Người Trobriand bản địa trên các
hòn đảo tây Thái Bình Dương (I)
Bronislaw Malinowski
Người
dịch: Hà Hữu Nga
Tạm
rời xa những tảng đá rám nắng
và những khu rừng nhiệt đới âm u của người
Amphletts để rồi một ngày sẽ quay trở lại vì
công việc nghiên cứu của chúng tôi, và để
học hỏi thêm về người dân nơi
đây, chúng tôi hướng mũi thuyền về phía Bắc đến một thế giới hoàn toàn khác của các
hòn đảo san hô bằng phẳng; đến
một vùng dân tộc học, nổi bật bởi vô số phong tục và cách cư xử đặc
biệt trong số những khu vực còn lại của
Papuo-Melanesia. Cho đến giờ, chúng tôi đã bang qua những
vùng biển xanh biếc, trong suốt, bên
dưới là những rạn san hô, đầy sắc màu và hình dạng, với thế giới sống tuyệt với của rong tảo
và tôm cá, là một cảnh tượng hấp dẫn mà
biển cả đã khuôn lại với tất cả vẻ huy hoàng của rừng nhiệt đới, cảnh quan sơn
cước và những miệng núi lửa, với
những dòng nước và những con thác sôi động, với những đám mây nặng
đầy hơi nước lững lờ trong các
thung lũng cao. Giã từ những cảnh trí hoang đường đó để hướng mũi thuyền về phương
Bắc đang đợi chờ. Các đường viền của người Amphletts sớm biến mất trong khói mù nhiệt đới, cho đến
khi chỉ có ngọn kim tự tháp mảnh
mai của Koyatabu, nổi bật lên
phía đường chân trời, đường
nét duyên dáng, vẫn còn vương
mãi trong tâm trí chúng tôi thậm
cho đến tận vùng đầm phá Kiriwina.
Giờ đây chúng ta lọt thỏm trong một vùng biển biêng
biếc mơ hồ, mà vẻ đơn điệu của nó bỗng nhiên bị phá vỡ bởi
một vài dải cát trống trải, ngập tràn sóng vỗ, với một vài
lùm dứa dại trơ rễ trên những đụn cát trắng. Người bản địa
Amphlett đến các dải cát này, ở đó cả tuần để đánh bắt cá, rùa và lợn biển. Chính nơi đây cũng là cảnh trí của một số sự
cố bí ẩn huyền thoại của vùng Kula nguyên sinh. Xa xa về phía trước, qua màn sương mù mịt, đường chân
trời ken dày đây đó, cứ như ai đó đã phác lên vô số vệt
bút chì mờ ảo. Những đường viền huyền ảo đó ngày một trở nên thật hơn thành những vệt dài loang
rộng, còn những đường viền khác thì vẽ thành vô số dáng hình theo những cụm đảo
nhỏ, cho đến khi
chúng tôi bỗng nhận ra mình đã hiện diện trong vùng đầm phá lớn
của người Trobriands,
với hòn đảo lớn
nhất Boyowa ở phía bên
phải, cùng vô số
hòn đảo khác, có người ở và không có người ở, về
phía Tây Bắc và phía Bắc.
Dong
buồn trên khu đầm phá, băng
qua những eo đất ngoắt nghéo giữa vùng nước nông, và cập bến trên hòn đảo chính, là một khu rừng nhiệt đới thấp, mịt
mù cắt qua bãi biển, và chúng ta
có thể thấy những lùm cọ, hệt như một bài trí nội thất, được vươn đỡ bởi những riềm cột vậy. Và đó chính là vị trí của ngôi làng. Chúng tôi bước lên bờ ngay trước biển, giống như một chiếc thước kẻ phủ bùn và đầy rác thải, với những chiếc ca nô được kéo xa lên nơi khô ráo, và băng qua lùm rừng nhỏ, chúng tôi đã ở giữa ngôi làng. Ngay sau đó, chúng tôi đã ngồi trên một chiếc kệ kê ngay trước hiên nhà kho khoai
mỡ. Chiếc kệ làm bằng những khúc gỗ
tròn, màu xám đã trở nên láng bóng vì tiếp xúc với thân thể ở trần của người bản
địa; nền sân đất đầy dấu chân trần; màu da nâu của người bản xứ, lập tức vây
quanh khách lạ thành các nhóm lớn, tất cả tạo thành một bảng màu đầy sắc thái ánh nâu, xạm màu đồng
hun, thật khó quên khi ta đã sống cùng họ.
Thật khó truyền đạt cảm xúc về
mối quan tâm mãnh liệt và trạng
thái hồi hộp mà một nhà dân tộc học lần đầu tiên đến
được khu vực thực địa của mình. Một
số đặc tính nổi bật đặc trưng cho nơi này, ngay lập tức thu hút sự chú ý của bạn, làm cho bạn tràn đầy hy vọng hoặc
nỗi e ngại. Sự xuất hiện của những người bản xứ,
cách cư xử của họ, các loại hành vi của họ, có thể báo trước điềm lành điềm dữ về các khả năng nghiên cứu nhanh chóng và dễ dàng
hay khó khan trắc trở. Một là dựa
vào triển vọng về các triệu chứng
của các sự kiện xã hội học sâu hơn, hoặc nghi ngờ nhiều
hiện tượng dân tộc học bí ẩn và ẩn dấu đằng sau những khía cạnh bình thường của sự vật. Có lẽ việc
việc người bản địa thông minh có cái nhìn ngờ vực lại là một phù thủy nổi tiếng; có lẽ giữa hai nhóm nam giới có tồn tại
một số đối đầu hoặc thù nghịch, có thể lại
rọi sáng cho các phong tục và tính cách của người dân nếu người ta
có thể đặt tay trên nó? Như vậy ít nhất là bất
cứ suy nghĩ và cảm xúc nào
như suy nghĩ và cảm xúc vào cái ngày mà
tôi đặt chân đến Boyowa khi tôi ngồi nghe một nhóm thổ dân Trobriand trò chuyện.
Sự đa dạng về ngoại hình của họ là điều gây
ấn tượng mạnh cho ai lần đầu gặp gỡ ở Boyowa*. Có những người đàn ông và
phụ nữ có tầm vóc cao lớn, dáng điệu thanh nhã, và các đặc điểm thể chất tinh tế, với nét mặt nhìn nghiêng với sống mũi
khoằm rõ ràng, trán cao, mũi và cằm trông rất nét, vẻ mặt thông minh, cởi mở. Ngoài ra, những người khác có khuôn mặt thuộc chủng negroid, hàm nhô, miệng rộng, môi dày, trán hẹp, và vẻ mặt thô. Những người có các đường nét thanh
hơn thì có làn da sáng hơn. Ngay cả mái tóc của họ cũng khác nhau, thay đổi từ các lọn tóc khá thẳng đến gợn sóng của loại hình Melanesian điển hình. Họ đeo những loại đồ trang sức giống nhau như những người Massim khác, chủ yếu là những chiếc băng
tay làm bằng sợi, những chiếc thắt lưng, hoa tai làm bằng mai rùa và những chiếc vòng làm bằng sò hải
cúc, và họ rất thích sử dụng
các loại hoa và cây lá thơm để trang sức
thân thể. Về phong thái, họ tự do hơn nhiều, thân thuộc hơn và tự tin hơn bất kỳ giống
người bản xứ nào, mà tôi đã từng gặp cho đến nay. Bất cứ khi nào có khách lạ đến, nửa làng liền tập hợp xung quanh vị khác, lớn tiếng chuyện trò
và đưa ra các bình xét về khách, thường là nói xấu, và nói chung đều thể hiện một sắc
thái thân quen đùa cợt.
Một trong những đặc điểm xã hội học chính, ngay lập tức, đập vào tâm trí một người mới
đến - sự tồn tại hệ thống phân
cấp và phân biệt xã hội. Một số cư dân bản địa
thường là những người thuộc loại thanh tú hơn được đối xử với sự tôn trọng rõ
rệt nhất bởi những người khác, và đến
lượt mình, các tù trưởng và những nhân vật có địa vị này hành xử hoàn toàn khác đối với những người lạ. Trong thực tế, họ cho thấy
nhưng cách cư xử tuyệt vời với
đầy đủ ý nghĩa của từ này. Khi một vị tù trưởng có mặt, thì không một thường dân nào dám đứng ở một vị trí cao hơn; kẻ đó phải khom người xuống, hoặc phải ngồi xổm.
Tương tự như vậy, khi vị tù trưởng ngồi
xuống, thì không ai dám đứng. Thể
chế tù trưởng bất di bất dịch ấy, được thể hiện bằng những dấu hiệu cực kỳ tôn kính, với một loại nghi thức
Cung đình thô sơ, với những biểu hiệu cấp bậc và quyền uy như vậy là hoàn toàn xa lạ đối với toàn bộ tinh thần của
cuộc sống bộ lạc người Melanesian,
mà ngay từ cái nhìn đầu tiên nó đã đưa nhà dân tộc học vào một thế giới khác. Trong quá trình điều
tra của mình, chúng tôi thường xuyên gặp gỡ cách
thức biểu hiện quyền uy của vị tù trưởng người Kiriwinian, và chúng ta sẽ thấy sự khác biệt về
phương diện này giữa người Trobrianders và các bộ lạc khác, để rồi dẫn đến những điều chỉnh về tập quán bộ lạc.
Một đặc điểm xã hội học khác, cản trở đáng kể đối với việc quan sát của khách là vị thế xã hội của phụ nữ. Hành vi của họ, sau vẻ
lạnh lùng xa cách của người phụ nữ Dobuan, và cách thức cư xử rất thiếu thân thiện đối với người lạ của người Amphletts, gần như trở
thành một cú sốc trong sự thân
quen rất bạn bè của họ. Đương nhiên, ở đây, cách cư xử của phụ nữ có địa
vị hoàn toàn khác với những người dân thường thuộc đẳng cấp thấp. Nhưng, về tổng thể, cao và thấp đều như nhau, mặc dù không hề được dành riêng, tât cả đều có cách tiếp cận vui vẻ, thân ái, và nhiều người trong số họ trông
rất thanh thoát. Trang phục của họ cũng khác nhau rất rõ. Tất cả các phụ nữ Melanesian ở New Guinea
đều mặc váy lót bằng sợi. Ở
những người Massim phía Nam, loại váy sợi này dài đến đầu gối hoặc thậm
chí còn dài hơn, trong khi đó váy
của người Trobriands thì lại ngắn hơn và lòe xòe hơn nhiều, gồm một số
lớp ngoài bao quanh cơ thể
giống như một chiếc cổ áo xếp
nếp của châu Âu thế kỷ 16 vậy. Hiệu quả
trang sức cao của loại váy đó càng được tăng cường bởi những món đồ trang sức công phu được làm bằng ba màu trên vài lớp, tạo thành loại váy liền áo. Về tổng thể, nó rất hợp với phụ nữ trẻ, và làm cho các cô gái trở nên mảnh mai duyên dáng, và tinh nghịch hơn.
Người
bản địa ở đây không hề biết đến khái niệm trinh tiết. Ở độ tuổi rất sớm, họ đã bắt đầu cuộc sống tình dục, và nhiều cô
gái trẻ vẫn chơi những trò chơi ngây thơ của con trẻ, nhưng họ lại không phải là ngây thơ như cái vẻ ngoài ấy. Khi lớn lên, họ sống trong đời
sống tình ái tự do bừa bãi, dần dần phát triển thành những mối quan
hệ gắn bó bền vững hơn, mà
một trong số đó được
kết thúc bằng hôn nhân. Nhưng trước khi đạt
tới kết cục này, các cô gái chưa lập gia đình hoàn toàn được quyền công khai tự do làm những gì mình thích, và thậm chí còn
có những nghi lễ được
bố trí để các cô gái của một làng chỉnh
trang cơ thể để đến một nơi khác; ở đó họ công khai tự bố trí kiểm tra, và mỗi cô được một cậu bé địa phương lựa chọn để qua đêm với nhau. Thể thức này được gọi là katuyausi. Hơn
nữa, khi một đội khách đến từ vùng khác, các cô gái chưa chồng mong muốn thỏa
mãn ham muốn tính dục, đem thức ăn đến
cho họ. Tại các buổi lễ tang lớn, xung quanh tử
thi của người mới chết, người dân từ các làng
lân cận đi thành các đoàn lớn đến tham gia than khóc và ca hát. Người
ta hy vọng các cô gái thuộc bên khách tham dự, theo tập quán đến an ủi các chàng trai của làng tang quyến, bằng
cách đem nỗi thống khổ đến
cho những người yêu chính thức của họ. Có một
hình thức nghi lễ khác rất
đáng chú ý, trong đó phụ nữ thực sự công khai
là những người khởi xướng. Vào
mùa làm vườn, những người phụ nữ thường
làm việc cùng nhau, và bất kỳ người đàn ông lạ mặt nào
đi qua vùng này đều rất dễ gặp rủi ro, vì phụ nữ sẽ chạy theo anh
ta, vây chặt anh ta, xé nát giấy tờ của anh ta, và cư xử điên cuồng với anh ta bằng một
thái độ rất ti tiện. Sát
cánh với các hình thức nghi lễ dâm
loạn này, ở đó trong tiến trình bình thường của các sự kiện, thường
xuyên diễn ra những dan díu ngầm, mãnh liệt
hơn trong các mùa lễ hội, ngày càng trở nên ít lộ
liễu như công việc vườn, các
cuộc viễn du đổi trác, hoặc hoạt động thu hoạch, tất thảy đều choán hút năng lượng
và tâm trí của bộ lạc.
Hôn nhân hầu như không gắn với bất kỳ nghi thức chung hoặc riêng nào. Người phụ nữ chỉ đơn giản gia
nhập vào nhà chồng, và sau đó, có một loạt trao đổi quà tặng,
mà các món quà đó không thể
nào giải thích được là tiền mua vợ. Với tư cách là một vấn đề thực tế, đặc điểm quan trọng nhất của cuộc hôn nhân Trobriand là ở
chỗ gia đình bên nhà vợ phải đóng góp, một cách rất thiết thực, cho kinh tế của hộ gia đình
nhà mình, và họ cũng phải thực hiện tất cả các loại dịch
vụ cho bên nhà chồng. Trong
cuộc sống hôn nhân của mình, người phụ nữ được cho là vẫn trung thành với
chồng, nhưng quy tắc này không hề nghiêm ngặt, và cũng không buộc phải thực thi. Bằng nhiều cách khác, cô ta vẫn giữ được lối sống độc lập tuyệt vời, còn chồng cô thì phải rất thận trọng và phải cư xử tốt với cô. Nếu anh ta không làm như vậy, thì rất đơn giản là người phụ nữ sẽ
rời bỏ anh ta để trở về với gia đình, còn người chồng, theo quy tắc thì là kẻ bại trận về phương diện kinh tế bởi hành động của người vợ, anh ta phải tự nỗ lực để đưa vợ trở về bằng quà cáp
và thuyết phục. Nếu dứt
khoát lựa chọn, cô có thể bỏ anh ta để
đổi lấy quà cáp, và cô luôn dễ dàng tìm được một người khác để kết hôn.
Trong đời sống bộ lạc, vị trí của phụ nữ cũng rất cao. Theo
quy tắc, họ không phải tham gia vào
các hội đồng của nam giới, nhưng trong nhiều vấn đề, họ đều có cách riêng của mình để kiểm soát một số khía cạnh của cuộc sống bộ lạc. Vì vậy,
một số hoạt động làm vườn là công
việc của họ; và điều này vừa được coi là đặc quyền, vừa là nghĩa vụ. Họ cũng trông nom một số công đoạn nhất định trong việc phân chia thực phẩm tại các
nghi lễ lớn, gắn liền với các tang lễ được tổ chức rất công phu và hoàn chỉnh
của người Boyowans. Một số hình thức ma thuật thực hiện với một trẻ em sơ sinh, ma thuật-vẻ đẹp thực hiện tại các buổi lễ của bộ lạc, một số lớp học
phép thuật cũng là độc quyền của phụ nữ. Phụ nữ có địa
vị chia sẻ các đặc quyền liên quan, và những người đàn ông thuộc đẳng cấp thấp sẽ phải khom lưng trước họ, quan sát tất cả các thủ tục cần thiết và những điều cấm
kỵ xứng đáng với một tù
trưởng. Một người phụ nữ có
vị thế tù trưởng kết hôn với người bình thường, vẫn giữ được vị
thế của mình, thậm chí đối với cả
chồng mình, và cô ta phải được
đối xử hợp thức.
Người Trobrianders theo chế độ mẫu hệ, có nghĩa là, trong việc truy tìm dòng
tộc và giải quyết thừa kế, họ theo dòng mẹ. Một
đứa trẻ thuộc về thị tộc và cộng đồng
làng của mẹ nó; sự giàu có, vị thế xã hội, khuôn khổ thừa kế, không phải từ cha sang con trai, mà từ người cậu cho cháu trai. Quy tắc này thừa nhận một số trường hợp ngoại lệ quan trọng và
thú vị, mà chúng ta sẽ thấy qua trong công trình nghiên cứu này.
Quay trở lại chuyến thăm đầu tiên tưởng tượng của chúng ta trên bờ biển, điều thú vị tiếp theo cần làm, sau khi chúng ta đã hình dung đầy đủ về dáng vẻ và cung cách cư xử của người bản địa, giờ đây, chúng ta hãy dạo bộ một
vòng quanh làng. Để làm điều này, một lần nữa chúng ta sẽ lướt qua nhiều, bằng con mắt được đào tạo, lập tức có thể phát hiện được những sự kiện xã hội sâu sắc hơn. Tuy nhiên ở người Trobriands, có lẽ sẽ tốt hơn nếu chúng ta thực hiện những quan sát đầu tiên tại một ngôi
làng lớn trong đất liền, thậm chí tọa lạc trên một vùng đất bằng phẳng với nhiều không gian, do đó, nó đã có thể được
xây dựng bằng một mô thức điển hình.
Trong các làng ven biển, được xây dựng trên nền đất lầy lội và các rạn san hô, thì
tính chất bất thường của đất và không gian chật hẹp đã
xóa mờ dấu vết thiết kế, và chúng thể hiện một dáng vẻ hoàn toàn hỗn độn. Mặt khác, những ngôi làng lớn của các vùng trung tâm, được xây dựng đồng đều theo
cùng một quy củ gần như hình học.
Ở giữa, một không gian tròn lớn được bao quanh bởi một
vòng các kho chứa của từ. Các
kho chứa này được làm theo kiểu nhà sàn, có mặt tiền trang trí tinh tế, với những vách tường làm bằng cách súc gỗ tròn lớn, xếp gối đầu lên nhau, để lại khe
hở rộng thông qua đó vẫn có thể thấy những đống của từ được tích trữ bên trong. Một số nhà kho ngay lập tức đập vào mắt người
quan sát vì được làm công phu hơn, lớn hơn, và cao hơn so với những
nhà kho còn lại, và những nhà
kho này còn có các tấm ván lát sàn lớn, được trang trí, chạy vòng đầu
hồi và bắt chép qua góc. Đây là những nhà kho của từ của các tù trưởng hoặc của những người có địa vị. Mỗi nhà kho củ từ, theo quy tắc, đều có chiếc kệ nhỏ kê ở phía trước,
để những người đàn ông ngồi lại và
trò chuyện với nhau vào buổi tối,
và là nơi du khách có thể nghỉ ngơi.
Đồng tâm với rãy tròn nhà kho của từ, là một vòng những căn lều để ở, và như vậy, một đường vòng quanh hết làng được hình thành giữa hai hàng nhà
ấy. Những ngôi nhà ở
thấp hơn so với các kho khoai mỡ, và thay vì làm nhà sàn, chúng được dựng trực
tiếp trên mặt đất. Bên trong tối, rất ngột ngạt, và mở cửa chỉ có
một lối vào duy nhất là cửa, và nó thường khép kín. Mỗi căn lều thuộc
về một gia đình, có nghĩa là chồng, vợ và con nhỏ,
trong khi các bé trai và bé gái vị thành niên và trưởng thành sống trong những
ngôi nhà nhỏ dành riêng cho người chưa có gia đình, chứa khoảng hai đến sáu cô cậu. Tù trưởng và người có địa
vị có những ngôi nhà cá nhân đặc biệt, bên cạnh là
những ngôi nhà của các bà vợ của họ. Nhà của tù trưởng thường tọa lạc ở vòng trung tâm của
các kho khoai mỡ, đối diện với
vị trí chính.
Vì vậy, việc khảo
sát chung về ngôi làng sẽ tiết lộ cho chúng ta thấy vai trò của sự trang trí với tư cách là những vật biểu trưng vị
thế, sự tồn tại những ngôi
nhà của người độc thân và các bà cô không chồng, tầm quan trọng rất lớn gắn liền với việc
thu hoạch khoai mỡ, tất cả những triệu chứng nhỏ
này, dẫn chúng ta đi sâu vào các vấn đề của xã hội học bản địa. Hơn nữa, một
cuộc khảo sát như thế sẽ dẫn
chúng ta đến việc tìm hiểu về vai trò của các bộ phận khác nhau của làng trong đời sống bộ lạc.
Sau đó chúng ta mới biết được rằng baku, không gian tròn ở trung tâm, chính là nền cảnh của các nghi lễ và lễ hội công cộng, chẳng hạn như nhảy múa, chia
thức ăn, các bữa tiệc, những
thực hành tang lễ, nói tóm lại là tất cả những việc làm đó thể hiện ngôi
làng như một tổng thể. Trong tuyến đường chạy vòng tròn giữa các kho khoai mỡ và nhà ở, cuộc sống thường ngày vẫn tiếp diễn, đó là, việc chuẩn bị thực phẩm, ăn uống, chuyện trò, trao đổi và các
giao tiếp xã hội bình thường. Nội thất của ngôi nhà chỉ
được sử dụng vào ban đêm, hoặc vào những ngày ẩm ướt, và là
nơi để có một giấc ngủ hơn là một phòng khách. Phía
sau những ngôi nhà và những lùm cây tiếp giáp là
quang cảnh của các trò chơi con trẻ và các công việc của phụ nữ. Xa hơn nữa, là
những khoảng rừng được dành riêng cho mục đích vệ sinh, các
hoạt động quan hệ tình dục có nơi
chốn của riêng mình.
Baku, vị trí trung tâm, là phần đẹp nhất, và có sự phối hợp màu hơi đơn điệu của màu nâu và màu xám bị phá vỡ bởi những tán lá nhô ra của khu rừng, thấy trên mặt tiền gọn gàng và trang trí cầu kỳ của kho khoai mỡ và bởi các hoa văn trang trí bị mài mòn bởi đám đông khi một điệu nhảy hay lễ hội diễn ra. Nhảy múa chỉ được thực hiện vào một thời điểm trong năm, gắn liền với các lễ hội mùa, được gọi là milamala, trong đó mùa cũng là sự trở lại các làng cũ của những linh hồn người đã chết từ Tuma, thế giới-bên dưới. Đôi khi mùa nhảy múa chỉ kéo dài một vài tuần hoặc thậm chí vài ngày, đôi khi nó được mở rộng thành một giai đoạn nhảy múa đặc biệt gọi là múa usigola [nhảy múa tập thể]. Trong thời gian đó của lễ hội, các cư dân của một ngôi làng sẽ nhảy múa ngày này qua ngày khác, trong vòng một tháng hoặc lâu hơn, mùa nhảy múa được khởi đầu bằng một bữa tiệc, rồi thêm một vài tiệc nữa, và kết thúc bằng một màn trình diễn lớn đạt tới đỉnh cao. Vào thời điểm này có nhiều làng trợ giúp làm khán giả, và thực hành phân phối thực phẩm. Trong một cuộc trình diễn usigola, nhảy múa được thực hiện với đầy đủ phục sức, đó là, với những hình vẽ trên khuôn mặt, trang trí hoa, đeo các đồ trang sức có giá trị, và một chiếc mũ lông vẹt mào trắng. Một cuộc trình diễn luôn bao gồm một điệu nhảy thực hiện bằng một vòng tròn kèm theo ca hát và đánh trống, cả hai đều được thực hiện bởi một nhóm người đứng ở giữa. Một số điệu nhảy được thực hiện với chiếc khiên múa có chạm khắc. Về phương diện xã hội học, làng là một đơn vị quan trọng đối với người Trobriands. Ngay cả vị tù trưởng mạnh nhất của người Trobriands cũng cầm quyền chủ yếu trong ngôi làng của mình và sau đó mới đến cấp quận. Cộng đồng làng cùng khai thác các vùng đất vườn của mình, cùng thực hiện các nghi lễ, thực hành chiến tranh, thực hiện các cuộc thám hiểm kinh doanh, và cùng nhau vượt biển trong một con thuyền hoặc thành một nhóm gồm những chiếc thuyền.
Baku, vị trí trung tâm, là phần đẹp nhất, và có sự phối hợp màu hơi đơn điệu của màu nâu và màu xám bị phá vỡ bởi những tán lá nhô ra của khu rừng, thấy trên mặt tiền gọn gàng và trang trí cầu kỳ của kho khoai mỡ và bởi các hoa văn trang trí bị mài mòn bởi đám đông khi một điệu nhảy hay lễ hội diễn ra. Nhảy múa chỉ được thực hiện vào một thời điểm trong năm, gắn liền với các lễ hội mùa, được gọi là milamala, trong đó mùa cũng là sự trở lại các làng cũ của những linh hồn người đã chết từ Tuma, thế giới-bên dưới. Đôi khi mùa nhảy múa chỉ kéo dài một vài tuần hoặc thậm chí vài ngày, đôi khi nó được mở rộng thành một giai đoạn nhảy múa đặc biệt gọi là múa usigola [nhảy múa tập thể]. Trong thời gian đó của lễ hội, các cư dân của một ngôi làng sẽ nhảy múa ngày này qua ngày khác, trong vòng một tháng hoặc lâu hơn, mùa nhảy múa được khởi đầu bằng một bữa tiệc, rồi thêm một vài tiệc nữa, và kết thúc bằng một màn trình diễn lớn đạt tới đỉnh cao. Vào thời điểm này có nhiều làng trợ giúp làm khán giả, và thực hành phân phối thực phẩm. Trong một cuộc trình diễn usigola, nhảy múa được thực hiện với đầy đủ phục sức, đó là, với những hình vẽ trên khuôn mặt, trang trí hoa, đeo các đồ trang sức có giá trị, và một chiếc mũ lông vẹt mào trắng. Một cuộc trình diễn luôn bao gồm một điệu nhảy thực hiện bằng một vòng tròn kèm theo ca hát và đánh trống, cả hai đều được thực hiện bởi một nhóm người đứng ở giữa. Một số điệu nhảy được thực hiện với chiếc khiên múa có chạm khắc. Về phương diện xã hội học, làng là một đơn vị quan trọng đối với người Trobriands. Ngay cả vị tù trưởng mạnh nhất của người Trobriands cũng cầm quyền chủ yếu trong ngôi làng của mình và sau đó mới đến cấp quận. Cộng đồng làng cùng khai thác các vùng đất vườn của mình, cùng thực hiện các nghi lễ, thực hành chiến tranh, thực hiện các cuộc thám hiểm kinh doanh, và cùng nhau vượt biển trong một con thuyền hoặc thành một nhóm gồm những chiếc thuyền.
Sau lần khảo sát đầu tiên quanh làng, tất nhiên chúng ta muốn biết thêm về vùng xung quanh, và sẽ đi bộ qua các lùm cây. Tuy nhiên, ở đây, nếu chúng ta hy vọng có một cảnh quan đẹp như tranh vẽ và đa dạng, thì
sẽ chỉ dẫn đến sự thất vọng lớn. Hòn đảo rộng lớn, bằng phẳng chỉ gồm có mặt
bằng màu mỡ, với một dãy san hô thấp chạy dọc
theo bờ biển. Nó gần như hoàn toàn được trồng tỉa liên tục, và các bụi cây, thường xuyên bị phát
quang sau vài năm, không có thời gian để mọc
cao hơn. Một khu rừng rậm, thấp mọc thành
một mớ rối bù, và thực tế bất cứ nơi nào trên
đảo, chúng ta cũng đều lọt thỏm giữa hai bức tường màu xanh, không có nhiều
vẻ, không cho phép có được một tầm nhìn rộng
hơn. Vẻ đơn điệu chỉ bị phá vỡ bởi một lùm cây già
cỗi thỉnh thoảng lại xuất hiện ở một nơi được coi là cấm kỵ hoặc bởi một trong số rất nhiều ngôi làng mà chúng tôi đã
gặp sau một hai dặm đường trong khu vực có mật độ dân cư dày đặc này. Yếu tố chính, cả đặc điểm giống như tranh vẽ và mối quan tâm về dân tộc học, được tạo nên bởi những
khu vườn bản xứ. Mỗi năm có khoảng một phần tư hoặc một phần năm tổng diện tích
đất được canh tác dưới dạng những khu vườn, và đây là xu hướng tốt, và thể hiện một thay đổi
dễ chịu so với sự đơn điệu của
các lùm cây bụi.
Trong giai đoạn đầu, các khu đất vườn chỉ đơn giản
là một không gian trống trải, được
phát quang, cho phép có một tầm
nhìn rộng lớn hơn về phía rạn san hô xa xôi ở phía Đông, và lên
các lùm cây cao lớn, nằm rải rác trên đường chân
trời, xác định là làng mạc
hoặc là những lùm rừng
thiêng. Tiếp đó, khi dây khoai mỡ, khoai sọ, và mía bắt đầu được gieo trồng và đâm chồi nảy lộc, thì vùng đất màu nâu trần
đã được bao phủ bởi màu xanh mơn
mởn của các loại hoa mầu. Sau một thời gian những chiếc cọc cao lớn, tĩnh lặng bám đầy dây leo khoai mỡ,
dây nho quấn quít, phát triển thành một vòng tán lá dâm mát, và tất cả đem
đến cho ta ấn tượng về một vườn cây bia xum xuê rộng lớn.
___________________________________________
Nguồn:
Bronislaw Malinowski 1932. Argonauts of
the Western Pacific, George Routledge & Sons, Ltd. London. (tr.49-62)
Tác giả:
Bronisław Kasper Malinowski 1884-1942,
người Ba Lan, là một trong số những nhà nhân học quan
trọng nhất của thế kỷ XX. Từ năm 1910, Malinowski nghiên cứu kinh tế học tại Trường
Kinh tế London. Dưới sự
hướng dẫn của các giáo sư Seligman và Westermarck, ông đã tiến hành phân tích các
mô hình trao đổi của thổ dân Úc
thông qua các tài liệu dân tộc học. Năm 1914, ông đã nhận được tài trợ đến nghiên cứu tại New Guinea cùng nhà nhân học R.R. Marett,
nhưng khi Thế chiến I bùng nổ, vì là một thần dân Áo, nên Malinowski đương nhiên là kẻ thù của
Khối thịnh vượng
chung thuộc Vương
quốc Anh, nên ông không thể quay trở lại nước
Anh. Tuy nhiên chính phủ Úc
vẫn tài trợ và cho phép ông tiếp tục thực hiện
công việc nghiên cứu dân tộc
học trong lãnh thổ của họ và Malinowski đã chọn quần đảo Trobriand, ở
Melanesia, ông ở đó vài năm, nghiên cứu văn hóa bản địa. Sau khi trở về Anh sau
chiến tranh, ông xuất bản công
trình nổi tiếng Argonauts of the Western
Pacific (1922). Với tác phẩm này, ông đã trở thành một trong những
nhà nhân chủng học quan trọng nhất ở châu Âu thời đó. Ông trở thành giảng viên và
sau đó được bổ nhiệm
trưởng khoa nhân học tại Đại học Kinh
tế London, thu hút rất
nhiều sinh viên giỏi và trở thành nhân vật có ảnh hưởng to lớn đến sự
phát triển của nhân học xã hội Anh. Trong thời
gian này, đã có rất nhiều học trò của ông trở
thành các nhà nhân học nổi tiếng như Raymond
Firth, E.E.
Evans-Pritchard, Hortense Powdermaker, Edmund Leach, Audrey Richards và Meyer
Fortes. Từ năm 1933, ông tới giảng
dạy tại một số trường đại học Mỹ và khi Thế
chiến II nổ ra, ông
quyết định ở lại Mỹ và làm
giáo sư tại đại học Yale.
Công trình dân tộc học
của ông về những
người Trobriands mô tả tổ
chức phức hợp Vòng Kula, và đã trở thành nền tảng cho các lý thuyết
tiếp theo về hoạt động
trao đổi và nguyên tắc có đi có lại. Ông cũng được coi là một nhà nhân học thực địa lỗi lạc với
các ghi chép nổi tiếng về phương pháp liên
quan đến lĩnh vực nhân học, trở thành
nền tảng phương pháp cho ngành nhân học sớm.
Chính ông là người đã tạo ra thuật ngữ quan sát tham gia. Cách
tiếp cận của ông về lý thuyết xã hội đã trở thành cơ
sở cho chức năng luận, nhấn mạnh
cách thức tổ chức xã
hội và văn hóa phục vụ cho các nhu cầu cơ
bản của con
người, một quan điểm trái ngược với chức năng luận cấu trúc của
Radcliffe-Brown nhấn mạnh những cách thức mà các tổ chức xã hội vận hành liên quan đến
xã hội như một tổng thể.
Ghi chú:
* Tiến sĩ C.G. Seligman đã lưu ý rằng có những
người thuộc loại thể chất thanh thoát nổi bật trong số cư dân Bắc Massim, trong
đó người Trobrianders ở phía Tây, "nhìn chung cao hơn
(thường rất dễ thấy như vậy) so
với các cá thể thuộc loại mũi rộng, mặt ngắn, với sống mũi rất thấp." Op cit.., p.
8.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét