Claude
Lévi-Strauss
Người dịch: Hà Hữu Nga
Thay vào đó, nó nắm bắt được những yếu tố ở
một cấp độ đủ sâu để đảm bảo chúng vẫn y
nguyên, bất kể bối cảnh văn hóa mà chúng vận hành (chẳng hạn như các gen, những yếu tố tương tự có thể xuất hiện trong các kết
hợp khác nhau, là kết quả của các loại chủng tộc, có nghĩa là, các
mô hình thống kê). Cuối cùng, điều cần thiết
là chúng ta có thể vẽ lên hàng loạt thống kê dài. Vì
vậy Boas và trường phái của ông đã thách thức một cách đúng
đắn quan niệm tiến hóa: không có
nghĩa gì trong khuôn khổ các mô hình cơ giới mà họ sử dụng độc quyền,
còn ông White thì đòi hỏi một
cách sai lầm trong việc khôi phục lại
quan niệm tiến hóa, khi tiếp tục sử dụng cùng loại các mô hình so với đối thủ của mình. Các
nhà tiến hóa luận sẽ khôi phục lại vị trí của họ dễ dàng hơn nếu họ thay thế
các mô hình thống kê bằng các mô hình cơ giới, có nghĩa là các yếu tố độc lập với sự kết hợp của chúng, và vẫn giữ nguyên trong suốt một khoảng thời gian đủ
dài.
Sự khác biệt giữa mô hình
cơ giới và mô hình
thống kê đem đến một lợi thế:
nó giúp minh định vai trò của
phương pháp so sánh trong nghiên cứu cấu trúc. Radcliffe-Brown và Lowie tổ chức
một mô hình thống
kê và một mô hình
cơ học để đánh giá quá cao vai trò
của phương pháp so sánh. Do đó, văn bản đầu tiên (1952, p 14.) viết:
"Xã hội học lý
thuyết thường được thực hiện cho một khoa học quy nạp. Phép quy nạp, thực ra, là quá trình logic
cho phép suy diễn để gán tính chất hay quan hệ cho
một phạm trù tổng quát dựa trên các ví
dụ của phạm trù đó. GS. Evans-Pritchard
... đôi khi dường như nghĩ rằng logic của phương pháp quy nạp, bằng cách sử dụng phép so sánh, phân loại
và tổng hợp, có thể được
áp dụng cho các hiện tượng của con người và đời sống xã hội ... Còn đối với tôi thì dân tộc học lại dựa vào việc nghiên cứu
so sánh và có hệ thống về một số lượng
lớn các xã hội”.
Trong một nghiên cứu trước đó, Radcliffe-Brown
nói về tôn giáo (1945,
p 1.): "Các phương pháp thực nghiệm áp dụng cho xã hội học về tôn giáo…dạy rằng chúng ta phải đưa các giả thiết của
mình vào thử nghiệm với đủ số lượng các tôn giáo khác nhau hoặc các giáo phái cụ thể, mà mỗi tôn giáo hoặc giáo phái đối mặt với cái xã hội cụ thể mà chúng xuất hiện trong đó. Một cam kết như vậy vượt quá khả năng của một
nhà nghiên cứu, nó đòi hỏi có
sự hợp tác của nhiều người”.
Trong tinh thần này, Lowie bắt đầu bằng cách chỉ ra (1948, p 38.) rằng "các tài liệu dân tộc học có đầy đủ các mối
tương liên được viện dẫn mà không có cơ sở
thực nghiệm"; và nhấn mạnh sự cần thiết phải "phát
triển cơ sở quy nạp" cho
các khái quát hóa của chúng ta (1948, p. 68). Như vậy cả
hai tác giả này đều
đồng ý xây dựng cơ sở quy nạp cho dân tộc học; ở khía cạnh nào đó, họ không chỉ
tách khỏi Durkheim:
"Khi một quy luật được chứng minh bằng một kinh nghiệm đã được thực hiện
tốt, thì bằng chứng này có giá trị phổ quát" (1912, 593 p.), mà
còn cả Goldstein nữa. Như đã lưu ý, điều đó chứng tỏ một cách rõ ràng
nhất những gì có thể được gọi là "các quy tắc của phương pháp cấu trúc
luận" bằng cách tự
đặt mình vào một mức độ khá tổng quát cho các giá trị, vượt khỏi lĩnh vực hạn chế, mà
ông ta đã tưởng tượng ban đầu. Goldstein lưu ý rằng cần phải có một nghiên cứu chi tiết
đối với từng trường
hợp liên quan, kết quả là, hạn chế số lượng các trường hợp chúng ta có thể xem
xét theo cách này. Vậy thì phải chăng là một nguy
cơ khi tập trung vào trường hợp quá đặc biệt, trên
cơ sở hạn chế như vậy, để chúng ta
có thể đưa ra các kết luận có
giá trị cho tất cả những trường hợp khác? Ông trả lời (1951, p 25.): "Sự phản đối này hoàn toàn bỏ
qua tình huống thực tế: trước hết, sự tích lũy các sự kiện - thậm chí rất
nhiều sự kiện - là vô dụng nếu chúng được chứng minh một cách không đầy đủ, thì sẽ không bao giờ dẫn đến sự hiểu biết về những sự
kiện trên thực tế đã bị bỏ qua…Bạn phải chọn những trường hợp có thể mang lại các
năng lực phán đoán quyết định.
Nhưng sau đó những gì sẽ được chứng minh trong một trường hợp thì cũng sẽ được áp dụng cho những trường hợp khác”.
Có
lẽ rất ít nhà nhân học đồng ý với kết luận
này. Tuy nhiên, nghiên cứu cấu trúc luận
sẽ là vô ích nếu nó nhận thức đầy đủ được
cái nan đề của Goldstein: hoặc nghiên cứu rất nhiều
trường hợp vẫn theo cách hời hợt và
không có nhiều thành công; hoặc
quyết định giới hạn vào phân tích
chuyên sâu một số ít trường hợp, để
rồi cuối cùng chứng minh
một kinh nghiệm tốt thực sự là một phương pháp thể hiện mới.
Làm thế nào để giải thích được sự gắn bó của quá nhiều nhà dân tộc học với
phương pháp so sánh? Một lần nữa, liệu đó có phải là họ nhầm lẫn giữa các
kỹ thuật để tạo dựng và nghiên cứu các mô hình cơ giới và các mô hình thống kê? Vị trí của Durkheim và
Goldstein là bất khả xâm phạm, liên quan đến những điều đầu tiên: ngược
lại, rõ ràng là chúng ta có thể xây dựng một mô hình thống kê mà không có các
số liệu thống kê, nghĩa là không có rất nhiều sự kiện tích lũy. Nhưng ngay cả
trong trường hợp này, thì
phương pháp ấy không thể được gọi là
phương pháp so sánh: các dữ kiện thu thập được sẽ chỉ có giá trị nếu tất
cả đều thuộc cùng một loại. Cần
luôn luôn quay trở lại với cùng một lựa chọn, đó là nghiên cứu sâu
một trường hợp, và sự khác biệt duy nhất là
cách thức cắt "các trường hợp", mà các
thành phần của
nó (theo người bảo trợ được
chấp nhận) dựa vào quy mô của mô hình được đề xuất, hoặc vào
một quy mô khác nhau.
Cho đến giờ, chúng tôi đã cố gắng làm rõ
một số vấn đề về nguyên tắc
liên quan đến bản chất của khái niệm cấu trúc xã hội, để dễ dàng hơn cho việc tạo ra một kho
dữ liệu các loại hình nghiên cứu chính, và thảo luận về một số
kết quả.
II. Hình thái xã hội hay nhóm các cấu trúc
II. Hình thái xã hội hay nhóm các cấu trúc
Trong phần thứ hai, thuật
ngữ "nhóm" không đề cập đến các nhóm xã hội, nhưng nói chung, lại đề cập đến cách thức các hiện tượng
được nhóm lại với nhau. Mặt khác, để
tiếp nối phần đầu của tác phẩm này là nghiên cứu cấu trúc tập trung vào việc nghiên
cứu các mối quan hệ xã hội bằng cách sử dụng các mô hình.
Tuy nhiên, sẽ không thể quan
niệm được về các
mối quan hệ xã hội bên ngoài một
phương tiện phổ biến dùng cho hệ thống tham chiếu của chúng. Không gian và thời
gian là hai hệ thống tham
chiếu để tư duy về các mối quan hệ xã
hội, bằng cách kết hợp với nhau hoặc tách biệt nhau. Các
chiều góc của không gian và thời gian ấy không giống với những chiều góc được sử dụng bởi các ngành khoa học khác. Chúng
bao gồm một không gian "xã hội" và
thời gian "xã hội", có nghĩa là chúng có những thuộc tính khác so với các thuộc tính của các hiện tượng xã hội sinh
ra trong đó. Theo cấu trúc cụ thể của
chúng, các
xã hội loài người đã phát triển những
chiều kích rất khác nhau. Do
đó các nhà nhân học không
nên lo lắng về
các nghĩa vụ hoặc
ông ta có thể sử dụng các loại chiều kích bất thường, và thậm chí còn phát minh ra để phục vụ cho các nhu cầu của thời điểm này.
Chúng tôi đã lưu ý rằng tính liên tục thời gian tỏ ra là có thể hồi phục hoặc
định hướng theo cấp độ đưa ra giá trị chiến
lược lớn nhất ở nơi mà người ta
phải chấp nhận quan điểm nghiên cứu liên tục. Cũng có thể tồn tại các khả năng
khác: thời gian độc
lập của người quan sát, và vô hạn; thời gian, chức năng của thời gian
thích hợp (về sinh học) của
người quan sát, và hữu hạn; thời
gian có thể phân
tích hoặc không phân tích được thành
các bộ phận tự thân chúng
là đồng đẳng đối với nhau,
hoặc có tính cụ thể,…vv.
Evans-Pritchard đã cho thấy rằng chúng ta có thể buộc phải quay trở lại với các thuộc tính hình thức của loại tính chất không đồng
nhất về chất lượng, như cảm nhận bề ngoài của
người quan sát, từ thời gian
riêng của mình và thời gian và các loại thời gian phù hợp với các loại hình khác: lịch
sử, truyền thuyết hay huyền thoại (1939 1940). Loại phân tích này, lấy cảm
hứng từ những công trình nghiên cứu về một xã hội
châu Phi, có thể
được mở rộng đến xã hội của chúng ta (Bernot và Blancard, 1953).
Về không gian, Durkheim
và Mauss là những người đầu
tiên mô tả các đặc tính khả biến mà chúng
ta sẽ nhận ra để giải thích cấu trúc của một số lượng lớn của những cái gọi là xã
hội nguyên thủy (1901-1902). Nhưng chính Cushing - mà giờ đây bị ảnh hưởng bởi thái độ khinh
thị - lại là người đầu tiên truyền cảm hứng cho họ. Công trình của Frank
Hamilton Cushing đã chứng tỏ hiệu quả của
sự thâm nhập và sáng tạo mang tính xã hội học, cần phải khẳng
định vị trí tác giả của
nó là ở bên phải của
Morgan, một trong những tiền thân chủ
yếu của nghiên cứu cấu trúc. Những
khoảng trống, những điều không chính
xác bộc lộ trong các mô tả của
ông, cùng một lời
phàn nàn là ông "siêu diễn
giải" các quan sát của mình, điều đó được quy giản thành các tỷ lệ hợp lý
hơn khi ta hiểu rằng
Cushing đã ít tìm cách mô tả cụ thể xã hội Zuni
để phát triển một mô hình (cách chia thành bảy phần nổi
tiếng) nhằm giải thích
cấu trúc và cơ chế hoạt động của
nó.
Thời gian và không gian xã hội cũng phải được phân biệt theo quy mô. Nhà dân tộc học sử dụng một
"thời
gian vĩ mô" và một
"thời gian vi mô", một “không gian vĩ mô” và một không gian "vi mô". Hoàn toàn hợp thức, các nghiên cứu cấu
trúc vay mượn các hạng mục
phân loại của cả tiền sử, khảo cổ học, và lý thuyết truyền bá luận, cho đến phép cấu hình liên kết tâm lý do Lewin sáng lập, hoặc phép đo lường các quan hệ xã hội do Moreno
tạo dựng. Đối với cùng một loại cấu trúc có thể tái diễn ở các
cấp độ thời gian và không gian rất khác nhau, và không gì có
thể loại bỏ một mô hình thống kê (ví
dụ, những mô hình được phát triển bằng phép
đo lường các quan hệ xã hội) có thể chứng tỏ là hữu ích hơn cho việc
tạo dựng một mô hình
loại suy, có
thể ứng dụng cho môn thông sử về
các nền văn minh, một loại mô hình khác trực tiếp lấy cảm
hứng từ các sự kiện có nguồn gốc
từ lĩnh vực này.
Vì
vậy khác với chúng tôi, khi người ta cho rằng các
nghiên cứu về lịch sử và địa lý thì
không có giá trị cho các nghiên cứu cấu trúc, họ chính là những người chẳng hạn như, vẫn tin rằng mình là
"nhà chức năng luận". Nhà chức năng luận có thể chỉ là người
đối lập
với nhà cấu trúc luận, mà
ví dụ về Malinowski có để thuyết phục
được chúng ta. Ngược lại, công trình của Dumézil và
ví dụ cá nhân A.L. Kroeber (về mặt tinh thần giá như là cấu
trúc luận, mặc dù nó đã từ lâu nó được dành cho việc nghiên cứu phân bố không gian) cho thấy phương pháp lịch sử không
phải là không tương thích
với một vị thế cấu trúc.
Nhưng các hiện tượng đồng đại lại cho thấy tính tương đối đồng
nhất tạo điều kiện dễ dàng hơn cho
việc nghiên cứu các hiện tượng lịch đại. Do vậy
không có gì ngạc nhiên khi các nghiên cứu tiếp cận hơn, trong thực tế, là
phương pháp hình thái học, lại là những nghiên cứu liên quan đến các thuộc tính định tính, không thể đo lường được, mà
không gian xã hội, có nghĩa là, cái
cách mà các hiện tượng xã
hội được phân bố trên bản đồ, và các hằng số xuất hiện từ loại
phân bố này. Về phương diện này, cái gọi là "trường phái Chicago" và các công trình đô thị sinh thái của nó đã làm dấy lên hy vọng rất lớn, nhưng lại quá nhanh chóng gây vỡ mộng. Các vấn đề sinh thái học được thảo luận trong một chương khác của hội nghị chuyên
đề này, vì vậy tôi sẽ minh định cách thức quan
hệ giữa các khái niệm về sinh thái và cấu trúc
xã hội. Trong cả hai trường hợp, chúng tôi quan tâm đến sự phân bố của các hiện tượng xã hội trong không gian,
nhưng các nghiên cứu cấu trúc luận lại hoàn toàn tập trung vào các khung không gian mà các đặc trưng của nó là các đặc trưng xã hội học, có nghĩa là, chúng
không phụ thuộc vào các nhân tố tự nhiên như những đặc trưng của địa chất học, khí hậu học, địa văn học, …vv. Do đó, các nghiên cứu được gọi là đô thị sinh thái đặc
biệt thu hút mối quan tâm của các nhà dân tộc học: không gian đô thị đủ nhỏ và đủ đồng
nhất (trong tất cả các khía cạnh khác với khía cạnh xã hội) cho các thuộc tính định
tính của nó có thể được trực tiếp quy
vào các nhân tố nội tại, nguồn gốc của cả hình thái và xã hội.
Thay vì nhắm vào các cộng đồng
phức tạp, nơi khó làm cho
phần tác động tương ứng từ
bên ngoài và từ bên trong, thì
có lẽ là khôn ngoan
hơn bằng cách giới hạn lại - như Marcel
Mauss (1924-1925 ) - đã làm
đối với những cộng đồng nhỏ và tương đối độc lập, một cách làm phổ biến
nhất trong kinh nghiệm của các nhà dân tộc học. Có một
vài nghiên cứu dạng này, nhưng họ hiếm khi vượt khỏi cấp độ mô tả; hoặc, khi thực hiện, người ta vẫn còn đôi chút e dè. Chưa có ai thực sự nghiêm túc
tìm kiếm những mối tương quan
tồn tại giữa các cấu hình không gian của các nhóm, và các thuộc tính hình thái thuộc về các khía
cạnh khác của đời sống xã hội của họ.
Tuy nhiên, nhiều tài liệu
đã chứng thực cho thực tiễn và tầm quan
trọng của mối tương quan như vậy, chủ yếu, một mặt liên quan đến
cấu trúc xã hội, và
mặt khác, liên quan đến
cấu hình không gian
của các khu định cư của con người: các
thôn làng, hoặc các khu dân cư. Khi tự giam mình ở Mỹ,
tôi nhớ lại rằng hình thái của các khu
định cư của người
Indians ở các bình nguyên khác với cách tổ chức xã
hội của mỗi bộ lạc. Đó là sự phân bố giống nhau của những cái lều tròn
trong các làng người Gé thuộc miền trung và miền
đông Brazil. Trong cả hai trường hợp, đó là các khu vực khá đồng nhất
về ngôn ngữ và văn hóa, và là nơi có một loạt các biến đổi đồng thời rất rõ ràng. Các vấn đề
khác nảy sinh khi so sánh các vùng hoặc các loại địa vị xã hội khác nhau, gắn liền với các cấu trúc xã
hội khác nhau; do đó, trước hết, là
loại cấu hình tròn của các ngôi làng người Gé, và sau đó, là các đường phố
song song, của các khu
phố của thành phố
Pueblo. Trong trường hợp sau, thậm
chí chúng ta có thể thực hiện một nghiên cứu
lịch đại, qua các tài liệu khảo cổ
học, cho thấy các biến đổi rất đáng quan tâm. Một mặt, liệu có mối liên hệ
giữa lối đi của các cấu trúc
bán nguyệt cổ với các cấu
trúc song song hiện nay; và mặt khác,
liệu có việc chuyển rời của các làng dưới đáy các thung lũng đến các vùng cao nguyên? Và sự thay
đổi cách thức khôi
phục những nơi cư trú giữa các thị tộc khác nhau đã diễn ra như thế nào; còn các huyền thoại
mô tả là rất có hệ
thống, như bây giờ còn thấy thì
đó có phải là một trùng
hợp ngẫu nhiên không?.
Tôi không dám chắc các cấu hình không gian của các
ngôi làng vẫn phản ánh được các tổ chức xã hội như
một tấm gương, hoặc nó phản ánh
cái tổng thể. Đó có
thể là một khẳng định
vô cớ đối với nhiều xã
hội. Nhưng lại không có một
cái gì đó chung cho tất cả các
tổ chức xã hội - rất khác nhau
ở những nơi khác nhau - nơi có một mối quan hệ (thậm
chí mơ hồ) giữa cấu hình không gian và cấu trúc xã hội sao? Và thậm chí hơn
nữa, ở những nơi mà cấu hình không
gian "đại diện cho" cấu
trúc xã hội, giống như một
sơ đồ được vẽ trên bảng đen? Trong thực tế,
những điều này hiếm
khi lại đơn giản như chúng
có vẻ là thế. Tôi đã cố gắng chỉ
ra rằng bình đồ của ngôi làng Bororo không thể hiện cấu trúc xã hội thực sự, nhưng
là một mô hình thể hiện ý thức bản địa, mặc dù đó là bản
chất ảo tưởng và trái ngược với
sự thật.
Vì vậy nó là phương tiện để nghiên cứu các hiện tượng xã hội và
tinh thần từ những biểu hiện khách quan của chúng, trong một hình thái ngoại tại và - được
cho là - đã kết tinh. Nhưng cơ hội đó không chỉ được cung cấp bởi các
cấu hình không gian ổn định, chẳng hạn như các
bình đồ làng. Các cấu hình không ổn định nhưng có
tính hồi quy, có thể được phân tích và phê bình theo
cùng một cách như vậy. Những gì được quan sát
trong vũ điệu, trong nghi
lễ, vv cũng hệt như vậy. Người ta cũng tiếp cận với biểu thức toán học để giải quyết các thuộc tính của các con số của các nhóm, là cách tiếp cận hình thành nên lĩnh vực truyền thống của nhân khẩu học. Tuy nhiên trong những năm gần đây, các nhà nghiên cứu từ các bộ
môn khác nhau - các nhà nhân khẩu học, các nhà xã hội học, các nhà dân tộc học - có xu hướng liên kết, để đặt các nền tảng cho một cách tiếp cận nhân khẩu học mới, có thể
được gọi là cách tiếp cận định tính: ít
quan tâm đến các biến đổi liên tục trong các nhóm người tự ý biệt lập vì những lý do thực nghiệm, mà các
gián đoạn đáng kể giữa các nhóm được
coi như là các tổng thể, và được phác họa vì những gián đoạn này. Môn "xã hội-nhân khẩu học"
này, theo cô Lestrange, đã cùng cấp độ với nhân học xã hội rồi. Có thể là một ngày
nào đó, cô sẽ trở thành khởi điểm bắt buộc đối với nghiên cứu của chúng ta.
Các
nhà dân tộc học phải tập
trung nhiều hơn nữa vào nghiên cứu
nhân khẩu học gợi hứng từ
cấu trúc luận so với những gì cho đến nay họ đã làm được: những gì mà Livi nói về các thuộc tính chính thức của mức độ biệt lập tối thiểu mà nó có thể tự duy trì lâu dài; hoặc những
người thân, hàng xóm của Dahlberg. Số
lượng cư dân mà chúng tôi
đang nghiên cứu có thể là
rất gần với số lượng cư
dân tối thiểu của Livi, và đôi khi thậm chí ít hơn. Ngoài ra, có một mối
quan hệ nhất định giữa phương
thức hoạt động và tính bền vững của một cấu trúc xã hội, và kích cỡ của cư dân. Phải chăng không có các thuộc tính chính
thức của các nhóm, có chức năng trực tiếp và lập tức của số lượng
tuyệt đối của cư dân, bất kể một nghiên cứu nào khác? Nếu
vậy, chúng ta nên bắt đầu bằng cách xác định các thuộc tính này và bằng cách tạo ra một vị trí, trước khi
tìm các cách diễn giải khác. Sau đó xem
xét các thuộc tính số lượng không thuộc về nhóm như một
toàn thể, mà thuộc vào các tập con
của nhóm và thuộc vào các mối quan
hệ của chúng chừng
nào mà thuộc tính này hoặc thuộc tính khác thể hiện các gián đoạn
đáng kể. Trong khía cạnh này, hai hướng nghiên cứu
là thuộc về mối quan tâm lớn của nhà dân tộc học:
1. Những gì có liên quan đến quy tắc nổi
tiếng của môn xã hội học đô thị được gọi
là phân phối thang bậc
- kích cỡ,
đối với một tập hợp nhất định, cho phép thiết lập một mối tương quan giữa kích thước tuyệt đối của các thành phố (tính theo số dân) và vị trí mỗi thành
phố trong một tập hợp
được sắp đặt, và thậm
chí, có vẻ là để khấu trừ một yếu tố khỏi một bộ phận khác.
Phân phối, hoặc quy tắc thang bậc - kích cỡ mô tả tính quy tắc đáng chú ý
trong nhiều hiện tượng, bao gồm cả sự phân phối kích cỡ các thành phố, kích
cỡ của các doanh
nghiệp, kích cỡ của các hạt
(chẳng hạn như hạt cát), chiều
dài của các con sông, các tần suất sử dụng từ
ngữ, và sự thịnh vượng
của các cá nhân. Tất cả là đều
là những quan sát thế giới hiện
thực theo các định luật
năng lượng, chẳng hạn như luật Zipf’s
law, phân phối Yule, hoặc phân phối Pareto. Nếu
một người xếp
hạng quy mô dân số của các thành phố
trong một quốc gia nhất định hoặc trên toàn thế
giới và tính toán logarit tự nhiên về cấp bậc và về cư dân thành
phố, thì đồ thị kết
quả sẽ hiển thị một mô hình logarit
tuyến tính. Đây là phân phối thang
bậc.
2. Các công trình của một số
nhà nhân khẩu học của Pháp, dựa trên sự
chứng minh của Dahlberg cho rằng các kích cỡ tuyệt đối
của một nhóm tộc biệt lập có thể được
tính toán theo tần số của các cuộc hôn
nhân đồng huyết (Dahlberg,
1948). Sutter và Tabah (1951) đã nỗ
lực tính toán kích cỡ trung bình
của các nhóm biệt lập cho toàn bộ các tỉnh của chúng ta, trong cùng một thời gian
giúp cho nhà
dân tộc học có thể tiếp cận với hệ thống hôn nhân phức tạp của một xã hội
hiện đại. Kích cỡ
trung bình của nhóm tộc người biệt lập Pháp thay đổi từ dưới 1000 đến hơn 2800
người. Các số liệu cho thấy mạng lưới các cá nhân được xác định bởi các mối quan
hệ hôn nhân đồng tộc - ngay trong một xã
hội hiện đại - là rất nhỏ so với những gì có
thể đã được dự kiến: chỉ lớn hơn mười lần so với số lượng nhỏ nhất của các
xã hội được gọi là xã hội nguyên thủy, có nghĩa là cùng một trật tự kích cỡ. Liệu chúng ta có thể kết luận
rằng các mạng hôn nhân đồng tộc là tương đối
ổn định về kích cỡ tuyệt đối
trong tất cả các xã hội loài người? Nếu vậy, tính chất phức tạp của một xã hội
sẽ cho kết quả trừ khi có sự mở rộng
của nhóm biệt lập nguyên thủy, mà sự tích hợp
của các tộc biệt lập tương đối ổn
định trong các tập hợp ngày
càng lớn hơn, nhưng đặc trưng bởi các loại gắn
kết xã hội khác (kinh tế,
chính trị, trí tuệ),
Sutter và Tabah cũng cho thấy các tộc
biệt lập nhỏ hơn không chỉ tìm thấy ở các vùng xa
xôi, chẳng hạn như khu vực miền núi, mà còn (và thậm chí nhiều hơn) ở các
trung tâm đô thị lớn hoặc trong vùng lân cận: các vùng Rhone (với
Lyon), Gironde (với Bordeaux), và sông Seine (với Paris) thuộc diện dưới cùng
của bản danh sách với
các tộc biệt lập tương ứng có 740, 910 và
930 người. Trong vùng sông Seine,
gần như trùng với khu vực Paris, tỷ lệ hôn nhân đồng huyết cao hơn so
với bất kỳ quận nào
trong số 15 quận huyện nông
thôn xung quanh đó.
Tất cả điều này là cần thiết bởi
vì nhà nhân học có thể hy vọng,
thông qua công trình này, tự tìm ra, trong một xã hội hiện đại phức tạp, các đơn vị nhỏ hơn,
có cùng bản chất, như những đơn vị mà ông ta
đã nghiên cứu nhiều nhất. Tuy
nhiên, phương pháp nhân khẩu học
cần phải được hoàn thành từ
quan điểm dân tộc học. Các
kích cỡ tuyệt đối của các tộc
biệt lập không làm cạn kiệt
vấn đề; nó cũng
sẽ xác định độ dài của các chu kỳ hôn nhân. Nói
một cách tương đối, một tộc
biệt lập nhỏ có thể là một mạng chu kỳ
lan rộng (cùng trật về kích cỡ như là tộc cô lập tự thân); và một tộc biệt lập lớn có thể thực hiện (đôi chút giống với chiếc áo giáp lưới sắt) các chu kỳ ngắn. Nhưng nó lại trở nên cần thiết cho việc tạo lập các phả hệ, có nghĩa là, nhà nhân khẩu học, thậm chí cả nhà cấu trúc
luận, không thể thực
hiện mà không có nhà dân tộc học.
Sự cộng tác này có thể giúp làm
sáng tỏ một vấn đề khác, một
vấn đề lý thuyết. Đó
là phạm vi và hiệu lực
của khái niệm văn hóa, dẫn đến các
cuộc thảo luận sôi nổi giữa các
nhà dân tộc học Anh và Mỹ trong
những năm gần đây. Bằng cách tập trung
chủ yếu vào việc nghiên cứu văn hóa, các nhà dân tộc học bên kia Đại Tây Dương đã thực hiện - như Radcliffe-Brown viết
rằng - nó "cụ thể hóa một trừu tượng"? Đối với bậc thầy người Anh
này, "ý tưởng về văn hóa châu Âu là
một khái niệm trừu tượng, cũng như ý tưởng về nền văn hóa cụ thể đối với bất kỳ bộ lạc châu Phi cụ
thể nào đó vậy. “Không hề
có chuyện con người quan hệ với nhau bởi
các mối quan hệ xã hội không
giới hạn” (Radcliffe-Brown, 1940 b). "Cãi giả," Lowie trả
lời (1942, tr. 520-521). Tuy
nhiên, nếu không giả, thì nó cũng là cuộc cãi vã định kỳ
lặp lại.
Từ quan điểm này, chúng
tôi sẽ chỉ quan tâm
đến việc đưa khái niệm văn hóa vào cùng một bình diện với khái
niệm di truyền và nhân khẩu
học của tộc biệt
lập. Chúng tôi gọi là văn hóa toàn bộ tập hợp dân tộc học mô tả mà, từ quan điểm của cuộc điều tra, bằng mối quan hệ với cuộc điều tra khác, có các khác biệt đáng kể. Nếu
ta tìm cách xác định các khác biệt
đáng kể giữa Bắc Mỹ và châu Âu, chúng tôi sẽ xử lý chúng như những nền
văn hóa khác nhau; nhưng bằng cách
giả định rằng cần phải tập trung vào những khác biệt
đáng kể giữa Paris và Marseille, cả hai khu phức hợp đô thị có thể được tạm
thời xác lập như là
hai đơn vị văn hóa. Đối tượng cuối cùng nghiên cứu cấu trúc là các hằng số liên quan
đến sự khác biệt như vậy, chúng ta thấy rằng quan niệm về văn hóa có thể tương
ứng với một thực tiễn khách quan,
trong khi vẫn còn lại các
loại hình nghiên cứu dự kiến. Cùng
bộ sưu tập của các cá nhân,
miễn là được xuất
trình một cách khách quan trong thời gian và không gian, đồng thời tùy thuộc vào các hệ thống văn hóa
phổ quát hơn, lục địa, quốc gia, tỉnh, địa phương, vv ; và gia đình, nghề
nghiệp, tôn giáo, chính trị…vv.
Mặc
dù, trong thực tế, duy danh luận
có thể không được đẩy đến hoàn thành. Thực ra, thuật ngữ văn hóa được
sử dụng để nhóm một tập các sự khác biệt đáng kể mà kinh nghiệm cho thấy rằng các ranh giới tương đối trùng khớp. Sự trùng hợp
này là không bao giờ tuyệt đối, và nó không bao giờ xảy ra ở tất cả các cấp độ cùng một lúc,
điều đó không cho
phép chúng ta sử dụng khái niệm văn hóa; đó là vấn đề cơ bản trong
dân tộc học và có giá trị đúng
như nhân khẩu học của các tộc
biệt lập có tính phát hiện tài liệu vậy. Về phương diện logic, hai khái niệm đó là cùng loại.
Hơn nữa, bản thân các nhà vật
lý cũng khuyến khích
chúng ta bảo lưu khái niệm văn hóa, như
N. Bohr đã viết: "Các khác biệt
truyền thống (các nền văn hóa của con người) đều giống nhau ở nhiều khía cạnh, những cách
khác biệt nhưng tương
đương, dựa vào đó có thể mô tả cá kinh nghiệm
vật lý" (1939, p. 9)
____________________________________
Nguồn: Claude Lévi-Strauss 1958.
Anthropologie structurale. Paris, Plon, Agora, 1958 et 1974, pp.
328-378.
References
Bernot L. et Blancard, R. 1953. Nouville, une village francais, Paris: Institut d'Ethnologie.
Bohr, Niels, 1939. Natural Philosophy and Human Cultures, Nature 143, 268-272 (18 February 1939).
References
Bernot L. et Blancard, R. 1953. Nouville, une village francais, Paris: Institut d'Ethnologie.
Bohr, Niels, 1939. Natural Philosophy and Human Cultures, Nature 143, 268-272 (18 February 1939).
Dahlberg
G. 1948. Mathematical Methods for Population
Genetics. Karger, Basle, London, New
York, Interscience Pub., 1 vol. in-8°, 182 p.
Durkheim, E.
1912. Les formes élémentaires de la vie
religieuse. Le système totémique en Australie.
Paris.
Goldstein Kurt 1920 (1951). (con Adhemar Gelb), Psychologische
Analysen hirnpathologischer Falle. 2 voll., Liepzig, Barth.
Lestrange, Monique De 1950. Région de la population de la française Youkounkoun en Guinée, Paris.
Lowie, Robert H. 1942. Studies In Plains Indian Folklore.
Berkeley and Los Angeles, University of California press.
Lowie, Robert H. 1948.
Social Organization.
Rinehart and Co., New York,. 1948.)
Mauss, Marcel 1924. Rapports réels et pratiques de la psychologic et de la sociologie.
Pages 281–310 in Marcel Mauss, Sociologie et anthropologie. 2d ed. Paris: Presses
Universitaires de France. Journal de psychologic normale et pathologique.
Mauss, Marcel 1925. Essai sur le don:
Forme et raison de I’échange dans les sociétés archaïiques. Paris.
Radcliffe-Brown A.R., 1940. On Social Structure. Journal of the Royal Anthropological Institute of Great Britain and Ireland 70(1): 3.
Radcliffe-Brown A.R., 1940. On Social Structure. Journal of the Royal Anthropological Institute of Great Britain and Ireland 70(1): 3.
Sutter
J. et
L. Tabah. Les
notions d'isolat et de
population minimum. Population, 1951,
6, 483-498. Le notion d’isolat
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét