Khái niệm Thi pháp trong siêu
hình học của Heidegger
Alexander Ferrari Di Pippo
Người dịch: Hà Hữu Nga
Khái niệm Thi pháp trong Nhập môn
Siêu hình học 1
Trong một bài giảng vào năm 1935 có
tiêu đề Nhập môn Siêu hình học, Heidegger đã đề xuất một ý tưởng có vẻ
như là một sự kết nối phi-Platonic giữa thi ca và tư duy triết học. Bài giảng
này đưa ra cách xử lý mở rộng đầu tiên về hai loại chủ đề mà Heidegger sẽ giành
riêng cho một cam kết chắc chắn trong những năm tiếp theo. Kết nối phi-Platonic
dứt khoát này trong thực tế chỉ rõ ràng khi chính các khái niệm về νόηίν tư duy
và ποίησις thi pháp mà Heidegger quy chiếu, tự thân chúng là phi-Platonic.
Chính xác ra thì chúng là tiền-Platonic. Quay trở lại với các nhà tư tưởng Tiền
Socratic – trong trường hợp này là Parmenides và Heraclitus – Heidegger đã gọi
về một quan niệm tư duy triết học được coi là cội nguồn hơn cả loại tư duy
truyền thống khởi nguồn từ Plato và Aristotle, mà đối với họ thì tư duy được
thích nghi với mô hình είδος thị kiến. Heidegger đã phục hồi thêm từ bi kịch
của Sophoclean khái niệm τέχνη bí quyết thủ nghệ tương hợp với hoạt động
thi ca [Herstellen/Fabrication], còn cội nguồn hơn cả cách diễn giải
Platonic-Aristotelien về khái niệm này, được hiểu như là một μιμησις mẫu thức.
Bằng cách tổng hợp, Heidegger đã cố gắng thể hiện mối quan hệ họ hàng nguồn cội
giữa quan niệm về ποίησις thi pháp và νόηίν tư duy, với tư cách là chúng được
tri nhận từ nguồn cội, nhưng với Plato và Aristotle thì đã không còn có thể tiếp
cận được nữa.
Tuy nhiên cái hiện diện trong quan
hệ họ hàng này thì lại không phải ngay lập tức trở nên rõ ràng.2
Heidegger vẫn kiên trì quan điểm về sự khác biệt giữa thi pháp và tư duy triết
học, nhưng ông cũng vẫn cho rằng chúng hoá thân vào “cùng một trật tự” [IM,
26]. Làm cho vấn đề trở nên phức tạp hơn, Heidegger đã khẳng định rằng tư duy
tiền Socratic tự phân biệt bằng một thực tế là bản thân nó vẫn là thi ca
và có quan hệ tương hỗ với nhau, thi ca của Sophocles được nhận thức bằng tính
tư tưởng của nó [IM, 144]. Bất cứ ai quen thuộc với biện chứng pháp
Hegelien thì đều không thể tiếp sức mà lại không đặt câu hỏi, tối thiểu ở bước
đi đầu tiên này là, có phải bản chất của sự phân biệt giữa thi ca và tư duy
triết học trên cơ sở một cái gì đó xuất hiện, tuỳ thuộc vào một cái gì đó khác
để được là chính bản thân nó. Chúng ta có thể bắt đầu làm rõ tính chất mơ hồ có
vẻ có mục đích này sau đây. Vì tư duy triết học quan hệ qua lại một cách tường
minh với nghĩa của Hữu thể, trong khi đó thi ca cội nguồn lại liên hệ khít
kín với nghĩa của Hữu thể, nên không làm cho vấn đề này trở thành
một chủ đề riêng. Vì vậy ngôn ngữ của triết gia và của thi sĩ phản ánh sự khác
biệt này, cho dù các triết gia tiền Socratic đôi khi cũng vẫn vay mượn từ diễn
ngôn thi ca trong việc thể hiện tư tưởng của mình. Tuy nhiên, giải thích này rõ
ràng là thiên lệch. Nó chỉ giúp làm rõ thi ca cội nguồn có tính chất tư tưởng,
nhưng lại không tính đến một thực tế là tư duy triết học ở giai đoạn khởi đầu
của truyền thống đó cũng mang đầy chất thi ca. Việc trả lời rằng tư duy của các
nhà triết học Tiền Socratic là có tính thi ca đến mức các nhà tư tưởng này
thường vay mượn những yếu tố hình thức nhất định từ các diễn ngôn thi ca để thể
hiện nội dung tư tưởng của mình là không thoả đáng, vì nó bỏ qua ý nghĩa hữu
thể luận mà Heidegger quy vào thi ca nguồn cội.
Thi ca của các thi sĩ Hy Lạp giai
đoạn sớm, về nội dung được cô đặc bởi tính tư tưởng của nó. Điều đó có
nghĩa là thi ca của các thi sĩ Hy Lạp không mang tính thi ca, đơn giản là vì
ngôn ngữ mà họ sử dụng, và tương tự như vậy, tư duy của các nhà triết học Tiền
Socratic lại vẫn là thi ca thậm chí cả khi tư duy của họ được thể hiện bằng
ngôn ngữ của các thi sĩ. Phương án giải quyết tình trạng bế tắc này và đồng
thời chỉ ra một sự hiểu biết sâu hơn về thi ca cũng như về tư duy triết học
chính là ποίησις thi pháp, một phương thức khai mở αλήθεια chân lý của Hữu thể
là cái rộng hơn về phương diện khái niệm, chính vì vậy mà có thể thừa nhận mô
thức của cả diễn ngôn triết học hoặc diễn ngôn thi ca. Mặt khác, khái niệm
ποίησις thi phápcũng đem đến tính thống nhất mang tính ngoại suy của thi sĩ và
triết gia. Khái niệm ποίησις thi phápbắt đầu trở thành vị trí nguồn cội của sự
khai mở của Hữu thể, cho dù nó có trở thành chủ đề trong trường hợp của triết
gia hoặc phi chủ đề trong trường hợp của thi sĩ. Cách giải thích như vậy, tạo
cho chúng ta khả năng hiểu được Heidegger đã làm thế nào để có thể auslegen
khai mở được cái ẩn giấu trong thi ca Hy Lạp giai đoạn sớm để làm bừng sáng các
diễn giải của ông về các triết gia này.
Trong bài viết này tôi sẽ xem xét
khái niệm ποίησις thi pháp được khớp nối trong Nhập môn Siêu hình học và
cố gắng làm rõ nghĩa, theo Heidegger, đó là một vị thế nguồn cội của chân lý.
Về mục đích này, trước hết tôi xem xét tại sao vấn đề sản xuất nghệ thuật lại
vận động trong cái nền có trước của các mối quan ưu của Heidegger trong những
năm 1930s. Vì mối quan ưu này trở nên nóng bỏng bởi việc Heidegger triệu hồi
lại một khái niệm nguồn cội ποίησις thi pháp, nêntôi sẽ cố gắng tái dựng cơ sở
khái niệm của phát hiện này. Tôi mong muốn chỉ ra làm thế nào mà phát hiện của
Heidegger về khái niệm nguồn cội ποίησις thi phápnói chung lại được làm thành phương
cách khả thể thông qua việc ông quay trở lại với trường phái Tiền Socratic. Tôi
xin được nhấn mạnh ngay từ đầu rằng khẳng định cuối cùng này không hàm ý là
Heidegger hoàn toàn bỏ qua trường phái Tiền Socratic trước những năm 1930s,
hoặc khái niệm ποίησις thi phápđã không có vai trò trong dự phóng Hữu thể luận
Cơ bản của ông. Ngược lại, chúng ta có thể phát hiện một khối lượng phong phú
các tham khảo về nhóm Tiền Socratic trong Hữu thể và Thời gian cũng như
các bài viết khác ở Marburg, và trong giai đoạn này, diễn giải của Heidegger về
ποίησις thi phápđã đóng một vai trò không thể thiếu được trong cả “Phân
tích-Tồn tại” về Dasein [hiện hữu] và phương pháp triệu hồi mang tính cởi gỡ
của ông đối với hữu thể luận Hy Lạp. Tuy nhiên cái vai trò mà Heidegger đã ấn
định cho nhóm Tiền Socratic và diễn giải của ông về ποίησις thi phápđã có một
vị thế hoàn toàn khác vào những năm 1930s.
Trước hết trong giai đoạn Marburg
[923-1928], một mặt Heidegger nhận thức rõ không có sự đứt đoạn giữa Plato và
Aristotle, và mặt khác, giữa Plato, Aristotle và các nhà tư tưởng Tiền
Socratic.3 Trong thực tế, rõ ràng là
trong giai đoạn này, Heidegger coi nhóm Tiền Socratic là nguồn gốc của bất kỳ
định kiến nào mà truyền thống bắt đầu với Plato và Aristotle đơn giản thế chỗ.4
Thất bại trong việc phân biệt hai nhóm nhà tư tưởng nảy sinh từ một thực tế là
trong giai đoạn này Heidegger chủ yếu tập trung vào Plato và Aristotle, và vì
vậy mà chỉ đồng hoá nhóm Tiền Socratic vào diễn giải của mình. Vì vậy khi tôi
khẳng định rằng Heidegger “quay” trở lại với nhóm Tiền Socratic thì chúng ta có
thể hiểu đây là một sự “tái-quay trở lại” miễn là chúng ta nhớ cho rằng đã diễn
ra một cuộc tái cấu hình quyết định. Trong khi ở giai đoạn Marburg, Heidegger
đã nhìn nhóm Tiền Socratic, Platon, và Aristotle là những cha đẻ tập thể của
triết học phương Tây, mà trong những năm 1930s ông đã đưa một phần vào cái
trước đó đã là một sự thống nhất. Trong Nhập môn Siêu hình học, lần đầu
tiên xuất hiện một chùm các ngôi sao mới, Heidegger cho rằng nhóm Tiền Socratic
thể hiện sự “Khởi đầu Nguồn cội”, vì vậy mà Plato và Aristotle thể hiện là “Kết
cục của Khởi đầu” hoặc nói cách khác, là sự “Khởi đầu của Khởi đầu” [IM, 179].
Thứ hai là, quá trình chuyển hoá mà diễn giải của Heidegger về ποίησις thi
phápdiễn ra trong những năm 1930s là một vấn đề phức tạp và tôi sẽ cố làm rõ
bằng một số chi tiết dưới đây. Tóm lại, cho dù động thái hiểu của Heidegger về
ποίησις thi pháptrong giai đoạn Marburg của ông không được tri nhận như là một
vị thế nguồn cội của việc khải lộ của Hữu thể như nó được tri nhận vào đầu
những năm 1930s. Diễn giải sớm này bị hạn chế bởi cả khuôn viên siêu vượt mà
Heidegger thao tác, và cũng liên quan bởi một thực tế là động thái hiểu của
Heidegger về ποίησις thi pháptrong thời gian này là sự hoà giải chủ yếu thông
qua Aristotle. Con đường mà tư duy của Heidegger sau này lựa chọn, trong đó ông
cố gắng giải phóng bản thân ra khỏi khuôn viên siêu vượt đã khải lộ một chân
trời sâu kín hơn mà dựa vào đó Vấn đề - Hữu thể đã được xem xét. Chính cái chân
trời sâu kín hơn đó cũng đã lát đường, tôi cho là vậy, hướng đến một lối diễn
giải toàn diện hơn về ποίησις thi pháp. Tôi bày biện kết quả thảo luận dưới đây
theo ba phần chính. Trước hết, tôi cố gắng làm rõ cách diễn giải của Heidegger
về ποίησις thi pháp trong giai đoạn Marburg. Thứ hai, tôi sẽ xem xét một số
phát triển đóng góp vào việc phát hiện một khái niệm nguồn cội hơn về ποίησις
thi pháp như nó đã được thao tác cụ thể trong Nhập môn Siêu hình học.
I.
Để xác lập được một ngữ cảnh cho
diễn giải của Heidegger về ποίησις thi pháptrong giai đoạn Marburg của ông,
trước hết chúng ta phải mời gọi những đường viền cơ bản của dự phóng Heidegger
trong thời gian được ông gọi là Hữu thể luận Cơ bản này. Phác thảo nền cảnh này
cũng sẽ chứng tỏ là hữu ích khi chúng ta xem xét động cơ ẩn sau việc tái dụng
khái niệm này trong những năm 1930s. Hữu thể luận Cơ bản thể hiện một sự nỗ lực
nhằm minh định ý nghĩa hoặc nghĩa của Hữu thể [Sinn des Seins] làm cơ sở
cho toàn bộ các hữu thể luận đặc thù. Một hữu thể luận đặc thù tự thân nó quan
tâm đến một hiện hữu đặc thù, và bằng cách làm như vậy, tiền giả định việc diễn
giải quyết định về nghĩa của hiện hữu này. Nghĩa của một hiện hữu đặc thù tiếp
sức cho tầm nhận thức trong đó một hiện hữu đặc thù trở nên khả tri. Vì vậy Heidegger
muốn thể hiện nghĩa của Hữu thể nói chung, là cái đắp nền cho những diễn giải
khả thể về Hữu thể của bất kỳ hiện hữu đặc thù nào.
Dự phóng Heidegger có đủ điều kiện
như là một Hữu thể luận Cơ bản vì thực chất dự bị của nó [BPP,
224]. Trước khi cố gắng làm sáng tỏ nghĩa của Hữu thể nói chung, Heidegger bắt
đầu bằng việc minh định nghĩa của một hiện hữu đặc thù, cụ thể là bản thân
chúng ta. Giả định thao tác là việc minh định nghĩa-Hữu thể của hiện hữu này sẽ
khải lộ tầm nhận thức cho đến lúc ấy vẫn bị che giấu, để có được một diễn giải
nghĩa của Hữu thể một cách thông thường. Quy trình này đã được minh định và hứa
hẹn sẽ gặt hái thành công, Heidegger tin tưởng, vì đặc trưng duy nhất của Hữu
thể của chúng ta. Chúng ta đã luôn luôn sống trong một cách hiểu tiền-chủ đề về
nghĩa như là Hữu thể của các hiện hữu nói chung. [Vì vậy bao gồm cả
nghĩa-Hữu thể của bản thân chúng ta và nghĩa-Hữu thể của các hiện hữu khác với
chúng ta]. Chúng ta là Da-sein [hiện hữu]: kẻ “ở đó” hoặc “ở đây” [Da] mà đối
với nó việc hiểu về “Hữu thể” [Sein] được khải lộ. Để ấn định lại quan
điểm này, Da-sein là vị thế mà ở đó sự siêu vượt này của các hiện hữu so với
Hữu thể đã [luôn luôn đã] xảy ra. Cấu trúc siêu vượt chủ đích này thực chất
thuộc về Hữu thể của Da-sein trong thực tế lại là điều kiện tạo khả năng nảy
sinh Vấn đề - Hữu thể một cách tường minh ở vị trí đầu tiên, và vì vậy việc
giải quyết thấu suốt vấn đề được coi là hình thái của việc minh định nội tại
như Hegel đã thực hiện. Vì yêu cầu là như vậy nên mặc dù Da-sein được cấu thành
bởi việc hiểu về nghĩa của Hữu thể nói chung, Da-sein đã không tự làm cho nó
trở nên minh bạch với bản thân mình. Nó đã không được minh định bằng truyền
thống, theo Heidegger, vì một diễn giải bất kỳ về Hữu thể đã vượt trội lên. Hữu
thể được diễn giải trong khuôn viên của một hiện hữu tĩnh và hiện diện – trước
mặt [Vorhanden] cấu thành các sự vật và Heidegger cho rằng cái truyền
thống khởi đầu trong hữu thể học Hy Lạp bao gồm, nhưng không phải là những bản
sao chép của loại diễn giải này.
Loại diễn giải này không chỉ tẩy
xoá, trước hết, sự khác biệt bất khả quy giản giữa Hữu thể và các hiện hữu – là
cái mà Heidegger trong Các vấn đề Cơ bản của Hiện tượng luận lần đầu
tiên đã quy là “Khác biệt Hữu thể luận” – mà còn, thứ hai, là sự khác biệt giữa
Hữu thể của cái hiện-diện-trước-mặt và Hữu thể của Da-sein. Đối với Heidegger,
vấn đề đầu tiên có nguồn gốc trong vấn đề thứ hai. Diễn giải về Hữu thể của
Da-sein trong khuôn viên của cái hiện-diện-trước-mặt của các sự vật dẫn đến nhị
nguyên luận chủ - khách thể mà từ đó các vấn đề tri thức luận không thể giải
quyết liên quan đến sự qua lại giữa cái cảm giác và cái tri giác xuất hiện.
Việc phân tích Hữu thể của Da-sein theo cách này bao gồm cả sự thật là sự siêu
vượt, hoặc việc hiểu về Hữu thể là bất khả quy giản đối với các hiện hữu, thuộc
về chính Hữu thể của tự thân Da-sein.5
Vì vậy việc định hướng cái truyền thống theo cái hiện-diện-trước-mặt có căn
nguyên từ sự thất bại của việc minh định Hữu thể của Da-sein trong tính cách
chân thực [αυθεντικός- eigentlich] của riêng nó.
Các ghi chú có trước giúp chúng ta
nhìn nhận cách ban đặc ân của Heidegger cho Da-sein một cách thuyết phục hơn.
Vì i) Da-sein tồn tại trong một cách hiểu về Hữu thể nói chung và ii) tiêu
chuẩn truyền thống về Hữu thể là cái hiện-diện-trước-mặt, hơn nữa iii) Hữu thể
của Da-sein không thể quy giản vào cách diễn giải truyền thống về Hữu thể, vì
diễn giải truyền thống này cần phải được bổ sung sao cho nó tính đến cả Hữu thể
của Da-sein. Hơn nữa, vì Da-sein tồn tại trong sự hiểu biết về Hữu thể nói
chung nên việc minh định Hữu thể của Da-sein vì vậy sẽ khải lộ tầm nhận thức
trong đó việc hiểu về các hiện hữu khác Da-sein là khả thể. Nói cách khác, nó
sẽ khải lộ các điều kiện nhấn mạnh nghĩa-Hữu thể của cái hiện-diện-trước-mặt và
đặt nó vào một khuôn viên toàn diện hơn của tính khả tri. Phân tích của
Heidegger về Da-sein thể hiện rằng thời gian tính [Zeitlichkeit] là tầm
nghĩa trong đó Hữu thể của nó phải được thấu hiểu. Các phần đã được công bố của
Hữu thể và Thời gian đã mở ra lập luận này. Heidegger bắt đầu với một
quá trình cô đặc ở quy mô rộng lớn, hoặc tạo ra “chỉ số chính thức” của Da-sein
là Hiện-hữu-trần-thế [In-der-Welt- Sein], sau đó dần dần, bằng cách phân
tích hồi quy đã đưa lại một sự bổ sung cụ thể hơn. Biểu hiện lâm thời của
Hiện-hữu-trần-thế chính là một cách khớp nối khác cái cấu trúc phức hợp của
siêu vượt Da-sein đã được chỉ ra ở trên và là một phương thức thay thế cho cái
nhị nguyên luận chủ-khách thể của triết học hiện đại. Da-sein không phải là một
“chủ thể” có mối quan hệ bên ngoài với một “đối tượng”. Nhị nguyên luận này -
có thể được truy nguyên về Descartes – đã trừu tượng hoá từ tình huống cội
nguồn của Da-sein như đã được khải lộ trong các ứng xử đầy quan ưu hàng ngày
trong đó có việc tự phát hiện trong một thế giới đã thuộc về Hữu thể của nó.
Thế giới không phải là tổng toàn các sự vật mà một chủ thể chộ mặt. Nó cũng
không phải là một cái gì đó chứa đựng các sự vật đó. Việc cô đặc thế giới theo
cách đó đã nội nhập cách diễn giải truyền thống về Hữu thể vào động thái hiểu
về thế giới. Thế giới đúng ra là không gian ý nghĩa [Bedeutsamskeit] nhờ
nó mà Da-sein tự định hướng trong các ứng xử nhất mực quan ưu. Chỉ có
một thế giới [Welt] vì Da-sein, trong sự kiến tạo cơ bản của nó, chính
là tính trần thế [weltlich]. Vì vậy hiện tượng đơn nhất thuộc về
tính trần thế của Tự thân Da-sein đã thế chỗ cho một nhị nguyên luận chủ-khách
thể.
Chúng tôi thấy cần phải nhấn mạnh
rằng Heidegger không từ chối một kinh nghiệm cơ bản về Tha tính hoặc một bẩm tính
không thể bị loại trừ, có lẽ là xung lực thuyết phục nhất về một nhị nguyên
luận như vậy. Tuy nhiên vấn đề là ở chỗ các phạm trù hiện hữu duy trì một nhị
nguyên luận như vậy đều bắt nguồn từ cách diễn giải truyền thống về Hữu thể và
vì vậy mà không được áp dụng một cách tương thích vào cái Hữu thể không tương
xứng của Da-sein. Da-sein không tạo ra các hiện hữu khác, nhưng các hiện hữu
lại đã luôn luôn được hiểu trong một tầm ý nghĩa đã được dự phóng, tức là thế
giới, và kinh nghiệm của bẩm tính hoặc Tha tính, đối với Heidegger, đã được
tích hợp trong cấu trúc Hữu thể của Da-sein. Siêu vượt của Da-sein được tạo
dựng thành một siêu vượt hữu hạn có nghĩa là nó là một siêu vượt bị ném
vào: Da-sein không phải là nền tảng siêu vượt của nó. Heidegger quy vào khía
cạnh mơ hồ thuộc về tính siêu vượt này của Da-sein là sự kiện thực – bị ném vào
[Geworfenheit] của Da-sein. Vấn đề quan trọng là ở chỗ Da-sein không
phải là thực tính vì nó đương đầu với một bẩm tính mờ tối của các thực thể
[“tính đó”, để dùng thuật ngữ Aristotlien] nhưng thay vì Da-sein đương đầu với
bẩm tính này vì Hữu thể của Da-sein vốn là thực tính hoặc hữu hạn.6
Hơn nữa, sự kiện thực và siêu vượt Da-sein là cùng cội nguồn. Vì vậy siêu vượt
Da-sein hàm ý rằng bất kỳ hiện hữu đã cho nào được hiểu dựa trên một nền tảng
của khả tính đã được dự phóng của việc diễn giải, thì những giải thích về sự
kiện thực Da-sein không chỉ giành cho tính hạn chế cố hữu của việc hiểu như
vậy, mà còn giành cho một thực tế là ερμηνεύηίν diễn giải là một nhu cầu cơ bản
hoặc mối quan ưu của Hữu thể của Da-sein. Ngay từ năm 1923 trong một bài giảng
nhan đề Hữu thể luận: Phép tường giải Sự kiện thực, Heidegger đã giải
thích rằng “Phép tường giải không phải là một lối phân tích được bày vẽ một
cách giả tạo tống bừa vào Da-sein và theo đuổi kiệt cùng tính hiếu kỳ…Sự thật
thì diễn giải tự thân nó là một phương thức khả thể và đặc biệt về đặc tính của
Hữu thể của sự kiện thực. Diễn giải là một hiện hữu thuộc về Hữu thể của tự
thân đời sống sự kiện thực”.7
Quan điểm cuối cùng này mang tính
quyết định. Tính hữu hạn của Da-sein theo Heidegger được khải lộ thông qua tâm
trạng xao xuyến tồn tại và sự thừa nhận của riêng Da-sein về
Hiện-hữu-hướng-đến-cái-chết vận hành như là cội nguồn hữu thể học của dự phóng
Da-sein về khả tính và tính trần thế. Trong khi thế giới luôn được tạo dựng như
là một không gian ý nghĩa đã quyết định thì một sự kiện thực, đó là tình trạng
bị ném vào thế giới này của Da-sein chính là cái làm cho động thái hiểu của
Da-sein về Hữu thể thực chất có thể đặt thành vấn đề hoặc là một vấn đề về nó.
Da-sein đã luôn luôn dự phóng một tầm ý nghĩa và vì vậy mà nó khải lộ với một
thế giới, vì Da-sein tồn tại như “là” một cái gì đó vẫn cần phải đạt được, chứ
không phải như là một cái gì đó đã làm xong. Trong khi xao xuyến khải lộ tình
trạng bị ném vào thế giới của Da-sein thì sự thừa nhận tình trạng bị ném vào
thế giới này lại đồng thời là sự khải lộ cái “khả-Hữu thể” [Sein-können]
bất định của riêng Da-sein. Vì vậy, tuyên bố của Heidegger, ẩn ý về một đảo
ngược quan điểm truyền thống, là cái “cao hơn thực tại trụ lập khả tính”
[BT, 63]. Cần phải lưu ý rằng siêu vượt hữu hạn của Da-sein, trong khi được
hình thái hoá thành các yếu tố của sự kiện thực và siêu vượt thông qua phân
tích khái niệm, thì vẫn là một hiện tượng đơn nhất. Cái này không phải là nền
tảng của cái kia, nhưng cả hai đều là những khía cạnh của một tổng thể ban sơ
hơn. Heidegger cố gắng khớp nối một khái niệm đơn, mà ông gọi là “Chăm bẵm” [Sorge]
là cái bao quát được cả hai khía cạnh. Chừng nào Da-sein siêu vượt các hiện hữu
vào Hữu thể thì Da-sein là “Hiện hữu-hướng-tự thân”. Bởi vì Da-sein là sự kiện
thực, nên nó là “Hiện hữu-đã-bị-ném-vào-một-thế giới”. Sự đi lại giữa hai khía
cạnh này giải thích cho tình trạng đã bị rơi vào giữa các thực thể trong một
tầm nhận thức về nghĩa xác định của nó. Vì vậy Heidegger định nghĩa “Chăm bẵm”,
một cách khớp nối ban sơ của Hữu thể Da-sein như sau: “Hữu thể của Da-sein có
nghĩa là Hiện hữu-hướng-bản thân-đã-ở-trong-[thế giới] là Hiện-hữu-bên-cạnh
[“các thực thể chộ mặt trong thế giới này”] [BT, 235-241].
Sau khi minh định Hữu thể của
Da-sein là “Chăm bẵm”, Heidegger cuối cùng đã tái diễn giải cái cấu trúc phức
tạp, mặc dù thống nhất trong khuôn viên của một lối diễn giải nguồn cội về thời
gian tính. Quan niệm này về thời gian tính phải được phân biệt với khái niệm
thời gian do Aristotle xướng lập, cho rằng phép phân tích hệ thống sớm nhất về
khái niệm này, là cái vẫn còn duy trì, còn mutatus mutandis [những gì
cần thay đổi thì đã được thay đổi], một loại quan điểm thống trị của truyền
thống. Đối với Aristotle thời gian được cảm thụ như là một chuỗi tuyến tính của
“những Bây giờ” và vì vậy mà cái tổng thể của thời gian, bao gồm cả tương lai
và quá khứ được xác định bằng một phần của nó, cụ thể là hiện tại.8 Theo Heidegger đặc ân này của hiện tại không
phải là tình cờ; nó phản ánh lối diễn giải truyền thống về Hữu thể như là hiện
diện-trước-mặt. Vì khuynh hướng hữu thể học này phát sinh từ một cách hiểu toàn
diện về Hữu thể được lân la thông qua một phân tích về Hữu thể của Da-sein, vì
vậy nó là khái niệm Aristotlien về thời gian. Nói cách khác, nó bắt nguồn từ
nghĩa thời gian nguồn cội của Da-sein. Thời gian tính nguồn cội là một hiện
tượng thống nhất mà từ đó hiện tại hiện khởi bên ngoài sự qua lại của tương lai
và hiện tại. Các thời khắc, hoặc έκστασις cảm giác mê li, tương ứng với các
thời khắc có thể tái khắc hoạ tạm thời tạo dựng nên cấu trúc phức tạp của Hữu
thể Da-sein được diễn giải là “Chăm bẵm”. Chỉ có thông qua phân tích về Hữu thể
của Da-sein, tự khải lộ là “Chăm bẵm” mới có thể khai mở được tầm nhận thức về
thời gian tính cội nguồn. Và khi đã được khai mở thì thời gian tính tiếp sức
cho tính thống nhất về nghĩa của Hữu thể Da-sein là cái mà Heidegger tìm cách
phô bày. Quá trình thống nhất thời gian tính xác lập tính thống nhất của “Chăm
bẵm” và vì vậy mà được coi là khái niệm cơ bản hơn với năng lực diễn giải mạnh
hơn.
Trong giai đoạn Marburg, Heidegger
đã đặc trưng dự phóng của ông là một khoa học ban sơ về Hữu thể 9
[BPP, 11-15,320-324/BT, 21-63]. Như chúng tôi đã lưu ý, ý định
của ông là lân la giải quyết thấu đáo thời gian tính [Temporalität] của
Hữu thể nói chung dựa trên phân tích ấy về Da-sein. Tuy nhiên trong Hữu thể
và Thời gian [1927], cái magnum opus [kiệt tác] của ông cũng như các
bài giảng có liên quan khác trong thời gian này – Lịch sử Khái niệm Thời
gian [1925-26] đã được thực hiện không lâu trước Hữu thể và Thời gian,
và Các vấn đề Cơ bản của Hiện tượng luận [1927] ra đời sáu tháng sau –
thì dự phóng này đã không được hoàn thành.10
Chúng ta sẽ quay lại với vấn đề này trong phần tiếp theo vì nó được sử dụng làm
nền tảng cho động thái hiểu mà diễn giải của Heidegger về ποίησις thi phápvào
những năm 1930s và chúng ta sẽ xem xét vai trò của ποίησις thi pháptrong Hữu
thể luận Cơ bản của Heidegger. Với mục đích này, chúng ta sẽ tập trung vào hai
văn bản: Các vấn đề Cơ bản của Hiện tượng học và Hữu thể và Thời gian.
Ở tác phẩm đầu, khái niệm ποίησις thi phápvận hành minh bạch như là chiếc đinh
chốt trụ xe cho việc tháo gỡ truyền thống triết học phương Tây của Heidegger. Ở
tác phẩm thứ hai, vai trò của ποίησις thi phápkhông được khải minh, tuy nhiên
nó lại chi phối một cách khít kín phân tích của ông về cái Hiện-hữu-trần-thế
hàng ngày của Da-sein.11 Trong Các vấn đề Cơ bản của Hiện tượng
học, Heidegger cố gắng thể hiện cách diễn giải về Hữu thể là
hiện-diện-trước-mặt, là cái bắt nguồn từ hữu thể luận Hy Lạp có cội nguồn trong
việc hiểu về Da-sein được định hướng bởi tầm nhận thức về sản nghệ. Kết quả của
định hướng này là các phạm trù siêu hình học của hữu thể luận Hy Lạp được mô
hình hoá dựa trên kinh nghiệm hành vi sản nghệ, tức là ποίησις thi pháp. Cái
đầu mối, theo Heidegger, biểu hiện định hướng này là ở chỗ khái niệm είδος thị
kiến, chỉ định đồng nhất tính của một sự vật được coi là tiên thiên đối với
μορφη hình thái của cách hình dung về một sự vật. Nếu hữu thể học Hy Lạp coi sự
hướng dẫn về nó là tri giác thông thường thì cái είδος thị kiến về một vật nào
đó, tức là tính chất quyết định của một cái gì đó, sẽ biểu lộ hình thái của sự
vật mà tri giác tiếp sức.
Tuy nhiên, đối với hữu thể luận
Hy Lạp, mối quan hệ nền tảng giữa είδοςthị kiến và μορφηhình thái chính xác
là ngược lại. Thị kiến không được xây nền trong hình thái nhưng hình thái thì
lại được xây nền trong thị kiến. Mối quan hệ nền tảng này chỉ có thể được giải
thích bằng một sự thật là hai yếu tố quyết định cho tính sự vật, thị kiến và
hình thái của sự vật không được hiểu bằng tính chất cổ xưa chủ yếu theo trật tự
tri giác về một cái gì đó. Để hiểu được, tôi phải xuyên qua cái nhìn về sự vật
để đến với bản thân hình thái của nó. Hình thái của sự vật trước hết, về cơ bản
là theo trình tự của tri giác. Nhưng nếu mối quan hệ giữa thị kiến và hình thái
được đảo ngược trong tư tưởng cổ đại thì đầu mối dẫn dắt cho việc diễn giải của
chúng lại không thể là trật tự của tri giác và của bản thân tri giác. Đúng ra
chúng ta phải diễn giải chúng bằng quan điểm về sản nghệ [BBP, 106]. Tại
sao lại là sản nghệ? Vì trong sản nghệ, nghệ sĩ dự phóng về một hình ảnh của sự
vật, tức là cái nhìn có chủ đích về nó, trước khi sự vật được tạo ra, nó chính
là hiện thân của hình ảnh này. Sản phẩm, chừng nào còn thực sự hoàn thành chủ
định này thì nó sẽ trở thành sự giống nhau hoặc việc mô phỏng về mô hình dự
phóng này. Điều này cũng giải thích, Heidegger lưu ý, tại sao είδος thị kiến
cũng được [Aristotle] quy thành το τι ην είναι cái mà nó đã là, một sự vật đã là,
trước khi nó hiện thực hoá “này”. [ibid, 107] Sau đó Heidegger biểu hiện
cái cách thức mà các phạm trù Hy Lạp khác cũng được mô hình hoá theo hành vi
sản nghệ, và định hướng này cũng hướng đến việc sản nghệ chứng tỏ tính chất tạo
thành cho tất cả các phạm trù siêu hình học tiếp theo của hữu thể Trung cổ và
Hiện đại. Khái niệm các hiện hữu được tạo ra ngược lại với không được tạo ra đã
trở thành cơ sở cho hữu thể luận Trung cổ được Descartes thực hiện. Ngay cả
Kant, như Heidegger sau này đã chỉ ra, cũng chấp nhận chính định hướng đó, vì trí
năng rời rạc được xác định trái ngược với quan niệm về trí năng sáng tạo và vì
vậy mà không tạo dựng các đối tượng của nó, nhưng phải được cấp cho chúng nhờ
năng lực đặc biệt của khả năng tri giác [ibid, 147-154].
Định hướng đến sản nghệ ngụ ý như
thế nào về một hữu thể luận của sự hiện diện? Heidegger thể hiện điều này thông
qua một phân tích chặt chẽ hơn về thực chất mục đích luận của sản nghệ. Trong
sản nghệ, người thợ thủ công không chỉ tạo hình vật chất của mình đến mức có
thể là hiện thân của mô hình đã được dự phóng, mà khi làm như vậy ông ta còn
giải phóng vật chất này khỏi sự phụ thuộc vào người thợ cho đến khi nó thực sự
có được sự giống hệt đó, thì nó độc lập trở thành một hiện-hữu-tự-thân.
Đến lúc kết thúc thì vật đó không hiện diện đầy đủ với chính bản thân nó. Vì
việc thành tựu được sự hiện hữu này là τέλος mục đích của sản nghệ, nên sự hiện
diện-trong-tầm-tay [Vorhandensein] không chỉ là tích hợp của quá trình
sản nghệ, mà nó còn là chủ ý của sản nghệ. Heidegger giải thích rằng “Trong cấu
trúc chủ đích ấy của sản nghệ có một sự quy chiếu ngầm đến một cái gì đó mà cái
gì đó này được hiểu là không bị trói buộc hoặc phụ thuộc vào chủ thể, mà ngược
lại, lại được giải thoát và độc lập” [ibid, 114]. Điều này cũng giúp giải thích
tại sao cách lĩnh hội mang tính nhận thức của hữu thể luận Hy Lạp lại được cấu
tạo như là con mắt và vì vậy mà mang tính lý thuyết, là cái hàm ẩn một cấu phần
tách rời đối với một đối tượng và một thái độ như vậy Da-sein chỉ có thể chấp
nhận khi nó đã tự cách ly khỏi hành vi sản nghệ. Hình thái nhìn nhận tách rời,
hoặc cái νόηίν tư duy trực giác thuần tuý ấy chính là sự biến đổi của cái nhìn
theo tầm liên quan đến hành vi sản nghệ [ibid, 109-110].
Phân tích của Heidegger về tiến
trình đã đưa ra câu hỏi sâu hơn mà ông phải hướng đến: Tại sao hữu thể luận Hy
Lạp lại được định hướng bởi sản nghệ trước hết? Để trả lời câu hỏi này,
Heidegger đã giải thích rằng hữu thể luận Hy Lạp là “ngây thơ”. [ibid, 110] Một
mặt hữu thể luận Hy Lạp là tự phản tư và cố siêu vượt động thái hiểu hàng ngày
về Hiện-hữu-trần-thế trong đó Da-sein [hiện hữu] chìm đắm phi phản tư để bóc
trần cái cấu trúc khả tri nằm dưới nó. Mặt khác, hữu thể luận Hy Lạp vẫn tồn
tại trong cái hàng ngày và xác định phương hướng từ cái hàng ngày. Kết quả là
nó không đủ phản tư. Bằng tình trạng tồn tại trong khuôn viên của cái hàng ngày
thông thường, nó không thành tựu trong việc minh định được Hữu thể của Da-sein
bằng cách có thể diễn giải sâu hơn các điều kiện nằm dưới lớp nghĩa của Hiện
hữu hàng ngày trong thế giới này. Vì lý do đó, tối thiểu Heidegger cũng đồng
thời nhận thấy bước ngoặt hiện đại sang chủ đề như là một bước đi đúng vì nó
thể hiện nhu cầu minh định Hữu thể của Da-sein, cho dù sự nỗ lực hiện đại này
vẫn bị lạc lối bởi các giả định đề hữu thể luận truyền thống mà nó vẫn đeo đẳng
một cách thiếu phê phán. [ibid, 313] Tuy nhiên điều đó tự thân nó không đủ để
giải thích tại sao việc duy trì cách hiểu hàng ngày về các hiện tượng vẫn tiềm
ẩn một định hướng đến sản nghệ. Heidegger thẳng thắn thừa nhận rằng việc giải
thích đầy đủ cần phải thể hiện nhu cầu về định hướng này đến sản nghệ, nhưng
ông lại không thoả mãn với yêu cầu này [ibid, 116]. Tất nhiên sau đó ông chỉ rõ
hành động sản nghệ phải giả định ra sao đối với thời gian tính cội nguồn và
phải được hiểu trong khuôn viên của nó, nhưng ông lại thất bại trong việc bày
biện sự cần thiết nội tại định hướng này trước hết. Tôi nghĩ rằng sự bỏ sót này
là có ý nghĩa. Có lẽ nó khới ra rằng Heidegger không hoàn toàn hiểu rõ bản thân
ông trong thời gian này liên quan đến phạm vi hiểu biết riêng của ông. Khiếm
khuyết này trong lập luận của ông đã cho thấy nếu nó không tiên báo được thì
cái khả tính mà ποίησις thi phápcó thể có một cội nguồn sâu hơn điều mà
Heidegger hiểu được trong thời gian này. Điều đó cũng không làm sói mòn sự phân
tích tout court cạn nhẽ của Heidegger. Có thể ông vẫn bảo lưu rằng hữu
thể luận Hy Lạp được định hướng tới động thái hiểu thường ngày về sản nghệ, tức
là thất bại trong việc phản ánh sâu sắc hơn về hiện tượng sản nghệ. Nhưng vậy
thì có lẽ chúng ta phải bổ sung thêm là tầng nghĩa sâu hơn của sản nghệ cũng đã
bị Heidegger bỏ qua. Cả Jacques Taminiaux và Franco Volpi là những người đã tát
cạn các chi tiết gây tranh cãi của Gadamer cũng đã xem xét kỹ lưỡng cung cách
“Phân tích – Dasein” trong Hữu thể và Thời gian của Heidegger theo cách
lấy Nicomachean Ethics của Aristotle làm của mình.12 Sự thực thì chúng ta đều biết rằng Hữu thể
và Thời gian xuất hiện vượt khỏi một công trình đã được dự phóng bao gồm
một loại diễn giải hiện tượng luận về Aristotle, nhờ đó mà ông được đưa cho một
vị trí tại Đại học Marburg.13 Dẫu sao thì Taminiaux chính là người
đã xử lý một cách sâu sắc việc Heidegger chiếm làm của riêng khái niệm ποίησις
thi pháp của Aristotle, chủ yếu bằng cách rút ra từ khoá giảng của Heidegger
năm 1924 về Nhà nguỵ biện của Plato.
Việc Heidegger lấy khái niệm ποίησις
thi phápcủa Aristotle chủ yếu nhờ vào khoá giảng năm 1924 của ông về Nhà nguỵ
biện của Plato.14 Ông đã chỉ ra cái
cách thức mà khái niệm của Aristotle đã bắt đầu được hữu thể luận hoá như thế
nào cho phù hợp với vấn đề của Hữu thể luận Cơ bản, và đặc biệt là được dùng
làm hệ mẫu cho phân tích Dasein của Heidegger theo phương thức hàng ngày không
chân thực của Hiện-hữu-trần-thế. Trong phương thức hiện hữu hàng ngày không
chân thực trong thế giới này, Dasein không chộ mặt với các thực thể như là các
sự vật hiện-diện-trước-mặt [Vorhanden], mà như một vật dụng
có-sẵn-để-dùng [Zuhanden], và vì vậy mà thực sự được sử dụng bằng cách
đưa vào khuôn viên xem xét lý thuyết. Các thực thể chỉ bắt đầu
hiện-diện-trước-mặt khi xuất hiện một sự ly thân trong ngữ cảnh đầy ý nghĩa,
tức là cái thế giới trong đó các thực thể vật dụng được ấn định chức năng chính
xác của chúng. Vì vậy việc diễn giải các thực thể hiện-diện-trước-mặt chính là
bắt nguồn từ cái-có-sẵn-để-dùng, vì vậy nghĩa của việc lý giải được hiểu là một
sự biến đổi của cái có sẵn để dùng. Việc chộ mặt với cái có sẵn để dùng trong
khi được đặc trưng bởi sự hấp thụ trực tiếp trái ngược với việc tách rời đặc
trưng cho cuộc chộ mặt với cái hiện-diện-trước-mặt, dù sao cũng bao gồm cả
είδος thị kiến. Nhưng đó là loại thị kiến có một cấu trúc chủ đích kỳ dị. Nó
bao gồm một loại thị kiến ngoại biên, dè dặt [Umsicht] của ngữ cảnh để
cho thực thể đặc thù được coi như là một mẩu vật dụng đặc thù này có chức năng
đặc thù ấy. Nói cách khác, nó bao gồm một sự lân la năng động giữa sự lâu bền
và mức độ sử dụng, đem quyền ưu tiên đến cho việc sử dụng. Ngược lại, thị kiến
bao gồm việc chộ mặt với cái-hiện-diện-trước-mặt lại đem quyền ưu tiên đến cho
thực thể và cũng làm đúng như vậy vì nó tự thân tách rời khỏi ngữ cảnh nền
tảng. Theo Taminaux thì phân tích của Aristotle về ποίησις thi phápđược sử dụng
làm mô hình cho riêng Heidegger. Khi người thợ thủ công sản nghệ ra được một
tác vật thì hắn hằng xuyên, dù chỉ có tính ngoại biên, giữ lại trong tâm trí
cái mô hình tạo tác nhắm đến. Cần lưu ý rằng tình trạng không làm cho mô hình
này được nhận thức một cách tường minh chính là điều kiện cho việc tiếp tục tạo
tác với vật liệu. Bằng phương thức song hành, việc không đưa ngữ cảnh đầy ý
nghĩa, tức là thế giới đến một nhận thức tường minh chính là điều kiện cho
Da-sein phát hiện ra một điều gì đó có-sẵn-để-dùng. Cái có ý nghĩa ở đây, và
cần phải được nhấn mạnh chính là sự kết nối giữa cái hàng ngày và tính không chân
thực. Cái hàng ngày đối với Heidegger là không chân thực bởi vì nó không phải
là một sự khải lộ nguồn cội của Hữu thể riêng của Da-sein. Trong phương thức
hàng ngày của Hiện-hữu-trần-thế, Dasein sống bằng cách che giấu các khả tính
của riêng nó và thế chỗ các diễn giải công cộng và đã được xác định. Theo
Heidegger thì việc bị cuốn hút vào thế giới hàng ngày của những phép ứng xử đầy
quan ưu chính là một cách trốn tránh khỏi bị khải lộ của cái “khả-Hiện hữu” bất
định và hữu hạn, hoặc “Hiện-hữu-hướng-đến-cái-chết” của riêng Dasein.
Bổ sung cho việc thể hiện di sản
Aristotlien của khái niệm Hiện-hữu-trần-thế của Heidegger, Taminiaux cũng như
Volpi đều thể hiện khái niệm tính kiên định [Entschlossenheit] báo trước
của Heidegger, theo đó Da-sein chấp nhận Hiện-hữu-hướng-đến-cái-chết hữu hạn
của nó và vì vậy mà trở nên khải minh đối với khả tính tồn tại riêng của nó, là
một cách chiếm lấy khái niệm φρόνησις trí tuệ thực hành của Aristotle, đó là sự
tương hợp giữa tri thức và πράξη hành động thực tiễn.15 Chỉ có trên
cơ sở này thì hành động khải lộ cội nguồn của các khả tính riêng của Da-sein
mới có thể là sự trốn chạy khỏi nó, tức vong thân, tự đánh mất mình. Vì vậy cái
hàng ngày không khải lộ Hữu thể của Da-sein theo cách thông thường, mà chỉ hé
mở một phương thức Hữu thể của nó. Tuy nhiên, chừng nào nó còn che giấu cái cơ
sở hoặc nền móng khả tri của những ứng xử hàng ngày đầy nỗi quan ưu thì nó vẫn
không chân thật [eigent-lich]: nó không chịu hé mở cái tận-Hữu thể
của Da-sein. Nếu khái niệm Hiện-hữu-trần-thế không chân thật của Heidegger, như
Taminiaux lập luận một cách thuyết phục, là lấy từ quan niệm về ποίησις thi
pháp của Aristotle thì nó đã xác định cơ sở khái niệm từ một sự khải lộ không
mang tính cội nguồn, có nguồn gốc dẫn xuất về nghĩa của hiện hữu Da-sein và
trong khuôn viên Hữu thể luận Cơ bản, làm nghĩa của Hữu thể nói chung. Nói cách
khác: ποίησις thi pháp, đã được Heidegger biến đổi về phương diện hữu thể luận,
thì không phải là một vị thế nguyên bản của chân lý. Trước khi khép lại phần
này, chúng ta có thể liếc qua tính bất nhất giữa hai văn bản được xem xét ở
trên. Một mặt khái niệm ποίησις thi pháp của Aristotle được lấy làm mô hình cho
quan niệm của Heidegger về Hiện-hữu-trần-thế không chân thực. Mặt khác, khái
niệm ποίησις thi pháp đã trở thành Punctum Archimedis, điểm Archimedien
cho động thái giải cấu trúc phê phán của ông đối với hữu thể luận và siêu hình
học Hy Lạp về sự hiện diện quyết định hữu thể luận. Prima facie [dám
thưa] đôi lời khép lại phân tích Hiện hữu Da-sein của Heidegger là thuận theo
truyền thống, và cũng quá kiên quyết bởi quan niệm về sản nghệ. Tuy nhiên, để
biện hộ cho Heidegger, chúng ta có thể đối khẩu rằng mặc dù xuất phát điểm của
ông là quá kiên định, nhưng định hướng mà truy vấn mà ông lựa chọn thì lại
không quá tạo dựng từ nền tảng bên dưới đó và những gì mà nó giả
định.
Vì vậy tôi không được phép bỏ qua
một sự thật là Heidegger sau tất cả những gì xác định vị trí phương pháp luận
của ông từ khái niệm sản nghệ, và điều đó mời gọi chúng ta xem xét vai trò ấn định
cho nó ra sao trong nền kinh tế của Da-sein -Phân tích đã dựng đặt những tường
bao nội tại ngăn cản sự hiểu biết sâu hơn về khái niệm này. Công việc mô hình
hoá của Heidegger về cái chân thực và cái không chân thực của Da-sein đối với
khái niệm thi pháp và thực tiễn của Aristotle đã gây ra tình trạng bất hoà
giữa thi pháp và thực tiễn, và đến lượt mình nó lại ngăn cản sự tích hợp thi
pháp vào cái Hiện-hữu-trần-thế chân thực của Da-sein. Đồng thời, một mặt, dường
như vẫn tồn tại một độ căng sắc nét giữa phép đồng cấu khái niệm của thi pháp
và thực tiễn, và ngoài mặt, phép đồng cấu khái niệm cũng cử nhạc tiễn đưa cái
Dasein Phân tích đó. Phân tích của Heidegger về tính quyết định chân thực được
đan dệt tỷ mỷ [có mục đích và được biện minh] dựa trên một cấp độ hình thức đến
mức là ông cảm thấy khuây khoả về vấn đề tiền hữu thể luận liên quan đến những
cách thức cụ thể, trong đó khả tính tối hậu của Da-sein được hiện thực hoá
trong thế giới của nó. Nhưng điều đó vẫn không pha loãng vấn đề hữu thể luận
vẫn duy trì ở cấp độ hình thức là cái mà Da-sein phải hiện thực hoá các khả
tính tối hậu của nó trong cái thế giới mà nó chưa bao giờ rời bỏ. Thực ra thì
tự Heidegger cũng đã từng tuyên bố điều đó trong một khuôn viên không phải là
bất trắc: “Tính kiên định, như là Hiện-hữu-tự thân-kẻ-nào-đó chân thực,
không tách rời Dasein ra khỏi thế giới của nó…Và điều đó sẽ ra sao khi tính
kiên định với tư cách là sự khải lộ chân thực, một cách chân thực, không
là gì khác ngoài Hiện-hữu-trần-thế? Tính kiên định đưa chính Tự ngã đến
với Hiện-hữu-bên-cạnh đầy quan ưu hiện thời, là cái sẵn có, và đẩy nó vào Hiện
hữu thực sự chăm bẵm kẻ khác”. [BT, 344]16. Nói cách khác, đã xuất
hiện việc chuyển khả tính của một quan niệm về sản nghệ là quá trình hiện thực
hoá của các khả tính tối hậu của Da-sein vào khuôn viên của Da-sein Phân tích.
Quan điểm của tôi là cái đồng cấu hình đối khẩu, phân đôi giữa thi pháp và thực
tiễn mà Heidegger đã lấy từ Aristotle trong thời gian này đã ngăn cản một hiểu
biết sâu sắc hơn về sản nghệ là cái có thể hoà giải với tính chân thực của
Da-sein, và đó là khả tính bị bỏ qua, là cái mà Heidegger đã khôi phục lại
trong suy tư của mình sau này vào những năm 1930s. Hơn nữa tôi cho rằng đó
chính là thất bại của Heidegger trong việc nhìn nhận món nợ này đối với việc
duy trì một cách giáo điều cái đặc ân của Aristotle về thực tiễn so với thi
pháp. Đối với Aristotle, thực tiễn là một phương thức hoàn hảo hơn của sự khải
lộ Hữu thể vì nó là một ένέργεια hành động, công việc, thao tác, [vì gốc của
ένέργεια gồm 2 thành tố: i) έν = tại, ở; ii) έργων = công việc]. Tuy nhiên,
Aristotle dùng khái niệm ένέργεια theo nghĩa sức mạnh “khải hiện”, nó không
thuộc về một mục đích ở bên ngoài bản thân. Ngược lại, ποίησις thi pháplà một
δύναμις tiềm năng, [khả năng, sức mạnh], thuộc về một mục đích ở ngoài bản
thân, nó vốn không hoàn thiện khi nào mục đích này chưa được thực hiện. Vì vậy
πράξις thực tiễn hoàn toàn hiện diện với chính bản thân nó, nhưng ποίησις thi
phápthì không. Ưu quyền này được Aristotle kết hợp hài hoà vào πράξις thực
tiễnvượt lên so với ποίησις thi phápbằng cam kết hữu thể luận của ông với siêu
hình học về sự hiện diện. Cái gây ấn tượng mạnh về việc Heidegger chiếm lấy các
khái niệm này chính là ở chỗ cái ẩn giấu bên dưới nó đối với Aristotle lại cũng
chính là cái mà Heidegger bày biện để cởi gỡ.
II
Vì vậy chúng ta cần thêm nỗ lực để
chỉ ra tại sao mà trong giai đoạn Marburg của Heidegger, ποίησις thi phápđã
không được coi như là có một vị thế cho sự khải lộ gốc về chân lý. Tôi cũng đã
gợi ra khả tính cố hữu của một quan niệm chân thực về ποίησις thi phápvà đã
thúc đẩy một cách giải thích hợp lý liên quan đến vấn đề là tại sao Heidegger
lại bị ngăn trở để không thấy được thị kiến này. Trong phần này tôi muốn minh
định cơ sở của diễn giải Heidegger về ποίησις thi phápxuất hiện trong những năm
1930s. Trong ghi chú ở phần giới thiệu, tôi đã khẳng định rằng tầm diễn giải
này đã được mở ra thông qua việc quay trở lại của Heidegger, hoặc tái trở lại
với nhóm Tiền Socratic.Trước hết tôi đề xuất giả thuyết trước khi tháo gỡ những
chi tiết phức tạp mà tôi sẽ cố thể hiện, và tiếp sức cho nó. Khẳng định đầu
tiên của tôi là phát hiện của Heidegger về nghĩa gốc sâu hơn của ποίησις thi
phápđược dựng đặt dựa vào nền tảng phát hiện về một nghĩa gốc của φύσις tự
nhiên, mà ông đã vạch ngược trở lại với nhóm Tiền Socratic. Heidegger phát hiện
ra rằng đối với nhóm Tiền Socratic, thì φύσις tự nhiên, là một thuật ngữ có thể
thay thế cho Hữu thể. Cái φύσις tự nhiên là tên gọi xác định rõ nghĩa của Hữu
thể theo nghĩa thông thường, và không chỉ là một phương thức đặc biệt của Hữu
thể, hoặc một bộ phận của cái toàn thể như là đối với Plato và Aristotle. Quan
niệm Tiền Socratic này về φύσις tự nhiên vẫn chứa đựng một chiều góc vắng mặt
nội tại, vì vậy mà nó không thể được quy giản vào sự hiện diện thuần tuý. Quan
niệm này trái ngược với quan niệm về φύσις tự nhiên mà Heidegger đã quy vào hữu
thể luận Hy Lạp nói chung, là thứ có vị trí nổi bật trong giai đoạn Marburg của
ông, bao gồm cả các triết gia tiền Socratic. Trong Các vấn đề Cơ bản về Hiện
tượng luận, và trong bối cảnh thảo luận mà chúng ta đã xem xét, Heidegger
rõ ràng đã đánh đồng φύσις tự nhiênvới một thực tính không thể biến đổi. “Cái
yếu tố φύσις tự nhiênquyết định ấy cũng chỉ hướng theo cùng một hướng diễn giải
về cái …Sự vật chân thực khởi hiện của φύσις tự nhiên, thực tính của sự vật.
Mọi thứ có trước cái được hiện thực hoá thì vẫn tự do đối với cái không hoàn
hảo, tính một phía, và tác động gây cảm giác cho trước nhất thiết cùng với toàn
bộ quá trình hiện thực hoá. Cái đi trước toàn bộ quá trình hiện thực hoá, cái
thị kiến cung cấp tiêu chuẩn thì vẫn không tuỳ thuộc vào sự thay đổi giống như
cái hiện thực, vào sự đang-trở-thành-hiện-hữu và đang-chết-đi” [BPP,107].
Hơn nữa Heidegger kiên trì quan điểm cho rằng quan niệm này về φύσις tự
nhiên được định hướng đến tầm nhận thức về sản nghệ.
“Φυέιν [có từ căn φυω = sản sinh ra,
gây ra] có nghĩa là để cho trưởng
thành, sinh đẻ, sinh ra, sản xuất ra, chủ yếu là sản sinh ra chính bản thân nó.
Cái làm cho các sản phẩm, hoặc sản phẩm được sản nghệ trở nên khả thể chính là
thị kiến về cái mà sản phẩm được giả định trở thành, và là nó” [ibid]. Bây
giờ khẳng định thứ hai của tôi là vì φύσις tự nhiênđược quyết định tối hậu bằng
việc sản sinh ra theo tư duy giai đoạn sớm của Heidegger, và sau đó Heidegger
vẫn coi đó là một nghĩa gốc sâu hơn của φύσις tự nhiênmà ông đã phát hiện ở
nhóm Tiền Socratic thì không có thể so sánh được với giải thích này, nên
Heidegger đã hướng đến suy nghĩ lại về nghĩa của sản nghệ hoặc ποίησις thi
pháp. Nó buộc ông phải xem xét lại, đó là, cuộc tranh cãi cổ đại giữa các thi sĩ
và các triết gia nổi tiếng được Plato ghi chú trong Nền cộng hoà. Câu
hỏi liên quan đến sự phát sinh tái diễn giải của Heidegger về ποίησις thi
phápphải được trả lời bằng cách ổn định tầm nhìn của chúng ta, sau đó bắt tay
vào một câu hỏi sâu hơn: Cái gì kích thích Heidegger quay trở về với nhóm Tiền
Socratic và với phát hiện về một quan niệm gốc gác hơn về φύσις tự nhiên? Các
chi tiết dẫn đến cả hai câu hỏi này đều khó tái cấu trúc một cách tuyến tính
nghiêm nhặt vì con đường đã được vạch ra bằng một ngã rẽ của những nguồn cội
tác động qua lại khác nhau. Thực sự thì đầu những năm 1930s đã kiến tạo nên một
trong những giai đoạn rắc rối và triết trung nhất trong sự hình thành tri thức
của Heidegger. Hầu hết đều đồng ý rằng việc Heidegger đồng thời đọc thêm Hölderlin
và Nietzsche, là những nhân vật mà ông đã trình bày trong một loạt bài giảng từ
1934-1936, cũng như cuộc đối khẩu của ông với Hegel và cuộc chộ mặt của ông với
Jünger, tất cả đều là những nhân tố đóng góp quan trọng.17 Nietzsche
lẽ ra nên được lựa chọn một cách đặc biệt. Trong Nhập môn Siêu hình học
[1935], Nietzsche đã hiện diện trong chương đầu tiên và ở chương 4 chúng tôi
phát hiện ra một phê phán dứt khoát đối với diễn giải của Nietzsche về cái
truyền thống và, theo Heidegger, sự phân cực sai lầm của Parmenides và
Heraclitus. [IM,126] Trong thực tế, trong một bài giảng sớm hơn vào năm
1931 về Aristotle, Heidegger đã dẫn một đoạn trong tiểu luận của Nietzsche Triết
học trong thời đại bi kịch của người Hy Lạp.18 Điều này có ý
nghĩa đặc biệt vì trong tiểu luận này Heidegger đã không chỉ quy về cái mà
Nietzsche đã đề cao các triết gia Tiền Socratic mà ông còn rút ra được một khác
biệt rõ rệt giữa họ và với truyền thống bắt đầu với Plato và Aristotle.
Nietzsche đã coi giai đoạn chuyển tiếp này là một quá trình đi xuống, là một
quan điểm mà bản thân Heidegger đã tán thành trong Nhập môn Siêu hình học.
Hơn nữa, không có việc tối thiểu hoá tác động của Nietzsche [và Hölderlin] đến
diễn giải của Heidegger về nhóm Tiền Socratic, tôi tin rằng nó sẽ không thể
hoàn thành. Không chỉ có Heidegger đọc hai nhà tư tưởng thi ca này ngay từ thời
thanh niên19, và tự thân điều đó cũng không giải thích được cái đề
tài về φύσις tự nhiên được nhấn mạnh đó đã trở thành trung tâm cho việc
Heidegger biến nhóm Tiền Socratic làm của riêng. Nói cách khác, tôi tin rằng có
một động cơ sâu xa hơn đằng sau việc Heidegger quay trở lại với nhóm tiền
Socratic mà Nietzsche và Hölderlin đã tiếp sức cho ông khớp nối. Điều đó cốt ở
tại một phát hiện về một quan niệm nguồn cội hơn về φύσις tự nhiên. Nhưng cái
gì khiến Heidegger suy nghĩ lại về khái niệm φύσις tự nhiên?. Ở đây tôi muốn
chỉ ra rằng trước hết, tái diễn giải của Heidegger về khái niệm này đã mở ra
những phát triển nhất định nội tại đối với dự phóng của Heidegger liên quan đến
cái gọi là Kehre [bước ngoặt] của ông và nó có vẻ như đã trở nên rất rõ
ràng trong diễn văn nhậm chức tại đại học Freiburg của ông có tiêu đề Siêu
hình học là gì? và đã trở nên hiển nhiên trong một bài giảng cho năm tiếp
theo, được gọi là Về thực tính của chân lý; thứ hai, điều này thúc đẩy
Heidegger xem xét lại quan niệm về φύσις tự nhiêncủa Aristotle; và cuối cùng,
mối quan tâm thứ hai này lại dẫn Heidegger đến việc tái định giá về nhóm Tiền
Socratic.
Như chúng tôi đã lưu ý ở đằng trước
rằng Hữu thể và Thời gian đã không bao giờ được hoàn thành. Bài giảng
tiếp theo, Các Vấn đề Cơ bản của Hiện tượng luận, như Heidegger đã chỉ
rõ trong một chú thích giới thiệu bài giảng này là được đề xuất để hoàn thành Hữu
thể và Thời gian, giống như vậy, bản thân nó cũng không được hoàn thành.20
Phần thứ ba không được xuất bản của Hữu thể và Thời gian đã trình bày
nghĩa của Hữu thể của Dasein về phương diện thời gian đã mở ra tầm nhận thức cơ
bản cho một diễn giải về tất cả mọi hiện hữu. Giờ đây Heidegger đã không thất
bại trong việc đáp ứng một giới hạn cuối cùng; ông đã rút bỏ một cách có chủ ý
việc xuất bản phần thứ ba và nhiều người trong giới hàn lâm đã băn khoăn không
biết tại sao lại như vậy. Một trong những phản ứng nổi bật nhất của những người
theo trường phái Heideggerien là tư duy trước đó của Heidegger trong giai đoạn
Marburg vẫn còn mắc míu trong hệ mẫu chủ thể tính siêu vượt.21 Sự thật thì việc Heidegger lựa chọn không
công bố những phần còn lại của Hữu thể và Thời gian đã tiếp sức cho đánh
giá này, và quan điểm này lại được củng cố thêm bởi một thực tế là có vẻ như
xuất hiện quá trình giải trung tâm hoá Dasein trong các bài viết sau này của
ông. Nhưng vẫn có những nhân tố khác ngáng chân kết luận này. Trước hết Dasein
không phải là một chủ thể mà là Hiện-hữu-trần-thế. Thứ hai, Dasein là bị ném
vào, nó tẩy xoá quan niệm về động thái tự tạo nền móng. Thứ ba, trong khi
Heidegger khẳng định trong Mục 44 rằng không có Da-sein thì sẽ không có chân lý
[khải lộ], ông cũng đã làm rõ Da-sein không phải là điều kiện đủ của chân lý:
Da-sein “sống trong chân lý…Không phải là chúng ta mới là những kẻ tiền
giả định “chân lý”; mà chính chân lý mới làm cho nó khả thể về phương diện hữu
thể luận để cho chúng ta có thể là theo nghĩa thông thường chúng ta
“tiền giả định” bất cứ thứ gì” [BT, 270]. Có lẽ khó khăn chủ yếu là ở chỗ, một
mặt, bản thân Heidegger phê phán về nỗ lực đầu tiên này, và mặt khác, động thái
tự phê bình của ông có vẻ mù mờ, và đồng thời bị che đậy bởi sự khăng khăng của
ông về tính liên tục giữa nỗ lực giai đoạn sớm và tư duy sau này của ông. Sự
mập mờ này không phải là một thái độ thuần tuý nước đôi, nhưng lại là triệu
chứng về độ căng ở chiều sâu trong dự phóng trước kia của Heidegger. Độ căng
này thể hiện rất rõ ràng trong Thư về Chủ nghĩa Nhân văn năm [1943] của
ông. Trong đó ông hăm hở phủ nhận Da-sein là một chủ thể tính siêu vượt, nhưng
lại giải thích rằng phần thứ ba của Hữu thể và Thời gian “đã được giữ
lại vì động thái tư duy [sớm này] đã thất bại trong việc trình bày đầy đủ về Kehre
[bước ngoặt] này, và đã không thành công với sự tiếp sức của ngôn ngữ siêu hình
học”. 22 Da-sein không thể bị quy giản vào chủ thể tính siêu vượt.
Nhưng sự thật thì việc Heidegger đã rán sức để gỡ rối cái cách hiểu về Da-sein
khỏi chủ thể tính siêu vượt Husserlien trong Hữu thể và Thời gian, lại
chính là một biểu hiện cho thấy ông vẫn giữ lại một yếu tố còn dư gắn liền với
chủ thể tính siêu vượt, cụ thể là một ý chí luận.
Điều đó phần nào tiếp sức lý giải
tại sao trong số rất nhiều người, Nietzsche lại trở nên quan trọng đến như vậy
đối với Heidegger khiến ông lân la đối khẩu vào những năm 1930s.23
Nhân tố ý chí luận này đã tự hiển hiện, tôi tin tưởng, như một độ căng trong
các chủ ý mang tính hệ thống của Heidegger. Một mặt, Heidegger cô đặc dự phóng
của ông thành một Ur-science, [khoa học về những nguyên nhân cơ bản đầu
tiên]. Mục đích là để chỉ ra thời gian tính [Temporalität] được sử dụng
như thế nào để trở thành cơ bản cho tất cả mọi hữu thể luận đặc thù. Vì
vậy ông coi dự phóng của mình là một Khoa học Thời gian siêu vượt. [BPP,
460]. Trong thời gian này, giống như Kant, Heidegger cố gắng xác lập một metaphysica
transcendentalis [Siêu hình học Siêu vượt] trong khi vận động vượt khỏi
Kant là người vẫn không đạt đến – hoặc, như Heidegger đã nói một cách kịch
tính, co vòi khỏi – một quan niệm về thời gian tính cội nguồn. Mặt khác, theo
Heidegger, Da-sein được cô đặc bằng sử tính, là một hệ quả tất yếu của sự siêu
vượt sự kiện thực hữu hạn. Vì vậy khó mà nhận thấy được tại sao đặc điểm này
của thời gian tính của Da-sein lại có thể được hoà giải với các chủ đích hệ
thống của Hữu thể và Thời gian. 24 Tôi không muốn khới lên
rằng Heidegger không nhận thức nổi về cái có vẻ bất nhất này, mà chỉ muốn nhắc
khéo một điều là trong thời gian đó ông có nghĩ rằng sử tính của Da-sein không
thể đem ra mà đọ được với một khoa học ban sơ, miễn là truy vấn hữu thể luận
của ông được hoà giải bởi phép triệu hồi giải gỡ cội nguồn. Trong Những vấn
đề Cơ bản của Hiện tượng luận, Heidegger thừa nhận rằng “Vì Da-sein là hiện
hữu sử tính trong tồn tại của bản thân nó, nên các khả năng tiếp cận và các
cách thức diễn giải về các hiện hữu bản thân chúng là rất đa dạng, khác nhau
bởi các hoàn cảnh lịch sử”. Nhưng ông cũng dặn rằng “lý do là ở chỗ nhất thiết
là có những cái thuộc về yếu tố quyết định mang tính khái niệm của hiện hữu và
các cấu trúc của nó…một cách giải gỡ - một quá trình phê phán trong đó
các khái niệm truyền thống được tháo tung đến tận gốc để rồi chọn lấy các căn
cội. Chỉ có bằng cách giải gỡ như vậy thì mới có thể đảm bảo được đầy đủ bản
thân hữu thể luận trong các khái niệm mang đặc trưng hiện tượng luận chân thực”
[BPP, 21-23].
Trong thực tế thì vào những năm
1930s, Heidegger đã thay thế câu hỏi về nghĩa của Hữu thể bằng cách xem xét
lịch sử của [nghĩa của] Hữu thể [Seinsgeschick] và quan niệm về cú tiếp thế (tiếp cận thế giới) [Grund] được thay thế bằng một vực thẳm [Ab-grund] biểu hiện
sự thừa nhận về vấn đề này. Đồng thời cách phê phán nội tại không hàm chứa sự
đứt đoạn tư duy giữa Heidegger sớm và Heidegger muộn hơn. Heidegger cho rằng
việc thay đổi cách tiếp cận tư duy của ông diễn ra sau Hữu thể và Thời gian chỉ
là sự thâm nhập sâu hơn vào vấn đề mà tư duy của ông đã cam kết từ giai đoạn
sớm, vì vậy, thực tế là nó tích hợp vào tư duy giai đoạn sau này của ông. Động
thái đào sâu cách tiếp cận này, tức là cái Kehre bước ngoặt của ông bao
gồm những gì? Trong giai đoạn sau Hữu thể và Thời gian, Heidegger cố gắng vượt
qua cái mà tôi gọi là khuynh hướng ý chí luận của dự phóng này. Khi làm như
vậy, ông đã thừa nhận một viễn cảnh khác mặc dù không đi theo một hướng khác.
Trong Hữu thể và Thời gian, Dasein rõ ràng không phải là Cogito
Cartesien, mà Heidegger vẫn cố gắng lân la được với tầm nhận thức Hữu thể nói
chung thông qua nó, và theo cách thông thường, Da-sein được sử dụng làm nền
tảng cho việc khải lộ tầm nhận thức này. Giờ đây, chúng ta có thể thấy, theo
tôi nghĩ, cách thức phân tích Dasein của Heidegger đồng thời về cơ bản là vừa
xung đột với các công trình chống lại khuynh hướng này từ bên trong, cũng lại
vừa tiếp sức cho chúng ta hiểu rõ hơn tại sao Heidegger lại chậm hiểu trong
việc duy trì quan điểm cho rằng cái mà ông đang nỗ lực chỉ cho mọi người thì
lại bị tường bao ngôn ngữ khái niệm quây kín. Không có cái Ở đó [Da] – cái τόπος vị trí mà Da-sein siêu vượt các hiện hữu đến
với Hữu thể - thì nghĩa của Hữu thể sẽ không thể được khải lộ. Nhưng Da-sein là
siêu vượt bị ném vào, nghĩa là nó không kiến tạo cái τόπος vị trínày, mà phát hiện ra cái τόπος này hé mở với nó và bản thân nó là vị thế của
cái τόπος vị trínày. Thể hiện bằng cách khác:
không có Da-sein thì khải tính của các hiện hữu trong hiện hữu của chúng sẽ
không xuất hiện, nhưng khả tính của sự khải lộ này, tức là
khả-tính-khải-lộ sẽ không xây cất nền móng trong Da-sein. Suy tư sau này của
Heidegger bao gồm động thái thăm dò cái thị kiện [Ereignis] ban
sơ này, là cái khai mở không gian trong đó có thể có một cái Ở đó [Da]
của Hữu thể [Sein].
Điển hình là cái Kehre bước
ngoặt của Heidegger được mô tả như là một sự đảo ngược từ sự phân tích về
nghĩa-Hữu thể của Da-sein đến nghĩa của Hữu thể nói chung.25 Vấn đề
với việc cô đặc nó theo cách này là ở chỗ nó có thể bị sai lầm. Nó có thể hàm
ẩn một thay đổi trong tiếp thế: từ tiếp thế trong Da-sein đến tiếp thế trong
Hữu thể. Nhưng Heidegger buộc phải từ bỏ quan niệm về tiếp thế chung cho tất
cả. Nếu thời gian tính cung cấp nghĩa cho Hữu thể thì câu hỏi là liệu thời gian
tính có thể được quan niệm như là một tiếp thế không. Chính cái quan niệm về một
tiếp thế tự thân có vẻ sẽ không thể quy chiếu vào thời gian tính thực chất chứa
đựng một chiều góc vắng mặt của tương lai và quá khứ. Thời gian tính cội nguồn
là một quá trình thời gian hoá hoặc sự kiện, là cái khải lộ năng động nghĩa của
Hữu thể. Với tư cách là một sự kiện, nó không thuần tuý che giấu sự tiếp thế của
nó, mà thực ra là nó không có tiếp thế. Vì lý do này, Heidegger bắt đầu
không tập trung vào nghĩa của Hữu thể nữa, mà tập trung vào chân lý của Hữu
thể: tự thân quá trình động của khải tính. Trong khi làm như vậy, vấn đề về sự
che giấu vốn có trong quá trình của khải tính bắt đầu được đặt thành đề tài. Sự
che giấu không chỉ có cùng cội nguồn như ông đã lập luận trong Mục 44 của Hữu
thể và Thời gian. Giờ đây ông hiểu nó là tiên thiên đối với khải
tính. Trong tiểu luận năm 1930 Về Thực tính của Chân lý, Heidegger khẳng
định rằng “Cái che giấu Hữu thể như một tổng thể, chính xác là phi chân lý, thì
cổ hơn bất kỳ khải tính nào của hiện hữu này hoặc hiện hữu khác. Nó cũng
cổ hơn sự để-cho-là tự thân, mà trong sự khải lộ vẫn che giấu và tự ứng xử
hướng đến che giấu [nhấn mạnh của tôi]26. Đơn giản là câu hỏi-Hữu
thể xuất hiện với tư cách không phải là câu hỏi-Hữu thể.
Phân tích của Heidegger đã hé mở ra
rằng Thời gian tính là nghĩa của Hữu thể, và đến lượt mình, nó đã hé mở một câu
hỏi khác: Thời gian là thế nào? Mặc dù ông không dứt khoát quay trở lại
với câu hỏi liên quan đến Hữu thể và Thời gian tính cho đến khi thực hiện bài
thuyết trình vào năm 1962, nhưng câu hỏi về thời gian tính vẫn ngầm hướng dẫn
toàn bộ các suy tư của ông về khải tính và tính che giấu của Hữu thể trong giai
đoạn chuyển tiếp. Ngay từ năm 1929 trong bài thuyết trình nhậm chức Siêu
hình học là gì? đã được đề cập, chúng ta thấy rất rõ rằng sự tái đồng cấu
hình trong tư duy của Heidegger đã diễn ra. Trong đó Heidegger đã từ bỏ việc mô
tả dự phóng của ông như là một khoa học và rõ ràng là câu hỏi về Hữu thể đã chỉ
ra một câu hỏi ban sơ hơn: Hư vô. Ông viết rằng “Đối với tồn tại người thì hư
vô làm cho khải tính của các hiện hữu là khả thể một cách thông thường. Hư vô
không thuần tuý được sử dụng như là một phản khái niệm về các hiện hữu; đúng ra
nó nguyên thuộc về sự khải lộ thực tính của chúng một cách thông thường 27.
Giờ đây, trong tài liệu khoá giảng
năm 1928 chưa được công bố [Các thực hành hiện tượng luận: Diễn giải về Tự
nhiên II của Aristotle] Heidegger đã xem xét lại khái niệm φύσις tự
nhiêncủa Aristotle28. Rất may là chúng ta có một phiên bản sửa đổi
của bài thuyết trình này dưới dạng một tiểu luận được công bố lần đầu tiên
trong Wegmarken có tên là Về Hữu thể và Quan niệm về Φύσις tự
nhiên trong Φύσις B của Aristotle. Hơn nữa, Heidegger còn biên soạn một
khoá giảng vào năm 1931 liên quan đến khái niệm δύναμις khả tính, xác định
phương thức của Hữu thể thuộc về φύσις tự nhiên29. Điều đó cho thấy
rằng khái niệm φύσις tự nhiên đã trở nên rất quan trọng đối với vấn đề của
Heidegger.30 Trong Φύσις, Aristotle xem xét Hữu thể của φύσις
tự nhiên. Φύσις là thuật ngữ đã được Aristotle sử dụng để quy về các hiện hữu
có một nguyên tắc άρχή nguyên khởi nội tại của κίνησις vận động. Là một hình thái động về thực tính,
các hiện hữu như vậy trong khi vẫn thực hành thay đổi lại luôn luôn không hoàn
thiện và thuộc về một τέλοϛ mục đích vắng mặt để là
chính bản thân chúng. Để xem xét Hữu thể của φύσις tự nhiên, Aristotle trước hết phải chỉ ra rằng nó là khả tri để nói về κίνησις
vận động, nguyên lý của φύσις tự nhiên, và vì vậy mà phải hướng đến quan
niệm Parmenidien về Hữu thể là cái loại trừ κίνησις
vận động trên cơ sở là nó hàm ý phi-Hữu thể. Vì Aristotle có thể định
nghĩa κίνησις vận động, tức là đem đến một λόγος lý tính cho hiện tượng linh lợi này
bằng phương tiện khái niệm δύναμις khả tính và ένέργεια năng lực khải hiện, nên
ông đã có thể tích hợp vận động vào Hữu thể. Hữu thể là một khái niệm πολυσήμα đa nghĩa mà đối với Aristotle thì ουσία
thực tính mới kiến tạo nên tiêu nghĩa hoặc hợp nghĩa vì toàn bộ tha nhân cuối
cùng cũng đều tiền giả định nó; φύσιςtự nhiên được hướng đến sự hiện diện bền
vững của ουσία thực tính vì φύσιςtự nhiênlà một dạng thức thiếu, phủ định của
ουσία thực tính. Dựa vào tiểu luận năm 1939, Heidegger đã đưa ra một phê phán
về Aristotle bằng cách đảo ngược trình tự ưu tiên này. Thực ra Heidegger đã ráp
ghép bằng chứng cho cái mà ông coi là một cách nói nước đôi về phần Aristotle.
“Trong tác phẩm Tự nhiên”, ông viết “Aristotle đã nhận thức về φύσις tự
nhiên như là ουσία thực tính của một cục bộ đặc thù [và tự vạch ranh giới] của
các hiện hữu: các sự vật trưởng thành như là phân biệt khỏi các sự vật được tạo
ra…Nhưng cũng chính chuyên luận Siêu hình [I, 1003a27] đã nói chính xác
về cái đối lập: ουσία thực tính [của Hữu thể của các hiện hữu thông thường] về
tổng thể đều là một cái gì đó giống φύσις tự nhiên31. Tôi sẽ không
xét đến việc liệu có phải Heidegger đã vi phạm văn bản của Aristotle và thay
cho việc tạo dựng ý nghĩa của nó hay không.
Trước hết, Heidegger phát hiện ra
trong khái niệm φύσις tự nhiên một ngoại suy cấu trúc đối với thị kiện [Ereignis]
khải lộ của Hữu thể. Tính khả tri khải lộ của φύσις tự nhiên được làm cho khả
thể bởi vì nó duy trì tình trạng che giấu và phải duy trì tình trạng che giấu
chừng nào tính khả tri của φύσις tự nhiênvẫn còn được khải lộ. Một chiều góc
vắng mặt στέρησις ù đặc làm cho động thái hiện diện trở nên khả thể, giúp tái
hiện động thái thời gian hoá của thời gian tính ra ngoài mà sự hiện diện của nó
trở nên khả thể nhờ sự qua lại giữa tương lai và quá khứ. Vắng mặt là tiên
thiên đối với hiện diện; khả tính thì cao hơn ένέργεια năng lực khải
hiện.
Thứ hai, Heidegger nhận thấy rõ cách
nói nước đôi không được chứng minh của Aristotle là một chỉ biểu còn lại của
cách tư duy trước đây trong đó φύσις tự nhiên không phải là một phương thức của
ουσία thực tính, nhưng lại là tên gọi của tự thân quá trình-Hữu thể. “Cái xác
quyết được thể hiện vừa đủ này [của Aristotle] với ουσία thực tính là φύσις tự
nhiên chính là ηχώ dội vọng của một mở đầu lớn, bước đi đầu tiên của
triết học Hy Lạp. Trong giai đoạn mở đầu này, Hữu thể là φύσις tự nhiên, một φύσις
đã được Aristotle khái niệm hoá, chỉ có thể là một phát sinh muộn hơn của φύσις
tự nhiên cội nguồn.32 Bước “khởi đầu lớn” thuộc về nhóm Tiền
Socratic, và Heidegger kết thúc tiểu luận bằng cách trích một câu nổi tiếng của
Heraclitus: φύσις κρύπτεσθαι φιλέι, Tự
nhiên thích che giấu bản thân. Theo Heidegger, đoạn trích này không thuần tuý
khẳng định rằng khó có thể hiểu được φύσις tự nhiên, là cách thức mà nó
thường được hiểu. Thay vào đó, ông cho rằng “Tự che giấu thuộc về sự mê chuộng
của Hữu thể. Và thực tính của Hữu thể là tự che giấu, là tự xuất hiện, là tự
khải lộ bản thân. Chỉ có cái khải lộ bằng thực tính của nó và phải khải lộ bản
thân mới có thể ưa thích che giấu bản thân. Chỉ có cái đang khải lộ mới có thể
đang che giấu. Và vì vậy mà khải tính của φύσις tự nhiên không thể bị vượt qua,
không thể bị tước lột khỏi φύσις tự nhiên”.33 Vậy thì để kết luận,
trong Hữu thể và Thời gian Da-sein được coi là tiếp thế của hữu thể luận
mà nghĩa tối hậu của nó là thời gian tính, sau này Heidegger đã thâm nhập sâu
hơn vào sự kiện đầu tiên chiếm đoạt Da-sein. Ông đã truy vấn các điều kiện tiên
thiên của siêu vượt hữu hạn Da-sein. Vì Thời gian tính được tạo dựng bởi một
chiều góc vắng mặt nội tại nên ông phải từ bỏ quan niệm về một tiếp thế nói chung.
Heidegger phát hiện ra trong khái niệm φύσις tự nhiên của Aristotle một cách
nói rõ quan niệm này, nhưng để làm được như vậy, ông đã đảo ngược động thái
ưu tiên của Aristotle về ουσία thực tính bền vững so với khái niệm φύσις tự
nhiên mơ hồ. Đặc ân này là nhờ ở cam kết hữu thể luận của Aristotle đối với siêu
hình học về hiện diện. Đồng thời đặc ân này cũng mở ra tầm nhận thức cho việc
quay trở về với nhóm Tiền Socratic của Heidegger mà đối với nhóm này thì φύσις tự
nhiên mang tên sự kiện của tự thân Hữu thể. Phát hiện này đã làm đổ vỡ thị kiến
sớm về hữu thể luận Hy Lạp của ông. Nhóm Tiền Socratic không còn có thể được
nhóm lại cùng với Plato và Aristotle, thay vào đó là quá trình chuyển hoá mang
tính quyết định diễn ra về sau này. Cuối cùng phát hiện về “hai khởi đầu” này
cũng đã buộc Heidegger phải suy tư lại về khái niệm ποίησιςthi pháp. Động thái
hiểu về sản nghệ không còn có thể cung cấp nghĩa φύσις tự nhiên cho Hữu thể luận
Hy Lạp như một tổng thể nữa, vì khái niệm φύσις tự nhiên tự thân nó đã thực hiện
một sự chuyển hoá trong Hữu thể luận Hy Lạp. Với quan niệm nguồn cội hơn ấy về φύσις
tự nhiên, Heidegger đã quy vào nhóm Tiền Socratic cái câu hỏi đã hiện khởi: Có
một nghĩa nguồn cội hơn về ποίησιςthi pháp không?.
III
Ở các phần trước chúng ta đã xem xét
cách thức hiểu về φύσις tự nhiên ở hữu thể luận Hy Lạp theo Heidegger là ở công
trình Các vấn đề Cơ bản về Hiện tượng luận, tuy nhiên định hướng đến tầm
nhận thức về sản nghệ và định hướng này đối với sản nghệ, được coi là triệu
chứng về việc khoét chân hữu thể luận Hy Lạp trong cuộc sống hàng ngày. Chúng
ta cũng nhận thấy rằng Heidegger đã thất bại trong việc giải thích chính xác tại
sao việc duy trì cái hàng ngày lại tạo ra một định hướng đến sản nghệ và
trước hết khới lên cái khoảng trống này trong lập luận của ông đã chỉ ra rằng
có lẽ hiện tượng sản nghệ đã có một cội nguồn sâu xa hơn là Heidegger trong thời
gian đó đã nhận thức được, và thứ hai là thất bại của ông trong việc xem xét
cách thức tính kiên định được báo trước có thể trở thành cơ sở của một dạng
thức chân thật của sản nghệ dường như vén mở một sự chấp nhận giáo điều về cách
xếp thành trật tự cao thấp của πράξις, thực tiễn so với ποίησιςthi pháp. Lúc
này, vào những năm 1930, ποίησις thi pháp bắt đẩu tích hợp với cái thực sự
thuộc về Hữu thể của Da-sein. Chính ποίησις thi pháp đã trở thành một đặc điểm
kiến tạo của Hữu thể Da-sein.34 Kết quả là Heidegger phải mở rộng
lập trường trước đây của ông.
Hữu thể luận Hy Lạp giờ đây đã loại
trừ nhóm Tiền Socratic đã được định hướng đến một cách hiểu bị bóp méo về sản
nghệ, tức là thất bại trong việc nắm bắt ý nghĩa hữu thể luận chân thực của nó.35
Cái lý do tại sao Plato và Aristotle lại bỏ qua nghĩa cội nguồn của ποίησις thi
pháp khớp nối với cái lý do tại sao giờ đây Heidegger lại phân biệt nhóm Tiền
Socratic trong việc tái định giá lịch sử-khái niệm này. Đó không đơn giản là
trường hợp mà những người Tiền Socratic đã hiểu nghĩa cội nguồn hơn này về
ποίησις thi pháp. Đúng ra Plato và Aristotle đã thất bại trong việc nắm bắt
cách hiểu Tiền Socratic này về ποίησις thi pháp, vì họ đã che đậy cách hiểu
Tiền Socratic về φύσις tự nhiên. Việc để mất nghĩa của cách hiểu Tiền Socratic
về φύσις tự nhiên đã ngáng chân một hiểu biết sâu hơn về nghĩa của ποίησις thi
pháp. Định hướng tới việc hiểu không đầy đủ của họ về thực chất của sản nghệ đã
không cung cấp một sơ đồ khái niệm để khớp nối φύσις tự nhiên theo cách khả
tri. Nhưng động thái hiểu của họ về sản nghệ đến lượt mình lại được quyết định
bằng một diễn giải không đầy đủ về φύσις tự nhiên là cái che đậy nghĩa cội
nguồn mà chúng tôi tìm thấy trong nhóm Tiền Socratic. Trong phần cuối cùng này,
chúng tôi sẽ minh định cách hiểu Tiền Socratic về ποίησις thi pháp và cố gắng
nhận thức rõ nó được thông tin như thế nào bằng cách hiểu của họ về φύσις tự
nhiên. Bằng cách làm như vậy, chúng tôi cũng sẽ xem xét khái niệm Tiền Socratic
φύσις tự nhiên đã được chuyển hoá trong Plato và Aristotle, và hơn nữa, loại
siêu hình thái học này đã quyết định động thái hiểu của họ về ποίησις thi pháp
với tư cách là một μίμησις mẫu thức như thế nào?
Trong khoá giảng 1931-1932 về Plato
[Vom Wesen der Wahrheit/Zu Platons Höhlengleichnis und Theätet] chúng ta
chộ mặt với một biểu thị đầu tiên về sự tái chiếm làm của riêng của Heidegger
hoặc sự triệu hồi có cải thiện về ποίησις thi pháp. Sau đó chủ đề này đã được
lặp lại vào năm 1933 trong diễn văn nhậm chức Hiệu trưởng năm 1933.36
Trong cả hai tài liệu, Heidegger đều quy cho nghệ thuật cái sức mạnh của một sự
khải lộ hữu thể luận cội nguồn. Tuy nhiên không phải đến bài giảng Nhập môn
Siêu hình học năm 1935 thì Heidegger mới thực sự phát triển chủ đề này ở
những nét lớn. Bài giảng này bắt đầu với một câu hỏi trước hết được Leibniz xây
dựng và đã đưa ra trong Siêu hình học là gì? Tại sao lại có các hiện hữu
này chứ không phải là hư vô? Bằng cách thể hiện câu hỏi hàng đầu này như vậy,
Heidegger đã nhủ: “ngăn chúng ta, bằng cách đặt vấn đề, khỏi việc mở đầu với
một [hiện hữu] cho trước không thể đặt câu hỏi và …khỏi việc tiếp tục đến [hiện
hữu] mong đợi khác như một cú tiếp thế. Thay vì cái [hiện hữu] này, thông qua việc
đặt vấn đề, sẽ vẫn được hướng đến khả tính của phi-hữu thể.
Vì vậy cái tại sao đảm nhận
một sự thâm nhập và một năng lực rất khác biệt. Tại sao cái [hiện hữu] lại lao
vụt khỏi khả tính của phi-hiện hữu?...Giờ đây một cú tiếp thế đã được tìm thấy sẽ
giải thích sự xuất hiện của cái [hiện hữu] như là một sự vượt khỏi tính hư vô”.
[IM, 28]. Trong thực tế, Heidegger đã triệu hồi câu hỏi liệu điều này có nhận
thấy “cú tiếp thế” trước hết sẽ làm cho khải tính của các hiện hữu cần phải
được cảm thụ như là một “tiếp thế” phải khả thể. “Vì vấn đề này là một câu hỏi
vẫn còn phải được xem xét xem liệu cú tiếp thế của nó có đạt tới một tiếp thế thực
sự, có nghĩa là liệu nó có đem đến được một cơ sở; liệu nó có phải là một nền
tảng của cú tiếp thế đầu tiên [Ur-grund]; hoặc liệu nó có bị thất bại trong
việc đem đến một nền tảng và là một vực thẳm [Ab-grund]; hoặc liệu cú tiếp thế đó vừa không phải là cái này, lại vừa không phải là cái kia nhưng lại chỉ
thể hiện một biểu lộ có lẽ cần thiết về cái nền tảng đó – nói cách khác, nó là
một phi-tiếp thế [Un-grund]” [IM, 3]. Cái mà Heidegger cần phải bắt đầu
chính là câu hỏi hoàn toàn có ý nghĩa to lớn này. Trong Hữu thể và Thời gian
Heidegger bắt đầu bằng cách trích một đoạn từ Nhà Nguỵ biện của Plato
được ông dịch là: “Vì hiển nhiên là lâu nay bạn đã nhận thức rõ về cái mà bạn
muốn nói đến khi bạn sử dụng cái biểu hiện “Hữu thể” đó. Tuy nhiên chúng ta là
những người đã từng nghĩ chúng ta hiểu nó, thì chúng ta đã trở nên lúng túng” [BT,
19]. Không có quy chiếu nào vào cái phi-Hữu thể trong giai đoạn chuyển tiếp mà
Heidegger đã lựa chọn, nhưng cuộc đối khẩu mà từ đó nó được trích dẫn, tất cả
đều liên quan đến vấn đề về phi-Hữu thể, trước hết được khớp nối bởi
Parmenides. Trong thực tế, đa phần trong cuộc đối khẩu đều cam kết với vấn đề
học thuyết Eleatic đó – thực tế thì kẻ “Xa lạ” đã thực hiện việc xem xét này lại
chính là từ bản thân hắn vì một phân tích về việc chuyển hoá trong diễn giải
của Heidegger về nghệ thuật trong hai văn bản này.
Trường phái Tiền Socratic Elea
[Italia cổ đại, thực dân địa của Hy Lạp]– là một nỗ lực khắc họa một không gian
cho việc quy chiếu đầy ý nghĩa đối với phi-Hữu thể theo một nghĩa có đủ tư
cách. Vì vậy câu hỏi hàng đầu của Nhập môn Siêu hình học không còn xác
định phương hướng từ Plato, là kẻ Hậu Socratic, mà đúng ra lại quy chiếu một
cách ngầm ẩn tới Parmenides, là kẻ Tiền Socratic.37 Mặc dù phi-Hữu
thể không thể thâm nhập vào tư tưởng của Da-sein theo Parmenides, Heidegger
giải thích rằng kinh nghiệm tính bất khả thâm nhập của nó – sự che đậy thực
tính của nó – chính là mối ráp nối mà ở đó tư duy bắt đầu. Da-sein quá bị say
đắm bởi kinh nghiệm ban sơ này và bị ném vào câu hỏi. Thực tế, chính kinh
nghiệm che giấu ấy trong ngôn ngữ của Hữu thể và Thời gian đã lý giải
cho tình trạng bị ném vào của Da-sein. Câu hỏi không có lời giải, “Tại sao lại
có các hiện hữu chứ không phải là hư vô?” trước hết khải lộ không gian cho câu
hỏi-Hữu thể. Heidegger giải thích rằng đoạn trích của Parmenides trong đó ông
phác họa ba con đường của phi-Hữu thể, Hữu thể và biểu lộ “có lẽ cung cấp cho
phán đoán triết học cổ nhất bằng cái tác động cùng với cách thức của Hữu thể
thì cách thức của phi-Hữu thể phải được đặc biệt xem xét, vì vậy đó là
sự hiểu lầm câu hỏi về Hữu thể để quay trở lại hư vô với việc đảm bảo rằng hư
vô là không phải. [Việc hư vô không phải là một thực tính đã không ngăn trở nó
khỏi phụ thuộc vào Hữu thể theo cách riêng của nó].” [IM, 111]. Đây thực
sự là một cách biểu hiện khác mà nhóm Tiền Socratic đã trải qua [cái sự kiện
về] việc Hữu thể là φύσιςtự nhiên. Φύσις [tự nhiên] gọi tên sự
kiện khải tính của các hiện hữu không còn che giấu nữa. Về phần mình,
Heraclitus coi sự kiện này là một “πόλεμος”
xung đột giữa khải lộ và che giấu. [ibid, 61-62]38. Πόλεμος xung đột này không phải là loại xung đột có thể
được vượt qua bằng một aufhebung tẩy
xoá kiểu Hegelien. Đúng ra sự xuất hiện của một thực thể thành hiện
diện, động thái tự bừng nở thành không gian khải lộ đồng thời lại che đậy một
khía cạnh tự thân, về nguyên tắc là không thể khai mở. Vì vậy, biểu lộ
không phải là một khía cạnh của một thực thể không bị ly thân khỏi Hữu thể thực
của nó, mà đúng ra là không-đóng kín một cái tự biểu lộ là cái không tát cạn
các khả tính biểu lộ về thực chất là thuộc về Hữu thể của một thực thể 39.
Heidegger căn dặn: “Vì Hữu thể, φύσις tự nhiên, bao gồm cả sự hiển lộ, cả việc
đưa lộ ra và nhìn, vì vậy nó thực trụ, nhất thiết trụ và thường trụ trong khả
tính của một sự khải lộ chính xác là vẫn che đậy và giấu kín cái [hiện hữu] ở
trong chân lý, tức là trong khải tính” [ibid, 104]. Bởi vì, nhóm Tiền Socratic
gọi tên sự kiện này của Hữu thể là φύσις tự nhiên nên chúng giữ lại niềm tin
đối với kinh nghiệm ban sơ và mê đắm này của sự che giấu là cái đồng thời lại
mở ra một không gian khải lộ. Chúng lay lắt trong tính không bền vững nội tại
của sự kiện che đậy – khai mở và vì vậy mà không tẩy xoá nó 40.
Cách hiểu Tiền Socratic về φύσις tự
nhiên, Heidegger khẳng định, được phản ánh trong cách hiểu của họ về hiện tượng
[νοειν] tư duy. Heidegger dẫn một đoạn nổi tiếng của Parmenides: το γαρ αυτο
νοειν εστιν τε και ειναι. Đoạn này thường được dịch – và cũng cần lưu ý là bản
thân Heidegger đã dịch đoạn này trong Các vấn đề Cơ bản của Hiện tượng luận41
là: Hữu thể và Tư duy là một. Ông giải thích rằng việc dịch theo cách
này sẽ hiểu lầm nghĩa theo chủ đích của Parmenides và là một dự phóng về những
tín điều tri thức luận, đặc biệt là trong chủ nghĩa duy tâm Đức [IM,
137]. Người ta cho rằng ειναι Hữu thể và νοειν tư duy tham gia vào một mối quan
hệ ngoại tại mà từ đó chúng ta có thể suy luận ra bằng cách dựa vào đoạn trích
trên trong đó Hữu thể là một cái gì đó mang tính chủ quan, được quyết định bởi
cấu trúc tư tưởng 42. Theo Heidegger Parmenides thay vì khẳng định
rằng Hữu thể và tư duy về cơ bản là thuộc về nhau. Nhưng cái thuộc-về-nhau này
lại không phải là đồng nhất-trong-khác biệt Hegelien. Vì vậy mối quan hệ này
thực sự tạo nên “tính thống nhất…của một sự đối lập” không có quá trình hoà
giải vì Hữu thể vừa khải lộ lại vừa che giấu. Sự khải lộ này cho phép các hiện
hữu thể hiện cái trước tiên đòi hỏi Da-sein suy tư và vì vậy mà tạo điều kiện
để Da-sein trở thành hiện hữu như chính bản thân nó. Sự kiện này của Da-sein
tạo ra say đắm, và trước hết triệu vời Dasein ra để suy tư, vì vậy mà tính
thuyết phục của tư duy như là một năng lực đặc biệt thuộc về Da-sein trước khi
bị chiếm hữu làm của riêng đã hiểu lầm thực chất của tư duy. “[Tư duy] không
phải là một chức năng mà Dasein có với tư cách là một thuộc tính, mà đúng ra là
theo cách khác: [Tư duy] là cái diễn ra mà nó có [Da-sein]”. [IM, 141]
Chừng nào Da-sein còn tư duy thì nó còn cố giành lấy Hữu thể khỏi sự che giấu
bằng cách nỗ lực làm cho các hiển lộ không bền vững trở thành bền vững. Hơn nữa
Da-sein vẫn không đơn thuần đảm nhận một vai trò thụ động. Trong khi che giấu
cái khải lộ của các cách biểu hiện cung cấp nơi chốn cho Da-sein để trở thành
chính bản thân nó thì sự kiện về Hữu thể cần Da-sein cho các cách biểu lộ thành
bản thân nó. Sự kiện về Hữu thể bao gồm cả Da-sein và sự khải lộ vẫn đang che
giấu cội nguồn ấy. Giờ đây trong các tác phẩm của Plato và Aristotle cách hiểu
cội nguồn về φύσις tự nhiên, và vì vậy mà về tư duy đã bị thất thoát. Ý niệm
hoặc είδος thị kiến thay thế φύσις tự nhiên với tư cách là tên gọi của Hữu thể.
Trong khi nhóm Tiền Socratic không bao giờ bỏ mất tầm nhìn về chiều góc che
giấu của sự kiện khải lộ của Hữu thể ngay cả khi họ nỗ lực ổn định các hình
thức biểu lộ để làm cho các hình thức biểu lộ trở thành cấu trúc hình ảnh thị
giác của tính khả tri. Plato và Aristotle, Heidegger biện luận, đã chỉ chộp
được tính bền vững chứ không phải là sự che giấu. Heidegger viết, thực ra người
ta không thể phủ nhận được rằng việc diễn giải hiện hữu như là ý niệm nảy
sinh từ kinh nghiệm cơ bản của Hữu thể là φύσις tự nhiên. Như chúng tôi đã nói,
đó là hệ quả của thực tính của Hữu thể khi xuất hiện Scheinen [hình như, có vẻ,
ánh sáng chói loà]. Và ở đây không có điểm xuất phát, không đề cập đến một động
thái rơi khỏi điểm khởi đầu [của nhóm Tiền Socratic] …Nhưng nếu hệ quả thực
sự được đề cao đến mức tự thân thực tính và thay thế thực tính, thì đó là cái
gì? Vậy là chúng ta có sự rơi khỏi là cái phải sinh ra các hệ quả lạ. Và đó là
cái đã xảy ra [trong Plato và Aristotle]. Vấn đề mang tính then chốt là ở chỗ
không phải φύσις tự nhiên được cô đặc thành ý niệm, mà là ý niệm sẽ trở thành
cách diễn giải độc nhất và quyết định về Hữu thể. [IM,
182].
Ở Plato είδοςthị kiến hoặc ý niệm
trở thành cấu trúc bất biến của các hình thức biểu lộ. Nó trở thành biểu lộ
thuần tuý trái ngược với cái biểu lộ thuần tuý khả biến. Như Heidegger đã khẳng
định “Có ở các nhà nguỵ biện và Plato cái quan niệm rằng biểu lộ được phán đoán
là biểu lộ thuần tuý, vì vậy mà bị suy đồi. Đồng thời hiện hữu với tư cách là ý
niệm được nâng lên đến lĩnh vực siêu cảm giác. Một χωρισμος vực thẳm đã được tạo dựng giữa cái thực tính
thuần tuý hiển nhiên dưới thấp ngay đây và một hiện hữu đâu đó trên cao kia”.[
IM, 106] Biểu lộ thuần tuý chỉ có chừng nào nó còn là một phiên bản
của είδοςthị kiến. Điều đó có nghĩa là biểu lộ hoàn toàn bị cắt tách khỏi thực
tính của Hữu thể, cuối cùng là một hàm ý về việc bỏ qua cái che giấu nội tại
đối với sự kiện khải lộ của Hữu thể. Hơn nữa, vì Hữu thể được đồng nhất riêng
biệt với sự hiện diện bền vững, nên cái khả thị, tư duy tự thân bắt đầu được
hiểu là είδος thị kiến.43 Vậy thì dễ thấy tại sao hành vi sản nghệ
lại trở thành một mô hình hấp dẫn đối với hữu thể luận của Plato và Aristotle:
Đúng là sự biểu lộ còn xuất hiện chừng nào nó còn là một phiên bản của ý niệm,
vì vậy mà loại vật chất mà người thợ thủ công sử dụng để tạo tác hiện vật còn
đó vì nó mô phỏng cái mô hình đã được hình dung trước. Nếu sự biến đổi hình
thức của φύσις tự nhiên thành ý niệm giải thích cho định hướng
Platonic-Aristotelien đến một quan niệm mô phỏng của ποίησις thi pháp thì cách
hiểu Tiền Socratic về φύσις tự nhiên quyết định như thế nào về nghĩa cội nguồn
của ποίησις thi pháp? Như chúng ta đã đề cập trong phần nhận xét ban đầu,
Heidegger đã triệu hồi nghĩa ποίησις thi pháp này thông qua một phân tích diễn
giải về χορός nhóm biểu giải đầu tiên trong Αντιγόνη Antigone của Sophocles. Để
bắt đầu, ông phát hiện trong mô tả của Sophocles về con người như là το
δεινωτατω, mà ông dịch là điều khủng khiếp nhất [unheimlich], một cách
phiên dịch thi pháp của cách hiểu Tiền Socratic về Dasein. Thuật ngữ δεινω, ông
giải thích thêm, là ám nghĩa: nó biểu thị sự mê đắm quá khích [gewaltig]
theo nghĩa vừa mê đắm quá khích lại vừa hám dụng quyền lực và bạo hành [IM,
149-150].
Từ này, ông nói, là tên gọi của sự
khải lộ mê đắm của Hữu thể chiếm Da-sein làm của riêng, vì vậy mà việc liệng nó
vào cái không thân thuộc và sự nỗ lực của Da-sein cũng để làm chủ sức mạnh này
và phát hiện ra ngôi nhà của nó, một thế giới, trong cái không gian mở này. Cái
“πόλεμος” xung đột ban sơ này “được thể hiện
với sự tinh khiết cao cả nhất trong bi kịch Hy Lạp”, Heidegger lưu ý, vì nó bộc
lộ những giới hạn nội tại của Da-sein, mà nó, trái ngược với diễn giải của
Hegel về Αντιγόνη Antigone, không đạt được một sự hoà giải cao. Da-sein không
thể đạt được sự thành thạo vì “tính chất quá khích của nó gây choáng váng một
thứ. Đó là cái chết”. [IM, 158]. Cái Da-sein đó, để nhắc lại khẳng định
của Hữu thể và Thời gian, là ngay từ khởi đầu
“Hiện-hữu-hướng-đến-cái-chết” là thứ mà Da-sein không thể mê đắm và vì vậy mà
duy trì tình trạng không nhà của nó và là dấu ấn bị ném vào của nó. Giờ đây nó
nằm trong bối cảnh của một phân tích về tính bạo hành của Da-sein, quyền lực
của nó, là cái mà Heidegger đã khớp nối một nghĩa cội nguồn của ποίησις thi
pháp. Heidegger đã chỉ ra rằng Sophocles đặt tên cho tri thức tinh thông về sự
kiện mê đắm khải lộ cái τέχνη bí quyết – thủ nghệ của Hữu thể. Trong khi φύσιςtự
nhiên xác định rõ sự kiện khải lộ làm say đắm Da-sein thì τέχνη bí quyết – thủ
nghệ lại là tri thức tạo dựng của Da-sein để có tầm nhìn vượt qua các biểu lộ
đã cho vẫn tự che giấu bản thân và đưa Hữu thể vào thế khải trụ.
Vì vậy τέχνη bí quyết - thủ nghệ
chính là tên gọi của siêu vượt Da-sein. Heidegger viết: “Tri thức chính là khả
năng đặt vào tác phẩm cái hiện hữu của bất cứ [hiện hữu] đặc thù nào. Người Hy
Lạp gọi nghệ thuật theo nghĩa chân thật và tác phẩm nghệ thuật là τέχνη bí
quyết – thủ nghệ, vì nghệ thuật là cái trực tiếp nhất đưa Hữu thể [tức là cái
hiện khởi tự thân đứng đó] ra khải trụ, ổn định nó trong một cái gì đó hiện
diện [tác phẩm]. Tác phẩm nghệ thuật là một tác phẩm không phải chủ yếu vì nó
được tạo tác, mà vì nó làm ra Hữu thể trong một hiện hữu; nó làm ra cái hiện tượng
trong đó ένέργεια năng lực đang khải hiện của φύσις tự nhiên được khải lộ [IM,
159]. Vì vậy, suy tưởng theo nghĩa nguồn cội hơn thì ποίησις thi pháp không bao
gồm trong một mô phỏng về một mô hình đã được dự phóng của sự hiện diện bền
vững. Đúng ra, ποίησις thi pháp không phải là một hồi đáp đối với một kinh
nghiệm mê đắm vắng mặt và không bền vững, tức là sự khải lộ còn đang che giấu
của φύσις tự nhiên, mà nó cố vượt qua bằng cách xác lập Hữu thể trong tác phẩm.
Bằng cách làm như vậy, tác phẩm nghệ thuật trước hết khai mở một thế giới khả
tri bền vững và vì vậy mà định hướng Da-sein. Thông qua phép triệu hồi τέχνη bí
quyết – thủ nghệ trong bi kịch Sophocles, Heidegger đã cố gắng chỉ ra nghệ
thuật, ποίησις thi pháp là một vị trí cội nguồn của chân lý, tức là sự khải lộ
của Hữu thể vào Da-sein. Vấn đề quan trọng ở đây là nhấn mạnh rằng vì ποίησις
thi pháp là một vị trí nguồn cội của việc khải lộ Hữu thể, nên ποίησις thi
pháp, giống như νόηίν tư duy không thuần tuý là sự biểu lộ của chủ thể tính;
ποίησις thi pháp là một đặc điểm tạo dựng Hiện-hữu-trần-thế của Da-sein. Vị trí
của ποίησις thi pháp là mở sạch, cái Da trong đó Da-sein cư ngụ, nhưng
lại là nguồn của ποίησις thi pháp thì chính là sự kiện mê đắm mà trước hết nó
giành đưa Da-sein vào mở sạch. Điều đó có nghĩa là τέχνη bí quyết – thủ nghệ và
ποίησις thi pháp thực chất đều thuộc về nhau. Trong một tiểu luận sau này có
tên là Câu hỏi Liên quan đến Công nghệ [1953], Heidegger đã nhấn mạnh
vấn đề quyết định này. Ông giải thích rằng sự sản sinh của Hữu thể liên quan
đến sản nghệ của con người tối hậu đặt nền tảng trong sự sản sinh của φύσις tự
nhiên. Nhưng ông còn đi xa hơn. Vì φύσις tự nhiên cũng là một sự kiện sáng tạo,
trước hết nó đưa các hiện hữu ra khỏi tình trạng bị che giấu, nên nó còn là
ποίησις thi pháp.44 Thông qua kinh nghiệm ποίησις thi pháp của φύσις
tự nhiên mà sản nghệ của con người dựa vào để định vị và tự phân biệt. Heidegger
viết: Không chỉ có sản nghệ thủ công, không chỉ làm cho nghệ thuật và thi ca
hiển lộ và trở thành hình ảnh cụ thể, ποίησις thi pháp còn là một sự sản sinh.
Và φύσις tự nhiên cũng không chỉ là sự khởi hiện của một cái gì đó vượt khỏi tự
thân, mà nó còn là sự sản sinh. Thực sự thì φύσις tự nhiên chính là ποίησις thi
pháp theo nghĩa cao cả nhất. Vì cái gì hiện diện bằng cách thức của φύσις tự
nhiên thì đều có sự bùng nổ thành một quá trình sản sinh, chẳng hạn sự bừng nở
của hoa trong tự thân mùa hoa. Ngược lại, cái được sản sinh bởi người thợ thủ
công hoặc người nghệ sỹ, chẳng hạn chiếc ly bạc, có sự tăng vọt thông qua quá
trình sản sinh, nhưng không phải tự thân chúng, mà theo cách khác, bởi chính
người thợ thủ công hoặc người nghệ sỹ. 45
Khẳng định của Heidegger cho rằng φύσις
tự nhiên là một ποίησις thi pháp theo nghĩa cội nguồn “cao nhất” chuyên chở rất
nhiều sức nặng. Trước hết, nó giúp minh định nhận xét của chúng tôi ở phần mở
đầu của thảo luận này cho rằng ποίησις thi pháp là cơ sở cho mối quan hệ họ
hàng giữa thi sĩ và triết gia. Vì nếu φύσις tự nhiên là một ποίησις thi pháp
theo nghĩa cội nguồn “cao nhất” thì tư duy trong khi khác biệt về phẩm chất với
sản nghệ của con người, về bản chất vẫn là một ποίησις thi pháp. Tư duy “sinh
sản” Hữu thể bằng trung gian ngôn ngữ và sản nghệ của con người sinh sản Hữu
thể bằng trung gian là các biểu lộ thị giác. Cho dù cả hai đều mở ra một thế
giới và đều tác động đến cái cách thức mà Da-sein tự hiểu mình trong thế giới
đó. Thứ hai, nó cung cấp cơ sở cho việc giải thích tại sao Plato và Aristotle
lại đúc rút kinh nghiệm về hành vi sản nghệ để soi sáng cho cách hiểu của họ về
φύσις tự nhiên, thậm chí nếu họ không nhận thức được về tính thống nhất nội tại
của các khái niệm này. Thực ra thì diễn giải của họ về φύσις tự nhiên như là ý
niệm đã ngăn cản họ không nhìn thấy được chiều góc “thi ca” của φύσις tự
nhiên và vì vậy mà không nhìn thấy cả tính thống nhất cội nguồn của ποίησις thi
pháp và φύσις tự nhiên. Như chúng tôi đã cố gắng chỉ ra, Heidegger trong giai
đoạn Marburg cũng thiếu một hiểu biết sâu sắc về φύσις tự nhiên, và vì vậy mà
đã không thể, hoặc ít nhất là đã không nhận ra được tại sao hữu thể luận Hy Lạp
lại được định hướng đến sản nghệ. Vậy thì nếu ông đã có thể thấy như sau này
ông nhận thấy rằng cái thế giới – công việc của Hiện-hữu-trần-thế hàng ngày
không chân thực của Da-sein là một phương thức dẫn xuất từ Da-sein chân thực là
thứ trước hết mở ra một thế giới thông qua việc cương quyết
đưa-Hữu-thể-vào-tác-phẩm. Nói cách khác, ông có thể thấy được rằng không chỉ
πράξις thực tiễn của cái φρόνιμος tri thức Aristotelien
hé mở vị trí của việc khải lộ cội nguồn của Hữu thể, mà ποίησις thi pháp của
cái τέχνη bí quyết – thủ nghệ Sophoclean cũng làm như vậy.
Chú thích
1 Toàn bộ các tài liệu dẫn về Nhập
môn Siêu hình học do Ralph Manheim dịch [New Haven, Yale University Press,
1987] được thể hiện trong bài viết này bằng các chữ viết tắt IM; Hữu
thể và Thời gian do John Macquarrie và Edward Robinson dịch [San Francisco:
Harper Collins, 1962] được thể hiện bằng chữ viết tắt BT; Những vấn
đề cơ bản của Hiện tượng học do Albert Hofstadter dịch [Bloomington:
Indiana University Press, 1988] được thể hiện bằng chữ viết tắt BPP. Đề
tài của bài viết này phù hợp với dự án lớn của tôi về việc xem xét vị thế của
nghệ thuật trong sự phát triển của tư tưởng Heidegger.
2 Mối liên hệ giữa thi ca và triết
học vẫn còn chưa rõ ràng thậm chí sau khi đã có Nhập môn Siêu hình học.
Có lúc, Heidegger tin tưởng có sự khác biệt giữa chúng và lúc khác, chẳng hạn
trong Thực chất của Ngôn ngữ thì ông lại đồng nhất cả hai thành một. Xin
xem Joseph Kockelmans, Heidegger bàn về Nghệ thuật và các Tác phẩm Nghệ
thuật (Dordrecht: Martinus Nijhoff Publishers, 1985), pp. 194-202. Hoạt
động tư duy và thi vị hoá cội nguồn đã ngày càng trở nên khó cho Heidegger
trong việc phân biệt và chúng ta cũng có thể bổ sung cùng những cách áp dụng
vào sự phân biệt giữa tư duy và thực tiễn. Vì vậy đã có tuyên bố quan trọng của
Heidegger trong “Thư về Chủ nghĩa Nhân văn”. Để trả lời câu hỏi liên quan khi
ông lên kế hoạch viết một tiểu luận về đạo đức học, Heidegger giải thích rằng
trước hết chúng ta cần minh định sự khác biệt giữa đạo đức học và hữu thể học.
Ông cố gắng chỉ ra sự khác biệt này có nguồn gốc từ một quan niệm cội ngồn hơn
về tư duy là “đạo đức học cội nguồn” như thế nào. Xin xem “Thư về Chủ nghĩa
Nhân văn” trong Martin Heidegger: các Bài viết Cơ bản [San
Francisco: Harper Collins, 1993], đặc biệt là tr. 255-265.
3 Xem Jacques Taminiaux Diễn giải
về Triết học Hy Lạp trong Hữu thể luận Cơ bản, trong Journal
of the British Society for Phenomenology, 19 [1988], tr. 3-13; Marlène
Zarader, Tấm gương chập ba, trong Martin Heidegger: Đánh giá Phê phán,
Tập II, chủ biên Christopher Macann [London: Routledge, 1992], tr. 17-36; &
Jean-François Courtine, Giải gỡ Lôgic: Từ Logos đến Ngôn ngữ, Kristin
Switala and Rebekah Sterling dịch, trong Nhóm Tiền Socratic sau Heidegger,
ed. David C. Jacobs [Albany : State University of New York Press, 1999], tr.
25-53. Tất cả ba học giả đều có chung quan điểm này.
4 Trong Hữu thể và Thời gian,
chúng ta phát hiện ra các tài liệu tham khảo rõ ràng liên quan đến Parmenides
và Heraclitus. Đặc biệt có hai tham khảo liên quan đến Parmenides, thể hiện
rằng Heidegger đã không phân tích một sự đứt đoạn giữa nhóm Tiền Socratic và
Plato cũng như Aristotle. Cả hai đều quan tâm đến sự gia ơn của trực giác như
là phương thức lĩnh hội nhận thức chính xác đối với triết học. “Bản thân Legein,
hoặc đúng ra là noein, đơn giản nhận thức về một cái gì đó
hiện-diện-trước-mặt chính xác trong sự hiện diện trước mặt, là cái mà
Parmenides đã sử dụng làm hướng dẫn trong việc diễn giải của ông, có cấu trúc
thời gian “làm cho hiện diện thực sự” về một cái gì đó 48; ii) Trong tài liệu tham khảo về việc giải
thích của Aristotle về sự phát minh ra khoa học, Heidegger viết: Diễn giải kiểu
Hy Lạp về sáng thế hiện sinh của khoa học không phải là ngẫu nhiên. Nó đem đến
việc hiểu biết rõ ràng về cái đã được phác thảo trước theo nguyên tắc của
Parmenides:το γαρ αυτο νοειν εστιν τε και ειναι: Hữu thể và Tư duy là một.
Hữu thể là cái tự thể hiện trong tri giác thuần tuý thuộc về sự trông thấy
được, và chỉ bằng cách nhìn thấy mà Hữu thể được khải lộ. Chân lý ban sơ và
chân thực nằm trong cái được trông thấy thuần tuý đó. Đề tài này đã lưu giữ cơ
sở của triết học phương Tây suốt từ đó” [215]. Hơn nữa trong Các vấn đề Cơ
bản của Hiện tượng luận, Heidegger không chỉ khẳng định rằng Parmenides là
“Cha đẻ thật của Phương Tây”, mà còn là ở chỗ đề tài mà Parmenides thực sự chỉ
rõ cái mà ông dịch là “noei, tri giác, hiểu đơn giản, trực giác, và hiện hữu,
năng lực khai mở đều là một”, đã dự báo đồng nhất hoá Kantien của Hữu thể và tư
duy, và bằng cách ngầm ẩn, dự báo Chủ nghĩa Duy tâm Đức như một tổng thể.
[110]. Điều này gây sốc khi chúng ta so sánh bước chuyển tiếp này với một sự
kiện được phát hiện trong Nhập môn Siêu hình học, trong đó Heidegger phê
phán Kant và các nhà Duy tâm khác của Đức vì đã lần ngược trở lại lập
trường tri thức luận của họ đến Parmenides. Heidegger giải thích rằng việc dịch
trích đoạn của Parmenides “Hữu thể và Tư duy là một” – hoàn toàn là “phi Hy
Lạp”. Đây là một dự phóng của chủ nghĩa Duy tâm Đức đối với Parmenides. Vì chủ
nghĩa duy tâm Đức, Heidegger viết, “tư duy và hiện hữu được giả định là một,
theo Parmenides, nên mọi thứ đều trở thành chủ thể tính. Hư vô là trong tự
thân. Nhưng một học thuyết như vậy, người ta nói với chúng ta, được phát hiện
trong các công trình của Kant và các nhà duy tâm Đức. Về thực chất, Parmenides
đã dự liệu các huấn điều của họ [như họ nói] …Quan điểm thân thuộc này đòi hỏi
sự chú ý đặc biệt ở đây…vì sự thống trị của các quan điểm như vậy đã làm cho nó
khó có thể hiểu được chân lý chân thực của các từ Hy Lạp ban sơ được Parmenides
nói ra”. [136-137].
5 Husserl, tất nhiên, đã nhìn thấy
điều này bằng quan niệm của ông về “tính chủ đích” mà Heidegger mang nợ sâu
sắc. Tuy nhiên Heidegger cũng phê phán thầy mình, vì Husserl không minh định đủ
dứt khoát về Hữu thể của chủ thể tính. Kết quả là Husserl vẫn hoạt động trong
khuôn viên Cartesien, mặc dù nó đã được biến đổi triệt để bởi quan niệm tính chủ
đích của ông. Xin xem khoá giảng của Heidegger năm 1925 về Lịch sử Khái niệm
Thời gian: Thảo luận trước [Prologomena], do Theodore Kisiel dịch
[Bloomington: Indiana University Press, 1992], đặc biệt là tr.27-131để biết chi
tiết về việc ông xử lý và phê phán Husserl. Có thể xem thêm: Marion Tapper, Tính
ưu trội của Hữu thể hoặc Ý thức về Hiện tượng luận: Heidegger và Husserl,
trong Metaphilosophy 17 (1986), pp. 153-161, & John D. Caputo: Husserl,
Heidegger và câu hỏi về một Hiện tượng luận Tường giải, trong Husserl
Studies 1 (1984), pp. 157-178. Chúng tôi thấy cần bổ sung thêm Hegel, tôi
tin là cũng duy trì một quan niệm nguyên- Husserlien về tính chủ đích. Theo
Hegel, trong việc đáp trả Kant, chúng tôi đã mở đến Hữu thể [vì nó là tự thân).
Đối với ý thức, vấn đề là ở chỗ điều này vẫn chưa bắt đầu. Hơn nữa, Hegel, là
người mà Heidegger duy trì, cũng suy tư về truyền thống thông qua cái chung cục
logic của nó và đạt tới một sự khép kín về tri thức luận, giống như Husserl,
đang vận hành trong khuôn viên Cartesien là cái hiểu về chân lý như là tính xác
tín [tự thân].
6 Đây là một yếu tố quan trọng trong
phê phán của Heidegger về Kant. Xem Kant và Vấn đề Siêu hình học, do Richard
Taft dịch [Bloomington: Indiana University Press, 1990, tr. 17-23]. Có thể xem
thêm William J. Richardson, Heidegger: Thông qua Hiện tượng luận để đến với
Tư tưởng [The Hague: Martinus Nijoff, 1963, tr. 106-158].
7 Hữu thể luận: một Phép phê phán
Tường giải về Sự kiện thực, do John van Buren dịch [Bloomington, Indiana
University Press, 1999, tr. 15].
8 Mặc dù Heidegger không giải quyết
khái niệm của Aristotle về thời gian trong Hữu thể và Thời gian như đã
hứa, nhưng ông đã phát triển phân tích này trong Những vấn đề Cơ bản của
Hiện tượng luận, tr.229-274.
9 Xin được lưu ý rằng ngay từ khoá
giảng năm 1919, trong khi vẫn ở Freiburg và làm việc dưới sự hướng dẫn của
Husserl, Heidegger đã gợi ra dự án của ông trong thời gian đó như là một khoa
học ban sơ, tiền lý thuyết.
10 Thomas Sheehan, Hữu thể và
Thời gian, 1925-1927, trong Martin Heidegger: Đánh giá Phê phán, Tập
I, chủ biên, Christopher Macann [London: Routledge, 1992, tr. 29-67].
11 Jacques Taminiaux, Tái chiếm
hữu Đạo đức học Nicomache: Thi pháp và Thực tiễn, trong Sự khớp nối Hiện
tượng luận Cơ bản, do Michael Gendre dịch, [Albany: State University of New
York Press, 1991, tr. 111-143]; Robert E. Zimmerman, Cuộc đối đầu của
Heidegger với Hiện đại tính: Công nghệ, Chính trị, Nghệ thuật [Bloomington:
Indiana University Press, 1990, tr.137-165].
12 Jacques Taminiaux, Tái chiếm
Đạo đức Nicomache làm của riêng : Thi pháp và Thực tiễn trong Sự khớp nối
Hiện tượng luận Cơ bản, nhất là các tr. 122-137; Franco Volpi: Da-sein như
là Thực tiễn: Đồng hoá kiểu Heideggerien và Cấp tiến hoá của Triết học Aristotle,
đặc biệt là các tr. 102-129.
13 Thomas Sheehan, Hữu thể và
Thời gian, 1925-1927, tr.31-34. Giới thiệu kế hoạch nghiên cứu về
Aristotle, xuất hiện năm 1989, được xuất bản cùng năm dưới tiêu đề Aristoles-Einleitung,
trong Dilthey-Jahrbuch für Philosophie und Geschichte der
Geisteswissenschaften và sau này được công bố bằng tiếng Anh trong Con
người và Thế giới [1992].
14 Tái chiếm Đạo đức Nicomache
làm của riêng : Thi pháp và Thực tiễn trong Sự khớp nối Hiện tượng luận Cơ
bản.
15 Jacques Taminiaux, Tái chiếm
Đạo đức Nicomache làm của riêng : Thi pháp và Thực tiễn trong Sự khớp nối
Hiện tượng luận Cơ bản. Franco Volpi, Dasein như là Thực tiễn: Đồng hoá
kiểu Heideggerien và Cấp tiến hoá Triết học Thực tiễn của Aristotle. Các
giải thích của Taminiaux và Volpi dù sao thì cũng cần phải được bổ sung bằng
việc xem xét tác động mà Thánh Paul, Luther, và Kierkegaard thực hiện dựa vào
việc phát triển khái niệm tính kiên định của Heidegger. Để có được một thảo
luận hiệu quả về vấn đề này, xin xem John van Buren: Martin Heidegger,
Martin Luther trong Đọc Heidegger từ đầu, Theodore Kisiel và John
van Buren chủ biên [Albany: State University of New York Press, 1994], tr.
159-174; Heidegger trẻ: Tiếng đồn về vị Vua Ẩn mình [Bloomington:
Indiana University Press, 1994], tr. 157-202.
16 Paul Farwell, Người thợ Thủ
công của Heidegger có thể Chân thực? trong International Philosophical
Quarterly 29 (1989), tr. 77-90. Trong bài viết này, Farwell đã phát triển
một phân tích thành công về vấn đề đặc thù về phương diện sản xuất nghệ thuật.
17 Xem Michael Zimmerman: Cuộc
đối đầu của Heidegger với Tính hiện đại: Công nghệ, Chính trị học, Nghệ thuật [Bloomington:
Indiana University Press, 1990] để biết thêm chi tiết về cách ứng xử trong cuộc
đối/đấu khẩu của Heidegger-Jünger.
18 Siêu hình học Aristotle: ETA
1-3: Về Thực tính và Năng lực Khải hiện, Walter Brogan và Peter Warnek dịch
[Bloomington: Indiana University Press, 1995], tr. 15.
19 John van Buren, Heidegger trẻ:
Tiếng đồn về vị Vua Ẩn mình [Bloomington: Indiana University Press, 1994],
tr. 62-64.
20 Thomas Sheehan, Thời gian và
Hữu thể, 1925-1927.
21 Otto Pöggeler, Siêu hình học
và Loại hình học của Hữu thể trong Heidegger: Con người và Nhà tư tưởng,
Thomas Sheehan chủ biên [Chicago: Precedent Publishing, Inc., 1981], tr.
171-183.
22 Thư về Chủ nghĩa Nhân văn trong
Martin Heidegger: Những bài viết Cơ bản, tr. 231.
23 Tiểu luận của Heidegger Lời
của Nietzsche: Chúa đã Chết, William Lovitt dịch, trong Câu hỏi Liên
quan đến Công nghệ và các Tiểu luận khác [New York: Harper & Row
Publishers, 1977], tr. 53-112. Trong tiểu luận này, Heidegger lập luận rằng mặc
dù Nietzsche cố gắng vượt qua siêu hình học, nhưng ông vẫn tiếp tục truyền
thống này bằng cách tạo ra cái ý chí như là một αρχή nguyên mẫu siêu hình học.
24 Joseph Kocklemans, Heidegger về Thời
gian và Hữu thể trong Martin Heidegger: Đánh giá Phê phán, Vol. 1,
Christopher Macann chủ biên [London: Routledge, 1992], tr.150-154; Thomas
Sheehan, Thời gian và Hữu thể, 1925-1927, tr. 47-50.
25 Sự cô đặc này của Bước ngoặt
Heidegger trong những năm gần đây đã được nhìn nhận theo cách có thể biện
minh là quá đơn giản hoá theo công bố của một loạt khoá giảng của Heidegger
trong giai đoạn Freiburg sớm. Công trình động thổ của Kisiel cũng như van Buren
đã thể hiện rằng Bước ngoặt Heidegger vào cuối những năm 1920s trong
thực tế cần phải được coi là sự quay trở lại hoặc tóm tắt lại dự phóng sớm của
ông bắt đầu ở Freiburg năm 1919. Điều này đã thay thế sơ đồ do Richardson giới
thiệu trong Heidegger I và Heidegger II. Xin xem The Sáng thế
Hữu thể và Thời gian của Heidegger của Kisiel [Berkeley: University of
California Press, 1993] và Heidegger Trẻ của van Buren để biết thêm chi
tiết về sự phát triển viễn cảnh bao quát hơn này cũng như các nhận xét về nhiều
khoá giảng giai đoạn đầu của Heidegger.
26 Về thực tính của Chân lý,
John Sallis dịch trong Martin Heidegger: Các bài viết Cơ bản do David
Farrell Krell chủ biên [San Francisco: Harper Collins, 1993], tr. 130.
27 Siêu hình học là gì?,
David Farrell Krell dịch trong Martin Heidegger: Các bài viết Cơ bản,
tr. 104.
28 Thomas Sheehan, Thời gian và
Hữu thể, tr. 62-63.
29 Siêu hình học Aristotle: ETA
1-3: Về Thực tính và Năng lực Khải hiện, Walter Brogan và Peter Warnek dịch
[Bloomington: Indiana University Press, 1995].
30 Tôi xin ghi nhận sự món nợ của
tôi đối với Thomas Sheehan, một người giỏi giang nhất theo tôi được biết, học
giả về Heidegger duy nhất đã xem xét một cách nghiêm túc việc Heidegger chiếm
làm của riêng khái niệm φύσις tự nhiên của Aristotle. Để biết thêm chi tiết,
xin xem “Về cách thức to Ereignis: Diễn giải của Heidegger về φύσις
tự nhiên” trong Continental Philosophy in America, ed. Hugh J.
Silverman, John Sallis, and Thomas M. Seebohm [Pittsburgh: Duquesne University
Press, 1983], tr. 131-164; Bắt tay vào Đề tài: Biên tập Mới về Wegmarken"
in Radical Phenomenology , ed. John Sallis (Atlantic Highlands, N.J.:
Humanities, 1978), tr. 299-316.
31 Về Thực tính và Khái niệm Φύσις
Tự nhiên trong Φύσις của Aristotle, BI, Thomas Sheehan dịch, trong Pathmarks,William
McNeill chủ biên [Cambridge: Cambridge University Press, 1998], tr. 228-229.
32, 33 như trên, tr. 229.
34 Michael E. Zimmerman, Cuộc đối
đầu của Heidegger với Tính hiện đại, tr. 223.
35 Jacques Taminiaux đã rút ra sự
khác biệt này giữa cái mà ông gọi là loại hình τέχνη bí quyết – thủ nghệ cao
hơn và thấp hơn trong bài viết của ông: Cội nguồn của Cội nguồn của Tác phẩm
Nghệ thuật trong Đọc Heidegger, John Sallis chủ biên
[Bloomington: Indiana University Press, 1993],tr.395-397.
36 Jacques Taminiaux, Nhà hát của
các Triết gia [Grenoble: Jérôme Millon, 1995], tr. 175-182.
37 Jean-François Courtine, Giải
gỡ Logic: Từ Logos đến Ngôn ngữ, trong Nhóm Tiền Socratics theo
Heidegger, pg. 34.
38 Heidegger sau này trong Nguồn
cội của Tác phẩm Nghệ thuật sẽ quy về cái “πόλεμος”
xung đột ban sơ giữa thế giới [khải tính] và trái đất [ẩn tính].
39 Cần nhớ lại rằng thảo luận của
Husserl về tri giác nội tại và siêu vượt trong Ιδέας,
các ý niệm trong bối cảnh của cái mà ông cố gắng chỉ ra là nó thuộc về “khách
thể” như thế nào để tự che giấu [Abschattungen] bản thân.
40 Mặc dù trong bài giảng của mình,
Heidegger chủ yếu tập trung vào Heraclitus and Parmenides, nhưng trong bài
giảng sau này ông lại tập trung vào một đoạn hiện còn lại, được quy cho
Anaximander. Trong đoạn này Anaximander viết về sự xuất hiện của các hiện hữu
trong số απειρον các bất định. Vì bất định không thể quy giản vào cái xuất hiện
của nó và vì vậy mà cố hữu tự che giấu bản thân. Vì vậy Heidegger phát hiện ra
một trong những cách thức xuất lộ sớm nhất của cái mà ông gọi là Khác biệt Hữu
thể luận ở Anaximander.
41 Xin xem Phần hai của chú thích 4.
42. Chúng ta cần lưu ý rằng bài viết
này không đề cập đến chủ đề tư duy vắng mặt trong các bài viết của ông ở giai
đoạn trước của bài giảng này. Nhưng nó có dạng thức thuần tuý của một phê phán
phủ định về cách hiểu truyền thống và ban đặc ân cho tư tưởng. Tính chất kiên
định ở đây chính là phương thức chân thực cơ bản của sự khải lộ của Da-sein.
Trong Nhập môn Siêu hình học, một cách hiểu nguồn cội hơn về tư duy đã được
triệu vời thông qua nhóm Tiền Socratic và đã tích hợp thành tính kiên định.
Trong bài giảng này, Heidegger đã phát triển một phân tích chi tiết và phê phán
cách hiểu truyền thống về tư duy và quá trình chuyển hoá nó đã được thực hiện
từ Tiền Socratic đến Plato và Aristotle [tr. 115-196].
43 Chúng ta có thể so sánh quan niệm
Platonic này về tư duy với sự giải thích về tư duy cội nguồn được tạo dựng bởi
tính phủ định nội tại được mô tả trong Tư duy cần gì trong Martin
Heidegger: Các công trình Cơ bản. Trong đó Heidegger viết: “Một khi chúng
ta đã quá liên quan và cuốn vào cái đã rút ra, chúng ta đang cuốn vào cái đã
rút ra, vào cái bí ẩn và vì vậy mà vào cái kề cận dễ thay đổi của sự hấp dẫn
của nó. Bất cứ khi nào con người tạo ra cái cách thức như vậy thì hắn đang tư
duy – cho dù hắn có thể vẫn còn cách xa cái đã rút ra. Xuyên suốt cả cuộc đời
cho đến lúc chết, Socrates đã không làm gì hơn là tự đặt mình vào sự lôi cuốn
này, cái dòng chảy này và giữ mình trong đó. Vì vậy mà ông là nhà tư tưởng
thuần tuý nhất của phương Tây. Chính vì vậy mà ông không viết gì cả” [tr.381-382]
44 Xin xem Werner Marx, Heidegger
và cái Truyền thống [Evanston: Northwestern University Press, 1961] tr.
139-143.
45 Câu hỏi Liên quan đến Công
nghệ trong Martin Heidegger: Các bài viết Cơ bản, tr. 317.
_______________________________________
Tác giả: Alexander Ferrari Di Pippo, Giáo
sư Khoa triết, Providence College, Rhode Island, Hoa Kỳ.
Nguyên bản: The Concept of Poiesis in
Heidegger's An Introduction to Metaphysics. In: Thinking Fundamentals,
IWM Junior Visiting Fellows Conferences, Vol. 9: Vienna 2000.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét