câu chuyện kể đưa ra lời giải thích về các hiện tượng tự nhiên, thì chúng ta phải đối mặt với những khó khăn mà một tích
truyện dân gian có thể phù hợp với định nghĩa này trong một trường hợp
nào đó, trong khi đối với trường
hợp khác thì nó lại có thể là một câu chuyện thuần túy về con người, thậm chí đôi khi có
thể là khoảng trống rỗng của các yếu tố lạ kỳ. Do đó, cùng một tích truyện sẽ đồng thời được phân loại ở thời điểm này là một thần thoại, và ở một thời điểm khác lại là một tích truyện dân gian.
Nếu chúng ta lấy sự nhân cách hóa động vật, thực vật,
các thiên thể và các hiện tượng tự nhiên làm cơ sở cho định nghĩa của mình thì lại nảy sinh một khó khăn
khác, vì các trường hợp nhân cách hóa như vậy cũng xuất hiện trong các tích
truyện dân gian thuần túy là tưởng tượng, hoặc thậm chí còn được coi là các sự kiện có thật đã xảy ra với những người đương thời .
Việc
quy vào những ý tưởng tôn giáo và các
lễ thức cũng không tạo ra một tiêu chí hữu dụng, vì những ý tưởng và lễ thức này có thể gia nhập vào các thần thoại cũng như vào những tích truyện dân gian liên quan đến những sự kiện
gần đây.
Các khái niệm thần
thoại. Định nghĩa về các khái niệm thần thoại dễ dàng hơn nhiều so với
định nghĩa về những câu chuyện thần thoại. Các
khái niệm thần thoại là các quan điểm cơ bản của
việc tạo dựng thế giới và
nguồn gốc của nó. Các khái niệm này gia nhập vào các tích truyện dân
gian liên quan đến các sự cố trong cuộc sống của các
hữu thể thần thoại, và vào các
tích truyện dân gian đề cập đến các
kỳ công và những đau khổ của những người đương thời của chúng ta, thường là của các cá thể quen biết. Do đó, người châu Phi kể về các cuộc gặp gỡ với các hồn ma của tổ tiên và những việc làm có hại của các phù thủy; thầy phù thủy người Koryak kể lại một cách chi tiết các cuộc chiến đấu với các vị ác thần; người châu Âu thuật lại các sự cố về cuộc đời các vị thánh và những cuộc thông đồng với quỷ dữ; người phương Đông nghe những
câu chuyện về ma quỷ được điều khiển bởi
chiếc nhẫn phép thuật, và người Mỹ bản
địa hành hương về vùng đất của các
hồn ma. Trong tất cả những tích
truyện này, các khái niệm thần thoại xuất hiện như là một bộ
phận của các câu chuyện. [1]
Rõ ràng các tích truyện được phân loại một cách quả quyết là huyền thoại nếu chúng giải thích nguồn gốc của
thế giới và nếu chúng có thể được
cho là đã xảy ra trong một khoảng thời gian thần thoại, khác với một thời mà chúng ta đang sống. Sự khác biệt ấy
được thừa nhận một cách rõ ràng bởi
nhiều bộ lạc, như người da đỏ Bắc Mỹ, người dân trên đảo Andaman, và thổ
dân Úc.
Nguồn gốc của
các tích truyện
dân gian. Trong việc xử lý các tích truyện dân gian, câu hỏi đặt ra là liệu chúng là các thần thoại hay truyền thuyết dân gian có thể được
bỏ qua. Vấn đề này đúng ra là liên quan đến
việc làm sáng tỏ lịch sử và nguồn gốc của các
tích truyện, và liên quan đến câu hỏi các khái niệm thần thoại trở thành chủ đề chính của các
tích truyện dân gian như thế nào và đến mức độ nào. Tầm quan trọng của việc giải thích về lịch sử của các vị thần của Hesiod rõ ràng khác với việc
giải thích về các công nghiệp và đau khổ của
Odysseus.
Trước
hết, chúng ta sẽ xem xét vấn
đề về nguồn gốc của các
tích truyện dân gian. Trong một
cuộc điều tra không có bất kỳ hồ sơ nào về thời gian trong
quá khứ, chúng ta phải cố gắng xác lập các quy trình đang hoạt động tại thời điểm hiện tại
và xem liệu chúng có thể giúp
chúng ta cố gắng tái tạo lại quá khứ hay không. Không có bất cứ lý do nào để giả định rằng các quy trình tương tự lại
không hoạt động trong các khoảng thời gian trước đó, ít nhất là chừng
nào các loại hình văn hóa còn
phù hợp với các tiêu chuẩn của các
bộ lạc nguyên thủy hiện đại. Điều này chắc chắn
đã xảy ra từ hậu
kỳ thời đồ đá cũ, vì các di
tích của người nguyên thủy hiện đại được tìm thấy sau hàng ngàn năm sẽ
phù hợp chặt chẽ với cấp độ được chỉ ra bởi các di tích của những buổi đầu ấy.
Việc phân tích các tích truyện dân gian cho thấy chúng hầu như hoàn toàn liên quan đến các sự kiện có thể xảy ra trong xã hội loài người, với các đam mê, đức hạnh, và tệ nạn của con người. Đôi khi những sự kiện ấy
lại khá hợp lý, nhưng chúng
thường là những sự kiện kỳ quái và một tính cách như vậy không thể có nguồn gốc trong kinh nghiệm của con người,
nhưng lại có thể được hiểu là kết quả của trò chơi tưởng
tượng với kinh nghiệm hàng ngày. Các sản phẩm tưởng tượng không chỉ đơn giản là
bản sao của các kinh nghiệm tri giác, mặc dù chúng được tạo dựng nên. Đó là kết quả của các giấc mộng ban ngày đùa giỡn với họ, và là kết quả của giai điệu cảm xúc của họ. Chúng ta luôn ngập tràn niềm hy vọng mãnh liệt, và trí tưởng tượng cho phép chúng ta luôn thấy mong muốn của mình được tựu thành, không hề có vấn đề các mong muốn ấy lại không thể. Một sự kiện làm chúng ta ngạc
nhiên, và trong trí tưởng tượng của chúng ta những yếu tố tuyệt vời sẽ được phóng đại
lên. Chúng ta bị đe dọa bởi các hiểm họa, và nguyên nhân của các hiểm họa ấy đối với chúng
ta có vẻ được phú bẩm bằng những sức mạnh phi
thường. Trong tất cả các tình huống này, kinh nghiệm thực tế có thể được phóng đại hoặc biến thành
mặt đối lập của nó, và những điều không thể lại
sẽ trở thành hiện thực.
Sau cái chết của một người bạn thân thì
cả chúng ta lẫn người nguyên thủy đều
không suy đoán là linh hồn của anh ta có thể đã trở thành cái gì; nhưng chúng ta lại ham muốn mãnh liệt để hủy
bỏ tác dụng của những gì đã xảy ra, và trong trò
chơi tự do của trí cuồng tưởng, chúng ta thấy
người chết sống lại. Nhà lãnh đạo bị giết chết trong trận chiến,
cơ thể ông bị chặt hết chân tay lại được hoàn trả tràn đầy sức mạnh. Người chiến binh bị
kẻ thù bao vây, không còn bất cứ
con đường rút lui nào, sẽ muốn vượt qua một cách vô hình mọi vòng vây của kẻ thù, và trong trí tưởng tượng mạnh mẽ con
người đều mong muốn điều đó trở thành hiện thực.
Các
hình thức thần thoại khác có thể được hiểu như
là sự phóng đại của kinh nghiệm. Do đó, vẻ đẹp hình thức của cơ
thể con người có thể siêu
vượt khỏi lãnh địa hiện thực. Vì vậy mà những người trai tráng rực sáng với mái tóc chói lòa như vậy
hoàn toàn có thể hiểu được. Các
biến đổi hình dáng của cơ thể
cũng đem lại chất liệu cho trí tưởng tượng.
Những quái vật
không hề có cũng được cho là đang
tồn tại và trở thành một mối
hiểm họa. Nếp nhăn, nốt ruồi, mụn cóc, chân tay thừa
ra, những dấu hiệu đổi màu, tất cả đều là những yếu tố giúp cho trò chơi của trí tưởng tượng có thể xây dựng thành
nhân vật của mình.
Có
một thực tế là các kinh nghiệm và tình huống này
xảy ra trong mọi xã hội con người và các kích
thích tâm lý cho các biến đổi của trí tưởng tượng hiện diện ở khắp mọi nơi,
đủ để
giải thích cho sự tương đồng chung của nhiều nhân vật và diễn biến kỳ
quặc trong các
tích truyện dân gian.
Không
thể hiểu thần thoại và văn hóa dân gian chỉ bằng quan điểm triết lý nguyên thủy, như là kết quả của tư duy
tư biện về nguồn gốc và cấu trúc của thế giới và của
đời sống con người. Sự tuôn trào của hoạt động nghệ thuật cũng không kém hơn, đặc biệt
là sự tuôn trào của hoạt động văn học. Việc nhấn mạnh một chiều đối với mối quan hệ gần gũi giữa tôn giáo và thần thoại làm
khuất lấp trò chơi giàu trí tưởng tượng có liên quan đến quá trình hình thành các thần thoại.
Các tích truyện dân gian phải
được coi là tương tự với văn học tiểu thuyết hiện đại. Những nỗ lực thường
xuyên nhằm ám chỉ toàn bộ các truyền thuyết dân gian vào các hiện tượng tự nhiên, vào mặt trăng [2] hay mặt trời, [3] đều
không xem xét kỹ lưỡng trò chơi thực tế của trí tưởng tượng phổ biến đối
với nhân loại trên toàn thế giới. Không cần phải đồng nhất một nhân vật phủ đầy mụn cóc với mặt trăng, để giải thích về những khoảng tối gợn trên nét mặt cô ta; hoặc để giả định rằng việc cắt thành từng mảnh hoặc nuốt sống thân thể một người anh hùng là thể hiện cho ánh sáng tàn úa của mặt trăng. Các lý thuyết tinh
vi của phân tâm học dường như cũng không cần
thiết cho mục đích giải thích các yếu tố kỳ quặc của những tích truyện dân gian hay các nhân vật thần thoại. Trò
chơi tự do của trí tưởng tượng vận hành với kinh nghiệm hàng ngày cũng đủ để giải thích cho nguồn gốc của chúng. Vốn từ vựng và ngữ pháp trong các ngôn ngữ của các bộ lạc nguyên thủy có các hình thức thể hiện theo phong cách: "nếu tôi có thể", "nếu tôi là",
"nếu điều này đã không xảy ra", và những hình
thức khác chỉ có thể được nhận thức là biểu hiện của các sự kiện tưởng tượng. Tương tự như vậy, bằng chứng rõ ràng về tầm quan trọng của lối
tư duy giàu trí tưởng tượng là vô số so sánh và các biểu hiện ẩn dụ trong ngôn ngữ của các bộ lạc nguyên thủy. Không cần phải tìm kiếm nguồn gốc của
ẩn dụ [4] khi thực sự vốn từ vựng của mỗi ngôn ngữ đều chứng minh rằng quá trình hạn chế, mở rộng, và chuyển
giao nghĩa liên tục vận hành bằng cách định hình và tái
định hình ý nghĩa của các biểu
tượng từ. Mỗi cách chuyển nghĩa đều có thể trở thành kích thích tố
để sử dụng ẩn dụ, nếu nó không tự thân là một phép ẩn dụ.
Đối
với các lý do này, dường như không cần thiết phải tìm kiếm, trong tự nhiên,
các nguyên mẫu của các
hiện hữu được phú bẩm bằng các phẩm chất và các sự
kiện phi thường, sự phóng đại hoặc
xuyên tạc những gì xảy
ra trong cuộc sống hàng ngày. Đây là những chất liệu góp phần tạo dựng các tích truyện
dân gian và nhiều khái niệm thần
thoại.
Lan truyền các tích truyện dân
gian. Việc nghiên cứu các tích truyện dân gian như hiện đang được tìm thấy chỉ đem lại một bằng chứng rất mong manh về khả năng phát minh ra các
động cơ mới của con người. Dường như trí tưởng tượng của nó bị hạn chế bởi các hình thức hiện tại của các
tích truyện.
Sự tương đồng của các
truyền thuyết dân gian tìm thấy ở
nhiều nơi trên thế giới đã càng làm cho cuộc luận chiến trở nên dài hơn. Trong khi Tylor, [5] Brinton, [6] và các
nhà nghiên cứu sớm khác có
khuynh hướng xem, trong các tương đồng này, bằng chứng về một sự thống nhất tâm linh của nhân loại,
và giả định rằng mỗi tích truyện tương tự đều
có nguồn gốc độc lập ở
bất cứ nơi nào được kể, nên việc điều tra cẩn
thận sự phân bố và lan truyền gần đây của tích truyện đã chứng minh rằng trong hầu hết các trường
hợp, sự xuất hiện những tích
truyện tương tự đều do sự lan truyền. Điều này đã được chứng tỏ một cách thỏa đáng nhất đối với các
truyền thuyết dân gian châu Âu và châu Á và đối với các
truyền thuyết dân gian Bắc Mỹ. Không thể xác định được xuất xứ của mỗi tích truyện, nhưng các dòng di chuyển của tích truyện thì lại có thể truy tìm được. Ở châu Âu và châu Á văn học là một phương tiện mạnh
mẽ để phổ biến các tích truyện; ở châu
Mỹ, các khu vực phân bố liên tục rộng lớn của một số tích truyện nhất định đều có vô số bằng chứng cho thấy nguồn gốc chung của chúng. [7] Các bằng chứng ấy còn được củng cố thêm bởi sự lan truyền
của cả những tích truyện châu Âu nhập khẩu vào châu lục này sau khi có
sự hiện diện của người Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. [8] Các
tích truyện của người Pháp [9] được phổ biến rộng rãi trong các bộ lạc da đỏ Bắc Mỹ. Các
truyền thuyết dân gian Tây Ban Nha thậm
chí còn được tìm thấy cả trong những vùng rừng hẻo lánh chưa được khám của lưu vực sông Amazon. [10]
Một vài tích truyện phức tạp bao gồm một chuỗi các yếu tố không
liên quan được phân bố cực rộng. Có lẽ bằng chứng thuyết phục nhất của một trong số các truyền thuyết đó là tích truyện Chuyến bay ma, mà các yếu tố nổi bật của
nó là các chuyến bay của
một con yêu tinh, và các đồ vật quăng quật trên vai tạo thành các chướng ngại - một
hòn đá trở thành một ngọn núi; chiếc lược trở thành một bụi cây; dầu trở thành một đầm nước. Tích truyện này xuất hiện từ biên giới Đại Tây Dương của châu Âu về phía đông trên khắp châu Á và Bắc
Mỹ, vươn đến tận bờ biển Đại Tây Dương ở Greenland. [11] Hầu như không thể tưởng tượng được rằng một loạt sự cố không liên quan lại phát sinh độc lập trong các vùng cách xa nhau đến như vậy. Tích truyện này phân bố trong một khu vực liên tục cũng cho thấy rằng nó đã được lan truyền từ nhóm người này đến
nhóm người khác, từ bộ lạc này đến bộ lạc khác. Vì vậy có thể truy nguyên, với một mức độ xác suất cao, sự phân bố của các truyền
thuyết dân gian phức tạp được xác định về
phương diện lịch sử.
Nguồn gốc các
yếu tố của tích
truyện
dân gian. Không thể theo đuổi cùng một phương pháp khi có sự liên
quan của các yếu tố phân bố không đều của các
tích truyện đó. Sự xuất hiện của chúng đã được sử dụng để chứng
minh rằng chúng phải phát
sinh không chỉ từ cách vận hành tương đồng về tư duy của tất cả các chủng tộc, mà từ một xu hướng ngấm ngầm để diễn tả các hiện tượng định kỳ của tự nhiên trong khuôn khổ tương đông về trí tưởng tượng. Đúng là mặt trăng có
vẻ là một, đúng là nó dần dần tròn đầy để rồi
lại khuyết đi trên toàn thế giới,
nhưng điều đó không chứng minh rằng mỗi tích truyện về một khuôn mặt bị biến dạng hoặc
tích truyện về quá trình tròn và khuyết, về việc nó bị nuốt mất
hoặc bị giết chết để rồi lại được tái sinh, đều
phải ngụ ý đến mặt trăng, vì có vô tận các kinh nghiệm khác trong đời sống con người cho thấy cùng
một nhóm các ý tưởng ấy. Cũng không nhất thiết phải khẳng định rằng tất cả những con rắn dữ tợn phải là luồng sét, và rằng mỗi thanh niên trai tráng đều phải là mặt trời.
Một trong những yếu tố phân bố rộng rãi là tình tiết về một người hoặc một con vật bị quái vật nuốt sống đã
thoát ra được và, như một sự cố thường xuyên, đều
bị cháy mất lông tóc vì hơi nóng trong cơ thể của con quái vật. [12] Chúng
ta đã quen thuộc với các
truyền thuyết về Jonah và Leviathan cũng
như về Tom Thumb của chúng ta. Việc thực sự nuốt sống
cả một con vật có thể quan sát thấy
trong thói quen ăn
mồi của loài rắn. Sự ra đời của những
con vật mới sinh cho thấy khả năng của những hữu thể
sống trần trụi khi ra khỏi cơ thể của con mẹ. Thêm vào đó là những xúc cảm tò mò về các cơ thể chuyển động
trong dạ dày và ruột trong các trường hợp khó tiêu, và những tiếng ồn sinh
ra bởi các chất khí dẫn đến ý tưởng về các
động vật xâm nhập vào cơ thể của người bệnh cuối cùng phải tự giải thoát bản thân mình. Những quan sát này cũng có thể đã kích thích trí tưởng tượng và làm xuất
hiện chủ đề của động vật bị
nuốt sống, mà không cần phải nhờ đến cái ý tưởng xa vời, trong mọi trường hợp, động vật này phải là mặt trăng. Không khẳng định rằng đó phải là nguồn gốc duy nhất của tích
truyện. Nó chỉ đơn thuần nhằm mục đích cho thấy
các kinh nghiệm của con người cũng
đủ cung cấp tất cả các tình
tiết như vậy. Cũng rất thú vị khi lưu ý rằng bất chấp những hiểu biết chính xác về giải phẫu động vật,
rất nhiều biến dạng huyền ảo nhất vẫn
cứ xuất hiện. Con vật bị nuốt sống vào bụng và bị kết thúc đột ngột. Nó trượt thẳng qua ống tiêu hóa của con quái vật - giống miếng thịt xông khói mà Münchhausen [kẻ cuồng tưởng HHN]* móc vào một dây câu cá rồi đàn vịt nối nhau nuốt mồi. Con quái vật lớn đến nỗi toàn bộ các
bộ lạc hạ trại trong dạ dày của nó, và hơi thở của nó mạnh đến nỗi nó hút bất cứ thứ gì gần nó.
Một ví dụ khác về các sự cố phân phối rộng rãi
và không theo quy tắc là con
đường lên trời bằng một chuỗi mũi tên. Các
cuộc lên thăm bầu trời có lẽ là phổ
biến, nhưng các phương pháp lên trời thì lại khác nhau. Tất nhiên, chưa từng có ai nhìn thấy một chuỗi mũi tên có thể giúp
leo lên trời được, nhưng có vẻ như việc
mở rộng trò chơi khắc
một mũi tên tiếp nối với một mũi tên khác để phát triển ý tưởng lên đến vô tận lại hoàn toàn nằm trong tầm với của loại
trí tưởng tượng này. Không thể phủ nhận rằng những tia sáng mặt trời
chiếu xuyên qua những đám mây trong một bầu không khí ẩm cũng
có thể giúp phát triển các ý tưởng
tương tự.
Có vẻ không hợp lý khi cho rằng tất cả các lớp sự cố ở đây đều được gọi là các phản xạ tức thì của các hiện tượng tự nhiên gợi
ra các tích truyện dân gian, có thể lý
giải như là một trò chơi của trí tưởng tượng với quá
nhiều sự kiện trong cuộc sống của con người. Rất
có thể trí tưởng tượng của những người kể chuyện đã
chuyển các tình tiết này
thành các hiện tượng tự nhiên
nhân hình hóa, do đó đã được đưa vào lĩnh vực xã hội loài người.
Sau khi một thể loại thần thoại này được phát triển và trong tiến
trình thời gian đã mất đi
sức sống và ý nghĩa vốn
có, thì nó cũng có thể lại
một lần nữa rã hủy và trở thành chủ đề của các tích truyện dân gian. Vì vậy Grimm đã tìm thấy nguồn gốc tích truyện Người đẹp ngủ trong rừng được bao quanh bởi một hàng rào chông
gai không thể vượt qua từ ngọn lửa xung quanh tảng
đá của người Valkyrie đang
ngủ. [13]
Đặc trưng của các khái niệm thần thoại. Đặc trưng quan trọng nhất của khái niệm thần thoại là nhân cách
hóa. Không hề khó hiểu là tại sao động vật lại cần được nhân cách hóa, vì hành vi của chúng, theo
nhiều cách thức, đều giống hành
vi của con người. Các hành động của chúng có thể dễ dàng nhận thức là do thúc đẩy bởi đói
khát, sợ hãi, giận dữ, và tình yêu. Khi sức mạnh
của chúng lớn hơn sức mạnh của con người và con người không chịu nổi
sức tấn công của chúng, thì
đó là bằng chứng cho
thấy sức mạnh lớn hơn ấy
của chúng được đem ra đọ với con người.
Những con vật được nhân cách hóa
ấy xuất hiện ở khắp mọi nơi trong các
tích truyện dân gian. Tương phản với các nhân tố con người, chúng được đặc trưng một cách sắc nét theo các tập tính được quan sát
thấy của mình. Con cáo xảo quyệt tham
lam, con sói ngu ngốc của các
tích truyện dân gian châu Âu, con khỉ của Ấn Độ, lũ
sói, quạ, và thỏ Bắc Mỹ, con báo đốm Nam Mỹ, con
rùa và con nhện châu Phi, đều là các loại có đặc điểm tinh thần giống
nhau trong mỗi tích truyện. Những tập tính của cả loài được tập trung ở một cá thể. Hơn nữa, những gì đã xảy ra với một cá thể đại diện đều quyết định số phận của tất cả các thành viên của loài.
Khi trong tích truyện châu Âu mèo và chó cãi nhau, thì
điều đó gây ra thù hằn vĩnh viễn giữa hai loài [14]; khi con gấu giật
đứt đuôi mình để cố
thoát khỏi bị kẹt giữ lớp
băng, nó đã giải thích cho nguyên do ngắn
đuôi của tất cả loài gấu. [15] Những loại tích truyện này thường được cho là để giải trí và không được sáng
tạo một cách nghiêm túc, nhưng đôi khi chúng
cũng được coi là để giải thích
cho các hoàn cảnh thực của thế giới. Sự kiện vẫn thường xuyên quan sát thấy thì được
coi là bằng chứng về sự thật của tích
truyện.
________________________________________
Nguồn: Boas, Franz (Ed.) 1938. Mythology and Folklore. In General Anthropology, Edited by Franz
Boas, with contributions by Ruth
Benedict, Robert H. Lowie, Franz Boas,
James H. McGregor, Ruth Bunzel N. C. Nelson, and Julius E. Lips Gladys
A. Reichard Copyright, 1938 by D. C. Heath and Company. Printed in the United
States of America; (Chapter XIII. Mythology and Folklore, pp. 609-626).
Tác
giả: Franz Boas Uri (1858 - 1942) là một nhà nhân học người Mỹ gốc Đức, một người
tiên phong của nhân học hiện đại, cha đẻ của Nhân học Mỹ. Ông học tập tại
Đức, nhận học vị tiến sĩ vào
năm 1881 về vật lý khi
còn đang nghiên
cứu địa lý. Sau đó, ông tham gia vào một cuộc thám hiểm địa lý ở bắc Canada, và ông trở nên
thích thú với các nền văn hóa và ngôn ngữ của người Inuit tại đảo Baffin. Ông
tiếp tục công việc thực địa với các nền
văn hóa và ngôn ngữ bản địa vùng
Tây Bắc Thái Bình Dương. Năm 1887, ông di cư sang Hoa Kỳ, và đầu tiên làm quản thủ bảo tàng
Smithsonian. Năm 1899 ông trở thành
giáo sư nhân học tại Đại học Columbia, và
tiếp tục sự nghiệp của mình ở đó cho đến
cuối đời. Thông qua các sinh viên của
mình, Boas đã tác động ảnh hưởng sâu
sắc đến sự phát triển
của nhân học Mỹ. Trong số các sinh viên của
ông, có các
nhà nhân học nổi tiếng là AL Kroeber, Ruth Benedict, Edward Sapir, Margaret Mead,
và Zora Neale Hurston.
Boas là một trong những đối thủ nổi bật nhất của các hệ tư tưởng phân biệt chủng tộc phổ biến trong khoa học. Đó là ý tưởng cho rằng chủng tộc là một khái niệm sinh học và hành vi của con người được hiểu tốt nhất thông qua loại hình học về các đặc trưng sinh học. Trong một loạt công trình nghiên cứu mang tính đột phá về giải phẫu xương, ông đã chỉ ra rằng hình dạng và kích thước sọ rất dễ thay đổi tùy thuộc vào các nhân tố môi trường như y tế và dinh dưỡng, trái ngược với những tuyên bố của các nhà nhân học chủng tộc thời đó cho rằng hình dạng đầu là một đặc điểm chủng tộc ổn định. Boas cũng đã nỗ lực chứng minh rằng sự khác biệt về hành vi của con người không phải chủ yếu được quyết định bởi các khuynh hướng sinh học bẩm sinh, mà phần lớn là kết quả của sự khác biệt văn hóa có được thông qua học tập xã hội. Bằng cách đó, Boas đã giới thiệu văn hóa như là loại khái niệm chính để mô tả những khác biệt về hành vi giữa các nhóm người, và như là khái niệm phân tích trung tâm của nhân học.
Trong số
những đóng góp chính của Boas cho
tư tưởng nhân học có cả việc
ông từ chối các cách tiếp cận tiến
hóa sau đó trở nên phổ biến đối với việc nghiên cứu
văn hóa, coi tất cả các
xã hội tiến bộ thông qua một tập hợp các giai đoạn mang tính thứ bậc về công nghệ và
văn hóa, với nền văn hóa phương Tây-châu Âu là thượng đỉnh.
Boas cho rằng văn hóa được phát triển về phương diện lịch sử, thông qua sự
tương tác giữa các nhóm
người, thông qua việc truyền bá các
ý tưởng, và do đó không có quá
trình liên tục hướng tới các
hình thái văn hóa
"cao hơn". Cách hiểu này khiến cho Boas từ chối
việc tổ chức các bảo tàng dân
tộc học dựa trên các
“giai đoạn”, thay vì ưu tiên cho
việc xếp đặt trật tự các hạng mục trưng bày dựa trên các
mối quan hệ và sự gần gũi của các nhóm văn hóa được tiếp cận.
Boas còn đưa vào hệ tư tưởng
tương đối luận văn hóa cho
rằng các nền văn hóa không thể được xếp hạng một cách khách quan là cao hơn
hoặc thấp hơn, tốt hơn hoặc chính
xác hơn, mà theo cách toàn bộ con người nhìn
thế giới thong qua lăng kính
văn hóa riêng của họ, và đánh giá nó theo các
chuẩn mực văn hóa riêng của họ. Đối với Boas đối tượng của nhân học là tìm hiểu cách
thức mà nền văn hóa quy định cho mọi người hiểu và
tương tác với thế giới theo những cách thức
khác nhau, và để làm được điều này thì cần phải có được sự hiểu
biết về ngôn ngữ và các thực hành
văn hóa của dân tộc được nghiên cứu.
Bằng cách thống nhất
các bộ môn khảo cổ học, nghiên cứu văn hóa vật
chất và lịch sử, nhân học thể chất, nghiên cứu các biến đổi về giải phẫu người, với
dân tộc học, nghiên cứu về biến đổi văn
hóa về phong tục tập quán, ngôn ngữ học
mô tả, nghiên cứu về các ngôn ngữ bản địa chưa có văn tự, Boas tạo ra
phương pháp
tiếp cận bốn lĩnh vực nhân học đã trở nên nổi
bật trong nhân học Mỹ thế kỷ 20,
gồm Khảo cổ học, Ngôn ngữ học, Nhân học thể chất, và Nhân học văn hóa.
Ghi
chú của người dịch từ nguyên văn tiếng Đức:
* Ai không nhớ những cuồng tưởng kỳ quặc giống như Münchhausens
cưỡi trên một quả đạn pháo? con
ngựa trong mùa đông nước Nga treo trên tháp chuông
nhà thờ? con ngựa
không mông không ngừng khát nước? con nai với
cây anh đào trên trán của nó? Chiếc
áo choàng trở nên cuồng dại? Con sói nuốt con ngựa kéo xe trượt tuyết của Münchausens và thay vì
[...] điều này đã thu
hút chiếc xe trượt
tuyết? những con vịt bị dính mồi nhử bằng mẩu thịt xông khói của Münchhausen,
sau đó ông bay lên theo không khí và chiếc ống khói rồi cuối cùng
ông hạ xuống đám lửa, vị tướng có khả năng đặt rượu đứng trên đầu
là một phiến bạc, con gấu Thổ Nhĩ
Kỳ bị dính mồi nhử mật ong phóng đi cùng chiếc xe [...]
Munchausen leo lên mặt trăng
bằng một hạt đậu đang nhanh chóng
mọc thành dây, cuộc gặp gỡ của ông với những con người trên mặt trăng có những chiếc đầu mọc dưới cánh
tay, vv, vv ...
(Wer
erinnert sich nicht an so skurrile Phantasien wie Münchhausens Ritt auf der
Kanonenkugel? an das Pferd im russischen Winter, das am Kirchturm hing? an den
ewig durstigen Gaul, dem das Hinterteil fehlte? an den Hirsch mit dem
Kirschbaum auf der Stirne? an den Mantel, der [...] tollwütig geworden war? An den
Wolf, der Münchhausens Schlittenpferd fraß und an dessen Stelle den Schlitten
zog? an die Enten, die Münchhausen mit Speck köderte, mit denen er dann
durch die Luft und durch den Kamin flog und schließlich auf dem Herd landete,
an den trinkfesten General mit der Silberplatte auf [...] dem Schädel, den
türkischen Bären, der sich, mit Honig geködert, mit einer Wagendeichsel
aufspießte, an Münchhausens Aufstieg zum Mond mithilfe einer schnell wachsenden
Bohne, an seine Begegnung mit den Mondmenschen, die ihre Köpfe unterm Arm
tragen, usw. usw....)
FOOTNOTES
1. Wundt, W., Volkerxsychologie
(Leipzig, 1909), vol. 2, Part III, p. 19.
2. Ehrenreich, P., Die allgevieine
Mythologie und ihre ethnologische'rt Grundlagen (Leipzig, 1910); Siecke, E., Mythologische
Briefe (Berlin, 1909).
3. Frobenius, Leo, Das Zeitalter
des Sonnengottes (Berlin, 1904).
4. Werner, H., Die Ursprunge der
Metapher (Leipzig, 1919).
5. Tylor, E. B., Primitive Culture
(1874).
6. Brinton, D. G., The Myths of the
New World (1896).
7. Boas, F., Tsimshian Mythology,
Annual Report of the Bureau of American Ethnology, vol. 31 (1916).
8. Espinosa, A. M.,
"Comparative Notes on New-Mexican and Mexican Spanish Folk-Tales,"
Journal of American Folk-Lore, vol. 27 (1914), p. 211.
9. Teit, James, Mythology of the
Thompson Iiulians, Jesup Expedition, vol. 8 (1913), pp. 385 ff.; Thompson,
Stith, Tales of the North American Indians (1929), pp. 201 ff. See also
"Lidex of the Journal of American Folk-Lore" in Memoirs of the
American Folk-Lore Society, vol. 14 (1930), under European Folklore in America.
10. Koch-Griinberg, Th., Vovi
Roroima zum Orinoco (Stuttgart, 1924), vol. 2, pp. 140 ff.
11. Bolte, J., and Polivka, G.,
Anmerhungen zu den Kinder- und Hausmdrchen der Bruder Grimm., vol. 2 (Leipzig,
1915), p. 140; Thompson, Stith, op. cit., p. 333, note 205.
12. Tylor, E. B., Researches into
the Early History of Mankind (3rd ed., 1878), pp. 344 ff.; Thompson, Stith, op.
cit., p. 321, notes 158, 159.
13. Bolte, J., and Polivka, G.,
op. cit., vol. 1 (Leipzig, 1913), p. 441.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét