Hà Hữu Nga
Trong
thời gian Alexander Đại đế (365-323 TCN) mở một loạt chiến dịch lớn tiến về
phương Đông, đánh bại Đế quốc Ba Tư vào năm 334 TCN, chinh phục Ai Cập năm 332-331
TCN, và thiết lập nền cai trị tại Ấn Độ vào năm 326 TCN thì vùng đất sau này
được gọi là China (Đất Tần - Trung Quốc) chưa có nước Chin (Tần), còn người Hy
Lạp thì thực sự bắt đầu quan tâm đến các Vùng đất Chưa biết (Terra Incognita) ở
Phương Đông theo đường biển. Các bộ óc lớn nhất của thế giới Hy Lạp – La Mã cổ
đại như Erathostenes (276-194 TCN), Hipparchus (190-120 TCN), Strabo (63 TCN -
24 SCN), Marinus (70-130 SCN), và đặc biệt là Ptolemy đã kế tiếp nhau xây dựng
bản đồ thế giới, xác định vị trí của các đất nước, các đô thị quan trọng nhất
trên trái đất, trong đó có Kattigara, một địa danh được cho là thuộc cực đông
của thế giới theo quan niệm Hy Lạp cổ đại. Trong khoảng 2000 năm nay biết bao
nhiêu công sức, trí tuệ, khát vọng và cả sinh mạng người đã được đánh đổi để
mong tìm ra vị trí chính xác của cái đô thị đầy duyên nợ ấy, nhưng dường như
Kattigara vẫn còn là một ẩn số lớn đối với người đời.
Ptolemy
(90-168 SCN) là một học giả cổ đại nổi tiếng, mang họ Hy Lạp sống ở thành phố
Alexandria. Tên đầy đủ của ông viết theo tiếng Hy Lạp là Κλαύδιος Πτολεμαῖος, còn theo tiếng Latin là Claudius
Ptolemaeus, và chính cái tên này dường như lại cho thấy ông là một công dân La
Mã. Ông nổi tiếng với tư cách là nhà thiên văn học, toán học, và đặc biệt là
nhà địa lý học; Học thuyết Địa tâm gắn liền với tên tuổi ông đã thống trị thế
giới cả ngàn năm dòng. Tập Địa lý học của ông gồm 8 cuốn, có ý nghĩa to lớn trong lĩnh
vực nghiên cứu cổ bản đồ và địa lý học nói chung. Cuốn thứ nhất phác thảo về các
nguyên lý làm nền tảng để ông xây dựng tọa độ, xác định vị trí chính xác cho
các vùng đất trên thế giới, còn các cuốn sách khác, về cơ bản là tập chỉ dẫn
cho việc thể hiện thành bản đồ dựa trên các tính toán của ông. Tuy nhiên di sản
của Ptolemy còn lại cho đến bây giờ lại là các bản đồ phục dựng vào thế kỷ
XIV-XVI, dựa trên các dữ liệu trong tập Địa lý của ông. Giá trị của những bản
đồ này đã được thẩm định một cách nghiêm nhặt và đã cho thấy một mức độ chính
xác nhất định về các con số thể hiện các tọa độ và một số địa danh được mô tả,
trong đó có đô thị cổ Kattigara trong công trình của Ptolemy. Trong số 8.000
địa danh được ông ghi chú và mô tả thì Kattigara là cái tên gắn liền với nhiều
nhân vật lừng lẫy từ thời cổ đại, kể cả bản thân Ptolemy; các nhà thám hiểm vĩ
đại thời trung đại: Cristoforo Colombo (1451-1506), Amerigo Vespucci
(1454-1512), Fernand de Magellan (1480-1521); và các học giả danh tiếng thời
hiện đại như Ferdinand von Richthofen (1833-1905), George Coedes (1886-1969),
Édouard Chavannes (1865-1918), Louis Malleret (1901-1970) v.v...cùng với rất
nhiều nhà nghiên cứu tên tuổi khác của Đông Nam Á, và của Việt Nam.
I. Kattigara và Thuyết địa tâm Hy Lạp cổ đại
Thành
phố Alexandria, nơi Ptolemy sinh sống vốn là một trung tâm tri thức cổ đại lớn
nhất và nổi tiếng với thư viện Alexandria, do vua Ai Cập Ptolemy I Soter I
(Πτολεμαῖος Σωτήρ, 367 – 283 TCN), là một dũng tướng thân tín
nhất và là một trong 7 vệ sỹ của Alexandros Đại đế cho xây dựng. Ông cai trị Ai
Cập từ năm 323 đến 283 TCN, và khoảng năm 305 TCN ông đã lấy tước hiệu Thần
vương Pharaoh đặt cho mình, trong khi đó tước hiệu này chỉ sử dụng cho các vua
Ai Cập cổ đại cho đến thiên niên kỷ II TCN mà thôi. Khoảng năm 290 TCN,
Pharaoh Ptolemy I cho xây "Museion", trong đó có một đại học, một
viện hàn lâm và thư viện Alexandria với khoảng 400.000 cuộn sách vào lúc khởi
đầu. Thư viện chỉ thực sự hoạt động dưới thời vua kế tiếp là Ptolemy II
Philadelphus (285-246 TCN) với 500.000 cuộn sách [Tarn, W.W. 1928]. Đời vua
Ptolemy III Euergetes đã cho người đi khắp nơi mua sách hoặc mượn sách có đặt
cọc rất lớn, có cuốn tới 15 talent vàng, sau đó không nhận lại tiền cọc mà đổi
lấy sách cho thư viện [Erksine A. 1995: 38 – 48]. Theo sử gia Plutarch, người viết
tiểu sử Caesar thì năm 48 TCN thư viện bị cháy trong cuộc tấn công của Julius
Caesar vào Alexandria dưới thời trị vì của Ptolemy XIII. Sau này Marcus
Antonius (83 – 30 TCN) lại lấy 200.000 cuộn sách tặng Cleopatra làm quà cưới,
khiến cho thư viện ngày càng nghèo đi. Strabo (Στράβων, 64 TCN-24 SCN), nhà địa
lý, lịch sử, triết học Hy Lạp cổ đại, tiền bối của Marinus và Ptolemy, đã từng
làm việc tại thư viện Alexandria năm 23 TCN cũng ghi nhận điều đó, còn nhà
triết học La Mã nổi tiếng Licius Annaeus Seneca (4 TCN-65 SCN) có nói đến
40.000 cuộn sách của thư viện Alexandria đã bị đốt cháy [Griffin, Miriam T.
1976]. Có thể thư viện Alexandria vẫn được duy trì cho đến khi phần lớn sách bị
mất lúc hoàng đế La Mã Aurelius (270–275) chiếm Alexandria từ nữ hoàng Zenobia
xứ Palmyra [El-Abbadi, Mostafa 1992].
Sống
trong bối cảnh tri thức của thành Alexandria như vậy, chắc chắn các tiền bối
của Ptolemy, và chính bản thân ông đã có rất nhiều điều kiện để thu thập nhiều
nguồn tư liệu địa lý trong thế giới cổ đại, cho dù đến thời ông thư viện
Alexandria đã trải qua nhiều phen binh lửa. Điều đó chứng tỏ một thực tế là ông
đã đưa vào công trình của mình hơn 8000 địa danh mà nhiều địa danh đối với ông,
chắc chắn cũng mơ hồ như đối với chính những người tìm kiếm khác vậy. Một
nghiên cứu so sánh của Strabo cho thấy phạm vi hiểu biết về phần thế giới chưa
được biết đến còn mênh mông đến mức nào. Khối tri thức to lớn và cách mô tả rất
cụ thể trong bộ Địa lý của Strabo đã tạo nền tảng vững chắc cho sự hiểu biết
phần thế giới Địa Trung Hải, Tây Âu, Bắc Phi, Trung Đông, Ba Tư và một phần Ấn
Độ cho những người đi sau, trong đó có Ptolemy (Strabo 1917-1932). Các đoạn chú
thích của Marinus chứa đựng nhiều dữ kiện đã được xây dựng dựa trên các ghi
chép của các cuộc hành trình dài, các cuốn nhật ký hành trình chính thức, các
tư liệu hành chính và cả các quan sát thiên văn của các nhà hàng hải và các
thương nhân từ rất nhiều thế hệ khác nhau. Nhờ đức siêng năng và say mê đặc biệt
với sự nghiệp địa lý học mà Ptolemy đã được thế giới cổ đại Hy La ngưỡng mộ.
Nhà địa lý học Marcianus Heracleensis (thế kỷ IV) đã gọi ông là “nhà địa lý học
cổ điển cuối cùng”.
Cái tên
Ptolemy gắn liền với học thuyết địa tâm ở giai đoạn đỉnh cao của nó. Với tư
cách là một đặc thù tư duy Hy Lạp cổ đại, thuyết này cho rằng Trái đất là trung
tâm của vũ trụ và Mặt trời cùng các thiên thể khác quay xung quanh nó. Hệ này
được coi là hình mẫu tiêu chuẩn thời Hy Lạp cổ đại, kể từ Aristotle (384 BC – 322 BC) – thầy dạy của Alexandros Đại đế - cho đến Ptolemy cũng như đa
số các triết gia Hy Lạp khác đều đồng thuận coi Mặt trời, Mặt Trăng, các vì sao
là vệ tinh của Trái Đất. Mô hình địa tâm bắt đầu xuất hiện trong triết học và
thiên văn Hy Lạp từ rất sớm. Có thể tìm thấy những dấu vết mô hình này trong
triết học trước cả Socrates (469-399 TCN). Ngay từ thế kỷ thứ 6 trước Công
Nguyên Anaximander (610 – 546 TCN) đã đưa ra một vũ trụ học với Trái đất như
một mặt cắt của một hình trụ là trung tâm của vạn vật. Mặt trời, Mặt trăng và
các hành tinh lồng trong những bánh xe vô hình quanh Trái Đất. Còn các môn đồ
Pytagoras (khoảng 580-490 TCN) thì cho rằng Trái đất là một hình cầu, nhưng
không phải ở trung tâm; họ tin rằng nó chuyển động quanh một ngọn lửa vĩnh cửu.
Sau này các quan điểm đó được phối hợp với nhau, vì thế đa số những học giả Hy
Lạp từ thế kỷ thứ 4 trước Công nguyên đều nghĩ rằng Trái Đất là một hình cầu
tại trung tâm vũ trụ [Dreyer J.L.E. 1953; Heath, Thomas 1913].
Trong
thế kỷ thứ 4 trước Công nguyên, hai nhà triết học Hy Lạp có nhiều ảnh hưởng đã
viết các tác phẩm dựa trên mô hình địa tâm. Đó là Platon (427-347 TCN) và học
trò của mình, Aristotle. Theo Platon, Trái Đất hình cầu, và nằm ở trung tâm vũ
trụ. Các ngôi sao và các hành tinh được gắn trên các mặt cầu quay quanh Trái
đất, với thứ thự (từ trong ra ngoài): mặt trăng, mặt trời, sao Kim, sao Thủy,
sao Hỏa, sao Mộc, sao Thổ, các ngôi sao cố định. Plato miêu tả vũ trụ một cách
thần bí, còn Eudoxus Cnidus (408-355 TCN) đồng thời với Platon thì cho rằng toàn bộ các
hiện tượng thiên thể có thể được giải thích bằng một chuyển động tròn duy nhất.
Aristotle đã thêm chi tiết vào hệ thống của Eudoxus. Trong hệ thống đã được
phát triển đầy đủ của Aristotle, Trái đất hình cầu nằm ở trung tâm vũ trụ
[Dreyer J.L.E. 1953; Evans, James 1998].
Dù
những giáo lý căn bản của thuyết địa tâm Hy Lạp được hình thành từ thời
Aristotle, các chi tiết về hệ của ông không phải là một tiêu chuẩn. Tăm tiếng
này được dành cho Hệ Ptolemy, được nhà thiên văn học Ptolemy đưa ra vào thế kỷ
thứ 2 sau Công nguyên. Cuốn sách thiên văn học quan trọng của ông Almagest là thành quả cao nhất của công trình
kéo dài hàng thế kỷ của các nhà thiên văn Hy Lạp; nó đã được chấp nhận trong
suốt hơn một nghìn năm sau, được những người Châu Âu và các nhà thiên văn học
Hồi giáo coi là mô hình vũ trụ chính xác. Vì ảnh hưởng của nó, hệ Ptolemy thỉnh
thoảng được coi tương tự với mô hình địa tâm. Đó chính là một trong những cơ sở
lý thuyết để Ptolemy sử dụng các công cụ toán học và vật lý áp dụng vào các
khung tính toán địa lý của các tiền bối, kết hợp với việc phê phán các bậc tiền
bối để xây dựng hệ thống kinh tuyến, vĩ tuyến và tính toán các tọa độ trên trái
đất [Evans, James 1998.; Heath, Thomas 1913].
Một
trong những tiền bối lỗi lạc nhất của Ptolemy là Eratosthenes làm việc tại
thành phố Alexandria. Ngay từ rất sớm, ông đã sử dụng các phương pháp khoa
học để tìm cách đo đạc trái đất. Khai thác tri thức và các ghi chép của rất
nhiều người thuộc nhiều thời lưu tại thư viện, ông biết giữa trưa ngày 21 tháng
6, mặt trời lên đến thiên đỉnh tại Syene (Aswan) [thành phố ở khu vực thượng
nguồn sông Nil của Ai Cập cổ đại], trong khi đó tại Alexandria bao giờ mặt trời
cũng có bóng dài, nhờ đó ông tính được Syene thuộc về phía nam Alexandria. Dựa
vào kết quả quan sát từ hai địa điểm cách xa nhau ấy ông đã tính được chu vi
của trái đất là 250.000 stadium, tổng cộng là khoảng 28.700 dặm, thừa khoảng 15
phần trăm so với chu vi thực mà ngày nay khoa học tính được một cách chính xác.
Và phương pháp đo đạc vĩ mô của ông đã trở thành một đóng góp lớn cho nhân
loại. Tiếp theo Eratosthenes, Ptolemy còn có một tiền bối vĩ đại khác, đó là
Hipparchus, xứ Nicea, người đã chia trái đất thành 3600 và mỗi
độ cách nhau 70 dặm, tương đương với khoảng cách giữa hai kinh tuyến để tính
toán. Các thuật ngữ kinh tuyến, vĩ tuyến là do ông xây dựng và sử dụng
(Broorstin, Daniel J. 1983).
Trong
các công trình của các học giả trước Ptolemy, trái đất được biết với các dữ
liệu sau: chiều Đông Tây là 1800, còn chiều Bắc Nam là 900.
Trong công trình Almagest ông muốn chia trái đất thành 4 phần
bằng đường xích đạo và quỹ đạo kinh tuyến qua hai cực trái đất. Phần thế giới
đã biết của Ptolemy thuộc vùng phía bắc, phương Bắc Nam được tính từ cực bắc
đến đường xích đạo, còn phương Đông Tây được tính bằng đường quỹ đạo kinh
tuyến, có khoảng cách là 1800, không nhiều hơn sự khác biệt của 12
giờ, mà mỗi giờ được tính là 150 giữa hai điểm của phần thế
giới đã biết, tính theo số lần bị che lấp của mặt trăng tại bất cứ một điểm nào
ở phần trái đất đã biết. Đối với ông, vùng con người sống được là các khu vực
thuộc bắc xích đạo. Điểm cực bắc có vĩ độ 630 Bắc (vùng Thule),
còn điểm cực Nam thuộc vĩ độ 16.5/120 Nam (vùng Aigisymba - Cặp
tê giác và Mũi Prason). Vậy là từ các đảo Fortunate của “các hữu tử phước huệ”
đến Sinae (mà nhiều học giả sau này giả định là Trung Quốc) theo hướng Đông -
Tây là 1800. Đó chính là các điểm giới hạn của bản đồ thế giới của
ông. Trong ranh giới đó, ông cố gắng xác định một cách ổn định các dữ liệu địa
lý mà ông thu thập được của các bậc tiền bối với các dữ liệu thiên văn của ông
để xây dựng bản đồ. [Riley T. M. 1995, 232].
Ông
tính toán sự khác biệt giữa các cuộc hành trình của các nhà hàng hải, các
thương nhân đã được ghi chép và khoảng cách thật, tức là khoảng cách theo vĩ độ
Bắc qua Thule (Vùng Bắc Âu) và vĩ độ Nam qua Aigisymba (Trung Phi) và Mũi
Prason (Ven biển châu Phi) bằng các phương pháp tính thông thường. Còn cực Đông
thì ông sử dụng Kattigara làm vĩ độ 1800., có nghĩa là Kattigara cũng thuộc vùng đất Sinae. Marinus
đã khai thác số liệu được ghi chép nhiều lần của các thương nhân, các nhà hàng
hải, nên đã tính được khoảng cách về phía Nam tính từ đường xích đạo là 24.680
stade (đơn vị tính chiều dài, số nhiều của từ stadium, mỗi stadium = 184m),
trong đó 500 stade = 10 vĩ, vậy thì quãng đường 24.680 stade người lữ hành phải
qua 490 vĩ Nam. Marinus cũng đã tính quãng đường từ Ptolemai ở Trogloditya đến
Mũi Prason, thuộc đất Ethiopia, là 27.800 stade, 560 vĩ Nam. Theo Ptolemy thì
các khoảng cách đó cho thấy Ethiopia ở vùng lạnh thuộc Nam Bán cầu, trong
khoảng 500-550 vĩ Nam, vì vậy Tê giác không thể sống được ở đó. Không những
thế, người Garamantes lại chính là người Ethiopia thì “các dữ liệu của Marinus
sẽ trở thành trò cười cho vị vua ở đó”, vì làm sao mà một vị vua lại có thể
sống xa thần dân của mình đến thế được. Hơn nữa lại còn phải tính đến sự tương thích
về khí hậu, chủng tộc, động vật giữa các vùng tương ứng thuộc Bắc và Nam bán
cầu. Trong khi đó những người Ethiopia da đen lại sống gần những người ở phía
Nam Ai Cập, người Ethiopia sống giáp đường Xích đạo về phía nam, còn người Ai
Cập lại sống giáp đường Xích Đạo về phía bắc, vì vậy theo Ptolemy, khoảng cách
thực phải giảm đi một nửa so với con số của Marinus, còn 23.1/20 mà thôi. Ngoài
ra Marinus cũng có các báo cáo về các cuộc hải trình giữa Aromata (Sừng Châu
Phi) và Rhapta (thuộc bờ đông Châu Phi). Diogenes xứ Kunikos (Διογένης ὁ Κυνικός, 404-323 TCN) đã phải mất 25 ngày đi thuyền về phía nam để đến các
nguồn sông Nile ở Mũi Rhapta. Vậy thì số liệu của Marinus rất vô lý, nên
Ptolemy đều giảm đi một nửa. [Riley T. M. 1995, 233].
Trên cơ
sở đó, Ptolemy đã coi việc giảm các số liệu của Marinus xuống còn một nửa là
một nguyên tắc. Vì vậy đối với trường hợp Đông Tây, đương nhiên ông cũng áp
dụng nguyên tắc này cho các khu vực thuộc phần thế giới đã biết. Marinus có các
báo cáo về cuộc hành trình từ Hierapolis tại Euphrates (Syria) đến Tháp đá
thuộc “ranh giới phía tây của Sinae” là 26.280 stade, và hải trình từ Tháp đá
đến “Sera thủ đô của Sinae” là 36.200 stade, về thời gian mất 7 tháng với tổng
chiều dài đoạn đường là 62.480 stade hoặc là 156,1/50. Thêm vào con
số ấy 720, tính từ các đảo Fortunate của “các hữu tử phước huệ” đến
Hierapolis và tổng đoạn đường Tây - Đông của thế giới đã biết là 228,1/50.
Với vĩ tuyến Tây – Đông, Ptolemy tính mỗi độ bằng 400 stade, và áp dụng nguyên
tắc giảm một nửa như đối với trường hợp châu Phi, Ptolemy cũng giảm con số tính
toán của Marinus là 36.200 stade xuống còn 18.100 stade, và nếu tính theo độ
thì còn 45,1/20, tình cờ là nó lại gần với con số thực. Con số
26.280 stade từ Hierapolis đến Tháp đá thuộc Vùng đất Chưa biết (Terra
Incognita) được điều chỉnh xuống còn 24.000 stade, hoặc 600, và tổng
số độ từ Hierapolis đến Sera là 105,1/40. Vậy là đoạn đường từ các
đảo Fortunate của “các hữu tử phước huệ” đến Hierapolis là 720, và
từ Hierapolis đến Sera là 105,1/40, tổng cộng là 177, 1/40,
gần khớp với tổng chiều dài vĩ tuyến Tây – Đông 1800. [Riley T. M.
1995, 233].
Trong
chương I.14 của công trình Địa lý học, khoảng cách đường biển theo các báo cáo từ Ấn Độ đến
Kattigara trên cùng vĩ tuyến với Sera cũng áp dụng nguyên
tắc giảm thiểu như trên, để tính phương Đông Tây, vì vậy mà cũng còn gần 1800.
Tất nhiên Ptolemy còn có các nguồn tư liệu khác nhau vì vậy ông chỉnh sửa các
số liệu cũ bằng các số liệu mới hơn, và cũng đề cập đến tính cần thiết của việc
phải cập nhật các nguồn dữ liệu mới đó. Tuy nhiên, điều đó chỉ có thể dễ dàng
thực hiện đối với vùng thế giới đã biết, chủ yếu thuộc phạm vi Ả Rập, xa nhất
là đến Ấn Độ, nơi mà cuộc chinh phạt của Alexander Đại đế chấm dứt ở đó. Còn
ngoài phạm vi đó thì các nguồn số liệu, dữ liệu mới là rất hiếm hoi. Trong thực
tế thì đối với công trình Địa lý, Ptolemy đã sử dụng khuôn khổ và số liệu mà
các tiền bối đã thực hiện. Đối với trường hợp này thì bản đồ truyền thống bao
gồm cung ¼ bán cầu bắc, và ông đã điều chỉnh các báo cáo và các số liệu cũ bằng
nguyên tắc giảm ½ đối với phần thế giới đã biết như vừa đề cập ở trên. [Riley
T. M. 1995, 234].
Trên cơ
sở học thuyết của mình, một địa điểm tại cực đông của địa cầu như Kattigara chính là một nhu cầu thúc bách trí
tưởng tượng Hy Lạp cổ đại trong rất nhiều đời nhằm kiểm nghiệm lý thuyết địa
tâm và mục đích cuối cùng là chinh phục địa cầu của tinh thần Hy Lạp. Nhưng có
lẽ chỉ đến thế kỷ thứ tư TCN, sau khi Alexander Đại đế, học trò của Aristotle,
chiến thắng Ai Cập, Ba Tư và Ấn Độ thì các hiểu biết về phương Đông, đặc biệt
là những thông tin và tên gọi kiểu như Kattigara mới được các thương gia Nam Ấn cung cấp cho
Alexander Đại đế và các tướng lĩnh dưới quyền ông một cách rõ ràng và chắc chắn
nhất. Giai đoạn này tương đương với thời Hùng Vương 18 gồm có “Hùng Duệ Vương,
Hùng Kính Vương và Tản Viên” trong truyền thuyết Việt, sau đó nhà nước Hùng
Vương bị Thục Phán thôn tính vào năm 257 TCN theo Đại Việt sử ký Toàn thư hoặc
vào năm 179 TCN theo các nguồn khác.
II. Kattigara – Marinus và Ptolemy
Tuy địa
danh Kattigara không phải do Ptolemy phát hiện,
nhưng cái tên đó lại gắn liền với Ptolemy và tất cả những nghi vấn mà ông đã để
lại cho đời sau trong chính các ghi chú của công trình Địa lý học của mình. Một trong những ghi chú
được tất cả những người tìm kiếm Kattigara phân tích, đó là việc ông than phiền Marinus
không ghi rõ khoảng cách hải trình từ Bán đảo Vàng, ngày nay được thừa nhận là
Bán đảo Malay đến Kattigara. Trong
công trình của mình, Marinus chỉ ghi một cách mơ hồ là Alexandros đã viết rằng
vùng đất đó ở bên kia vùng đất quay về phía nam, và phải bơi dọc theo đó đến
Zabai mất 20 ngày, sau đó từ Zabai bơi tiếp một hồi về phương nam rồi rẽ trái
đi tới Kattigara trong “vài ngày”. Theo Ptolemy
thì “Marinus đã phóng đại khoảng cách đó bằng cách nói “vài ngày” có nghĩa là
nhiều ngày, lại còn nói là vì vô số ngày nên không thể hiện bằng con số cụ thể
được. Điều đó thật nực cười: làm gì có chuyện không tính được cụ thể số ngày,
cho dù có đi vòng quanh cả trái đất đi nữa?” Hoặc có điều gì đó đã cản trở
Alexandros không nói “nhiều ngày”, mà chỉ nói “vài ngày”, hệt như Marinus nói:
“Dioskoros cho biết hải trình từ Rhapta đến Mũi Prason mất “nhiều ngày”
[Ptolemy, 2000: 76].
Như vậy
với ghi chú trên chúng ta biết chắc chắn rằng cái tên Kattigara không phải là do Ptolemy tìm kiếm
được thông tin trực tiếp và đưa vào công trình Địa lý học của ông, mà do ông sử dụng lại từ
công trình của Marinus. Trong thực tế thì nếu không có Địa lý học của Ptolemy, người ta sẽ không biết
gì nhiều về Marinus. Có thể nói nhờ có Ptolemy thì người đời sau mới biết được
vị thế và đóng góp to lớn của Marinus cho Địa lý học thế giới. Nhưng chính bản thân
Marinus cũng để lại cho Ptolemy những vấn đề mà ông không giải quyết được,
chẳng hạn ông không biết Marinus nói về hải trình đến Kattigara của Alexandros nào, ở thời nào. Liệu người
này có trực tiếp đến Kattigara hay ông ta phái người đi đến đó. Khi
tính khoảng cách từ Hy Lạp đến Kattigara ông cho rằng Marinus đã phóng đại kinh độ bằng
cách xác định khoảng cách giữa các đảo Fortunes ở phía Tây đến các vùng cực
đông thuộc Sera của Sinae và đến Kattigara không hơn 12 giờ. Bằng cách xác định vị trí của
Sera, Marinus đã sử dụng tuyến hải hành của các thương nhân hoặc nhà hải hành
nào đó đã đến đó và Ptolemy đã phê phán việc xác định đó. “Vì ông nói với chúng
ta rằng các khoảng cách mà một kẻ tên Maes nào đó có họ Titianus, một người
Macedonian, và cũng là một thương nhân giống như cha ông ấy; đâu phải tự ông ta
thực hiện cuộc hải hành mà là cử người tới buôn bán với người Seres”. Nhưng rất
may là sau này người ta đã tìm được tung tích của nguồn thông tin thứ hai mà
Marinus đã sử dụng cho việc tính toán đoạn đường đến Kattigara. Nhân vật Maes Titanius ấy chính là một
nhà lữ hành đã từng đi theo con đường tơ lụa trên bộ từ Địa Trung Hải tới
phương Đông vào cuối thế kỷ I TCN hoặc đầu thế kỷ I SCN; nhờ có lời phàn nàn
của Ptolemy mà thân phận của Maes Titanius đã được làm sáng tỏ [Cary M. 1956:
130-134].
Trong
Ghi chú II của tác phẩm Địa lý, Ptolemy cho rằng: Phần có người ở của trái đất
chúng ta còn có Vùng đất Chưa biết (Terra Incognita) ở phương Đông bao
bọc, có các dân tộc ở cực đông của Đại Á cư trú, là người Sinae và các dân tộc
Serice; tương tự như vậy là Vùng đất Chưa biết ở phía Nam khép kín biển Ấn Độ
và ôm lấy Ethiopia đến nam Libya, được gọi là đất Agisymba; vòng về phía tây là
Vùng đất Chưa biết bao quanh vịnh Ethiopic của Libya, và sau đó bao quanh Đại
Tây dương nằm ở cực tây của Libya và châu Âu; và đại dương này bao gồm phần
phía bắc với các đảo Britanic và phần cực bắc châu Âu có các tên gọi
Duecalydonian và Sarmatic; tiếp đến một Vùng đất Chưa biết trải dọc các phần
cực bắc của Đại Á, đó là Sarmatia, Scythia, và Serice…”. Và vùng đất này cũng
bọc kín biển Hyrcanian còn được gọi là Caspian. Tương tự như vậy các vịnh Ả
Rập, vịnh Ba Tư, vịnh Hằng Hà và Vịnh Lớn ở phương Đông cũng được đất liền bọc
kín. Vì vậy chúng ta thấy có ba đại lục châu Á tiếp nối với Libya bởi eo đất Ả
Rập tách biển (Địa Trung Hải) của chúng ta khỏi vịnh Ả Rập, và bởi Vùng đất
Chưa biết khép kín biển Ấn Độ…”. Cực đông của Vùng đất Chưa biết giới hạn bởi
kinh tuyến chạy qua thủ đô của Sinae, ở một khoảng cách là 1190 tính
từ Alexandria, tương đương với 8 giờ tính đến đường xích đạo… [Institute
on the Far East Works 1915, tập vii, chương 5].
Trong
cuốn sách thứ nhất của mình, Ptolemy nói về Marinus như là một tác giả Hy
Lạp lớn nhất về phương diện Địa lý học. Có rất nhiều bản in bổ sung các biểu địa lý của ông,
nhưng các phán đoán của ông cần phải được chỉnh sửa và ông đã đưa ra rất nhiều
con số tính toán về các khoảng cách, chiều dài, chiều rộng của thế giới có con
người sinh sống. Về vĩ độ, Ptolemy đã minh họa bằng cách phê phán vị trí do
Marinus xác định dựa vào những chuyến hải hành nào đó đến vùng cực nam Ethiopia
được gọi là Agisymba. Việc tính toán khoảng cách đại quát từ các tuyến đường đó
có lẽ đã đặt vùng này vào khoảng cách 24.680 stades kể từ đường xích đạo về phía
nam, hoặc như Ptolemy nói là thuộc về vùng Nam cực băng giá. Tổng cộng, Marinus
đã cắt giảm con số đó xuống còn 12.000 stades để đưa nó lại gần với vùng nhiệt
đới phía nam, và Ptolemy bằng cách suy đoán là thích hợp với một số loại động
vật nhất định nên đã giảm khoảng cách đó xuống còn 8000 stades. Ông cho rằng
Marinus đã phóng đại kinh độ khi xác định khoảng cách giữa các đảo Fortunes ở
phía Tây đến các vùng cực đông thuộc Sera của Sinae và đến Kattigara không hơn 12 giờ[Institute on the
Far East Works 1915].
Một
trong những vấn đề làm đau đầu những người tìm kiếm Kattigara là việc Ptolemy đã cố gắng xác định
vị trí kinh tuyến chạy theo đường biển từ Mũi Kory ở Nam Ấn Độ đếnKattigara, được giả định là một cảng thị của Sinae,
và nó thuộc vào vị trí 1770 đông. Những băn khoăn chủ yếu gắn
liền với kinh độ này liên quan đến đoạn mô tả đô thị đó “ở mãi trong hẻm núi,
cuối vùng đồng bằng” (chương 13-14 tập Địa lý của Ptolemy). Nhưng đoạn đó lại
nói về tuyến đường trên đất liền đi qua Tháp đá, và bên kia là trạm nghỉ cho
các thương nhân đi đến vùng đất của người Seres (bk.vi, chương 13). Richthofen
cho rằng trạm này thuộc vùng Pamir [Richthofen, von Ferdinand 1877-1912].
Tuy nhiên theo Stein thì ngày nay khó lòng mà xác định được vị trí của “Tháp
đá” nữa, nhưng nơi nghỉ mà Maes Tititanus nói là phía đông “Tháp đá” và nằm
trên con đường đi Sera thì chắc chắn vẫn còn đó. Theo Richthofen thì vị trí này
phải gần với vùng phân thủy giao nhau với tuyến đường trên, vì Ptolemy đã xác
định vị trí đó trên tuyến Imaus, chắc chắn là phù hợp với vùng Pamir ở phương
đông [Stein M.A. 1907: 54-5]. Tháp đá của Ptolemy chắc chắn không thể bị
lẫn lộn với Tash Kurghan. Nhưng theo Ptolemy, có lẽ hợp lý nhất là xem xét kỹ
chi tiết mà Alexandros đã mô tả vùng đất bên kia Vùng đất vàng Chersonese nằm
hướng về phía nam, và sau khi đi thuyền trong vòng 20 ngày thì đến thành phố
Zabai, sau đó bơi vài ngày nữa theo hướng nam, rồi rẽ trái sẽ đến Kattigara. Điều đó có nghĩa là Ptolemy vẫn nghi ngờ
tính xác thực của nguồn thông tin do Maes Tititanus cung cấp trên tuyến đường
bộ mà sau này được Richthofen gọi là “Con đường tơ lụa”.
Trong
chương 17 của tập Địa lý học, Ptolemy
nói về những người đã thực hiện các chuyến hải hành đến Ấn Độ và đã từng sống
lâu ở đó: Từ những người này chúng ta có những thông tin chính xác hơn về Ấn Độ
cũng như về những đất nước xa hơn ở Vùng đất vàng, cho đến tận Kattigara. “Tất cả mọi người đều nhất trí rằng để
đến được các vùng ấy, thì phải đi về phương Đông, còn để quay lại thì phải đi
về phía Tây, và như thế thì không thể ấn định trước một khoảng thời gian chắc
chắn trong bối cảnh đó”. “Họ cũng đồng ý rằng đất nước của người Seres có thủ
phủ nằm về phía bắc vùng đất của người Sinae, còn đi tiếp về phía đông thì là
Vùng đất Chưa biết, với rất nhiều đầm lầy mọc đầy loại lau sậy lớn, dày đặc đến
mức người thổ dân khi đi qua đó cũng phải có cách riêng, vì ở đó không có đường
đi” [Institute on the Far East Works 1915].
Theo
nhà Đông phương học kỳ cựu H. G. Rawlinson thì các công trình của Ptolemy
về địa lý của giai đoạn này chủ yếu dựa vào các thông tin do Marinus xứ Tyre
thu thập, đã thể hiện một sự hiểu biết sâu sắc hơn về vùng ven biển châu Á so
với các bậc tiền bối của họ. Trong khi đó tác giả của sách Periplus biết không nhiều, hoặc thậm chí
không biết gì về vùng biển bên kia sông Hằng. Ptolemy đã phải đương đầu với một
vấn đề lớn có lẽ vì ông đã phải phụ thuộc vào nguồn thông tin của “các nhà hàng
hải mù chữ với các thông tin mù mờ và lẫn lộn”. Ông đã nhầm Java với Sumatra;
ông không nói gì về eo Malacca và ông nghĩ rằng bờ biển Trung Quốc đáng lẽ là ở
hướng bắc thì lại quanh về phía nam để tiếp giáp với vùng ven biển Châu Phi.
Thông tin mà ông thu lượm từ “các thủy thủ ít học, không đánh vần được đúng tên
gọi các cảng biển mà họ cập bến”. Trong đầu họ chỉ có con đường từ cảng này đến
cảng khác và thường là lẫn lộn; còn về khoảng cách thì như bản thân ông thú
nhận là ông phải dựa vào phép tính trung bình của con tàu đi trong một ngày để
tính toán, cùng với phép tính trung bình là các suy luận để giải quyết những bất
thường của các vùng biển ông không có thông tin chắc chắn hoặc những nhân tố
nhiễu loạn khác. Kết quả ấy đưa đến những sai lạc ghê gớm dù chỉ là về vùng ven
biển Ấn Độ. Ptolemy dường như hoàn toàn không biết gì về sự thật là tiểu lục
địa này xuôi theo hướng nam. Từ mũi Kory đến vùng cửa sông Hằng có hàng loạt đô
thị, trong đó có một đô thị không được nêu tên, nằm giữa Maesolia và Palura.
Maesolia hay Masalia trong sách Peripluscó lẽ là quận Masulipatam và Palura nơi bắt đầu của
Vịnh Hằng Hà nằm thiên về phía bắc một chút. Chính từ vị trí này mà các con tàu
bắt đầu cuộc hải hành về phương Đông. Qua khỏi vịnh Bengal, họ đến Sada thuộc
vùng Đất Bạc, và từ Sada đến Temala hoặc Tamala gần mũi Negrais, nằm ở đầu vịnh
Thái Lan (Vịnh Lớn). Sau đó đi tiếp đến đến một cảng gọi là Zaba. Yule cho đó
là Champa và tìm kiếm nó ở bờ phía tây Campuchia và có lẽ gần sông Kampot hoặc
sông Kang Kao. Hải trình đó mất 20 ngày; và từ Zabai đến Kattigara có cùng một khoảng cách tương tự như
vậy. Tuy nhiên về chặng đường này Ptolemy thừa nhận là ông cũng rất nghi ngờ vì
những thông tin mà Marinus có được từ một người nào đó có tên là
Alexanderos [Rawlinson H. G. 1916: 131, 132].
Tiếp
tục con đường ven biển từ Palura, Ptolemy mô tả cửa sông Hằng. Ông là một tác
giả phương Tây đầu tiên đề cập đến vùng đồng bằng sông Hằng. Ngay cả tác giả
sách Periplus cũng không nói gì về điều này, còn
Strabo và toàn bộ các tác giả trước đó đều im lặng, nếu không kể đến “các tài
liệu tham khảo đáng ngờ” của Vergil về “7 ngọn nguồn êm đềm” của dòng sông đó.
Ptolemy gán cho sông Hằng có năm cửa. Từ sông Hằng ông mô tả Ấn Độ xuyên Hằng
Hà, trước hết là vùng đất Airrhadii; tiếp đó là Ấn Độ từ sông Hằng đến
Tokosanna hoặc sông Arakan; sau đó ông dẫn ta đến Đất Bạc, Arakan và Pegu; rồi
đến Besynga hoặc Bassein; và cuối cùng đến vùng Đất Vàng, Bán đảo Malay. Cái
tên đó được dịch từ tiếng Phạn Suvarnabhumi để chỉ vùng tam giác châu Irrawady,
mà các biên niên sử Mianma gọi tên tương tự vùng ranh giới của họ là
Sonaparanta. Tiếp đến là Mũi Lớn Campuchia, và Vịnh Lớn Thái Lan. Ở phía Tây
của vịnh này có cảng Zabai đã được các đoàn hải hành nói đến khi bơi tới Kattigara. Cư dân ở đó được mô tả là “lễ phép, đầu
tóc bờm xờm, mũi tẹt và hay ngồi xổm” – một đoạn mô tả khái quát khá rành
mạch [Rawlinson H. G. 1916: 133-4].
Nhưng
dù có to tiếng phê phán các sai lầm của Ptolemy thời cổ đại thì rồi cuối cùng
Rawlinson thời hiện đại cũng vướng không ít mơ hồ khi kết luận rằng: “Kattigara có lẽ là Kian-chi (có thể Rawlinson viết sai từ Kau Chi) ở Bắc Kỳ, Việt Nam hiện nay, vì các biên
niên sử Trung Quôc nói về sứ bộ La Mã đến Trung Quốc đã ghé vào đó mua bán rất
nhiều. Còn thủ đô của Trung Quốc có lẽ là Nam Kinh; dân Sinae ở Đông Nam Trung
Quốc mà Ptolemy nói đến chính là những thương nhân buôn bán với Đông Ấn Độ.
Người Seres hoặc Người Dâu tằm cư trú ở phía tây hoặc phía bắc của Sinae, và
tiếp xúc với phương Tây qua con đường Pamirs” [Rawlinson H. G. 1916:
136].
III. Kattigara – danh phận đoạn trường
Đối với
Ptolemy câu hỏi Kattigara là gì không mấy quan trọng, điều
quan trọng nhất đối với ông là cần phải xác định nó ở đâu, có nghĩa là ở kinh
độ và vĩ độ nào trong cái mô hình bản đồ thế giới tuyệt vời của ông. Câu
hỏi đó đã được ông trả lời bằng các tính toán và suy lý để rồi chấm được nó ở
một vùng đất mà đại đa số các nhà nghiên cứu đều nhất trí là ở Việt Nam ngày
nay. Tuy nhiên, vấn đề về địa danh Kattigara mà Marinus và Ptolemy đưa ra từ thời cổ đại vẫn
tồn tại nguyên vẹn và liên tục cho đến thời trung đại. Nhà thám hiểm vĩ đại,
người đã tìm ra châu Mỹ là Amerigo Vespucci đã thực hiện chuyến đi năm 1499 đã
viết: Ông hy vọng đến được vương quốc “Melaccha ở Ấn Độ”, thực tế thì đó là
Malacca hoặc Melaka thuộc bán đảo Malay, bằng chuyến hải hành từ Tây Ban Nha,
bơi về phía tây, qua Đại Tây Dương, vòng qua “Mũi Kattigara” đến Vịnh Lớn Sinus Magnus [Vespucci A.
1500-1944-1999].
Thomas
Suarez cho rằng vị trí chiến lược của Kattigara đã được các nhà thám hiểm tiên phong Châu Âu xác
định ở Đông Nam Á, chẳng hạn như Amerigo Vespucci, Christopher
Columbus và Ferdinand Magellan[Suarez,Thomas 1999: 92].
Nhưng Vespucci đã thất bại trong việc tìm kiếm Mũi Kattigara trong chuyến thám hiểm năm 1499, khi
ông bơi dọc theo bờ biển Venezuela Nam Mỹ, nhưng lại chưa bơi đến
được tận cùng để giải quyết câu hỏi: có phải Sinus Magnus của Ptolemy
vượt sang đến dải đất bên này không. Tương tự như vậy, Christopher
Columbus cũng thất bại trong việc trả lời câu hỏi này khi ông bơi dọc theo
chính bờ biển đó. Trong chuyến thám hiểm lần thứ tư và cũng là lần cuối cùng
của mình vào năm 1502-1503, Columbus đã xây dựng kế hoạch đi dọc bờ biển Champa
về phía nam vòng qua “Mũi Kattigara” và bơi qua eo biển ngăn cách nó với Tân Thế giới để
tới Sinus Magnus phía Malacca. Đây chính là tuyến đường mà
ông cho rằng Marco Polo đã trở về từ Trung Quốc qua Ấn Độ vào năm
1292 [Nunn, George E. 1992; Wallis, Helen 1992]. Columbus cho rằng ông sẽ
gặp đoàn thám hiểm của Vasco da Gama từ Bồ Đào Nha đi Malacca theo con đường
Châu Phi, vòng qua Mũi Hảo vọng và đem theo ủy nhiệm thư của Quốc vương
Ferdinand và Hoàng hậu Isabella của Tây Ban Nha giới thiệu với da
Gama [Millares A. Carlo (ed.) 1951; Serrano C. Seco (ed.) 1954-1955]. Khi
đến Cariay, ngày nay là Puerto Limon thuộc bờ biển Costa Rica, Columbus nghĩ
rằng ông đã đến được các mỏ vàng Champa mà Marco Polo đã nói tới. Chính vì vậy
từ Jamaica ông đã viết thư về cho Quốc vương và Hoàng hậu như sau: “Thần đã tới
Cariay…Ở đây thần đã biết được về các mỏ vàng của người Champa mà thần tìm
kiếm” [Varela, Consuelo (ed) 1992]. Một đoạn chú dẫn những tấm bản đồ do Bartolome
Colon, tức là Bartholome Columbus, anh trai Christopher Colon và
Alessandro Zorzi xây dựng năm 1504 cho thấy Christopher Columbus đã ước tính
khoảng cách giữa Bồ Đào Nha và cái gọi là “Mũi Kattigara” trội lên quá nhiều, tới 2250 đông,
thay vì tính toán của Ptolemy là 1800, nên đã làm cho ông tin rằng
khoảng cách về phía tây chỉ là 1350. Chính vì vậy các vùng đất Châu
Mỹ mà ông phát hiện lại được ông gọi là Đông Ấn. Nội dung của chú giải này là
như sau: “Theo Marinus xứ Tyre và Columbus, từ Mũi St. Vincent đến Kattigara là 2250, tức là 15 giờ;
theo Ptolemy đến tận Kattigara là
1800, tức là 12 giờ”.
Như
George E. Nunn đã lưu ý, theo tính toán thì tấm bản đồ của Colon/Zorzi đã sử
dụng kinh độ của Ptolemy từ Mũi St. Vincent về phía đông đến Kattigara, nhưng việc tính toán kinh độ của Marinus
và Columbus lại được sử dụng cho khoảng không gian từ Mũi St. Vincent đến Kattigara theo hướng tây. Tấm bản đồ thế giới
của Waldseemueller năm 1507 đã sử dụng cả hai tính toán kinh độ trên để thể
hiện bờ biển phía đông Châu Á lên hai lần: một lần theo kinh độ của Ptolemy để
thể hiện địa cầu như Martin Behaim đã làm vào năm 1492; và lại theo kinh độ của
Columbus để thể hiện các phát hiện của ông và các nhà hàng hải Tây Ban Nha băng
qua Đại Tây Dương. Các vùng bờ biển phía tây do người Tây Ban Nha phát hiện
được Waldseemueller mô tả là “Incognita” - Vùng đất Chưa biết với một vùng biển
phỏng đoán ở bên kia, làm cho vùng đất này rõ ràng là một lục địa tách riêng.
Vị thế của Nam Mỹ với tư cách là một hòn đảo tách biệt hoặc là một phần của
Châu Á, nhất là bán đảo Thượng Ấn (Đông Dương), nơi có địa điểm Kattigara vẫn chưa được xác định chắc chắn là
ở đâu. Chính vì vậy mà Nunn đã viết: “Đó là một cách rất hợp lý để trình bày
một vấn đề không giải quyết được” [Nunn, George E. 1927: 476-480], hoặc
vấn đề Kattigara đã được giải quyết bằng cách đặt nó
ở Nam Mỹ. [Nunn, George E. 1932: 12,13-49-51]. Tương tự như vậy, trên bản
đồ địa cầu Jagiellonian Globe, những khác biệt về thước đo khoảng cách kinh
tuyến chạy về hướng đông và hướng tây đã tạo ra một Châu Mỹ lưỡng vị gồm cả hai
nửa bán cầu đông và tây. Nếu Costa Rica/Panama là một phần của Ấn Độ, như
Christopher Columbus khẳng định thì vùng đất choãi về hướng nam đến eo biển kia
chính là Mũi Kattigara đã được tìm thấy, và đô thị Kattigara phải nằm trên bờ phía tây của nó,
như đã được thể hiện trên bản đồ của Colon/Zorzi vào năm 1504. Và niềm tin của
Columbus đã được thể hiện rõ trên tấm bản đồ thế giới của Giovanni Contarini
xuất bản tại Venise năm 1506, trên đó có một hình xuáy trôn ốc gắn liền với
Champa, được ghi là: “Cristophorus Columbus …bơi về phía tây, đã đến vùng đất
có tên gọi Champa…có một kho vàng lớn”. Trên tấm bản đồ này ghi rõ bờ biển phía
đông của Vịnh Lớn Sinus Magnus ở vị trí 8.1/20 Nam, và vùng đất
Sancta Crucis thuộc Brazil ngày nay, do Pedro Alvares Cabral phát hiện vào
tháng Tư năm 1500, được thể hiện thành một lục địa phương nam riêng
biệt [National Library of Australia 2010].
Hơn 23
năm sau, trên bản đồ thế giới năm 1523 nhà địa cầu học Schoener đã thể
hiện Kattigara hoặc bán đảo Thượng Ấn - Đông Dương,
bao gồm cả Mexico và Nam Mỹ, còn cái tên Biển Đông của Ptolemy thì trở thành
Thái Bình Dương [Wieder F.C. (ed.) 1925]. Schoener cũng đưa phát hiện vùng
đất Tierra del Fuego của Ferdinand Magellan năm 1520 vào tấm bản đồ với tên gọi
là vùng đất Hạ Australis-Brasilia [Schilder G. 1976: 10]. Cũng trong năm
1523 Maximillianus Transynvanus công bố các phát hiện của Magellan ở De
Moluccisinsulis với lời chua rằng: Mặc dù các nhà thám hiểm Tây Ban Nha đã đi
tới tận vị trí 120 Nam, nhưng họ vẫn không tìm ra được Kattigara. Cuộc đi vòng quanh thế giới đầu tiên do
Antonio Pigafetta, De Moluccis Insulis, và Maximilianus Transylvanus thực hiện,
với lời giới thiệu của Carlos Quirino, (Manila, Filipiniana Book Guild, 1969).
Antonio Pigafetta ghi là khi đi qua Thái Bình Dương, Magellan chắc chắn đã biết
tọa độ Kattigara do Ptolemy xác định, nhưng “đã tìm
kiếm Mũi Kattigara” ở vùng xung quanh vị trí 120 Bắc
của đường xích đạo [Peillard L. 1984 : 128]. Chuyến thám hiểm thất
bại của Magellan trong cuộc tìm kiếm bán đảo Kattigara, tức là Thượng Ấn tại khu vực lân cận
Moluccas, đã khiến cho Schoener đi đến kết luận rằng Châu Mỹ chính là bán đảo
đó. Còn bản thân Magellan thì bị thổ dân Philippines giết chết. Trong Opusculum
Gegraphicum, Schoener viết phụ thêm vào tấm bàn đồ đó như sau: Sau Ptolemy,
nhiều vùng đất vượt qua vị trí 1800 về phía đông đã được Marco
Polo và những người khác phát hiện, giờ đây Collombus và Amerigo Vespucci đã
cập đến các bờ biển đó sau khi bơi từ Tây Ban Nha đến Đại Tây Dương, và đã đến
thăm các khu vực đó khi nghĩ rằng phần thế giới đó là một hòn đảo gọi là
America, phần thứ tư của địa cầu. Nhưng từ các chuyến thám hiểm gần đây nhất
của Magellan trong năm 1519…họ đã nhận thấy rằng vùng đất đó trong thực tế là đại
lục Thượng Ấn, một phần của Châu Á [Schoener, J. 1961].
Trong
bản đồ của ông năm 1533, Châu Mỹ vẫn được khẳng định là một vùng mở rộng của
Đông Dương với ghi chú: Châu Mỹ, một phần của Thượng Ấn và của lục địa Châu
Á. Kattigara vẫn là nơi mà Ptolemy đã xác định,
tại tọa độ 8 1/20, tính từ đường xích đạo, ở bờ đông của Oceanus
Orientalis, Biển Đông, mà giờ đây được xác định là bờ tây Châu Mỹ, thuộc Nam
Mỹ. Cũng giống như năm 1515, trên tấm bản đồ này Brazil lại được tái khẳng định
là lục địa Nam Cực, một phần của Terra Australis, mới được phát hiện nhưng chưa
được biết một cách đầy đủ. Môn địa cầu học của nhà toán học và bản đồ học người
Pháp, Oronce Fine được khởi nguồn từ Schoener [Harrisse, Henry 1961]. Trên tấm
bản đồ thế giới của Fine năm 1531, công bố năm 1532 trong Novus Orbis Regionum
ac Insularum, Brasielie Rego được thể hiện nằm ở phía đông Châu Phi và ở phía
nam Java. Kattigara vẫn giữ nguyên vị trí như trên bản
đồ của Fine tại bờ tây của Nam Mỹ như trên bản đồ của Schoener các năm 1523 và
1533, giống với các tấm bản đồ thế giới các năm 1540. Hệt như Schoener và Fine
cho rằng Canada, Mexico và Peru tạo thành một lục địa nối liền với Châu Á, vì
vậy mà Jean Alfonse, cũng là một nhà bản đồ học lại cho rằng vùng đất Kattigara cũng chính là Cathay và gồm toàn bộ
các vùng Cực viễn Hằng Hà trải về phía đông, có cả Canada và thuộc châu Á. Tây
Ban Nha mới (Mexico) và Peru cũng gắn liền với nó, vì vậy đối với
Alfonse, Kattigara ôm trọn các vùng đất này [Alphonse,
Jean 1904 : 398, 401-2]. Phù hợp với địa cầu học của Schoener, Fine, và
Alphonse, nhóm Harleian đã đặtKattigara ở bờ tây của Nam Mỹ và tách Mexico thành hai
phần, một phần ở Bắc Mỹ và một phần ở Đông Á, là hàng xóm của Cathay và Mangi
[Coote C.H. 1898].
Các bản
đồ thế giới được sản xuất từ những năm 1530 đến những năm 1560 tại Dieppe khi
nước Pháp do các nhà thương mại và hàng hải Norman dẫn đầu mong muốn sớm có
quan hệ thương mại với các vùng thế giới mới. Vì vậy các nhà bản đồ học phải
nhanh chóng nhập cuộc. Họ dựa vào công trình của người đồng hương Oronce Fine,
vốn chịu ảnh hưởng lớn của Schoener và Martin Waldseemueller. Đến lượt mình,
hai người này cố gắng cập nhật hóa nguồn thông tin địa lý mới do các nhà thám
hiểm Christopher Columbus, Amerigo Vespucci, Pedro Alvares Cabral, Ferdinand
Magellan và những người đương thời của họ vào khung địa cầu học kế thừa từ
Claudius Ptolemy và Marco Polo, như đã được thể hiện thành khái niệm trong công
trình của Martin Behaim năm 1492. Schoener và Fine bán sát vào tuyên bố của
Columbus là ông đã đến Champa năm 1502 bằng cách bơi từ Tây Ban Nha về phía
tây. Nam Mỹ được Waldseemueller xác định là Châu Mỹ năm 1507, và cũng được
Schoener và Fine cho là Brazil, hoặc là một phần của Nam Cực, Terra Australis,
cũng còn có nghĩa là một miền đất kéo dài thành Thượng Ấn – Bán đảo Kattigara – Đông Dương theo Behaim. Các bản đồ
thế giới của Dieppe thể hiện giai đoạn tột cùng của địa cầu luận này với những
lẫn lộn nghiêm trọng giữa Nam Cực với Brazil, Nam Mỹ lẫn với bán đảo Kattigara - Đông Dương. Điều đó khiến cho việc
tìm kiếm Kattigara trong các thế kỷ XVI, XVII càng trở
nên mờ mịt, và lắng dần xuống vào thế kỷ XVIII.
Giai
đoạn 10 năm cuối thế kỷ XIX và 40 năm đầu thế kỷ XX, cùng với các hoạt động
quân sự và khai thác thuộc địa tại Đông Á, người Anh, người Pháp, người Đức,
người Hà Lan cùng một số cá nhân và tổ chức học thuật phương Tây khác cũng đã
xúc tiến nhiều nghiên cứu lịch sử - văn hóa vùng đất này. Trong bối cảnh đó,
vấn đề Kattigara và việc tìm kiếm địa danh Kattigara lại bắt đầu trở nên sôi động, nhưng
quan điểm học thuật chi phối việc tìm kiếm của các nhà nghiên cứu phương Tây
chủ yếu vẫn gắn liền với hai nền văn hóa lớn kẹp lấy Đông Dương, đó là Trung
Quốc và Ấn Độ. Trước hết, khi đề cập đến vấn đề Kattigara họ liền gắn nó với cái gọi là con
đường tơ lụa và những người sản xuất ra tơ lụa. Xuất phát điểm ấy đương nhiên
đã xác định đường hướng tìm kiếm Kattigaragắn liền với đất nước Trung Quốc và/hoặc các vấn đề
liên quan đến lịch sử - văn hóa Trung Quốc, trong trường hợp địa điểm đó có thể
nằm ở Bắc Bộ Việt Nam. Nếu như địa điểm đó ở Nam Việt Nam thì đương nhiên người
ta phải tìm các xuất phát điểm gắn liền với lịch sử văn hóa của cái gọi là các
quốc gia Ấn Độ hóa, mà cụ thể là Phù Nam và Champa. Hai loại định kiến thực dân
về phương diện lịch sử văn hóa một cách tự nhiên và vô thức ấy đã giành hết cơ
hội cho một khả năng thứ ba, đó là tìm kiếm một Kattigara thuần túy bản địa, hay nói cách khác
là thuần túy Việt, dù rằng khả năng này là hoàn toàn có thể.
Về
phương án Kattigara nằm ở khu vực Bắc Bộ Việt Nam hoặc Nam Trung Quốc thì có thể coi tổng
kết của McCrindle là một đại diện. Theo ông “trên tấm bản đồ thế giới năm 1489
của Henricus Martellus dựa trên công trình Địa lý của Ptolemy thì điểm tận cùng
của Châu Á ở Đông Nam Á chính là Mũi Kattigara. Ptolemy hiểu Kattigara là cảng cực đông của các chuyến hải hành từ thế
giới Hy La đến các vùng đất Viễn Đông, đó được coi là MũiKattigara, được gọi theo tên gọi của đô thị Kattigara mà Ptolemy cho là nằm bên Vịnh Lớn
Sinus Magnus, “thực ra là Vịnh Thái Lan tại tọa độ 8.1/2 độ bắc của đường Xích
đạo, choãi dài về phía Trung Quốc ở bên kia Vịnh” (McCrindle J.W. 1885-1974).
Đối với người phương Tây thời gian đó, nói tới Đông Dương thì điều đó dường như
đồng nghĩa với hai khả năng: Trung Hoa hoặc Ấn Độ. Với trường hợp đầu thì nhiều
nhà Đông phương học người Châu Âu cho rằng Kattigara nằm ở Bắc Bộ, có thể là vùng cửa
sông Cái (sông Hồng), hoặc xung quanh Hà Nội, thậm chí chính là Hà Nội
[Institute on the Far East Works 1915; Rawlinson, H. G. 1916].
Một
quan điểm khác, công nhận Kattigara nằm trên đất Việt Nam, nhưng không phải là ở
vùng Đồng bằng Sông Hồng, mà là ở Đồng bằng Sông Cửu Long, cụ thể là ở Sài Gòn
(Herrmann, Albert 1938: 123-8) hoặc Óc Eo [Malleret L. 1951, 1962; Chakravarti
Adhir K. 1972]. Điển hình cho trường hợp đầu là các nhà nghiên cứu tập trung
xung quanh một tổ chức được gọi là Hakluyt Society, được thành lập năm 1846 tại London, Vương quốc Anh.
Mục đích của Hội là tìm cách thúc đẩy tri thức và giáo dục thông qua việc công
bố các hồ sơ, ghi chép, tác phẩm về các chuyến thám hiểm, các cuộc lữ hành
xuyên lục địa và các tài liệu địa lý khác. Hội lấy tên họ của Rechard Hakluyt
(1552-1616), một nhà sưu tập và chủ bút của các xuất bản phẩm về các chuyến hải
hành, các cuộc thám hiểm, các chuyến phiêu lưu và các tư liệu khác liên quan
đến lợi ích của người Anh tại hải ngoại dưới hình thức các xuất bản phẩm học
thuật. Bên cạnh đó Hội còn tổ chức các cuộc gặp gỡ, hội thảo, hội nghị khoa học
nhằm thúc đẩy hiểu biết lẫn nhau giữa các nhà nghiên cứu và công chúng. Vì mục
đích phi lợi nhuận đó Hội đã công bố được nhiều bản dịch từ tiếng Hy Lạp,
Latin, Trung Quốc, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ý, Pháp, Hà Lan, v.v…ra tiếng Anh.
Bên cạnh đó, Hội Hakluyt cũng có những cộng tác viên đắc lực, đó là tổ
chức Những người
bạn Mỹ của
Hội Hakluyt được thành lập năm 1996 tại Thư viện John Carter Brown Library tại
Đại học Brown Hoa Kỳ. Đây cũng là một tổ chức phi lợi nhuận có mục đích tương
tự như Hội Hakluyt London, nhưng chủ yếu tập trung vào lĩnh vực lịch sử Châu Mỹ
[Foster, William 1946; Bridges R. C. & P. E. H. Hair (eds) 1996].
Đại
diện cho quan điểm Kattigara nằm
ở Bắc Bộ là của Nam tước Fernand von Richthofen, cha đẻ của cụm từ “con đường
tơ lụa”. Quan điểm này hầu như đã được tất cả các thành viên Hội Hakluyt nhất
trí, và được cho là rất thuyết phục, vì mấy lý lẽ lỏng lẻo và không khỏi lầm
lẫn sau: i) trong nhiều thế kỷ kể từ trước Công nguyên đến năm 263 Giao Chỉ
thực sự là quận huyện của Trung Quốc; ii) Giao Chỉ là cảng duy nhất trong giai
đoạn đó được đề cập đến trong biên niên sử Trung Quốc là có quan hệ ngoại
thương, và đó cũng chính là Đông Kinh, Kẻ Chợ, hoặc Hà Nội sau này. Trong khi
không có bất cứ báo cáo nào đề cập đến việc người nước ngoài đến Trung Quốc thì
riêng Giao Chỉ lại có chuyến thăm của sứ bộ nổi tiếng của vua Đại Tần (La Mã)
An Đôn, tức là Marcius Aurelius Antonius (161-180) đến Giao Chỉ vào năm 166;
iii) tên gọi vùng đất Jinan (Nhật Nam) có thể chính là từ Sinae đã theo chân
các đoàn lữ hành để đến được với các thư viện phương Tây. Richthofen cũng nhấn
mạnh: Tác giả Biên niên sử Trung Quốc về chuyến viếng thăm của sứ bộ Đại Tần
còn viết thêm: “Người của nước đó thường xuyên đến Phù Nam, Nhật Nam, và Giao
Chỉ buôn bán”. Chúng ta đều biết Phù Nam là Champa hoặc Zabai. Riêng ở
Nhật Nam, với bến cảng chính Giao Chỉ, chúng ta có thể đảm bảo rằng đó chính là
“Kattigara, cảng thị Sinarum” (Yule H. 1882: 658-9).
Còn đại
diện cho quan điểm Kattigara thuộc vùng Nam Bộ, sớm nhất phải kể đến ý kiến cho
rằng Kattigaralà cảng thị Banteaymeas, (nay là Hà Tiên,
tỉnh Kiên Giang) không xa Óc Eo [Caverhill, John 1767]. Đến đầu thế kỷ XX,
nhiều cuộc nghiên cứu Kattigara lại
được tiếp tục khởi động, trong đó có quan điểm cho Kattigara là Sài Gòn xưa (Herrmann 1938); còn
lại hầu hết thiên về di chỉ khảo cổ học Óc Eo (Malleret 1951, 1962; Chakravarti
1972). Đối với trường hợp Óc Eo, bên cạnh tài liệu khảo cổ học, các nhà nghiên
cứu còn sử dụng tài liệu cổ ngôn ngữ để diễn giải lập luận của mình. Điển hình
cho cách tiếp cận này là nghiên cứu của giáo sư người Ấn Độ Chakravarti. Ông
cho rằng địa danh Kattigara có
thể là các từ Sanskrit Kirti-nagara कीर्ति-नगर“Thành phố Lừng danh”, hoặcKotti-nagara कोटि-नगर“Thành phố Cường thịnh” (Chakravarti Adhir
K. 1998). Tuy nhiên chúng tôi cho rằng việc suy diễn bằng cách biến đổi hẳn các
từ mà không chứng minh được quy luật hoặc tính phổ biến của sự biến đổi như vậy
có vẻ là một trò chơi ngôn ngữ có họ hàng rất gần gũi với một con dao hai lưỡi[1]. Cuối cùng cũng cần phải nhắc đến nghiên cứu mới toanh
của Ferra, bằng cách bác bỏ hoàn toàn Ptolemy và sử dụng phương pháp xác định
tọa độ của Marinus để chứng minh Kattigara là cảng cửa sông Châu Giang, thuộc tỉnh Quảng
Đông, Trung Quốc. Chỉ có điều duy nhất làm người đọc băn khoăn là tác giả này
hoàn toàn tin tưởng vào phép tính toán xác định tọa độ Hy La cổ đại của Marinus
với thông tin về khoảng cách và hàng loạt địa danh liên quan không được xác
minh chắc chắn, nhưng lại lờ tịt một cứ liệu không dễ bác bỏ là cái tên Kattigara mà không hề nói lý do, (Ferra M.J.
2010), chẳng khác nào một hai tiền bối của ông trong Hội Hakluyt đã làm khi cho
rằng Kattigara là Hợp Phố, cũng thuộc Quảng Đông,
Trung Quốc [Yule, H. 1882].
Tuy
nhiên chúng ta có thể hiểu được tại sao Ferra lại không đã động gì đến việc
khai thác ngôn ngữ học lịch sử đối với địa danh Kattigara trong loạt bài viết của mình, bởi vì
việc sử dụng cách tiếp cận ngôn ngữ đối với trường hợp Kattigara không phải dễ. Hơn nữa, nếu sử dụng
phương pháp địa danh học thì khó mà tìm được Kattigara ở Quảng Châu, vì những từ này chẳng
chút liên quan nào đến tiếng Hán cả. Trong thực tế, cho đến bây giờ không ai
dám chắc Kattigara là loại ngôn ngữ nào, vì vậy cách xử
lý tình huống có vẻ là một biện pháp dễ chấp nhận nhất đối với từng trường hợp
cụ thể, trong đó việc lý giải bằng tiếng Sanskrit của giáo sư Chakravarti là
một điển hình, cho dù nó có rất ít sức thuyết phục, bởi vì ông không đưa ra
được bất cứ một sợi dây liên kết dù mong manh nào của mấy từ đó với bất kỳ mảnh
ngôn ngữ nào còn sót lại ở Óc Eo liên quan đến các từ trên. Ấy là chưa kể việc
người dân bản địa chắc gì đã sử dụng mấy từ ngoại lai ấy để gọi mảnh đất chôn
rau cắt rốn của mình.
Có lẽ
so với Chakravarti, Ferra và rất nhiều người khác nữa, cách tiếp cận của Bình
Nguyên Lộc tỉnh táo và đúng đắn hơn nhiều, khi ông đi tìm Kattigara tại vùng Vịnh Hạ Long của Việt Nam
bằng cách dựa vào sự phân tích chính cái địa danh ấy bằng tiếng Việt. Vốn là
người khẳng định nguồn gốc Mã Lai của người Việt, theo công thức Việt = Mã Lai,
ông cho rằng: “Bắc Việt chỉ mới mất những danh từ thuần Việt là Bông, Trái,
Muỗng, Ghe vào đầu đời Thanh vì lưu vong nhà Minh tràn ngập vùng đó. Thế nên
không ai biết Hòn Gay là cái gì. Có lẽ đó là cái đảo mà
ngày xưa là Bến Ghe thương hồ, và nó ăn khớp phần nào với Kattigara của Ptolémée, chớ Kattigara không thể là Óc Eo như ông Melleret đã viết. Kathi có thể nào là Kẻ Thị chăng? Vâng, Kẻ Thị và Kẻ Chợ cũng thế thôi. Và Kathi Garalà Kẻ Thị Gay, tức thành phố ghe thuyền, tức thương cảng. Cũng nên
biết rằng Ptolémée đến nơi đó[2] vào cuối thế kỷ
thứ II SCN, thế nghĩa là ta bị Mã Viện chinh phục gần hai trăm năm rồi, và sự
vay mượn danh từ Thị đã xảy ra rồi. Hoặc Katti hay Kathi là Cái Xị của Quảng Đông không chừng, vì dân cổ Tây Âu đã
tràn sang đó để buôn bán vì bị trị trước và vì thạo thương mãi hơn ta. Dầu sao,
không vì thế mà Kattigara lại
nằm trong tỉnh Quảng Đông như có nhiều ông Tây đã nói, vì Gara không ăn vào với địa danh nào cả trừ
với Gay ở Hòn Gay mà thôi. Kattigara cũng không thể là Óc Eo như ông
Melleret đã viết vì ông R.A. Stein đối chiếu sự miêu tả cảnh vật của Ptolémée
thì thấy nó không ăn khớp với vùng Óc Eo tí nào cả” [Bình Nguyên Lộc 1971 – 2007].
Tuy
nhiên cũng tương tự với rất nhiều trường hợp khác, chúng ta có thể dễ dàng chỉ
ra những mặt mạnh gắn liền với những bấp bênh trong lập luận của Bình Nguyên
Lộc khi ông đọc Kattigara là Kẻ Thị Gay. Trước hết trong cụm
từ này đọc Ka là Kẻ thì có thể chấp nhận về phương diện nghĩa, mặt
dù trong thực tế thì Ka và Kẻ là hai từ Việt cổ về hình thức không khác nhau
là mấy cho nên mới qua mặt cả những trí thức Việt uyên thâm như cụ Đào Duy Anh
(1997: 31-34), nhưng lại có nội hàm rất khác nhau. Việc đọc Ti là Thị và lý giải vì “ta bị Mã Viện chinh phục gần hai
trăm năm rồi” nên “sự vay mượn danh từ Thị đã xảy ra rồi” nghe thì rất thông minh và có lý,
nhưng cái lý thông minh đó có gì hơi bất ổn, vì trong thực tế dường như chưa
thấy có trường hợp nào người Việt quên mình là người Việt để đến nỗi phải cấy
ghép một từ của kẻ ngoại vào giữa hai từ đặc sản Việt để gọi tên một địa danh
đặc Việt như Hòn Gay (Gai) cả. Không những thế, nếu ai đã từng đến Hòn Gay, đã
sống với kẻ Chã Hòn Gay, đã yêu kẻ Chã Hòn Gay thì mới thấy người Việt tự trọng
đến mức nào. Kẻ Chã thà mù chữ chứ không bao giờ quên mình là Việt để đến nỗi
chưa đầy 200 năm đã biến mình thành kẻ ngoại. Và không phải chỉ chưa đầy 200
năm, mà trong thực tế đã hơn 2000 năm qua kẻ Chã Hòn Gay nhất định không chịu
bán mình mà vẫn nguyên vẹn là kẻ Chã Hòn Gay của nước Việt từ mấy nghìn năm
trước. “Kẻ Thị Gay”, đúng là gay ngay cả với một kẻ tinh đời, một bộ óc trác
việt và yêu nước Việt đến độ như Bình Nguyên Lộc khi không đọc ra một từ Việt
nào khác nên đã phải ngậm đắng để cho từ 市Thị
chen vào giữa hai từ đặc Việt: Kẻ - Gay, cho dù một lần nữa ông buộc phải đem
cái tài trí siêu quần của mình ra để biện bác: Hoặc Katti hay Kathi là Cái Xị của Quảng Đông không chừng, vì dân cổ Tây Âu đã
tràn sang đó để buôn bán vì bị trị trước và vì thạo thương mãi hơn ta”. Thật
đau cho Bình Nguyên Lộc, và cũng thật mừng vì gần nửa thế kỷ trước nước Việt
lại có một Bình Nguyên Lộc uyên áo và thâm trầm đến mức nhận ra Việt = Mã Lai,
cho dù đúng ra thì phải đảo lại là Mã Lai = Việt, vì đơn giản đối với tôi chí
ít thì Việt cũng chắc chắn là tổ của một vài bộ phận Mã Lai-Đa đảo quan trọng,
mà vùng đất tổ của họ chính vùng văn hóa biển Soi Nhụ, Cái Bèo, Hạ Long nơi có
“Kẻ Thị Gay” của Bình Nguyên Lộc.
IV. Kattigara - Những bối cảnh hy hữu
Lịch sử
thật công bằng vì đã đem đến cho Lạc Việt nhỏ bé một cơ hội hiếm hoi để xây đắp
nên một nền văn minh Đông Sơn rực rỡ đến nhường ấy, và đã tỏa rạng ảnh hưởng
của mình đến nhường ấy. Cái cơ hội ngàn năm có một theo nghĩa đen của cụm từ ấy
đã đến vào khoảng thế kỷ V – III TCN khi lục địa Ấn Độ với nền văn minh kỳ vĩ
của nó ở phía Tây bị nền văn minh Hy Lạp do Μέγας Αλέξανδρος - Alexandros Macedonia
thử thách bằng chiến tranh; khi nền văn minh Hoa Hạ lừng lẫy của nhà Chu ở phía
Bắc chìm đắm trong cuộc chiến tương tàn giành giật mảnh đất Trung Nguyên màu mỡ
được tạo bởi hai đại giang Hoàng Hà và Dương Tử. Trong thời khắc hy hữu ấy, Lạc
Việt đã trở thành trung tâm văn minh của Đông Nam Á lục địa, bên cạnh hai nền
văn minh láng giềng Ấn – Hằng và Hoàng Hà – Dương Tử. Và may mắn là trước cơn
sóng trào nguy cơ Hán hóa mạnh như vũ bão xuống phương nam thì Lạc Việt có được
ba vùng đệm văn hóa làm phên dậu: Điền Việt ở phía Tây Bắc, Dạ Lang thiên chính
Bắc, và Nam Việt ở Đông Bắc. Nhờ đó Lạc Việt vừa tỏa rạng được ánh sáng văn hóa
của mình, lại vừa có thời gian chuẩn bị để đối phó với nạn đồng hóa của ngoại
xâm phương Bắc. Đây không chỉ là giai đoạn lịch sử quyết định để tự biết sức
mạnh của mình, mà còn là giai đoạn mà thế giới cũng bắt đầu biết đến mặt trời
Đông Sơn của nền văn minh Lạc Việt, mà Kattigara là trung tâm của nguồn sáng đó.
Thời kỳ
văn hóa Đông Sơn phát triển rực rỡ chính là một trong những kích thích tố cho
sự lớn mạnh của Điền quốc (khoảng 278 – 115 TCN) mà chủ nhân có thể là những
người thuộc nhóm ngôn ngữ Tạng-Miến. Sự kiện đó càng làm tăng cường các tương
tác văn hóa giữa Lạc Việt và Điền Việt: Lạc Việt là cánh cửa mở ra biển Đông
cho Điền quốc, đến lượt mình Điền quốc lại trở thành cánh cửa mở về các xã hội
Tạng Miến phía Tây Bắc của Lạc Việt.Giao lưu mạnh mẽ nhất là giữa Đông Sơn và
Điền được thúc đẩy nhờ sông Hồng, sông Đà, sông chảy và theo các chi
lưu của các con sông này, mà chủ đạo là sông Hồng. Dấu tích của sự giao lưu nổi
nét vẫn là trống Đông Sơn được chôn theo như một dạng quan tài hay đồ đựng tại
đây. Bên cạnh đó còn có những chiếc vỏ sò - một loại tiền tệ được gọi là “bối
tiền” sản phẩm của biển Đông nước ta cũng được chôn trong mộ của khu Thạch Trại
Sơn. Một số trống Đông Sơn còn tìm được trong mộ táng ở những khu vực khác của
tỉnh Quảng Tây như trống Điền Đông, trống La Bạc Loan, trống Phổ Đà… đều có thể
được đem đến từ miền bắc Việt Nam theo những con đường trên bộ hoặc đường sông
suối [Trịnh Sinh 1997: 55-65].
Chứng
cớ xa nhất về phía bắc là chiếc trống đồng “đặc sản” của Đông Sơn đã có mặt ở
Triết Giang, Trung Quốc. Ngôi mộ có trống minh khí là ngôi mộ số 10, được xác
định vào thời Tây Hán, tức trùng vào thời Đông Sơn muộn [Trịnh Sinh
1997]. Nhiều khả năng Điền quốc trở thành nơi cung cấp nguyên liệu đồng và
trao đổi nhiều công nghệ đồng với Lạc Việt, đặc biệt là những công nghệ được
người vùng Lưỡng Hà và Ấn Độ sáng tạo từ rất sớm. Bên cạnh đó Lạc Việt còn nhận
được các sản phẩm và công nghệ chăn nuôi, chẳng hạn bò, dê, ngựa. Trong khi đó
Lạc Việt cung cấp cho Điền các sản phẩm nông nghiệp như lúa gạo, các loại nông
sản, và đặc biệt là các sản phẩm biển như đồi mồi, ngọc trai, cá, muối, tơ tằm,
và nhất là nguồn ốc tiền cowries của vùng biển Hạ Long v.v...Riêng nguồn hàng
hóa đặc biệt này cũng có thể làm cho Lạc Việt có một vị thế không gì sánh nổi
đối với Điền quốc, vì đơn giản loại ốc đó là vật trao đổi ngang giá, là tiền
đối với một quốc gia nằm ở ngã ba đường giữa một bên là Ấn Độ ở phương Tây, một
bên Trung Quốc ở phương Đông và cao nguyên Thanh Tạng ở phương Bắc. Tại Thạch
Trại Sơn, nơi chôn cất các nhân vật hoàng tộc Điền, các nhà khảo cổ học đã phát
hiện được một chiếc bình đồng thiếc trang trí 2 con hổ và 7 con bò, chứa vỏ sò,
ốc được sử dụng làm tiền tệ, do người Điền chế tạo trong
thời kỳ Tây Hán (202 TCN – 9). Những bằng chứng đó cho thấy cửa ra biển qua Lạc
Việt đối với Điền quốc là có tính chất sống còn.
Ở phía
bắc của Lạc Việt, từ thời Chiến quốc, thế kỷ VII TCN đã xuất hiện một nhà nước
tự trị có tên gọi là Dạ Lang được cho là tổ tiên của người Di/Lô Lô. Trung tâm
của nước này là xã Khả Lạc, huyện Hách Chương, tỉnh Quý
Châu, Trung Quốc ngày nay. Sử ký của Tư Mã Thiên mục Tây Nam Di chí gọi nước này là 牂牁 Tường Kha và đã mô tả cuộc tấn công của 庄跤 Trang Kiệu, một tướng nước Sở vào Dạ Lang vào
cuối thế kỷ IV hoặc đầu thế kỷ III TCN. Cuối thế kỷ I TCN, Dạ Lang gây chiến
tranh với các quốc gia láng giềng để mở rộng lãnh thổ và quyền lực. Theo Sử ký
thì Dạ Lang đã từng phát triển rất hùng mạnh, có tới 100
nghìn quân tinh nhuệ, tàu bè của người Dạ Lang đi lại trên mặt sông,
quang cảnh hết sức tấp nập. Năm 136 TCN Hán Vũ đế cử Đường Mông làm Lang
trung tướng dẫn 1000 binh sĩ và mấy vạn dân đem theo lương thực và công cụ sản
xuất xuất phát từ Ba quận vượt qua Phù Quan (Hợp Giang, Tứ Xuyên) đến Dạ Lang.
Đường Mông tuyên truyền với Chúa Dạ Lang Đa Đồng về sức mạnh của Hán triều, ban
tặng của cải để Đa Đồng cho Đường Mông đặt cơ quan quản lý ở đó và cử con trai
Chúa Dạ Lang làm Lệnh ở đó. Năm 130 TCN Hán Vũ đế đặt Dạ Lang thành quận huyện
và mở đường từ Ba Thục thông đến sông Tường Kha. Sau khi tiêu diệt Nam Việt,
nhà Hán tấn công Thả Lan, tây nam huyện Hoàng Bình, Quý Châu ngày nay, giết
chết mấy vạn người, đặt thành quận Tường Kha. Chúa Dạ Lang thấy Nam Việt của
nhà Triệu bị tiêu diệt liền quy thuận nhà Hán và được Vũ đế phong làm Dạ Lang
vương vào năm 111 TCN [Wade, Geoff 2009].
Về phía
đông bắc Lạc Việt, văn hóa Đông Sơn cũng đã phát huy ảnh hưởng không nhỏ, đặc
biệt là khu vực Lưỡng Quảng, vốn là vùng đất của tổ tiên người Tày – Thái cổ.
Đây chính là vùng đệm quan trọng, giống như một dạng phên dậu phía đông bắc cho
quốc gia Lạc Việt trong công cuộc ngăn cản sự đồng hóa của phương Bắc, bắt đầu
từ thời Tần (221 – 206 TCN) và sau đó là nhà Tây Hán (202 TCN – 9 SCN). Nếu như
Điền quốc do một người nước Sở đến tiếm quyền cát cứ khi các thế lực phương Bắc
của người Hoa tranh chấp Trung Nguyên thì hệt như vậy, Quốc gia Nam Việt của
Triệu Đà cũng ra đời trong bối cảnh nhà Tần và sau đó là nhà Tây Hán không đủ
sức với tay trực tiếp thống trị vùng đất Bách Việt phía nam sông Dương Tử. Dù
Triệu Đà có mưu lược đến mấy thì cũng phải tự mình hòa đồng với người Việt để
cát cứ và buộc phải chống lại những người chủ cũ Tần Hán của mình ở Trung
Nguyên. Để tranh thủ sự ủng hộ của người Việt, và có thể yên ổn cai trị Nam
Việt quốc chủ yếu thuộc hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây ngày nay, Triệu Đà đã
thi hành những chính sách hòa hoãn và mềm dẻo với người Việt, đặc biệt là với
người Lạc Việt. Trên thực tế, Đà không đủ sức đánh bại được người Lạc Việt ở
vùng Bắc Bộ Việt Nam ngày nay, nên mới buộc phải cho con trai là Trọng Thủy gửi
rể ở cung đình của An Dương Vương tại Cổ Loa, và đến lúc lừa chiếm được Âu Lạc
thì cũng chỉ để lại hai quan sứ cai quản Giao Chỉ và Cửu Chân mà thôi [Phan Huy
Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh 1991].
Đây
cũng chính là thời kỳ văn hóa Đông Sơn đã có những ảnh hưởng sâu đậm đến các
dân tộc trong vùng Đông Nam Á như Lào, Thái Lan, Malaysia, và Indonesia, mà đại
diện là chiếc trống đồng Đông Sơn nổi tiếng. Một số trống đồng Đông Sơn
tìm thấy ở sâu trong địa phận Lào như trống Đon Đét, trống Phôn Xa
Vẳn, trống Huổi Hủa Xang I và II, trống Viêng Xay ở vùng mường Viêng Xay
của tỉnh Sầm Nưa [Phạm Minh Huyền, Nguyễn Văn Huyên, Trịnh Sinh 1987]. Tại Thái
Lan đã phát hiện được 22 chiếc trống đồng Đông Sơn [Trịnh Sinh 1988: 93-102].
Đó là những trống đồng tìm được trong hang Ongbah giống với trống đồng Quảng
Xương, Hữu Chung [P. Sorensen 1979], trống đồng tìm thấy ở hang Thung Yang
[R.B. Smith 1979]. Trong địa phận Việt Nam về phía nam, dấu tích văn hóa Đông
Sơn được phát hiện tại Sa Huỳnh, di tích Gò Quê, xã Bình Đông, huyện Bình Sơn,
tỉnh Quảng Ngãi; một loạt trống đồng tìm thấy ở ven biển như ở Nha Trang, Vũng
Tầu. Trống đồng còn thấy ở Cao Nguyên Đắc Lắc, ở vùng núi Bình Định, Bình
Dương. Vượt ra ngoài Việt Nam về phía nam các nhà khảo cổ cũng tìm thấy trống
Đông Sơn ở Ko Samui, tỉnh Surathani, miền nam Thái Lan, chỉ cách bờ biển có 300
m. Vùng bờ biển của Malaysia cũng phát hiện được trống Đông Sơn, điển hình là
hai chiếc trống Kuala Torengganu I và II ở bờ phía đông của bán đảo nước này.
Vùng Kampon Sungai Lang cũng tìm được 2 trống Đông Sơn cùng được chôn ngửa
trong một vò gốm và trống được trang trí hoa văn hiện thực khá đẹp như chim
bay, hình người hoá trang lông chim, tượng cóc. Đặc biệt ở vùng quần đảo Indonesia
phát hiện khá nhiều trống đồng Đông Sơn trên các đảo, điển hình như trống
Xiandua, đảo Java. Đảo này còn có nhóm trống Somarang, trống Dieng. Trên đảo
Sumbava có nhóm trống Sanghi gồm 6 chiếc là trống Đông Sơn trang trí đẹp. Trên
các đảo Roti, Salayar và nhiều đảo nhỏ khác cũng tìm thấy khá nhiều trống Đông
Sơn. Quần đảo Kai, gần Irian Jaya, có lẽ là vùng tìm thấy trống đồng Đông Sơn
xa nhất về phía đông mang dấu tích giao lưu văn hoá. Trống đồng Đông Sơn có mặt
ở quần đảo này muộn hơn, có thể được nhập từ Bắc Việt Nam vào khoảng 200 năm
trước Công Nguyên [Trịnh Sinh 1997].
Hầu hết
các nhà nghiên cứu Đông Nam Á đều cho rằng quá trình Ấn Độ hóa về phương diện
văn hóa vùng này được định niên đại từ thế kỷ II SCN, nhưng thật ra thì tri
thức của người Ấn Độ về vùng này lại cổ xưa hơn rất nhiều. Và đúng là tri thức
Hy Lạp thời Ptolemy về khoảng cách giữa các vùng tại Đông Nam Á chỉ là sản phẩm
phụ của thương mại. Sarkar cho rằng sự truyền bá của Đạo Phật một cách
rộng rãi trong thời Asoka (270-230 TCN) đã làm biến đổi hẳn tri thức về Đông
Nam Á từ một vài vùng đất mới chỉ được biết một cách mơ hồ đối với vùng phía
nam Mianmar vốn được gọi là Suvarnabhûmi-Vùng đất vàng, cho đến Suvarnadvîpa –
Vùng Đảo vàng với tư cách là một cánh cửa mở vào Trung Quốc [Sarkar H.B. 1981].
Trong khi đó quá trình giao lưu văn hóa giữa Đông Nam Á và Ấn Độ thể hiện thông
qua con người, các loại gia vị và các loại cây trồng đã được khảo cổ học phát
hiện từ giai đoạn 1000 đến 400 năm TCN [Laffan, Michael 2005]. Ở Bắc Việt Nam,
dấu ấn của Asoka đã được sách Giao Châu ký của Lưu Hân Kỳ ghi lại như sau: Con sông Trường Giang
(sông Hồng) chảy về phía đông, cách sông có thành Nê Lê nghe nói do A Dục Vương
xây; thành này ở phía đông nam huyện An Định, tháp và giảng đường xưa vẫn đó
[Lịch Đạo Nguyên (chú) 2005: 433]. Còn phương tiện để liên lạc với thế giới bên
ngoài thì đã có thuyền đồng, như sáchLâm Ấp ký làm chứng: từ Giao Chỉ đi về phía nam, có sông
ngách Đô Quan Tái Phố chảy ra…phía bắc kèm theo sông Trường Giang (sông Hồng)
trong sông có chiếc chiếc thuyền đồng do Việt Vương đúc, lúc nước triều xuống
người ta có thấy chiếc thuyền ấy (Lịch Đạo Nguyên (chú) 2005: 433). Vì vậy việc
thế giới Ấn Độ và Lạc Việt đã có quan hệ tối thiểu là từ thời Asoka अशोक trị vì (299 – 232 TCN) là điều hoàn toàn
có thể, và chỉ cần thông qua người Ấn và người Ả Rập thì người Hy Lạp – La
Mã cũng có thể thu thập được tư liệu về phương đông, về Lạc Việt cho thư viện
Alexandria, và có thể dễ dàng biết đến một đô thị Kattigara huyền thoại của người Lạc Việt.
Marcianus
Heracleota, một nhà địa lý Tiểu Hy Lạp, sống sau Ptolemy khoảng hai trăm năm
(thế kỷ IV SCN), được coi là người có thẩm quyền tri thức để diễn giải Ptolemy
cũng mô tả con đường từ bán đảo Vàng đến Kattigara như sau: bơi về phía nam, rẽ trái hướng đến đất
Sinae về phía đông, đến một vịnh lớn có nhiều thú hoang, bơi theo vịnh lớn gọi
là vịnh Sinea, nơi con sông Cotiaris chảy vào vịnh, ngược theo sông đó thì
đến Kattigara [Caverhill, John 1767]. Dù người ta vẫn
nhầm lẫn vịnh này là Vịnh Thái Lan, nhưng tên con sông thì lại gọi là sông Giao
Chỉ (Cotiaris). Có một điều rất lạ là đến thời Marcianus đã có các thương đoàn
và sứ bộ đi về giữa Alexandria và Trung Quốc, đã ghé qua Giao Chỉ, con đường tơ
lụa trên biển đã hình thành, nhưng diễn giải của ông và rất nhiều người khác
vẫn không cho biết chắc chắn Kattigara ở chỗ nào, và càng về sau thì người Châu Âu lại
càng bối rối trong việc xác định địa danh này như chúng ta đã thấy.
Trong
số khá nhiều nhà Địa lý học tìm kiếm vị trí của Kattigara mà chúng ta có thể tiếp cận được cho
đến hiện nay thì có lẽ mô tả của nhà địa lý kiêm bản đồ học lớn người Pháp
Bourguignon d'Anville (1697-1782), là một diễn giải kỹ lưỡng hơn cả. Chọn cái
tên Sinae trong Địa lý của Ptolemy làm xuất phát điểm ông cho rằng cái tên đó là
để thể hiện Cochin-China, đối với những người Châu Âu thì cái tên ấy chính là
Giao Chỉ, có nghĩa là Bắc Kỳ của Việt Nam. Theo ông những người Ả Rập đã gọi
Giao Chỉ là Sines, nhờ đó mà Ptolemy biết được đó là dân Sines. Kinh đô của dân
Sines được Marinus và Ptolemy gọi là Thyna và đó là từ Latin của Sinae. Kinh đô
ấy nằm cách cửa biển của con sông Cotiaris - Giao Chỉ một khoảng xa và về phía
trái của con sông này có một con sông khác có tên gọi là Senus, và con sông này
chính là sông lớn Camboia, cách cửa biển 80 leages (344km, 1 league = 4.3km). Ở đó có
hai nhánh sông khác, còn sông chính nằm về phía bên phải là sông Cotiaris, dẫn
đến một đô thị mà nhà Địa lý học Ả
Rập kia nói là rất nổi tiếng về buôn bán, đó là Loukin, và đó chắc là Thinae của Ptolemy. Nhưng
còn cái kinh thành của người Sines mà các nhà địa lý Ả Rập gọi là Sin, và các
cuốn sử ký của Trung Quốc gọi là Tehen-tehen thì lại là nơi hẻo lánh hơn Loukin, có tên gọi là Sinhoa đã từng là một đô thị phồn thịnh
nhất của Giao Chỉ khi cảng thị này chưa bị sa bồi vùi lấp [d'Anville 1810:
128-133]. Trong trường hợp trên có lẽ d'Anville đã có một số nhầm lẫn về địa
danh với Cửu Chân, tên gọi xứ Thanh dưới thời Hán, nhiều khả năng ông đã sử
dụng tư liệu hoặc hỏi chuyện các nhà buôn và/hoặc các nhà truyền giáo đã đến
Việt Nam rất nhiều vào thế kỷ XVII, XVIII, mà không đặt chân đến Bắc Bộ Việt
Nam nên một hai tên sông có thể nhầm với Campuchia. Trong công trình của ông,
một số địa danh nghe khá lạ, tuy nhiên vẫn có thể phân biệt được, chẳng hạn
Loukin thì người Châu Âu viết nhầm địa danh Long Biên, cònTehen-tehen có tên gọi Sinhoa thì có vẻ là Thạch Thành, thành đá
của nhà Hồ ở Thanh Hóa, chỉ có điều đó không phải là một cảng thị. Tuy nhiên
khi nói về Kattigara và xác định nó thuộc Bắc Bộ Việt Nam
thì d'Anville lại tỏ ra bám khá sát vào hướng dẫn của Ptolemy, đặc biệt là các
ghi chú của ông nói rằng đô thị đó “ở mãi trong hẻm núi, cuối vùng đồng bằng”
trên đường bơi tới đó “hai bên có những dãy núi lớn sừng sững” (chương 13-14
tập Địa lý của Ptolemy).
Vậy thì
có thể lý giải như thế nào về các lầm lẫn suốt gần 2000 năm qua trong việc xác
định chính xác địa danh và vị trí địa lý Kattigara? Một kịch bản có thể hình dung là Alexandros đã
thực sự bơi đến Kattigara vào thời điểm cuối cùng trước khi đô
thị này đã bị quên lãng, còn những người khác, trong đó có sứ bộ của Antonius
thì đến vùng đô thị mới của Giao Chỉ, chứ không phải là Kattigara. Chính vì vậy mà về sau người ta không
còn biết tìm Kattigara ở đâu nữa. Nếu căn cứ vào mô tả
trong ghi chú của Ptolemy và trong sự hình dung của d'Anville thì Kattigara chính là vùng Kinh đô
Phong Châu huyền thoại của người Việt cổ mà vào giai đoạn trước sau cuộc khởi nghĩa
của Hai Bà Trưng nơi đó vẫn còn là Kinh đô Lạc Việt, dù đã có một thời Cổ Loa
thay thế vị trí của nó theo một nghĩa nào đó, trong một thời điểm rất ngắn
ngủi, nhưng đối với người Lạc Việt thời đó thì sự xuất hiện của Cổ Loa trong
vòng vài chục năm vẫn chưa đủ để xóa đi ký ức của họ về kinh đô Phong Châu
huyền thoại, vốn đã trở thành vị trí trung tâm văn minh Việt cổ hàng ngàn năm
trời rồi. Ấy là chưa kể xuất thân còn chưa mấy rõ ràng của Thục Phán, chủ nhân
thành Cổ Loa và mối quan hệ phức tạp giữa Thục Phán và Nam Việt Vương gốc Hán
Triệu Đà trong một bối cảnh ngàn cân treo sợi tóc của hàng trăm ngàn con dân Lạc
Việt trước nguy cơ bị Hán hóa. Vì vậy trước sau công nguyên, Kinh đô Phong Châu
vẫn là trái tim của mọi con dân nước Việt, và nói tới vùng đất Lạc Việt là phải
nói tới Kinh đô Phong Châu. Hơn nữa, về phương diện địa lý, trong thời gian ấy,
khi vịnh Bắc Bộ còn ăn sâu vào gần đất Hà Nội thì vùng ngã ba Bạch Hạc vẫn mang
bóng dáng là một loại cảng biển, với cảnh hàng năm Thủy Tinh vẫn dâng nước đánh
nhau với Sơn Tinh dưới chân núi Tản Viên. Lúc đó Hà Nội vẫn còn các làng Láng
lênh láng nước, và vùng Mê Linh, quê hương Hai Bà Trưng vẫn còn là những vùng
nước Mlênh – Mlang (Mênh Mang) về phía bắc tràn lan lên đến vùng Yên Lãng gần
Vĩnh Yên bây giờ, còn về phía nam thì thông ra biển ngay sát quê chồng bà Trưng
Trắc ở cửa sông Châu Giang, giáp với thành phố Hưng Yên ngày nay. Chỉ sau khi
dập tắt cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, cùng với những chính sách đồng hóa
thâm độc của Mã Viện bằng cách tiêu diệt tận gốc các tinh hoa Việt, cướp hết
trống đồng - biểu tượng tinh thần Lạc Việt - nung chảy để đúc ngựa và đúc cột
đồng, truy sát đến tận diệt các cừ soái Lạc Việt, hòng bắt người Lạc Việt phải
quên đi quá khứ huy hoàng của mình thì cái tên Kinh đô Phong Châu mới dần dần
bị khuất lấp sau tấm màn đen của chính sách khủng bố đại Hán tộc mà Mã Viện và
những hậu bối của ông ta thực thi.
Trong
bối cảnh đó, có lẽ giống như một định mệnh, cái kinh đô có thật kia, cái
tên Kattigara đã từng một thời thân quen như máu
thịt kia đã vang lên lần cuối cho đến tận trời Tây của Ptolemy và các tiền bối
của ông, để rồi khuất lấp vào dĩ vãng và sống dưới dạng các mảnh vụn huyền
thoại Việt dưới màn đêm đen nghìn năm Bắc thuộc, đến nỗi mới có một hai trăm
năm sau người ta chỉ còn biết đến lỵ sở Liên Lâu, Luy Lâu thời kỳ đầu Bắc
thuộc, và tiếp đó là vùng đô thị Long Biên ngày một trở nên phồn thịnh cùng với
quá trình biển thoái, và đồng bằng châu thổ sông Hồng ngày một vươn xa về phía
biển. Đương nhiên đối với các nhà địa lý Hy-La và Ả Rập, cái tên Kattigara không có ý nghĩa gì khác hơn là một địa
danh được lấy làm cực đông của địa cầu để chứng minh cho học thuyết địa tâm Hy
Lạp. Chính vì vậy ngay cả sau này, khi đã biết quá rõ Trung Quốc nhưng người
phương Tây vẫn không thể nào tìm kiếm được Kattigara, không thể nào biết được Kattigara ở đâu.
V. Kattigara - Kinh đô huyền thoại Việt
Phải
công bằng mà nói Bình Nguyên Lộc đã và sẽ còn đồng hành lâu dài với sự nghiệp
nghiên cứu nền văn minh Việt cổ khi ông gắn Việt tộc với Mã Lai, dù theo cung
cách quay đầu xuống đất. Chính vì vậy, theo tôi, với trường hợp Kattigara ông đã đọc gần đúng nghĩa của cụm từ
này theo cách đọc của người Việt cổ, nói cách khác là theo cách đọc của (một bộ
phận) tổ tiên người Malayo. Từ một vài từ gốc được người Hy-La cổ đại viết
thành một từ đa âm tiết, ông đã tách được thành ba từ riêng biệt theo đúng
phong cách và cấu trúc ngôn ngữ Việt, trong đó Kađược đọc thành Kẻ, Ti được đọc thành Thị, còn Gara được đọc thành Ghe (thuyền). Theo tôi, ông đã gần đúng
với trường hợp chữ Ka,
còn Ti và Gara thì chưa đúng, cho dù ông rành
rẽ tiếng Mã Lai, như ông đã nói và đã thể hiện trong hai tác phẩm quan
trọng Nguồn gốc Mã
Lai của dân tộc Việt Nam và Lột trần Việt ngữ. Lầm lẫn của ông, có lẽ xuất phát từ việc ông bị định
kiến trước với từ Thị của
người Hoa tại Sài Gòn xưa, và đặc biệt có lẽ còn hơn cả định kiến trước, ông đã
bị ám ảnh với từ Gay (ghe thuyền) trong tiếng Mã Lai, nên
đã lập tức tách thành một từ gọi làGara để đọc thành Gay. Ấy là chưa kể về phương diện lịch sử,
Hòn Gay chỉ thực sự có mầm mống một đô thị kể từ năm 1878, khi nhà buôn người
Thanh là Ngô Nguyên Thành xin chính quyền Tự Đức cho khai mỏ than tại vùng này;
và đặc biệt là kể từ khi Pháp đánh chiếm Quảng Ninh năm 1883 cho đến Thế chiến
I, với chính sách đẩy mạnh khai thác thuộc địa phục vụ cho chính quốc [Trần Văn
Giàu 1961]. Còn gần 2000 năm trước thì vùng Hòn Gay có lẽ vẫn chỉ có những vạn
chài thưa thớt với những con thuyền và kiếp sống lang thang rày đây mai đó mà
thôi.
Giống
Bình Nguyên Lộc, tôi cũng hiểu Kattigara là một cụm từ tiếng Việt cổ, chứ không phải là
tiếng Phạn hay một thứ tiếng nào khác, để ghi lại một địa danh Việt cổ nổi
tiếng; từng từ trong cụm từ đó có nghĩa rất rõ ràng; cả cụm từ được viết rất
đúng với cấu trúc tiếng Việt, và không hề nhầm lẫn. Tuy nhiên vì là tiếng Việt
cổ, cách xa chúng ta hàng 2000 năm ròng, nên muốn hiểu hết nghĩa của các từ cổ
đó thì cần phải so sánh nó với các ngôn ngữ liên quan, trong đó có tiếng Mã
Lai. Giống với Bình Nguyên Lộc tôi cũng tách cụm từ đó thành ba từ riêng biệt,
nhưng khác với Bình Nguyên Lộc, tôi không tách cụm từ đó thành Ka-Ti-Gara, mà thành Kat-Tiga- Ra. Và cũng khác với Bình Nguyên Lộc, trong
ba từ của ông có một từ ngoại lai là Ti (Thị), còn trong ba từ của tôi không có bất cứ từ ngoại
lai nào, mà là ba từ tiếng Việt cổ, hoàn toàn cổ, đến mức là ngày nay hầu như
người ta không hiểu được rõ ràng, vì vậy cần phải diễn giải các từ này một cách
chi tiết hơn.
Trước
tiên với trường hợp chữ Ra, theo các nhà ngôn ngữ học trong địa danh thuần Việt,
dạng ngữ âm Ra có các biến thể la, lô, rào dùng để chỉ các con sông, chẳng hạn sông
Hồng cũng mang tên là Lô, một nhánh sông từ Tuyên Quang nhập vào sông Hồng ở
Việt Trì cũng mang tên Lô; về ngữ âm la, có sông La ở Hà Tĩnh, suối La ở Quảng Trị; về
biến thể Rào, có Rào Quán ở Quảng Trị, Rào Nậy- sông Gianh ở Quảng Bình, Cửa Rào- Nậm Nơn hợp thành sông Cả ở Nghệ An
v.v.. [Trần Trí Dõi 2008]. Bên cạnh các tương đồng và biến đổi trên, chúng ta
còn thấy ở Việt Nam và Đông Nam Á, sự biến đổi rất phổ biến giữa bán nguyên
âm ya, các nguyên âm kép ia, ea, ai, ay (sông nước) trở thành các dạng có phụ âm đầu
như ba, da, đa, tạ, đạ, đà, đái, đak, đáy, pa, trà vẫn để chỉ sông nước, ở miền Bắc có
Tạ Khoa, Tạ Pú, sông Đà, sông Đáy; đặc biệt là ở các vùng miền Trung – Tây
Nguyên có vô số sông suối mang tên Ia, Ea, Trà, Đạ, Đak như Ia Ly, Ea Hleo, Trà
Giang, Trà Bồng, Trà Cú, Đạ Đờng, Đạ Tẻ, Đạ Hoai, Đak Bla, Đak Lak, Đak Krông,
v.v.... Cho nên hiện tượng biến âm giữa ia, ea, tạ, đà, lô, la thành ra để chỉ sông nước trong cụm từ cổ Kattigara là điều rất bình thường. Và như vậy
hoàn toàn có thể đọc Ra là sông, nước.
Riêng
với trường hợp từ Kat nếu bỏ phụ âm cuối [t] còn lại Ka thì đúng là một đặc sản Việt cổ xuất phát từ
cuộc sống gắn liền với sông biển. Trong môi trường cư trú của người Việt cổ -
một bộ phận của tổ tiên người Malayo-Polynesian - chúng ta thấy có ba từ tạo
thành một hệ thống sinh thái nước hoàn chỉnh, đó là Cái để chỉ vũng vịnh ven biển, nơi con
người có thể tụ tập thành cộng đồng và sinh sống lâu dài. Vùng biển Quảng Ninh,
vịnh Hạ Long và Hải Phòng điển hình cho môi trường này. Ở khu vực này vẫn còn
thấy rất nhiều địa danh có từ Cái như Cái Bầu, Cái Lân, Cái Làng, Cái Bèo, v.v... Những vùng này ít chịu ảnh
hưởng của văn hóa Hán cho nên ít thấy có trường hợp sử dụng từ Hán Việt để mô
tả từ này ở khu vực Quảng Ninh, Hạ Long. Nhưng lùi về bờ biển phía đồng bằng
Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, chúng ta thấy có hàng loạt từ Hải, chắc chắn đã được dùng thay cho từ Cái, đó là Hải trong Hải Đông, Hải Dương, Hải Phòng, Hải
Hậu. Ở Hải Phòng còn thấy một số địa danh cải biến Cái thành 吉Cát hoặc lai giữa Việt và Hán Việt, trong đó có thể
từ Cát là tiếng Việt thay cho từ Cái như Cát Bà, hoặc Cát Cụt, Cát Dài nhưng đối với trường hợp Cát Hải thì lại có thể được diễn giải bằng hai từ
Hán 吉海, trong khi vẫn tồn tại địa danh Cái, chẳng hạn Cái Tráp huyện Cát Hải. Có lẽ các biến đổi địa danh
trên diễn ra muộn, không xa ngày nay là bao nhiêu.
Riêng
từ Cửa cũng khá phức tạp, vì từ này được
dùng để mô tả các cửa sông chảy ra biển, hoặc cửa sông chảy vào một con sông
chính nào đó. Hầu hết các vùng này đều dần dần trở thành thủ đô hoặc các đô
thị, các trung tâm quan trọng của vùng, nên khi bị người Hán đô hộ, từ Cửa đã được khoác bằng một hai chiếc áo
Hán để ghi bằng các âm tương ứng trong tiếng Hán như 古Cổ (Cổ Loa, Cổ Đô (cạnh ngã ba Hạc Trì), Cổ Lương (Hà
Nội), hoặc Khả 可(Khả Lũ - Cổ Loa; Khả Lạc -
Kinh đô của người Dạ Lang cũ nay thuộc Quý Châu, Trung Quốc) chẳng hạn. Như vậy trong hầu hết các trường hợp thì Cổ - Khả là để chỉ một
loại trung tâm như Kinh đô, hoặc chính là Kinh đô. Riêng với Kẻ, giống như trường hợp Cái, vì xa các trung tâm đô thị Hán hóa và
ít chịu ảnh hưởng của văn hóa Hán nên nó vẫn tồn tại nguyên vẹn với tư cách là
một từ tiếng Việt, cho dù có một hai âm đọc tương ứng khác là Kẽ, Khe, và cũng
có thể được viết bằng từ Hán 溪Khê. Đây là những địa điểm tụ cư tại cửa
các con sông nhỏ, hoặc cửa các con ngòi, lạch nhỏ chảy vào một vùng nước, hoặc
một con sông chính. Vì vậy về cấu trúc phân cấp xã hội phải có một loạt Kẻ phụ thuộc vào một Cửa – Cổ - Khả nào đó.
Trong
lịch sử thủy cư Việt thì ba từ trên tương ứng với ba quy mô lớn nhỏ khác nhau.
Về mặt nguyên ủy, nếu chỉ sống dựa vào tự nhiên thì Cái có quy mô diện tích lớn nhất, và
cũng có thể nuôi chứa được một dân số đông nhất vì nguồn lợi thiên nhiên dồi
dào của nó. Tuy nhiên khi nông nghiệp, thủ công nghiệp và đô thị phát triển
thì Cửa - Khả -
Cổ lại
là môi trường thuận lợi nhất để nuôi chứa được một dân số lớn đến mức khó tưởng
tượng đối với con mắt của người quen nhìn cuộc sống phụ thuộc vào các nguồn
thuần túy tự nhiên. Cuối cùng Kẻ vẫn là quy mô làng thôn theo đúng nghĩa của từ
khe, ngòi chỉ đủ nguồn lợi để nuôi chứa được một cộng đồng dân số nhỏ bé.
Riêng Kẻ Chợ là một khái niệm phiếm chỉ, có lẽ nó
ra đời cùng với lớp thị dân vừa thoát khỏi thân phận nông nô, hoặc nông dân tự
do nghèo khổ, là những người sống bên lề của xã hội quan lại, quý tộc phong
kiến. Vì vậy Kẻ Chợ không nằm trong hệ thống Cái, Cổ, Kẻ truyền thống Việt, mà lại là một từ
có vẻ tiên báo về một giai cấp tiểu tư sản thị dân đang xuất hiện và dần dẫn
trở thành chủ đạo, giống như các thành thị Châu Âu thời Cận đại vậy. Tuy nhiên
vấn đề ở đây lại không phải là chữ Ka, mà là Kat. Liệu có phải Marinus, Ptolemy và những người trước
họ đã viết thừa một phụ âm [t]; nếu họ viết thừa một phụ âm [t] thì khi tách ra
sẽ đúng là có ba từ Ka-Tiga-Ra mà
thôi. Nhưng theo tôi chắc không có chuyện viết thừa phụ âm [t] ở đây. Tôi đã
kiểm tra lại nguyên bản viết tay tiếng Hy Lạp của Ptolemy do thư viện Paris
công bố [Ptol. Geograph. l.i.c. 17. Paris, 1546, Lib. i, c. 14] thì
thấy tất cả đều được viết là Καττιγαρα[3]với hai
phụ âm [t]. Như vậy khi tách cụm từ đó thành ba thì sẽ là Kat – Tiga – Ra, và vấn đề sẽ trở nên
khó khăn, rắc rối hơn, vì sẽ không còn là Ka để có thể đọc là Khả, Kẻ, Cổ nữa. Như vậy thì không thể đơn giản
bỏ một phụ âm [t] đi để đọc cho thuận được. Chỉ còn cách duy nhất là phải thử
đọc chữ Kat đó, và tất nhiên cũng phải đọc nó là
một từ tiếng Việt.
Tôi nhớ
hồi còn nhỏ ở quê, bà nội và bà ngoại tôi rất già, không bao giờ gọi Việt Trì,
mà chỉ gọi là Vật Trì, dù bà ngoại là người Bạch Hạc. Tại sao
các bà lại nhầm lẫn hoặc nói nhịu kiểu đó? Trong thực tế khả năng biến âm giữa
[iê] (chẳng hạn từ thiệt) và
[â] (chẳng hạn từ thật)
của Việt và Vật là thông thường. Nhưng điều đó có ý
nghĩa gì không? Tôi nhớ cạnh Việt Trì, bên huyện Ba Vì, sát kề sông Đà có
xã Vật Lại. Và tôi cũng đã từng đọc mấy câu thơ nổi
tiếng của sĩ phu Ngô Quang Bích (1832 – 1890) làm quan lâu năm ở xứ Hưng Hóa và
gắn bó máu thịt với non nước nơi này; chính vì vậy ông đã có được những vần thơ
để đời như hai câu 眾水皆東走, 沱江獨北流 Chúng thuỷ giai đông tẩu, Đà giang độc bắc lưu; vừa mượn hướng chảy của sông Đà để
nói về chí khí của mình, vừa nói về kinh đô Phong Châu, nơi hồn thiêng núi sông
ngàn năm hội tụ. Vậy thì chắc hẳn chữ Việt trong Việt Trì, được viết Kat là biến/hoán đổi âm của Vật ↔ Quật ↔ Quặt ↔ Kat được dùng để mô tả dòng Hắc Long –
sông Đà chảy vật lại, quật lại, quặt lại, quay lại, từ phía tây nam ngược lên
phía bắc; dòng Thanh Long – sông Lô từ phía đông lượn sát Việt Trì quành về
phía tây bọc lấy Bạch Hạc; còn dòng Xích Long – sông Hồng đón nước Đà giang rồi
lượn vòng hẳn về phía đông hợp lưu với Lô giang, trở thành ba con rồng thiêng
quần chầu ôm lấy vùng Đất tổ, tạo thành một Đại huyệt đạo Kattigara.
Tuy
nhiên, thử thách lớn nhất trong ba từ trên chính là Tiga, thật không dễ tìm được một từ nào trong
vốn tiếng Việt hiện đại tương ứng để suy luận nghĩa của nó. Chính vì vậy, chúng
tôi đã phải tìm đến các ngôn ngữ gần gũi hoặc có quan hệ với tiếng Việt, mà
trước hết là các ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Malayo-Polynesian. Và ở đây chúng tôi đã
tìm thấy một gợi ý rất có ý nghĩa, khi phát hiện ra Tiga chính là số 3 (Ba)
trong hệ số đếm của các ngôn ngữ Malayo-Polynesian như dưới đây (Anderbeck
K. R. 2008):
Malay:
Tiga
Indonesian: Tiga
Javanese: Tiga, Telu
Balinese: Tiga, Telu
Sundanese: Tilu
Toraja: Tallu
Tagalog: Tatlo
Acehnese: Lhè
Indonesian: Tiga
Javanese: Tiga, Telu
Balinese: Tiga, Telu
Sundanese: Tilu
Toraja: Tallu
Tagalog: Tatlo
Acehnese: Lhè
Nhìn
bảng trên có thể thấy các ngôn ngữ Balinese, Indonesian, Javanese, và Malay vẫn
còn giữ được nguyên vẹn số đếm Ba từ thời cổ đại, trong khi đó các ngôn ngữ còn
lại đã có những biến đổi hoặc đôi chút khác biệt, tuy nhiên vẫn có những mối
liên hệ ngữ âm rất rõ ràng và có tính quy luật. Bình Nguyên Lộc đã chứng minh
rằng người Việt cổ cũng sử dụng hệ số đếm này trong cuốn Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt
Nam. Còn
bản thân chúng tôi vẫn chủ trương khu vực văn hóa Soi Nhụ - Cái Bèo - Hạ Long
của người Việt cổ là một trong những cội nguồn của người Malayo-Polynesian, nên
đương nhiên ngữ hệ Malayo-Polynesian cũng là một cơ tầng ngôn ngữ Việt. Chính
vì vậy ở đây chúng tôi không chứng minh lại nữa, mà chỉ xem xét riêng về khả
năng biến đổi những từ đa âm tiết trong tiếng Việt cổ thành từ đơn âm tiết sau
khi tiếp xúc lâu dài với ngôn ngữ - văn hóa Hán. Một trong vô vàn trường hợp đó
chính là từ Tiga đã biến đổi thành một từ đơn tiết
trong tiếng Việt hiện đại là Ba. Như trên chúng ta đã thấy, bên cạnh Tiga của các ngôn ngữ Indonesian,
Javanese, Malay đã xuất hiện phụ âm [l] trong chính các từ số
đếm Ba của các ngôn ngữ Javanese, Balinese,
Sundanese, Toraja, Tagalog, và Acehnese. Trong tiếng Việt, có thể thấy rất rõ
sự biến âm giữa [t] ~ [bl]; đặc biệt là vẫn còn rất nhiều hiện tượng biến
đổi trực tiếp [g] → [b]
như: gạy → bẩy,
gói →buộc, gập → bẻ, gò → bó, gạt →bạt,
guá → bụa, gả → bán. Vì vậy trong trường hợp này, quá trình đơn tiết hóa
có thể diễn ra như sau: tiga → tiba → tba → ba.
Vậy là
chúng ta đã đọc được cụm từ Kattigara, và đến đây thì ai cũng biết là cụm từ ấy có thể diễn
giải theo nghĩa đen là Vùng đất Ba sông Cuộn lại, nói theo cách hiện đại là Thành phố Ngã
ba sông, Thành phố Việt Trì. Còn trong lịch sử và tiềm thức thì người Việt vẫn
coi đó là Kinh đô Phong Châu của nước Văn Lang, Kinh đô huyền thoại của các vua
Hùng, của người Lạc Việt. Như thế có nghĩa là cái đặc trưng lớn nhất của vùng
đất linh thiêng này là nơi hợp lưu của ba con sông, và ngay cả đặc trưng 北流 bắc lưu của Hắc Long – Đà Giang cũng đã được
người xưa ghi nhận trong chính cái tên mà họ đã gọi nó. Tuy nhiên có một số vấn
đề cơ bản về ngữ âm học lịch sử, danh pháp học lịch sử liên quan đến những từ
cổ để gọi Kinh đô Phong Châu vẫn còn lại ở vùng này, đó là chữ Trì trong địa danh "Việt Trì".
Chữ Việt thì mọi người đều có thể dễ dàng
đồng ý là về sau người ta có thể dùng từ chữ Hán là 越 Việt trong cái tên quen thuộc Việt Nam. Nhưng còn chữ 池 Trì được ghép thành 越池 Việt Trì để giải thích là Ao
Việt thì không có nhiều sức thuyết phục so với cả trường ý nghĩa rất sâu sắc
gắn liền với Kinh đô Phong Châu huyền thoại của dân tộc. Chúng tôi chỉ tạm thấy
yên tâm với chữ Trì khi mạo muội cho rằng đó có thể chính một
mảnh ngữ âm còn rớt lại từ quá trình biến đổi nghĩa tiga thành ba, nhưng về phương diện ngữ âm
thì lại vẫn lưu giữ một mối liên hệ ngầm theo con đường giữa tiga với ti, tli, để rồi cái mảnh ngọc nhỏ xíu quý báu đó đã ẩn mình sau tấm áo
Hán 池 trì (ao);và một lần nữa lại long đong
cùng các cố đạo Pháp, khi họ dùng chữ cái Latin để ghi âm tiếng Việt thì ti
hoặc tli hoặc âm trì trong tiếng Hán của địa danh này đã chính thức trở thành
chữ Trì trong hai chữ Việt Trì, vẫn được giải
thích là Ao Việt.
Nhưng
vẫn không hết băn khoăn, vì bên cạnh chữ Việt Trì, vẫn còn một chữ quen thuộc
khác là Hạc Trì. Vậy thì Hạc là gì? Về phương diện thuần túy danh
pháp thì có thể diễn giải Hạc Trì là Ao Hạc, nơi có nhiều hạc, sếu đến kiếm ăn.
Trong thực tế có thể có chuyện đó, và đúng là có chuyện đó. Vào cuối những năm
50, đầu những năm 60 của thế kỷ XX, khi người viết bài này còn nhỏ, nhà bên
dòng sông Lô, cách Việt Trì không bao xa, vào mùa thu chúng tôi vẫn thấy những
đàn sếu, bồ nông chân dài, mỏ dài, sải cánh lớn bay về kiếm ăn bên dòng sông
vẫn còn rất êm đềm, vắng vẻ. Vì vậy nếu hình dung khoảng hơn 2000 năm trước,
cùng với quá trình biển thoái, cả một vùng đất ngập nước bao la, màu mỡ của Ngã
ba sông hiện ra, thì đúng là nơi “đất lành chim đậu”. Bên cạnh đó, có thể còn
những khả năng khác để diễn giải chữ 鶴 Hạc. Trước hết, trên các trống đồng Lạc Việt có hình
khắc chim hạc, sếu. Vì vậy có thể hạc, sếu được sử dụng làm biểu tượng của cư
dân Phong Châu nói riêng, làm biểu tượng của người ở nơi cao ráo, ít bị ngập
úng, thuộc vùng đồi núi, vùng của mẹ Tiên, người ở trên núi Tiên, mà chữ trên trong tiếng Việt cổ có thể có nguồn
gốc từ tlên, tliên, chiền, tiên vẫn còn có thể quan sát được. Ngoài ra cũng còn
một cách khác để diễn giải chữ Hạc từ khả năng tương đồng âm giữa chữ Kat và chữ Hạc. Trong tiếng Trung Quốc phổ thông hiện
đại, chữ Hạc được phát âm là hứa, khứa, còn những nhóm người khác nhau ở Đài Loan và Quảng
Đông thì phát âm là hộc, hạc,
hác, khác, khách không xa âm Kat trong tiếng Việt cổ.
Tuy
nhiên tích truyện xưa lại lý giải cái tên Bạch Hạc với cây Chiên đàn “cao hàng
nghìn nhẫn, tỏa ra một vừng rộng, che rợp như rừng, có đến hàng nghìn dặm,
thường có đôi hạc đậu ở trên nên gọi là Bạch Hạc” [Vũ Quỳnh 1993: 95] thì rõ
ràng có màu sắc Phật giáo. Trước hết là hình tượng cây Chiên đàn, 栴檀树 Chiên đàn thụ - là loại cây quý, màu vàng
tro, tỏa hương thơm ngào ngạt, người xưa dùng để tạc tượng Phật. Theo Kinh Tăng
nhất A hàm, quyển 28, trong thời gian đức Phật lên cung trời Đao Lợi thuyết
pháp độ mẫu thân, vua Ưu Điển (Udayana) không được đảnh lễ Ngài, nên sinh bệnh.
Các quan lấy cây Chiên đàn tạc pho tượng Phật cao 5 thước, vua liền khỏi bệnh,
và đó chính là pho tượng đầu tiên của Đức Phật tại Ấn Độ. Vì vậy hình
tượng cây Chiên đàn tại Bạch Hạc chính là cây Chiên đàn trong tích truyện vua
Ưu Điển. Cùng với hình tượng cây Chiên đàn thì hình tượng chim Bạch Hạc cũng
chính là biểu tượng của Đức Phật. Kinh Đại Niết Bàn chép rằng khi đức Phật nhập
niết bàn tại Sa La viên, cả rừng Sa La rủ bóng che chở Ngài, toàn bộ lá trong
rừng đều biến thành màu trắng như ngàn cánh hạc trên kim thân đức Phật. Màu
trắng là gốc của các màu thể hiện đức Phật nhập Niết Bàn là quay về với bản
nguyên vô thủy, vô chung. Chính vì vậy các khu vườn của tăng đoàn sau này
thường được gọi là Hạc lâm. Một phiên bản khác nói rằng khi đức Phật nhập Niết
Bàn thì hai cây Sa La bên kim thân Ngài biến thành đôi hạc trắng, nên hai cây
Sa La đó còn được gọi là Sa La Song thụ, hoặc có tên gọi khác là cây Hạc trắng.
Ngoài ra sách Đại Nhật kinh sớ, quyển 3 còn nói ở Ấn Độ có loại chim Sarasa,
giống như chim uyên ương, nhưng lớn hơn đôi chút, tiếng hót rất thanh nhã, loài
chim này không có ở Trung Quốc, sách Tuệ Lâm Âm nghĩa dịch là Cộng hành điểu,
còn gọi là Bạch Hạc – tượng trưng cho Phật tính.
Vậy là
dù có những phiên bản khác nhau, nhưng tất cả các hình tượng trên đều là biểu
tượng của đạo Phật, của sự quay về với cái bản nguyên của con người. Tuy nhiên
trong trường hợp Bạch Hạc, chắc chắn tác giả của tích truyện còn muốn sử dụng
hình tượng của Phật giáo để gửi gắm tâm sự và niềm tin của người dân đất Việt
vào nơi gốc tổ, coi đó không chỉ là bản nguyên của mỗi cá nhân, gia đình, mà
còn là bản nguyên, là nguồn sức mạnh vô song của cộng đồng, và của cả dân tộc.
Đặc biệt là khi đất nước gặp nguy nan như khi kẻ thù phương Bắc xâm lược, hoặc
gặp thời tao loạn, người con dân Lạc Việt luôn luôn quay trở về tìm lại nguồn
sức mạnh vô tận từ gốc tổ, từ bản nguyên, để hồi sinh, lớn mạnh, và chiến
thắng.
Vài lời cuối bài viết
Hai
nghìn năm là một quãng đường dài, nhiều hiện thực lịch sử đã trở thành ký ức,
nhiều ký ức đã trở thành huyền thoại, và đến lượt mình nhiều huyền thoại đối
với nhiều người chỉ còn thuần túy là huyền thoại. Có thể Hạc Thành - Phong Châu
không ở trong trường hợp đó, nhưng với nhiều người, thật không dễ để nhìn thấy
nó như một hiện thực sống động. Trong bối cảnh đó Kattigara - Kinh đô Ba con sông - Hạc Thành,
giống như một cuốn phim, không phải ngẫu nhiên đã được Marinus, Ptolemy và
những bộ óc vĩ đại khác của thế giới Hy - La ghi lại như để dành tặng riêng cho
người Việt. Không phải ngẫu nhiên, vì chính bản thân Lạc Việt - Phong Châu -
Kinh đô Ba con sông - Hạc Thành đã một thời tỏa rạng bên bờ biển Đông. Cái thời
đó tưởng đã lùi xa, tưởng đã bị vùi lấp trong thẳm sâu quá khứ, nhưng giống hệt
một chân lý, và đó chính là chân lý - những gì là giá trị thực thì sẽ vĩnh viễn
tồn tại cùng con người. Kattigara là một chân lý như vậy. Tôi hình dung một ngày
không xa Việt Trì - Phong Châu - Hạc Thành sẽ có một công viên, một con đường,
một nhà hát, một bảo tàng, một đại học mang lại cái tên đầy âm hưởng xưa: Kattigara của những thế hệ tổ tiên vĩ đại. Ở
đó bên cạnh bố Rồng, mẹ Tiên, các vua Hùng và các tiên hiền Lạc Việt, còn có
những bức tượng của Alexandros, Titanus, Marinus, Ptolemy, Columbus, Magellan
và nhiều vĩ nhân khác nữa - những con người đã chót bén duyên Lạc Việt. Và
tương lai sẽ có những tuyến hải hành quay trở lại con đường cổ, từ Kattigara - Phong Châu - Hạc Thành tỏa đến
Alexandria, Châu Phi, Châu Mỹ để tưởng nhớ những bước chân các vĩ nhân xưa trên
con đường đi tìm một Kattigara huyền
thoại nay đã trở về cùng hiện thực.
Tài liệu tham khảo
Alphonse,
Jean 1904. La
Cosmographie, 1544
ff.150r and 151rv, in Georges Musset (ed.), Recueil de Voyages et de Documents
pour servir a l'Histoire de la Geographie, XX, Paris, 1904, pp.398 and 401-2.
Anderbeck, Karl Ronald 2008. Malay Dialects of the
Batanghari River Basin (Jambi, Sumatra). SIL International Library of Congress
Catalog.
Bình
Nguyên Lộc 1971-2007. Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam. Chương V: Dấu vết Mã Lai trong xã hội Việt Nam ngày nay. Bách Bộc xuất bản, Sài Gòn 1971. Bản
điện tử do talawas thực hiện ngày 13/10/2007.
Bridges
R. C. & P. E. H. Hair (eds) 1996. Compassing the Vaste Globe of the Earth, Studies in
the History of the Hakluyt Society, London.
Broorstin,
Daniel J. 1983. A History of
Man's Search to Know His World and Himself. Random House, Inc.,United States of America.
Cary,
Max 1956. Maes, Qui et
Titianus.
In The
Classical Quarterly, New
Series, 6.3/4 (July–October 1956), pp. 130–134.
Caverhill,
John 1767. Some
Attempts to ascertain the utmost Extent of the Knowledge of the Ancients in the
East Indies.
In Proceedings
of the Royal Society of London; Philosophical Transactions, vol.57, 1767,
pp.155-174. Publisher: Royal Society of London.
Chakravarti
Adhir K. 1972. Early
Sino-Indian Maritime Trade and Fu-Nan, D.C. Sircar (ed.), Early Indian Trade and Industry, Calcutta, University of Calcutta
Centre of Advanced Study in Ancient Indian History and Culture,Lectures and Seminars, no.VIII-A, part I, 1972, pp.101-117.
Coote C.H. 1898. Autotype Facsimiles of Three
Mappemondes,
Aberdeen, 1898.
D'Anville
1810. Sinae -
Compendium of Ancient Geography. In The Royal Academy of Inscription and bells lettres at
Paris.
Translated from the French. Vol. II, London.
Dreyer
J.L.E. 1953. A History of
Astronomy from Thales to Kepler. 2nd edition. New York: Dover Publications.
Đào Duy
Anh 1997. Đất nước
Việt Nam qua các đời – Nghiên cứu Địa lý học lịch sử Việt Nam. In lần thứ hai, Nxb. Thuận Hóa – Huế.
Tp. Huế, Thừa Thiên Huế.
El-Abbadi,
Mostafa 1992. Life and fate of the ancient Library of Alexandria (2nd edition).
Paris: UNESCO.
Erksine
A. 1995. Culture and
Power in Ptolemaic Egypt: The Museum and Library of Alexandria. Greece & Rome, 2nd ser., 42(1),
38-48.
Evans,
James 1998. The History
and Practice of Ancient Astronomy. New York: Oxford University Press.
Ferra
M.J. 2010. The maps of
Claudius Ptolemy explained with a resolution of the place names including
Cattigara. India
Intra et Extra Ganggem – Sinea and Taprobane.http://www.cartographyunchained.com/cartographicalabstracts.html
Foster,
William 1946. The Hakluyt
Society, a Retrospect 1846–1946. In Edward Lynam (ed.), Richard Hakluyt & his
Successors, A Volume issued to commemorate the Centenary of the Hakluyt Society, London, 1946
Griffin,
Miriam T. 1976. Seneca: A
Philosopher in Politics, Oxford 1976. 34.
Harrisse,
Henry 1961. The
Discovery of North America, London, 1892 (reprinted Amsterdam, N. Israel, 1961),
p.583.
Heath,
Thomas 1913. Aristarchus
of Samos.
Oxford: Clarendon Press, 1913.
Herrmann, Albert 1938. Der Magnus Sinus und Cattigara nach
Ptolemaus. Compte-rendu
du Congrès international de géographie (Amsterdam).
Hirth
F. 1885. China and
the Roma Orient, Text
p. 42, and commentary, pp. 173-178. Shanghai & Hong Kong, 1885.
Institute
on the Far East Works 1915. Note II. Extracts from the Geography of Ptolemy. Vol. I. Second Series No. XXXVII. Issued for 1915 by Society Cathay and
the Way thither 1915. Liberary of Wellesley College Presented by Institute on
the Far East Works, (Ptolemy K. 1915).
Laffan,
Michael 2005. Finding
Java: Muslim nomenclature of insular Southeast Asia from Śrîvijaya to Snouck
Hurgronje. Asia
Research Institute, Working Paper Series No. 52. Princeton University.
Lịch
Đạo Nguyên (chú), Dương Thủ Kính, Hùng Hội Trinh (sớ), Đoàn Hy Trọng (điểm
hiệu), Trần Kiều Dịch (phúc hiệu) 2005. Thủy Kinh chú sớ. Nxb. Thuận Hóa, Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây,
(Bản dịch của Nguyễn Bá Mão).
Malleret
L. 1951. Les fouilles
d’Oc-Eo (1944).
Rapport préliminaire, BEFEO 1951, tr. 75-88.
Malleret
L. 1962. L’Archéologie
du delta du Mékong, Tome
Troisiéme, La culture
du Fu-nan, Paris,
1962, chap.XXV, “Oc-Èo et Kattigara”, pp.421-54.
McCrindle
J.W. 1885-1974. Ancient
India as described by Ptolemy, London, Trubner, 1885, New Delhi, Today &
Tomorrow's Printers & Publishers, 1974.
Millares
A. Carlo (ed.) 1951. Columbus' letter of credence. In Historia de las Indiaspor Fray
BartOlome de las Casas, Mexico, Fondo de Cultura Economica, 1951, Lib.2,
cap.iv, pp.219-20.
National
Library of Australia 2010. Digital Collections – Maps – A Map of the World 1506.. http//:nla.gov.au/nla.map-f887
Nunn,
George E. 1927. The Lost
Globe Gores of Johann SchOner, 1523-1524. The Geographical Review, vol.17, no.3, July 1927,
pp.476-480.
Nunn,
George E. 1932. The Columbus
and Magellan Concepts of South American Geography. Glenside, the author, 1932, pp.12-13
& 49-51.
Nunn,
George E. 1992. The Three
Maplets attributed to Bartholomew Columbus. Imago Mundi, vol.9, 1952, 12-22, p.15
Peillard, Leonce 1984. Antonio Pigafetta, Relation du
Premier Voyage autour du Monde par Magellan, Paris, Tallandier.
Phạm
Minh Huyền, Nguyễn Văn Huyên, Trịnh Sinh 1987. Trống Đông Sơn. Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội.
Phan
Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh 1991. Lịch sử Việt Nam, tập 1, NXB Đại học và Giáo dục Chuyên nghiệp.
Priaulx, Osmond de Beauvoir 1873. Indian Embassies to Rome(J.R.A.S. xix.294) (bound with Apollonius of
Tyana), London.
Ptolemy
K. 1885. Ancient
India as described by Ptolemy. Translated by J.W. McCrindle, Publisher:
Trübner.
Rawlinson,
H. G. 1916. Intercourse
between India and the Western World from the Earliest Times to the Fall of Rome. Cambridge : University Press, 1916. - vi, [2].
Reinaud
M. 1863. Relations
Politiques et Commerciales de l’Empire Romain avec l’Asie Oriental. L’hyrcanie, L’Inde, La Bactriane et La
Chine p. 184, Paris.
Richthofen,
von Ferdinand 1877-1912. China, Ergebnisse eigner Reisen und darauf gegründeter Studien (China: The results of my travels
and the studies based thereon, 1877-1912, 5 vols. and atlas).
Riley T. M. 1995. Ptolemy’Use
of his Predecessors’ Data. Transactions of the American
Philosophical Association 125 (1995) 221 – 225, California State University,
Sacramento.
Sarkar
H.B. 1981. A
geographical introduction to South-East Asia: The Indian perspective. Bijdragen tot de Taal-, Land- en
Volkenkunde (hereafter BKI) 137-2/3 (1981): 293-323.
Schilder
G. 1976. Australia
Unveiled,
Amsterdam, Theatrum Orbis Terrarum.
Schoener,
J. 1961. Opusculum
Geographicum, Norimberga, [1533], cap.xx; quoted in James R. McClymont The Theory of an Antipodal Southern
Continent during the Sixteenth Century, Report of the Fourth Meeting of the Australasian Association
for the Advancement of Science, Hobart, January 1892, Hobart, the Association,
1893, p.455; (reprinted Amsterdam, N. Israel, 1961), pp.525-6.
Serrano
C. S.
(ed.) 1954-1955. Obras de Martin Fernandez de Navarrete. Madrid, 1954-55, vol.1, pp.223-5.
Smith
R.B. 1979. Check list
of “Heger type I” Bronze drums from South East Asia. ESA. New York-Kualalumpur.
Sorensen
P. 1979. The Ongbah
Cave and Its fifth drum. EAS. New York-Kualalumpur.
Suarez,
Thomas 1999. Early
Mapping of Southeast Asia, Hong Kong, Periplus, 1999, p.92.
Stein
R. A. 1907. Ancient
Khotan - Detailed Report of Archaeological Explorations in Chinese Turkestan
Carried out and Described under the Orders of H.M. Indian Government. Indian Educational Service. Vol.II,
Oxford at the Clarendon Press. London, Edinburgh, New York and Toronto.
Stein
R. A., A. Herrmann 1940. Das Land der Seide und Tibet im Lichte der Antike, BFEO 1940, No.2, tr. 456-460.
Strabo
1917-1932. The Geography of Strabo. Loeb Classical Library, 8 volumes, Greek
texts with facing English translation by H. L. Jones: Harvard University Press,
1917 thru 1932.
Tarn, W.W. 1928. Ptolemy
II. The Journal of Egyptian Archaeology, 14(3/4).
Trần
Trí Dõi 2008. Tên gọi của
sông Hồng: Dấu tích biểu hiện nét đa dạng văn hóa trong lịch sử người Việt. Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế Việt Nam học lần
thứ ba. Hà
Nội 4-7 tháng 12 năm 2008.
Trần
Văn Giàu 1961. Giai cấp
công nhân Việt Nam - Sự hình thành và phát triển của nó từ giai cấp “tự mình„
đến giai cấp “cho mình„. Nxb. Sự thật, Hà Nội.
Trinh
Sinh 1988. A comment on
the bronze drums dícovered in Thailand. Comparative Thai-Vietnamese Archaeoloy: Culture in
Metal Age. Bangkok.
Trịnh
Sinh 1997. Nhân chiếc
trống đồng Đông Sơn mới tìm được ở Triết Giang, Trung Quốc. Tạp chí Khảo cổ học, số 3 năm 1997.
Varela,
Consuelo (ed) 1992. Lettera Rarissima, Jamaica, 7 July 1503, in Cristobal Colon: Textosy Documentos
Completos, Madrid, Alianza Editorial, 1992, p.48.
Vespucci
A. 1500-1944-1999. Amerigo Vespucci to Lorenzo de'Medici, Seville, 18 July 1500; quoted in Frederick J. Pohl, Amerigo Vespucci: Pilot Major, New York, Columbia U.P., 1944, p.77;
Early Modern Literary Studies, vol.5, no.2, September 1999.
Vũ
Quỳnh 1993. Tân đính
Lĩnh Nam Chích quái. Nxb.
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
Wade,
Geoff 2009. The Polity
of Yelang (夜郎) and the Origins of the Name ‘China’. Institute of Southeast Asian Studies,
Singapore, Sino-Platonic Papers, 188 (May 2009).
Wallis,
Helen 1992. What
Columbus Knew. History
Today, vol.42, May 1992.
Wieder
F.C. (ed.) 1925. Monumenta
Cartographica, The Hague, Martinus Nijhoff, 1925, Vol.I, pp.1-4, The Globe of Johannes SchOner,
1523-1524, and
Plates 1-3.
Yule, H. 1882. Notes on the oldest records of
the sea route to China from Western Asia. Proceedings of the Royal Geographical
Society IV: 658-9. London.
Chú thích
của tác giả
[1] Với vốn Phạn ngữ nghèo nàn của mình,
nhân tiện trò chơi ngôn ngữ của Giáo sư Chakravarti, tôi cũng xin mạo muội vui
đùa tạo ra những từ tiếng Phạn dù có thể hơi ngớ ngẩn, nhưng còn gần gũi với
Kattigara hơn là hai từ của ông. Chẳng hạnकटी-गिरा(Kattigira) = Bị bổ vỡ-Bị sụp đổ (hú
vía! gira chứ không phải là gara - nagara); कोटि-गिरा (Kottigira) = Cường
thịnh Sụp đổ (rủi là gira chứ không phải là gara - nagara); कटी-गेरा(Kattigera) = Bị bổ vỡ - Khu vực
(may là gera chứ không phải là gara - nagara); còn từ कोटि-गेराKottigera = Khu vực Cường
thịnh, thì nghĩa rất hay, nhưng chỉ có điều trớ trêu là cái từ này dường như
vừa may (vì Kot = cường thịnh), lại vừa rủi (vì chỉ có Kot chứ không có Kat như
trong nguyên văn Kattigara !).
[2] Về điều này thì Bình Nguyên Lộc đã nhầm lẫn, vì
Ptolemy chưa bao giờ đến Kattigara. Còn nếu ông, với tư cách là một nhà địa lý
vĩ đại, chuyên đo đạc, tính toán, và xây dựng tọa độ địa lý cho cả địa cầu mà
đã đến Kattigara rồi thì hậu thế sẽ không bao giờ phải bận tâm đến việc đi tìm
Kattigara như bây giờ nữa.
[3] Nguyên văn các đoạn bằng tiếng Hy Lạp
của Ptolemy đều có hai phụ âm [t] ở chữ Kattigara in đậm dưới
đây:
Φησι δε Αλεξανδρον αναγράφεται την γλω εντεύθεν εναντιαν ειναι τη μεσημβρίαν, και τους πλέονταςπαρ αιτην εν ημεραις εικοσι κατα λαμβανσιν πολυ
Ζαβας. Απο δε των Ζαβων προς νοτου διαπλευσαντας, και μαλλον εις τα
ευωνυμα ημερας τινας, εκδεχεδαι τα Καττιγαρα. [Ptol. Geograph. l.i.c. 17. Paris,
1546, Lib. i, c. 14.].
Dịch nghĩa:
Tuy nhiên Alexander thông báo rằng
vùng đất từ đó choãi về phía bắc của tuyến hải hành; và những người bơi dọc
theo bờ biển đó đến thành Zaba mất hai mươi ngày; từ Zaba bơi về phía nam, và
cần nhất là sau đó rẽ về bên trái, mất vài ngày thì đến Kattigara.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét