Hữu thể được viết ra
Jacques Derrida
Người
dịch: Hà Hữu Nga
Thứ bằng chứng làm yên lòng người mà trong đó truyền thống
phương Tây đã phải tổ chức và trải nghiệm có lẽ là như sau: trật tự của cái được
biểu nghĩa không bao giờ đồng thời, trong điều kiện lý tưởng thì
mặt kia hoặc cái song hành xê xích đôi chút - thời khắc bằng một nhịp thở - trật
tự của cái biểu nghĩa. Và dấu hiệu phải là sự thống nhất
của một thứ không đồng
nhất, vì cái được biểu nghĩa (ý nghĩa
hoặc sự vật, noema [Trong Ideen zu einer
reinen Phänomenologie und phänomenologischen Philosophie: Buch 1, Allgemeine
Einführung in die reine Phänomenologie - Các
ý niệm cho một Hiện tượng luận thuần túy và Triết học hiện tượng luận: Cuốn
1, Giới thiệu tổng quát về Hiện tượng
luận thuần túy, Husserl sử dụng thuật ngữ νόημα [noema]
và νόησις [noesis] để chỉ định các yếu tố tương quan của
một cấu trúc của bất kỳ hành động có chủ ý nào - HHN] nhận thức hay hiện thực) không phải trong tự thân cái biểu nghĩa, một dấu
vết: trong bất kỳ trường hợp nào cũng không được
cấu thành bằng nghĩa của nó thông qua mối quan hệ
của nó với một dấu
vết khả thể. Bản chất chính thức của cái được biểu nghĩa là sự hiện
diện, và đặc quyền của tính gần gũi của nó với cái ngôn trí - logos [λόγος] với tư cách là phone đơn vị âm chính là đặc quyền của sự hiện diện. Đây là phản ứng không thể
tránh khỏi ngay sau khi ai đó hỏi:
"dấu hiệu là gì?",
có nghĩa là, khi ta xuất trình cái dấu hiệu đó cho một câu hỏi về bản chất,
cho “ti esti” (đó là cái gì) [“τὸ τί ἐστι” - Aristotle, Metaphysics, 1030a, HHN].
“Bản chất hình thức”
của dấu hiệu chỉ
có thể được xác định trong khuôn khổ của sự hiện
diện. Người ta không thể loanh quanh câu trả
lời đó,
ngoại trừ bằng cách thách thức chính
hình thức của vấn đề và bắt đầu nghĩ rằng cái dấu hiệu mang tên xấu đó, dấu hiệu duy nhất đó, thoát ra khỏi câu hỏi thể chế về triết học "đó là gì...?
". [8]
Việc cấp tiến hóa các khái niệm giải
thích, quan điểm, đánh giá, sự khác biệt, và tất cả những motif "kinh nghiệm chủ nghĩa" hoặc
phi triết học luôn luôn dằn vặt triết học trong suốt lịch sử phương Tây, và bên cạnh đó, không có gì ngoài
tính chất yếu đuối không thể
tránh khỏi được sản sinh ra trong lĩnh vực
triết học, Nietzsche, khác
với việc duy trì đơn giản (với Hegel và như
Heidegger mong muốn) trong siêu hình học, đã đóng góp rất nhiều cho việc giải
phóng cái biểu nghĩa khỏi sự phụ thuộc, hay có nguồn gốc liên quan đến
cái ngôn trí logos và khái niệm chân
lý liên quan hoặc cái được biểu nghĩa chủ
yếu, theo bất cứ nghĩa nào được hiểu. Vì vậy, khi đọc và viết, thì văn bản đối với Nietzsche là
những hoạt động "cội nguồn" [9] (Tôi
đặt từ này trong ngoặc kép vì những lý do sẽ xuất hiện sau đây) liên quan đến
một ý nghĩa là trước hết chúng không phải
sao chép hoặc khám phá, vì vậy sẽ không phải là một chân lý được biểu nghĩa bằng yếu tố cội nguồn và sự hiện diện của ngôn trí logos, với tư cách là topos noetos [Năm
508 TCN, Arnou, vị thần Dục vọng xuất hiện trong triết học Plotinus, tr48 và
Robin (La Théorie platonicienne de l'amour, Nouvelle édition. (Collection historique des grands philosophes).
Paris, Alcan, 1933, pp. 83-84) đã giải thích τόπος νοητος - topos noetos -
là bầu trời vô cùng rộng lớn khi đặt đối lập với ὑπερουράνιος τόπος - hyperuranios topos - vị trí bên ngoài bầu trời - của Phaedrus 247 A-E,
248 B, 248 D-249 A. Cụm từ νοητὸς κόσμος
- noetos cosmos - vũ trụ nhận thức - thường được cho là
của Plato, lại không thấy có trong các tác phẩm của ông - HHN] - nhận thức linh thánh, hoặc cấu
trúc của một quy luật tất yếu tiên thiên. Để cứu Nietzsche khỏi cách đọc kiểu Heidegger, dường như trên hết, chúng ta phải
không được cố phục hồi hoặc làm hiển lộ cái “hữu thể luận” bớt ngây thơ bao gồm những loại trực giác hữu thể luận sâu sắc gia nhập vào một loại chân lý nguồn cội, một nền tảng tính nguyên vẹn ẩn dưới dáng vẻ của một văn bản kinh nghiệm chủ nghĩa hoặc siêu hình học. Tính độc hại trong tư tưởng Nietzsche không thể bị hoàn toàn hiểu
lầm. Trái lại, người ta phải nhấn mạnh "tính
ngây thơ" của một
cuộc đột phá không thể cố gắng bước ra ngoài siêu hình học, không thể phê phán siêu hình học một cách
triệt để mà không tiếp tục, bằng cách thức nào đó, bằng
một loại nào đó, hoặc một phong cách văn bản nhất định, sử dụng các định đề, được đọc trong tập sao lục triết học, có nghĩa là, theo Nietzsche thì
đã bị đọc sai hoặc chưa đọc, vẫn luôn luôn là và sẽ luôn luôn là những “bản tính ngây thơ”, các dấu hiệu rời rạc của một đồ vật tuyệt đối
phụ thuộc. Vì vậy, thay vì bảo vệ Nietzsche khỏi cách đọc của Heidegger, có lẽ chúng ta nên dâng toàn bộ ông cho nó, bằng
cách cam kết rằng cách diễn giải không có dự phòng, bằng một cách thức nào đó, và
đạt tới một điểm mà ở đó nội dung diễn ngôn của Nietzsche hầu như bị mất
vì vấn đề hiện hữu, mà hình thức của nó lại đạt đến mức độ tuyệt đối xa lạ, mà ở
đó cuối cùng cái văn bản của ông đã gợi lên một cách đọc khác, đáng tin cậy hơn
đối với cách viết của ông: Nietzsche đã
viết cái mà ông đã viết. Ông đã viết rằng
việc viết - và trước hết theo ông - về phương diện nguồn cội, không phụ thuộc
vào logos và vào chân lý. Và sự
phụ thuộc này đã hình thành
trong một thời đại mà chúng ta cần
phải giải cấu trúc ý nghĩa của nó. Giờ đây, theo hướng này (nhưng chỉ có hướng này, vì đọc theo cách khác, thì sự phá hủy theo kiểu Nietzschean vẫn còn giáo điều, và giống như mọi cách đảo lộn khác, một tù nhân của cái dinh thự siêu hình tuyên bố lật đổ hoàn toàn chính
tòa dinh thực đó. Về điểm đó và theo
trật tự đọc kiểu đó, các kết luận của
Heidegger và Fink là không thể chối cãi), tư tưởng của Heidegger sẽ phục hồi lại hơn là phá hủy trường
hợp của logos và trường hợp của chân lý hiện hữu với tư cách là "primum signatum - cái được
biểu nghĩa đầu tiên:" cái được biểu nghĩa "siêu vượt" ("siêu vượt" theo một nghĩa nhất định, như trong thời Trung cổ cái
siêu vượt, ens [hiện hữu],
unum [cái một], verum [cái chân lý], bonum [cái thiện] - được cho là "primum cognitum"
- cái được nhận thức đầu tiên) được
hàm ý bởi tất cả các hạng mục hoặc tất cả các ý nghĩa đã
được xác định, bởi tất cả các từ
vựng và toàn bộ cú pháp, và do đó, bởi tất cả các biểu nghĩa ngôn ngữ, mặc dù không được đồng nhất
một cách giản đơn với bất kỳ một cái biểu nghĩa nào trong số đó, bằng cách tư cho phép bản
thân nó phải được nhận thức trước thông qua mỗi biểu nghĩa đó, mà
vẫn không thể quy giản vào toàn bộ các quyết định
mang tính thời đại, mà dù
sao thì nó cũng biến thành khả thể, vì vậy bằng cách mở ra lịch sử của ngôn trí logos, nhưng bản thân nó lại chỉ thông qua ngôn
trí logos; có nghĩa là, không có
gì trước ngôn trí logos và bên ngoài nó. Ngôn trí logos của hiện hữu, "Tư tưởng tuân theo Tiếng
nói của Hữu thể," [10] là cội
nguồn đầu tiên và cuối cùng của ký hiệu, của
sự khác biệt giữa cái
biểu nghĩa [signans] và cái được biểu nghĩa [signatum]. Đó phải là một loại được biểu
nghĩa siêu vượt cho sự khác biệt giữa cái biểu nghĩa và cái được biểu nghĩa ở đâu đó phải
tuyệt đối và không thể quy giản. Không phải là do may mắn mà tư tưởng của
hiện hữu, với tư cách là tư tưởng của cái được
biểu nghĩa siêu vượt này được biểu thị trên hết bằng giọng nói: bằng một ngôn ngữ
của các từ [mots]. Giọng nói được nghe thấy (được hiểu) - đó chắc chắn là những gì được gọi là ý thức gần nhất với tự ngã với tư cách là sự xóa
bỏ tuyệt đối cái biểu
nghĩa: tính tự yêu mình thuần túy nhất thiết phải có hình thức thời gian và
không hề vay mượn từ bên ngoài bản
thân nó, trong thế giới hoặc
trong "hiện thực", bất kỳ cái biểu nghĩa phụ thêm nào, bất kỳ bản chất biểu hiện nào xa lạ với tính tự phát của riêng nó. Đây là kinh nghiệm duy nhất của cái được biểu nghĩa tự sản sinh ra bản thân nó
một cách tự phát, từ bên trong bản
thân nó, và do vậy, với tư cách là khái niệm được biểu nghĩa, trong các yếu tố của tính lý tưởng hoặc tính phổ quát. Đặc tính phi trần tục của bản chất
biểu hiện này mang tính cấu thành của
tính lý tưởng đó. Kinh
nghiệm xóa bỏ cái biểu nghĩa trong tiếng nói không phải chỉ là một trong nhiều ảo tưởng - vì nó là điều kiện của chính các ý tưởng về chân lý - mà ở một chỗ khác tôi sẽ chỉ rõ bằng cách nào mà nó thực sự
tự đánh lừa chính bản thân mình. Ảo tưởng này chính
là lịch sử của chân lý và nó không thể bị tiêu tan một cách nhanh chóng
được. Bên trong sự khép kín của kinh nghiệm này, thì từ [mot] được sống như là một nhất tính cơ bản và bất khả phân hủy
của cái được biểu nghĩa và giọng nói, là nhất tính của khái niệm và một bản chất trong suốt của biểu hiện. Kinh nghiệm này được coi là ở độ thuần
khiết nhất của nó - và đồng thời trong điều kiện khả tính của nó - với tư cách là kinh
nghiệm của “hữu thể”. Từ "hữu
thể", hoặc ở bất kỳ mức độ nào, các từ chỉ định ý nghĩa của hữu thể trong các ngôn ngữ khác nhau, bằng một số từ khác, đều là một "từ cội nguồn" ("Urwort"), [11] từ
siêu vượt đảm bảo cho
khả tính của từ hữu thể so với tất cả các từ khác. Theo nghĩa đen, nó được nhận
thức trước trong toàn bộ ngôn ngữ và - đây là sự mở ngỏ của Hữu thể và Thời
gian - chỉ duy nhất sự nhận thức trước này
mới cho phép mở ra vấn đề về nghĩa của hữu thể nói chung, vượt lên tất cả các bản thể luận lĩnh vực và toàn bộ siêu hình học: một vấn đề khai mở triết học (ví
dụ, trong triết học nguỵ biện) và
cho phép nó tự được thay thế bằng triết học, một vấn đề mà Heidegger lặp đi lặp lại bằng cách
xem xét kỹ lưỡng lịch sử siêu hình học để
giải quyết. Heidegger vẫn luôn nhắc chúng ta rằng nghĩa của hữu thể không phải
là từ “hữu thể” cũng không phải là khái niệm hữu
thể. Mà nghĩa đó không là gì cả ở bên
ngoài ngôn ngữ và ngôn ngữ của các
từ, nó được gắn liền, nếu không phải là
với một từ đặc thù hoặc với một hệ thống ngôn ngữ đặc thù (concesso non dato) ít nhất với khả tính của từ nói chung. Và với khả tính
của tính đơn giản đến không thể quy giản
của nó. Người ta có thể nghĩ rằng nó vẫn chỉ
để lựa chọn giữa hai khả tính. (a) Có hay không một ngôn ngữ học hiện đại, một khoa học về sự biểu nghĩa phá vỡ nhất tính của từ này và phá vỡ tính bất khả quy giản được viện ra, vẫn còn có bất cứ điều gì liên
quan đến "ngôn ngữ?" Heidegger có lẽ sẽ nghi
ngờ điều đó. (b) Ngược lại, có hay không toàn bộ điều đó được
suy tư một cách sâu sắc với tư cách là tư tưởng hoặc vấn đề được kèm theo trong một ngôn ngữ học cũ của từ mà
người ta vẫn thực hành ở đây một
cách vô tình? Vô tình bởi
vì một ngôn ngữ như vậy, cho dù là ngẫu nhiên hay có hệ thống, luôn phải chia sẻ các giả định của
siêu hình học. Ngôn
ngữ và siêu hình học vận hành dựa trên
những cơ sở như nhau.
Người ta hành động mà không nói rằng những khả năng lựa chọn không thể chỉ đơn giản như vậy. Một mặt, nếu ngôn ngữ học hiện đại vẫn hoàn toàn đóng
kín bên trong tính khái niệm kinh điển, đặc biệt là nếu nó sử dụng một cách ngây thơ từ hữu thể và tất cả những gì mà
nó giả định trước, bên
trong loại ngôn ngữ học này, giải cấu trúc cái nhất tính của từ nói chung thì, theo mô hình câu hỏi của Heidegger, khi vận hành một cách mạnh mẽ từ chính việc mở ra của Hữu
thể và Thời gian, nó không còn có thể bị giới
hạn như một khoa học hữu thể hoặc một hữu thể luận lĩnh vực. Ở mức tối đa, vấn đề hữu thể thống nhất một cách bất khả phân ly với việc nhận thức trước về từ hữu thể, không bị quy giản vào nó, loại ngôn ngữ học vận hành để giải cấu trúc cái nhất tính đã thành của từ đó chỉ phải, trong thực
tế hoặc về nguyên tắc, đưa ra vấn đề để xác định lĩnh vực và trật tự phụ thuộc của
nó.
Không chỉ không còn là lĩnh vực hữu thể đơn giản của nó, mà các giới hạn của hữu
thể luận tương thích với nó cũng không còn bất cứ lĩnh vực nào về các giới hạn
đó. Và ở
đây tôi có thể nói gì về ngôn ngữ học,
hoặc ít nhất cũng là về
một công việc nào đó có thể được thực hiện trong nó và nhờ nó, không được
nói về tất cả các nghiên cứu ở mức tối đa và tới mức độ chặt chẽ cuối cùng cũng sẽ giải cấu thành việc xác lập các từ
- khái niệm hữu thể luận, hữu
thể trong tính đặc quyền của nó? Bên ngoài ngôn ngữ học, nó nằm trong lĩnh
vực nghiên cứu phân tâm học mà bước đột phá này hiện
tại dường như lại có khả năng mở
rộng lớn nhất.
Bên trong phạm vi không gian hạn chế nghiêm ngặt của bước đột phá ấy, các "khoa học" này
không còn bị chi phối bởi các vấn đề về một hiện tượng luận
siêu vượt hoặc một hữu thể luận nền tảng nữa. Có lẽ người ta có thể nói rằng, việc tuân theo trật tự của các vấn
đề được mở đầu bởi Hữu thể và Thời gian và việc cấp tiến hóa các vấn đề của hiện tượng luận Husserl, mà bước đột phá này không thuộc về bản thân khoa học, vì vậy mà là thứ dường như phải
được sản sinh ra bên trong một lĩnh vực hữu thể hoặc bên trong một hữu thể luận
lĩnh vực, lại không thuộc về chúng căn cứ theo các quyền và dẫn trở lại vấn đề của tự thân hữu thể.
Bởi vì đó thực sự là vấn đề của hữu
thể mà Heidegger đòi hỏi ở siêu hình học. Và với nó, vấn đề về chân lý, về ý nghĩa, về
ngôn trí [logos]. Sự suy tư không ngững nghỉ về vấn đề đó vẫn không khôi phục được niềm tin. Ngược lại, nó đã trục xuất niềm tin từ chiều sâu thẳm của nó, mà việc trở thành một vấn đề về
nghĩa của hữu thể lại khó khăn hơn
người ta vẫn tưởng. Bằng
việc xem xét hiện trạng ngay trước toàn bộ các quyết định về hữu thể, bằng việc phá hủy những
tính chất an toàn của thần học hữu thể, thì cách suy tư như vậy đã đóng góp, hoàn toàn ở mức cao nhất như hầu hết
ngôn ngữ học hiện đại, vào sự chuyển chỗ của nhất tính về nghĩa của hữu thể, có
nghĩa là, trong trường hợp cuối cùng, nhất tính của chính từ này.
Vì vậy mà, sau khi gợi lên "tiếng nói của hiện hữu," Heidegger đã gợi nhớ rằng đó là im lặng, câm, không âm thanh, không lời, nguyên là phi ngữ âm (die Gewähr Stimme der lautlosen verborgener Quellen ...). Tiếng
nói của các cội nguồn là không được nghe thấy. Một sự đoạn tuyệt giữa nguyên nghĩa của hữu thể và từ, giữa nghĩa và tiếng nói, giữa
"tiếng nói của hữu
thể" và "ngữ
âm", giữa "tiếng
gọi của hữu thể," và âm thanh được khớp nối; một sự đoạn tuyệt như vậy, lập
tức xác nhận một ẩn dụ nền tảng, và làm cho nó trở nên đáng ngờ bằng việc gia tăng sự khác biệt mang tính ẩn dụ, chuyển dịch
tính mơ hồ về trạng huống Heideggerien liên quan đến siêu hình học về sự hiện diện và ngôn
trí trung tâm luận. Ngay
lập tức nó được bao chứa bên trong nó và vượt lấn nó. Nhưng lại không thể tách rời hai
thứ đó khỏi nhau.
Chính sự vận động vượt lấn đôi khi lại kéo lùi nó gần
lại với giới hạn. Đối lập với những gì gợi
ra ở trên, chúng ta phải nhớ rằng, đối với Heidegger, nghĩa của hữu thể không không bao giờ đơn giản và nghiêm túc là một cái "được biểu nghĩa". Không phải do may mắn mà
từ đó không được sử dụng; điều đó có nghĩa là hữu thể thoát khỏi sự vận động của
dấu hiệu, một định đề có thể được hiểu ngang bằng như là một sự lặp lại của truyền thống cổ điển và như một
lời cảnh báo liên quan đến một lý thuyết siêu hình hoặc kỹ thuật của sự biểu nghĩa. Mặt khác, nghĩa của hữu thể theo nghĩa đen không phải "đầu
tiên", hay "nền
tảng", hoặc "siêu vượt", dù được hiểu theo nghĩa Kantien, hoặc Husserlien. Sự phục hồi của hữu
thể với tư cách là "vượt lên" các loại thực thể, việc khải lộ cái hữu thể luận nền tảng, không có gì khác ngoài các thời khắc cần thiết nhưng tạm thời. Từ Lời
giới thiệu về Siêu hình học trở đi,
Heidegger đã từ bỏ cái dự phóng về / và hữu
thể luận các từ. [12] Sự che đậy cần thiết, nguồn cội, và bất khả quy giản về nghĩa của hữu thể, sự che khuất
của nó bên trong chính sự bừng rộ của hiện diện, thoái rút lui
không có lịch sử trọn vẹn và lịch sử của hữu thể, sự kiên định của Heidegger bằng
cách lưu ý rằng hữu thể được sản sinh ra với
tư cách là lịch sử chỉ thông qua ngôn
trí logos, và không có gì bên ngoài nó, thì
không hề còn sự khác biệt giữa cái biểu nghĩa và cái được biểu
nghĩa. Định đề về sự vượt lấn này vẫn không tích hợp vào một diễn ngôn cẩn trọng
đã vận hành cái rủi ro của việc hình thành bản thân sự thoái bộ. Vì vậy người
ta phải đi theo con đường của vấn đề hữu thể như nó được đạo diễn bởi Heidegger và chỉ
bởi một mình ông, ở chính và vượt khỏi thần học hữu thể, để đạt tới tính nghiêm ngặt tư tưởng về sự không khác biệt xa lạ đó và
để xác định nó một cách chính xác. Heidegger thỉnh
thoảng nhắc nhở chúng ta rằng "hữu
thể", như nó được cố định trong các
hình thức tổng quát về cú pháp và từ
vựng trong ngôn ngữ học và triết học phương Tây,
không phải là một cái được biểu nghĩa đầu tiên và tuyệt đối bất khả quy giản, rằng nó vẫn cắm
rễ sâu trong một hệ thống các ngôn ngữ và một “ý nghĩa” quyết định về phương
diện lịch sử, mặc dù nó được hương đặc quyền một cách lạ lùng nhờ ở sự khải lộ và che đậy; đặc biệt khi ông gọi mời chúng ta suy tư về "đặc quyền" của "ngôi thứ ba số ít của lối trình bày hiện tại" và dạng "vô định". Siêu hình học phương Tây, với tư cách là giới hạn nghĩa
của hữu thể bên trong lĩnh vực hiện diện, vẫn được sinh sản như là
cái chi phối của một hình thái ngôn ngữ học. [13] Việc đặt vấn đề về nguồn gốc của sự chi phối đó chungquy lại không phải là việc thực thể hóa một cái
được biểu nghĩa siêu vượt, mà là một cách đặt vấn đề về những gì cấu thành lịch sử của chúng ta và những gì sản sinh ra tự thân tính siêu vượt. Heidegger cũng đưa nó lên khi trong Zur
Seinsfrage [Về vấn đề Hữu thể] với cùng
một nguyên do, ông cho phép từ "hữu
thể" chỉ được đọc khi nó bị gạch chéo (kreuzweise Durchstreichung). Tuy
nhiên, dấu hiệu xỏa bỏ đó lại
không phải “chỉ là một biểu tượng phủ
định" (p. 31) [p. 83]. Động
thái xóa bỏ đó chính là văn bản cuối
cùng của một thời đại. Bên dưới nét xóa đó sự hiện diện
của một cái được biểu nghĩa
siêu vượt bị xóa bỏ trong khi vẫn
còn đọc được. Bị xóa bỏ trong khi vẫn
còn đọc được, bị phá hủy trong khi vẫn làm cho người ta nhìn thấy rõ chính các ý tưởng của dấu hiệu. Ở mức độ tối đa, nó đã giải giới hạn thần học hữu thể, siêu hình học về sự hiện diện và ngôn
trí trung tâm luận, văn bản cuối
cùng này cũng chính là văn bản đầu tiên.
__________________________________________________
Nguồn: Derrida Jacques [1967] 1997. The
Written Being/ The Being Written, In
Of Grammatology. Translated by
Gayatri Chakravorty Spivak, Baltimore: JohnHopkins University Press. Pp. 18-26.
Tác
giả: Jacques Derrida [1930-2004], là nhà triết học Pháp sinh tại Algeria,
trong một gia đình Do Thái, quê gốc ở Toledo [là một thành phố ở Tây Ban Nha,
cách Madrid 70 km về phía nam], trở thành công dân Pháp từ năm 1870, theo Sắc
lệnh Cremieux trao quyền công dân Pháp đầy đủ cho các cư dân bản địa người Do
Thái nói tiếng Arab ở Algiria thuộc Pháp. Cha mẹ ông Haïm Aaron Prosper Charles (Aimé)
Derrida (1896–1970) và Georgette Sultana Esther Safar (1901–1991) đặt tên cho
ông là Jackie, và họ coi đó là một cái tên Mỹ. Vào ngày đầu tiên của năm học 1942, Derrida đã bị các nhà hành chính
Pháp đuổi khỏi trường để thực thi đạo luật bài Semite của chính phủ Vichy. Ông
đã ngầm học nhảy lớp trong vòng một năm, mà không theo học ở trường của người
Do Thái do các giáo viên bị đuổi dạy và các sinh viên bị đuổi học thành lập, và
tham gia vào nhiều cuộc thi đá bóng, vì mơ ước trở thành cầu thủ chuyên nghiệp.
Ở tuổi vị thành niên Derrida đã tìm thấy trong các công trình của các nhà triết
học và nhà văn như Rousseau, Nietzsche và Gide một công cụ nổi loạn chống lại
gia đình và xã hội. Ngoài ra ông cũng đọc Camus và Sartre. Trong ngày đầu đến
trường École Normale Supérieure, Derrida đã gặp Louis Althusser và họ
trở thành bạn. Sau khi đến thăm kho lưu trữ Husserl ở Leuven, nước Bỉ, ông đã hoàn thành chương trình thạc sỹ triết học
về Edmund Husserl. Ông được nhận học bổng nghiên cứu tại Đại học Harvard và đã
nghiên cứu ở đó hai năm 1956-1957 để đọc Ulysses của J. Joyce. Năm 1957, ông
cưới nhà phân tâm học Marguerite Aucouturier tại Boston. Từ 1960-1964,
ông dạy triết tại Sorbonne, và là trợ giảng cho Suzanne Bachelard [con gái của
Gaston Bachelard], Canguilhem, Paul Ricœur và Jean Wahl. Năm 1964, nhờ sự giới
thiệu của Althusser và Jean Hyppolite, ông trở thành giảng viên chính thức tại
École Normale Supérieure, cho đến 1984. Năm 1965 ông bắt đầu gia nhập nhóm Tel
Quel của các lý thuyết gia triết học và văn học và kéo dài trong 7 năm. Năm
1967, ông công bố ba cuốn sách đầu tay Écriture et Differance, La Voix et
Phenomene, và De la Grammatologie. Năm 1986, ông trở thành giáo sư về các ngành
nhân văn tại Đại học California, Irvine và giảng dạy ở đó cho đến khi chết vào
năm 2004.
Chú thích
* Enzyklopädie der
philosophischen
Wissenschaften in Grundrisse,
Suhrkamp edition (Frankfurt am
Main, 1970), pp. 273-76).
8. I attempt to develop this theme
elsewhere (Speech and Phenomena).
9. This does
not, by simple
inversion, mean that
the signifier is
fundamental or primary .
The “primacy” or “priority” of
the signifier would
be an expression
untenable and absurd
to formulate illogically within the very logic that it would
legitimately destroy . The signifier will never by rights precede
the signified, in which
case it would
no longer be a signifier
and the “signifying”
signifier would no
longer have a
possible signified. The
thought that is announced in
this impossible formula
without being successfully contained
therein should therefore be stated in
another way; it
will clearly be
impossible to do
so without putting
the very idea of the sign into
suspicion, the “sign-of” which will always remain attached to what is
here put in
question. At the
limit therefore, that
thought would destroy
the entire conceptuality
organized around the concept of the sign (signifier and signified, expression
and content, and so on) .
10. Postface to
Was ist Metaphysik?
[Frankfurt am Main,
1960], p. 46.
The insistence of
the voice also dominates the
analysis of Gewissen [conscience]
in Sein und Zeit (pp. 267
f.) .[pp. 312 f.].
11. Cf. Das W
esen der Sprache
[”The Nature of
Language”], and Das
Wort [”Words”], in Unterwegs zur Sprache [Pfüllingen], 1959 [On the W ay to Language, tr . Peter
D. Hertz (New Y ork, 1971) ].
12. [Martin Heidegger, Einführung
in die Metaphysik
(Tübingen, 1953) translated
as An Introduction to Metaphysics
by Ralp Manheim (New Haven, 1959).] Tr . French
Gilbert Kahn [Paris, 1967], p. 50.
13. Introduction de la métaphysique, tr . fr .
p. 103 [Einführung p. 70;
Intr oduction, p. 92].
“All this points in
the direction of
what we encountered
when we characterized the
Greek experience and interpretation of being. If we retain the usual interpretation
of being, the word ‘being’ takes its
meaning from the unity and determinateness of the horizon which guided our
understanding. In short: we understand the verbal substantive ‘Sein’
through the infinitive, which in
turn is related
to the ‘is’
and its diversity
that we have described. The definite
and particular verb form
‘is,’ the third
person singular of
the present indicative, has here a pre-eminent rank. We
understand ‘being’ not in regard to the ‘thou art,’ ‘you are,’ ‘I am,’
or ‘they would be,’ though all of
these, just as much as ‘is,’ represent
verbal inflections of ‘to be.’….And
involuntarily , almost as though
nothing else were possible, we explain the infinitive ‘tobe’ to ourselves
through the ‘is.’ “Accordingly ,
‘being’ has the
meaning indicated above,
recalling the Greek
view of the essence of being, hence a determinateness
which has not just dropped on us acci dentally from somewhere but
has dominated our
historical being-there since
antiquity . At one
stroke our search for
the definition of
the meaning of
the word ‘being’
becomes explicitly what
it is, namely a
reflection on the
source of our
hidden history .” I
should, of course,
cite the entire analysis that concludes with these words.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét