Phân loại
khảo cổ học và nghiên cứu quá trình văn hóa
Lewis R.
Binford
Người dịch: Hà Hữu Nga
Tóm tắt: Lý thuyết định chuẩn văn hóa, được các nhà khảo cổ học sử dụng rộng rãi, chưa đủ để khái quát hóa về các giả thuyết giải thích hiệu quả quá trình văn hóa.
Một thiếu sót rõ ràng về lập trường của lý thuyết này là sự phát triển của phương
pháp phân loại khảo cổ học đã khước từ bất kỳ khả năng đo lường nào đối với các hiện tượng đa biến và chỉ cho phép đo các "tương đồng và khác biệt văn hóa" không cụ thể, như thể đây là những hiện tượng đơn biến. Để thay thế
cho phương pháp này, văn hóa phải được xem là một hệ thống bao gồm các phụ
hệ thống, và những tương đồng và khác biệt giữa các lớp di vật khảo cổ khác
nhau vẫn phản ánh các phụ hệ thống khác nhau, do đó có thể dự kiến sẽ thay đổi độc lập với nhau
trong sự vận hành bình thường của
hệ thống hoặc trong quá trình thay đổi của hệ thống. Một cuộc thảo luận chung về
phân loại gốm và phân loại những tương đồng và khác biệt giữa các tập hợp được trình bày như là một ví dụ về phương pháp tiếp
cận đa biến để nghiên cứu về biến đổi văn hóa. Cách tiếp cận đa biến trong phân loại sẽ khuyến khích các nghiên cứu về biến đổi văn hóa và
nguyên nhân của nó, do đó tăng cường việc nghiên cứu các quá
trình văn hóa.
Willey và Phillips (1958: 50) đã bày tỏ nghi ngờ về
ý nghĩa nhất quán trong khuôn khổ các đơn vị xã hội loài người của các khái niệm khảo cổ học hiện nay như "giai đoạn"
chẳng hạn. Mục
đích của bài viết này là
để khảo sát một trong những lý do của tình trạng không tương hợp và cung cấp một khuôn khổ lý thuyết phù hợp hơn với thực
tế xã hội.
Trong bất kỳ khuôn khổ lý thuyết chung nào, ít nhất cũng có hai cấu phần chính: (1) một cấu phần liên quan tới các tiêu chí để phân lập các hiện tượng được nghiên cứu và với các giả định cơ bản về bản chất của các đơn vị, hoặc các sự kiện bộ phận trong lớp hiện tượng được công nhận là có các đặc điểm chung, và (2) các giả định liên quan đến cách thức mà các đơn vị bộ phận này được khớp nối bằng sự vận hành của một hệ thống hoặc trong quá trình thay đổi.
Hầu hết các phương tiện phân tích và công cụ khái niệm phân
loại khảo cổ học đã phát sinh trong bối cảnh của một tập
hợp lý thuyết văn hóa được đề cập đến ở đây đều
thuộc về "trường phái định chuẩn." Theo quan điểm định
chuẩn này thì hiện tượng được nghiên cứu được
định nghĩa khác nhau, nhưng đều
có chung một đồng thuận coi văn hóa với chữ C (culture) viết hoa là chủ đề. Về
phương diện này, các lý thuyết gia định chuẩn đều đồng ý với nhau. Đó là trong việc định nghĩa các khái niệm bộ phận và các giả định liên quan đến các quá
trình động thái đơn vị mà
các lý thuyết gia định chuẩn
phân biệt rành mạch với vị trí được đưa ra ở đây. Taylor
đã đưa ra một tuyên bố định chuẩn (1948: 110) như sau:
"Bằng khái niệm văn hóa với
tư cách là một khái niệm bộ phận, tôi muốn
nói rằng một hệ thống các đặc điểm
văn hóa có nguồn gốc lịch sử là một phân
khúc, ít nhiều có thể chia tách và gắn kết của cái toàn-thể-đó-là-văn-hóa ấy và các đặc điểm riêng biệt của nó có xu hướng được chia sẻ bởi tất cả hoặc bởi
các cá nhân được đặc biệt lựa chọn từ một nhóm hoặc từ toàn bộ xã hội ".
Willey và Phillips (1958: 18) cũng có quan điểm tương tự khi nói về các bộ phận không gian của các
hiện tượng văn hóa: "Trong khuôn khổ nghiêm ngặt khảo cổ học, vị trí là một không
gian địa lý đủ nhỏ của tính đồng nhất hoàn toàn về văn hóa ở bất kỳ thời điểm nào để cho phép đưa ra giả định làm việc."
Hai trích dẫn trên cùng các công
trình của các nhà khảo cổ khác (Ford 1954: 47; Rouse 1939:
15-18; Gifford 1960: 346) đều nhấn mạnh vào các đặc trưng chung của hành vi con người. Trong khuôn
khổ tư tưởng này, văn hóa được định nghĩa là sự trừu tượng hóa
hành vi của con người.
"Theo khái niệm văn hóa được phát triển ở đây, thì văn hóa là một cấu trúc tinh thần bao gồm các ý tưởng" (Taylor 1942a: 101).
Hoặc theo Ford (1954: 47): "Trước hết, cần phải nhắc lại rằng các loại
nhà cửa này là các sản phẩm văn hóa - chứ không phải là cái văn hóa. Những cách thức xếp buộc gỗ, tre, cỏ lá được các
nhà dân tộc học quan tâm chỉ vì chúng thể hiện suy nghĩ của thổ dân về
những cách thức thích hợp để làm được một mái nhà".
Tóm lại, một lý thuyết gia định chuẩn là một người coi
cơ sở tạo thành tư tưởng để phân biệt các cách thức sống của con người - văn
hóa - là lĩnh vực nghiên cứu của mình. Thông tin thu được bằng cách nghiên cứu các sản phẩm văn hóa hoặc các cách
thức đối tượng hóa các ý tưởng định
chuẩn về các lối sống thích hợp được thực hiện bởi những tộc người nay đã tuyệt chủng. Vậy là nhiệm vụ của nhà khảo cổ học nằm trong động
thái trừu tượng hóa từ các sản phẩm văn hóa
các khái niệm định chuẩn hiện tồn trong tâm trí của những con
người nay đã chết. (Để biết những lời chỉ trích quan điểm chung này,
xem White 1954: 461-8). Bằng việc xem xét vấn đề chúng ta có thể quan sát và nghiên cứu
các hiện tượng văn hóa như thế nào, một câu hỏi
quan trọng đặt ra là: Những loại đơn vị nào có thể được phân lập để việc nghiên cứu văn hóa trở nên có ý nghĩa? Đối với các tín đồ của trường phái định chuẩn, thì giả định về các đơn vị hoặc các "gói" tự nhiên trong đó
văn hóa xuất hiện lại phụ thuộc vào các giả định về sự năng động của việc
trao truyền phương thức hình thành ý tưởng. Học
tập được công nhận là cơ sở của quá
trình trao truyền văn hóa giữa các thế hệ,
còn truyền bá được công nhận là cơ sở chuyển
tải giữa các đơn vị xã hội không được liên kết
bởi hành vi dưỡng dục thường
xuyên. Hệ luận của định đề này là văn hóa được trao truyền giữa các thế hệ và thông qua hôn
phối giữa các cư dân tỷ lệ nghịch với mức độ khoảng cách xã hội được
duy trì giữa các nhóm được
khảo sát. Vì văn hóa được coi là một "tổng thể" lớn được trao truyền qua thời gian và không gian, nên
bất kỳ nỗ lực nào nhằm phá vỡ “tổng thể tính” văn hóa này đều được coi là độc đoán và được
coi là một thủ đoạn mang tính phương pháp
(Ford 1954: 51; Brew 1946: 49). Sự phân chia văn hóa thường được gọi là một cách
thức khám phá để đo lường khoảng cách xã hội giữa các nhóm có sản phẩm
văn hóa được quan sát. (Spaulding đã có một phê bình xuất sắc về quan điểm này, Spaulding 1957: 85-7). Gián đoạn không gian trong việc
phân bố các đặc trưng chính thức tương tự cũng được coi là một trong hai kết quả của (1) các rào cản tự nhiên đối với các giao dịch xã hội, hoặc (2) sự hiện diện của một hệ thống giá trị cung
cấp một ma trận tâm lý bảo thủ ngăn
chặn việc chấp nhận các đặc điểm bên ngoài, hoặc (3) sự di cư hoặc xâm nhập vào khu vực của các dân
tộc mới, những người phá vỡ các mô thức giao tiếp xã hội trước đó. Những thay đổi chính
thức trong phân bố các hạng mục theo thời gian được coi là kết quả của các
đổi mới hoặc sự vận hành của một động thái gắn liền đôi khi được xem là "trôi dạt" (Ford 1954: 51;
Herskovits 1948: 581-2). (Để biết những lời chỉ trích về khái niệm này, xem Binford 1963:. 89-93). Cả đổi mới lẫn trôi dạt đều được coi là tự nhiên đối với văn hóa và, như Caldwell (1958: 1) đã nói: "những
thứ khác không đổi, còn những thay đổi về văn hóa vật chất qua thời gian và không gian sẽ có xu hướng
thường xuyên. " Các gián đoạn về tỉ lệ thay đổi
hoặc về tính liên tục hình thức qua thời gian được xem là kết quả của các
sự kiện lịch sử có xu hướng thay đổi cấu
hình của các đơn vị xã hội thông qua các cơ chế
như việc mở rộng về thương mại, di cư, và sự truyền bá của các ý tưởng "cốt lõi" như các giáo phái tôn giáo (Ritchie 1955).
Các khác biệt và tương đồng văn hóa được thể hiện bởi trường phái định chuẩn trong khuôn khổ "các
mối quan hệ văn hóa", nếu được giải quyết một cách nghiêm ngặt, thì sẽ chuyển thành một mô hình diễn giải khái quát. Mô hình này được xây dựng dựa trên giả định về một "trung tâm văn hóa" mà
ở đó, vì những lý do không được xác định, các tỷ lệ đổi mới vượt quá các
tỷ lệ ở các khu vực xung quanh. Nền văn hóa mới lan ra từ trung tâm và kết hợp với các nền
văn hóa xung quanh cho đến khi nó bị tiêu tan ở các vùng rìa, để rồi chỉ còn lại các nền văn hóa ngoại biên. Các mối quan hệ văn hóa được xem như mức độ "ảnh
hưởng" tương hỗ hoặc đơn phương được
thực thi giữa các trung tâm hoặc
các tiểu trung tâm văn hóa. Khuôn
khổ diễn giải này hàm chứa những gì tôi chọn để gọi là
cách nhìn văn hóa như nước. Văn liệu diễn giải đầy dẫy các cụm từ như "dòng văn hóa" và có
vô số tài liệu tham khảo về "dòng chảy" của các yếu tố văn hóa mới vào một khu vực.
Văn hóa được xem như là một dòng chảy rộng lớn với những
biến đổi nhỏ về các chuẩn mực xây dựng ý tưởng liên quan đến các cách thức thích hợp trong chế tạo gốm, trong hôn nhân, cách
cư xử của mẹ chồng/mẹ vợ, xây dựng
nhà cửa, đền thờ (hoặc có nhiều trường hợp không xây dựng
loại công trình đó), và kể
cả cách thức hấp hối nữa. Những cách
thức xây dựng ý tưởng khác nhau được "kết
tinh" định kỳ tại các điểm thời gian và không gian
khác nhau, làm nảy sinh những cao trào văn hóa cho phép chúng ta phá vỡ tính liên tục của văn hóa thành các giai đoạn văn hóa.
Một trong những phê phán tao
nhã và đầy đủ nhất của các lý thuyết gia
định chuẩn xuất hiện trong những năm gần đây là của David Aberle (1960).
Ông đã chỉ ra rằng tín đồ của lập trường định chuẩn buộc phải giải thích các tương đông và khác biệt văn hóa theo khuôn khổ của hai nhân tố lịch sử và tâm linh. Ông tóm tắt lập
trường định chuẩn như sau:
“Không loại văn hóa nào có thể được hiểu chỉ bằng cách quy
chiếu vào tình hình hiện tại của nó. Như một kết quả của các sự
cố lịch sử, nó đã tiếp xúc với nhiều nền văn
hóa khác. Những nền văn hóa khác ấy cung cấp nguồn vốn vật chất văn hóa tiềm năng làm cơ sở cho các nền văn hóa. Vì không có cơ sở chung cho việc dự
đoán những nền văn hóa nào sẽ tiếp xúc với những nền
văn hóa nào khác, nên nhân tố lịch sử có một đặc tính tình cờ và ngẫu nhiên. Đối với nhân tố tâm linh, có các phẩm chất tư duy của con người, cho dù xu hướng chung để
mô phỏng hoặc các thái độ cụ thể được một nhóm người cụ thể tổ chức ra - nó xác định xem liệu có bất kỳ hạng mục văn hóa hiện
có nào sẽ được vay mượn. Mặc dù không thể đoán trước
các tiếp xúc, nhưng các quy luật tâm lý học có thể giải thích về
sự chấp nhận và từ chối. Do đó các quy
luật văn hóa chính là các quy luật tâm lý” (Aberle 1960: 3).
Quan điểm định chuẩn đặt nhà khảo cổ
học vào lập trường tự xem mình
là một sử gia văn hóa và / hoặc một nhà
cổ tâm lý học (vì lý do là hầu hết các nhà khảo cổ học được đào tạo kém). Điều đó buộc ông ta phải giỏi theo đuổi việc khảo sát lịch sử văn hóa, một tình huống có thể phần nào giải
thích cho sự thất bại trong việc phát triển
các cấp độ giải thích của lý thuyết khảo cổ học đã được Willey và Phillips (1958: 5)
lưu ý.
Thực ra thì cần phải có một hệ thống phân loại mới, dựa trên một quan niệm khác về văn hóa, để giải quyết một
cách thỏa đáng việc diễn giải quá trình văn hóa. Nếu chúng ta định
nghĩa văn hóa là phương tiện thích nghi ngoại thể của con người (White 1959: 8), thì theo nghĩa bộ phận, văn hóa là một hệ thống thích nghi ngoại thể được sử dụng trong quá trình tích
hợp của một xã hội với môi trường của nó và với các
hệ thống văn hóa xã hội khác. Văn hóa theo nghĩa này không nhất thiết phải được
chia sẻ; nó được tham gia vào. Trong các hệ thống văn hóa, con người, sự vật, và các địa điểm là
các thành phần trong một lĩnh vực
bao gồm các phụ hệ thống môi trường và văn hóa xã hội, và vị
trí tập hợp của quá trình văn
hóa là ở các khớp nối năng động của các phụ
hệ thống này. Phức hợp các mối quan hệ tương
liên này là không thể giải thích bằng cách quy giản thành một ý tưởng
thành phần duy nhất - hơn bất kỳ điều gì khác, hoạt động của một động cơ có thể được lý giải bằng khuôn khổ của một thành phần duy nhất, chẳng hạn như xăng, ắc quy, hoặc việc
tra dầu mỡ.
Như đã nói ở trên, trong định nghĩa của chúng tôi, văn hóa không nhất thiết phải được chia sẻ; nó được tham gia vào. Và nó được tham gia theo những cách thức
khác nhau. Một đặc trưng cơ bản của hệ thống văn hóa là sự
tích hợp của các cá nhân và các
đơn vị xã hội thực hiện những nhiệm vụ khác nhau, thường xuyên tại các vị trí khác
nhau; các cá nhân và đơn vị xã hội này được khớp nối bởi phương tiện của các thể chế khác nhau thành
các đơn vị rộng lớn hơn có các cấp độ bao gồm các tập hợp khác nhau.
Trong bất kỳ một hệ thống văn hóa nào, mức độ chia sẻ cùng một cơ sở xây dựng ý tưởng của những người tham gia sẽ thay đổi theo mức độ phức tạp của hệ thống văn hóa
như một tổng thể. Trong thực tế, một thước
đo độ phức tạp văn hóa nói chung được xem là mức độ
khác biệt về cấu trúc nội tại và đặc
trưng chức năng của các phụ
hệ thống tham gia (White 1959: 144-5). Trong
bất kỳ hệ thống văn hóa nào, mức độ mà tất cả những người tham gia
đều chia sẻ các sở thích xây dựng ý tưởng chung sẽ thay đổi tỷ lệ nghịch với sự phức tạp của hệ thống
như một tổng thể. Sự chia sẻ các yếu tố văn hóa bởi các hệ thống riêng biệt sẽ là một chức năng thực
chất của phương tiện văn hóa khớp nối các
nhóm riêng biệt với nhau.
Hiện nay phép phân loại được tuyên bố rõ ràng của chúng tôi là dựa
trên cơ sở mức độ chia sẻ các đặc điểm văn hóa. Hệ thống phân loại Trung
tây (Mc 'Kern 1935: 70-82; và năm 1939: 30.143)
là một sự sắp xếp thứ bậc các đặc điểm văn hóa được xác định về phương diện khảo
cổ học như chúng thể hiện bằng những biểu hiện riêng rẽ về
phương diện không gian, hoặc thời gian. Tương tự như vậy, các đơn vị như các giai đoạn (Willey
và Phillips 1958: 50; Rouse 1955: 713-14) chính
là những cách thức nhóm các phức hợp khảo cổ học trên cơ sở những đặc điểm chung. Việc nhấn mạnh các đặc điểm chung ấy trong hệ thống phân loại của chúng tôi làm nảy sinh việc che giấu các khác biệt và chất
đống các hiện tượng riêng rẽ theo một phương pháp phân loại
khác. Văn hóa không phải là một hiện tượng đơn biến,
cũng không phải sự vận hành của nó phải
được đo lường và nhận thức bằng
khuôn khổ của một biến duy nhất -
sự trao truyền các ý tưởng trong không gian -
thời gian. Ngược lại, văn hóa là đa biến, và sự vận hành của nó phải được nhận thức bằng khuôn khổ
của nhiều biến quan hệ nhân quả có liên quan,
có thể hoạt động độc lập hoặc bằng
những cách kết hợp khác nhau. Nhiệm vụ của chúng tôi là phân lập các yếu tố nhân quả ấy và tìm kiếm các mối quan hệ thường xuyên, có
thể tuyên bố, và dự đoán được giữa các
yếu tố ấy.
Các phương pháp phân loại của chúng tôi có ý định được khuôn theo mục đích này. Chúng tôi
sẽ phân chia các lĩnh vực quan sát sao cho có thể nhấn mạnh thực chất sự thay đổi trong các tập hợp hiện
vật và tạo điều kiện cho sự phân lập các yếu tố nhân quả có liên quan. Các
thể loại của chúng tôi có thể được
biện minh theo khuôn khổ sở hữu các
thuộc tính cấu trúc hoặc chức năng chung trong sự vận hành bình thường của các hệ thống văn hóa. Sau đó các thể loại này phải được phân tích theo
khuôn khổ hành vi của chúng trong các hệ thống khác nhau và trong những tình huống biến đổi hệ thống. Bằng một phương pháp như vậy chúng ta có
thể đạt được mục tiêu thể hiện các quy luật của quá trình văn hóa. Phép phân loại khảo cổ học cần được trợ giúp để hoàn thành nhiệm vụ phân tích. Với
tư cách là một ví dụ về phương pháp phân vùng quan sát được chúng tôi đề xuất, có hai vấn đề chung cần được thảo luận là: phân loại gốm và phân loại các tập hợp
hiện vật khảo cổ học.
Sự thay đổi về hình thức của đồ gốm xuất hiện vì những
khác biệt về kỹ thuật chế tạo hoặc thiết kế chung của các thành phẩm; cả hai loại biến đổi này có thể xảy ra độc lập với nhau. (Sự phân biệt này tương tự
như với phân biệt của Rouse
[1960: 314] giữa các cách thức thao
tác và khái niệm). Ví dụ loại sản phẩm một vai rất vát, trái ngược với một vai hơi dốc trong khi vẫn sử dụng cùng một tập hợp kỹ thuật chế tạo. Biến thể như vậy được gọi là biến đổi hình thái
học. Ngoài sự thay đổi về hình thái, còn
có biến đổi về trang trí được thực hiện như là các bước riêng rẽ trong các giai đoạn cuối của quá trình sản
xuất. Thiết kế khắc vạch vàtô màu là những ví dụ về các biến thể trang
trí. Vì thế chúng ta có thể nói về hai lớp biển đổi chính hoặc các
chiều kích phân tích, trong khuôn khổ của các hình thức đồ gốm có thể được nghiên cứu là
chiều kích kỹ thuật và chiều kích thiết kế. Sự biến đổi hình
thái và trang trí có thể được quan sát theo
cả hai chiều kích
đó.
Đối với bối cảnh văn hóa xã hội của biến đổi hình thức, hai lớp biến đổi lớn có thể được thừa nhận là giao cắt giữa các kiểu loại được đề cập ở trên. Biến đổi chức năng chủ
yếu liên quan trực tiếp đến việc
sử dụng cụ thể sản phẩm gốm đang được nói đến; ví dụ, sự khác biệt giữa một chiếc
đĩa và một chiếc hũ. Biến đổi chức năng thứ cấp là một sản phẩm phụ của bối
cảnh xã hội của các nhà sản xuất đồ gốm hoặc của bối cảnh xã hội của các mục đích sử dụng hạng
mục đó, hoặc cả hai. Sự biến đổi này có thể phát
sinh từ cách thức sản xuất truyền thống
trong một gia đình hoặc một đơn vị xã hội lớn hơn, hoặc nó có thể được
xem như là biểu hiện của ý thức cố
kết nhóm.
. Một số đặc trưng thiết kế có thể được, bắt đầu được tiêu chuẩn hóa như các biểu tượng thích hợp với
các đồ gốm được sử dụng trong các
bối cảnh xã hội cụ thể. Ở cấp độ phân tích này chúng ta có thể nhớ lại phán
đoán của Linton (1936: 403-21)
cho rằng bất kỳ một hạng mục văn hóa nào cũng có thể thay đổi
liên quan đến hình thức, ý nghĩa, sử dụng và chức năng trong các
bối cảnh văn hóa khác nhau. Các
phân biệt như vậy đặc biệt quan trọng nếu bối cảnh xã hội của sản xuất và
sử dụng không đồng hình, như trong trường hợp của các mặt hàng lưu hành rộng rãi
thông qua các hệ thống trao đổi, hoặc được sử dụng chủ yếu
trong bối cảnh của các thể chế vận hành để khớp nối liên xã hội.
________________________________________
Nguồn: Binford, Lewis R. 1965. Archaeological Systematics and the Study of
Culture Process, American Antiquity, Vol. 31, No. 2, Part 1 (Oct., 1965),
203-210.
Tác giả: Lewis Roberts
Binford (1931 - 2011) là một nhà khảo cổ học người Mỹ được biết đến với các công trình có ảnh hưởng
của mình trong lý thuyết khảo cổ học, khảo
cổ học tộc người và thời kỳ đồ đá cũ. Ông được coi là một trong các
nhà khảo cổ học có ảnh hưởng nhất của cuối thế kỷ 20, và được thừa nhận đã làm thay đổi
cơ bản lĩnh vực này bằng
sự ra đời của khảo cổ học
quá trình (hoặc "Khảo cổ học
Mới") trong những năm 1960. Tuy nhiên ảnh hưởng của Binford gây nhiều tranh cãi, và
chính các công trình khảo cổ học mang tính lý
thuyết nhất trong những năm cuối thập niên 1980 và 1990 đã được hiểu một cách rõ
ràng là một phản ứng hoặc hỗ trợ cho hệ mẫu quá trình. Các đánh giá gần
đây đã nhận định rằng cách tiếp cận của ông mắc
nợ rất nhiều các
công trình trước đó, vào những
năm 1940 và 50 so với những gì mà Binford phê phán mạnh mẽ những
người tiền nhiệm của ông.
Sau khi rời khỏi quân đội Binford theo ngành nhân học tại
Đại học Bắc Carolina (UNC). Trợ cấp của quân đội
không đủ để cho công việc nghiên cứu
của ông, vì vậy Binford sử dụng các kỹ năng trong xây dựng, mà ông đã học
được từ cha mình (một thợ mộc) để mở
một doanh nghiệp với các hợp đồng
khiêm tốn. Ông đã nhận bằng cử
nhân thứ hai tại UNC và sau đó vào năm 1957 chuyển về Đại học
Michigan để hoàn thành luận án Thạc
sĩ và Tiến sĩ. Đề tài của ông là sự
tương tác giữa người Mỹ bản địa và những người thực dân Anh đầu tiên ở
Virginia, một chủ đề mà ông đã quan tâm
trong khi vẫn còn ở UNC.
Trước
hết, Binford không thỏa mãn với tình
trạng hiện tại của khảo cổ học khi còn
học tại UNC. Ông cảm thấy rằng lịch sử văn hóa phản ánh cùng một tinh thần chơi tem đã khiến ông rời bỏ ngành sinh học. Tại
Michigan, ông đã nhận thấy một sự
tương phản sắc nét giữa "niềm
phấn khích" của các nhà nhân
học văn hóa (bao gồm cả Leslie White) thuộc khoa nhân học và
"những người mặc áo khoác trắng đếm các mảnh gốm vỡ" tại
Bảo tàng Nhân học. Vị trí học thuật đầu tiên của
ông là làm giáo sư trợ giảng tại Đại học
Chicago, dạy Khảo cổ học
Mới và phương pháp thống kê trong khảo cổ học. Ngay sau khi được bổ nhiệm, ông
đã công bố bài viết quan trong đầu tiên của
ông, Khảo cổ học là Nhân học (1962), được kích thích bởi các vấn đề về phương
pháp luận khảo cổ học đã trở nên rõ
ràng với việc sử dụng carbon phóng xạ để
định niên đại tuyệt đối và các loại hình học văn hóa được
tạo ra với các kỹ thuật xác định niên
đại tương đối, chẳng hạn
như việc sắp xếp trật tự niên đại.
Binford phê phán những gì ông
thấy là một xu hướng xử lý hiện vật như
những đặc điểm không khác biệt, và
giải thích sự khác biệt của các đặc điểm này chỉ bằng khuôn khổ truyền bá văn hóa. Ông
cho rằng mục tiêu của
khảo cổ học chính xác giống như nhân học nói chung, tức là, để
"giải nghĩa và giải thích tổng thể các tương đồng và khác biệt về thể chất và
văn hóa đặc trưng cho toàn bộ phạm vi không-thời
gian tồn tại của con người." Điều này có thể đạt được bằng cách gắn kết hiện vật với hành vi của
con người, và hành vi với các hệ thống
văn hóa (theo cách hiểu của thầy ông, nhà nhân
học văn hóa Leslie White).
Một số nhà khảo cổ khác ở
Chicago chia sẻ những ý tưởng
của Binford, một nhóm các nhà phê bình bắt đầu gọi là "các nhà Khảo cổ học Mới". Trong
năm 1966 họ đã trình bày một tập hợp các bài
viết tại một cuộc họp của Hội Khảo cổ học Mỹ,
sau này được xuất bản
thành một tập sách mang tính bước ngoặt,
New Perspectives in Archaeology (1968) do Binford và Sally,
cũng là một nhà khảo
cổ, sau này
thành vợ ông, chủ biên. Vào thời điểm cuốn sách này được xuất bản, ông đã rời
Chicago, vì căng thẳng gia tăng giữa ông và các nhà
khảo cổ học lâu năm trong khoa,
đặc biệt là Robert Braidwood. Ông đã chuyển đến Đại học California, Santa
Barbara trong vòng một năm và
sau đó đến UCLA. Ông không thích bầu không khí tại một khoa quá lớn của UCLA,
và do đó đã chuyển đến Đại
học New Mexico vào năm 1969.
Binford rút khỏi các cuộc
tranh luận về mặt lý thuyết sau
đó đã nhanh chóng được chấp
nhận của Khảo cổ học Mới (từ đó cũng được
gọi là khảo cổ học quá trình) trong các
thập niên 1960 và thập niên 70, để
tập trung vào công trình của ông về người Mousterian,
một kỹ nghệ Trung kỳ đồ đá cũ tìm
thấy ở châu Âu, Bắc Châu Phi và Cận Đông. Năm 1969, ông
quyết định thực hiện nghiên cứu thực địa dân tộc học tại cộng đồng người Nunamiut ở
Alaska, để hiểu rõ hơn về môi trường cận
băng hà mà người Mousterian cư chiếm, và để trực tiếp nhìn thấy hành vi săn bắn hái
lượm được phản ánh trong các di tích
vật chất. Phương pháp luận nghiên cứu
thực địa dân tộc học để thiết lập mối tương quan bền vững giữa hành vi và văn
hóa vật chất được gọi là dân tộc khảo cổ học do Binford xây dựng.
Binford chủ yếu được biết đến với những đóng góp cho lý thuyết khảo cổ học và việc xúc tiến nghiên cứu dân tộc khảo cổ học. Là một người hàng đầu chủ trương trào lưu "Khảo cổ học Mới" của những năm 1960, một số ý tưởng do ông đề xuât đã trở thành trung tâm của Khảo cổ học quá trình. Binford và các nhà Khảo cổ học Mới khác lập luận rằng cần phải ứng dụng các phương pháp luận khoa học và phương pháp giả thuyết - diễn dịch trong khảo cổ học nhiều hơn nữa. Ông nhấn mạnh vào các tính chất phổ biến và cách thức tương tác của con người tương tác với các tổ sinh thái của họ, bằng cách định nghĩa văn hóa là phương tiện thích ứng ngoại thể. Quan điểm này phản ánh ảnh hưởng của người thầy Leslie White. Các công trình của Binford phần lớn có thể được xem là những phản ứng đối với các phương pháp tiếp cận lịch sử văn hóa trước đó đối với khảo cổ học. Khảo cổ học Mới được coi là một cuộc cách mạng trong lý thuyết khảo cổ học.
Ghi chú
1.
This paper was presented at the 29th Annual Meeting of the Society for American
Archaeology, Chapel Hill, North Carolina, 1964.
Tài liệu dẫn
ABERLE,
DAVID R. 1960. The Influence of Linguistics on Early Culture and Personality
Theory. In Essays in the Science of Culture: In Honor of Leslie A. White,
edited by Gertrude Dole and Robert Carneiro, pp. 1—49. Thomas Y. Crowell, New
York.
BINFORD,
Leyris R. 1962. Archaeology as Anthropology. American Anariquity, Vol. 28, No.
2, pp. 217-25. Salt Lake City.
BINFORD,
Leyris R. 1963. Red Ocher Caches from the Michigan Area: A Possible Case of
Cultural Drift. Southwestern Iournal of Anthropology, Vol. 19, No. 1, pp.
89—108. Albuquerque.
BREW,
lonN OTIS 1946. Archaeology of Alkali Ridge: Southeastern Utah. Paivers of the
Peabody Museum of American Archaeology and Ethnology, Harvard University, Vol.
21. Cambridge.
CALDWELL,
Jossrn R. 1958. Trend and Tradition in the Prehistory of the Eastern United
States. Memoirs of the American Anthropological Association, No. 38. Menasha.
CALDWELL,
Jossrn R. 1962. Interaction Spheres in Prehistory. Unpublished paper presented
at the Annual Meeting of the American Association for the Advancement of
Science,
Philadelphia 1962.
Caosm,
CONSTANCE 1962. An Analysis of Pottery Design Elements lndirating Possible
Relationships between Three Decorated Types. In “Chapters in the Prehistory of
Eastern Arizona I," by Paul S. Martin and others. Fieldiana: Anthropology,
Vol.53,pp. 105—41. Chicago Natural History Museum, Chicago.
DEE'I‘Z,
JAMES D. F. 1960. An Archaeological Approach to Kinship Change in Eighteenth
Century Arikara Culture. Unpublished Ph.D. dissertation, Harvard University, Cambridge.
Form,
IAMEs A. 1954. The Type Concept Revisited. American Anthropologist, Vol. 56,
No. I, pp. 42—57. Menasha.
FREEMAN,
L. (3., JR. AND JAMES A. Baown 1964. Statistical Analysis of Carter Ranch
Pottery. In “Carter Ranch Site” by Paul S. Martin and others. Fieldiana: Anthropology
(in press). Natural History Museum, Chicago.
GIi-‘FORD,
JA'Mss C. 1960 The Type'Variety Method of Ceramic Classification as an Indicator
of Cultural Phenomena.” American Antiquity, Vol. 25, No. 5, pp. 341—7. Salt
Lake City.
Iissskoyrrs,
MELViLLE I. 1948. Man and His Works. Alfred A. Knopf, New York.
LINTON,
RALPH 1936. The Study of Man. Appleton Century Crofts, New York.
LONGACRE,
WILLIAM A. 1963 Archaeology as Anthropology: A Case Study. Unpublished Ph.D.
dissertation, University of Chicago, Chicago.
MCKERN,
W. C. 1935 Certain Culture Classification Problems in Middle Western
Archaeology. In “The Indianapolis Archaeological Conference," pp. 70—82,
issued by the Committee on State Archaeological Surveys. National Research
Council, Circular No. 17. Washington.
MCKERN,
W. C. 1939. The Midwestern Taxonomic Method as an Aid to Archaeological Culture
Study. American Antiquity, Vol. 4, No. 4, pp. 301—13. Menasha.
REDFIELD,
ROBERT 1941. The Folk Culture of Yucatan. University of Chicago Press, Chicago.
RIICI-Iis,
WILLIAM A. 1955 Recent Discoveries Suggesting an Early Woodland Burial Cult in
the Northeast. New York State Museum and Science Service, Circular No. 40.
Albany.
Rouse,
IRVING 1939. Prehistory in Haiti: A Study in Method. Yale University
Publications in Anzhrojuology, No. 21. New Haven.
Rouse,
IRVING 1955. On the Correlation of Phases of Culture. American AnthroPologist,
Vol. 57, No. 4, pp. 713—22. Menasha.
Rouse,
IRVING 1960. The Classification of Artifacts in Archaeology. American Antiquity,
Vol. 25, No. 3, pp. 313—23. Salt Lake City.
SEARS,
WILLIAM H. 1960. Ceramic Systems and Eastern Archaeology. American Antiquity,
Vol. 25, Nov 3, pp. 324—9. Salt Lake City.
SMITH,
WATsoN 1962. Schools, Pots and Pottery. American Anthropologist, Vol. 64, No.
6, pp. 1165—78. Menasha.
SPAULDING,
ALBERT C. 1957. Review of Method and Theory in American Archaeology, by Gordon
W. Willey and Philip Phillips. American Antiquity, Vol. 23, No. 1, pp. 85—7.
Salt Lake City.
TAYLOR,
WALTER W. 1948 A Study of Archeology. Memoirs of the American AnthroPological
Association, No. 69. Menasha.
WHITE,
LESLIE A. 1954 Review of “Culture: A Critical Review of Concepts and
Definition,” by A. L. Kroeber and Clyde Kluckhohn. American Anthropologist, Vol.
56, No. 3, pp. 461—8. Menasha.
WHITE,
LESLIE A. 1959. The Evolution of Culture. McGraw HilL New York.
WILLEY,
GORDON R. AND PHILIP PHILLIPS 1958. Method and Theory in American Archaeology. University
of Chicago Press, Chicago. UNIVERSITY or CI-IICAoo Chicago, Illinois October,
1964
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét