Nishida Kitarō và Triết học Trung Quốc
Michel
Dalissier
Người dịch: Hà
Hữu Nga
Kitarō
Nishida [西田幾多郎] Tây Điền Kỷ Đa Lang
(1870 - 1945), Giáo sư Triết học, Đại học Kyoto, người sáng lập Trường phái Triết
học Kyoto.
Đại hội Triết học Thế giới lần thứ 22
được tổ chức năm 2008 có thể nói là đã thể hiện một kiểu “quốc tế hoá” triết học diễn ra vào đầu thế kỷ XXI. Đại
hội không chỉ thể hiện mối quan tâm ngày càng lớn đối với triết học Nhật Bản và
việc cải thiện các mối liên hệ triết học trong khu vực Đông Á, mà còn hướng đến
khả tính về một “văn hoá thế giới” và “triết học thế giới” [Nishida 1933, 254; Heisig 2001, 7–11]. Vì vậy không
thể không lưu ý rằng vượt xa khỏi các giới hạn Châu Âu và Cận Đông năm 2003 [Istanbul], Đại hội Thế giới Triết học
lần này diễn ra ở bên rìa Đông Á, chứ không phải ở cái mà chúng ta có thể gọi
là trung tâm triết học Trung Quốc, cũng không phải là cái “vực thẳm” Nhật Bản, mà là “ở nơi nằm giữa hai thứ đó”, Hàn Quốc.
Chính xác thì đó là ở giữa hai đế chế “Trung tâm” và “Mặt trời” là
nơi mà chúng tôi muốn giới thiệu gương mặt Nishida Kitarō (1870–1945). Ông thực sự được coi là một triết gia chủ yếu chịu ảnh
hưởng bởi triết học phương Tây1 và Phật giáo [Dalissier 2006a, 2009]. Nếu chúng ta coi, chẳng hạn như cuộc luận chiến giữa Đạo
giáo và Phật giáo được Huệ Lâm 慧林, thế kỷ thứ V mô tả thì quan
điểm của Nishida dường như thể hiện ảnh hưởng chí ít cũng ngang bằng với Đạo
giáo: Các thánh hiền Trung Quốc không soi tỏ Huyền đạo [cái siêu vượt]; họ
không bao giờ nói về các chuyển hoá của cuộc sống tương lai. Nếu họ có tán thán
cái hư tâm thì họ cũng không nhận thức rõ được cái hư vô của các hiện tượng.
Siêu việt trí của họ chưa bao giờ chạm đến được cái hư vô đó của các hiền triết
phương Tây... Đối với Đức Phật,
tự thân sự vật
là không, không tính và sự vật là một. Đối với Lão Tử, hữu và vô là hai thực thể
khác biệt2. Nói chung món nợ của triết gia Nhật Bản ấy với cả Đạo
giáo, Khổng giáo lẫn “triết học” 3 Trung Hoa vẫn
còn chưa có kẻ nào hạch toán. Không chuyên vào lĩnh vực này, tôi muốn gắng gỏi
rọi sáng vào những song hành to lớn, nhưng không bỏ qua các hạn chế, dựa trên
các bình chú của tôi về nguyên tắc đối với nguồn tư liệu phong phú được Anne
Cheng tiếp sức trong Lịch sử Tư tưởng
Trung Quốc. Cho dù như vậy, nhiệm vụ của tôi cũng không hề dễ dàng hơn, vì
Nishida hầu như không hề trích dẫn bất cứ nhà tư tưởng Trung Quốc nào theo cách
thức mà ông đã trích dẫn các triết gia phương Tây, hoặc ngay cả các Thiền sư
[Nhật Bản]. 4
Truy vấn Vấn thiện
Sự thống nhất
Đã
có lúc tôi cố gắng chỉ ra 統一 [tōitsu] “thống nhất” chính là chiếc chìa khoá để mở vào cái 骨 “hồn cốt”
trong trực giác triết học của Nishida [Dalissier
2009, 565]. Lần đầu tiên ông đề xuất tư tưởng về một
“sở trường” [nghĩa tiếng Nhật là vị trí]
triết học trong việc tham chiếu các triết gia phương Tây, nhưng việc đề cập đến
điều đó lại dễ dàng gợi lại các ngôn huấn của Khổng tử và Trang tử. 5 Nếu
các triết gia phương Tây hiểu thống nhất như là một hợp nhất đơn giản và thuần
tuý thì nhiều hiền triết đã sử dụng khái niệm đó [Plato, Lotze]; trong khi các bậc
hiền khác lại phê phán nó [Aristotle,
Bergson]; và còn những bậc hiền khác nữa, mặc dù có
hiếm hơn, đã kiếm tìm tiềm năng triết học của nó [Cohen, Heidegger]. Một
mặt chẳng dễ gì mà đánh giá được Nishida thực sự có thể dễ dàng chiết tách ra
được quan niệm của riêng ông về sự thống nhất từ một khuôn viên Phật học, trong
đó chính tư tưởng về sự hợp nhất để tạo thành “ngã” được coi là “ảo hoá” [dữ ngũ
uẩn [स्कन्ध skandha] vi hòa hợp thị giả ngã dã 與五蘊為和合是假我也 – Duy thức luận - ND] , và đồng thời ở đó cái “cảm giác hợp nhất” dường
như đã bị phản bác.6 Mặt khác không thể lờ đi một sự thật là tư tưởng
thống nhất có một lịch sử tri thức sâu sắc trong tư tưởng Trung Quốc, được đặc
trưng bằng một “hấp lực hợp nhất luận” [Granet
1934, 15].
Thống
nhất là gì? Để bắt đầu, điều đó thể hiện sự hợp nhất hữu cơ giữa ý thức và thực
tiễn, một quan niệm đã được xướng xuất từ cái “khiếu trung cổ Nishida” [Heisig
2004, 15]. Trong chính công trình đầu tiên của mình, ông đã đề cao dōitsu 同 đồng
nhất tính của atman [आत्मन् tự ngã – ND*] và brahman
[ब्रह्मन् cái
tuyệt đối – ND*] trong “tôn giáo và triết học Ấn Độ”, mặc dù không đưa ra bất cứ
một tài liệu tham khảo nào. 7 Ông còn cho rằng chúng ta càng chối bỏ
tự ngã và trở nên khách quan hoặc phi ngã thì tình yêu của chúng ta càng trở
nên sâu sắc và kỳ vĩ. Chúng ta vượt qua khỏi tình phu thê hoặc phụ tử để đến với
tình bằng hữu, rồi từ đó đến với tình yêu nhân loại. Lòng từ bi của Đức Phật mở
rộng đến các loài cỏ cây, cầm thú [Nishida 1911, 174]. Một quan niệm như vậy
không chỉ thuộc về Phật giáo. Chúng ta còn phát hiện ra tư tưởng ấy trong Tăng
Tử 曾子[504–436 BC] 8 và đặc biệt
là 惠施 Huệ
Thi [380–305
BC]: 天地萬物一體 thiên
địa vạn vật nhất thể 9, [và
nhất là Trang tử: 天地與我同生萬物與我同一 thiên địa dữ ngã đồng sinh, vạn vật
dữ ngã đồng nhất [莊子南華經,齊物論
Trang
Tử, 365–290 BC, Nam Hoa kinh,
thiên Tề vật luận – ND*]. Tổng quát hơn, nó thuộc về “truyền thống
thiên nhân hợp nhất” trong tư tưởng Trung Quốc [Cheng
1997, 450; nhấn mạnh thêm]. Nhìn nhận trong khuôn viên của chủ nghĩa tự nhiên
thuần tuý, hoặc kỹ thuật cục súc, thì con người và tự nhiên vừa không thống nhất
lại vừa không phân cực; con người và Thượng đế không đồng nhất trong một “liên
minh” tạm bợ. Chúng không thể hiện là “hai vương triều tách biệt, mà là một xã
hội duy nhất” [Granet, 1934, 24]. Tính thống nhất năng động này được biểu hiện
tượng trưng bằng ngôn ngữ Trung Quốc 10, và được tán dương theo đúng
nghi lễ bằng các “nhịp điệu thời gian và không gian” trong các lễ hội. 11.
Mạnh Tử đã nhấn mạnh điểm này 12. Hơn nữa khi “ý thức” tham gia vào
chính các vị trí hợp nhất như vậy thì sự thống nhất được quy về một sōsa 操作
thao tác hữu cơ vô tận trong việc tạo tác, một khái niệm về cái gọi là “logic vị
trí” sẽ được chứng minh và có thể ứng dụng lý thuyết thi pháp về sau [Dalissier 2005, Parts iii–iv].
Ở đây, ngay cả khi Nishida có vẻ như mắc nợ tư tưởng phương Tây thì một phả hệ
học trong cách tiếp cận của ông vẫn không thể loại trừ bất cứ tư liệu triết học
Trung Quốc nào. Có phải chúng ta không thể thấy nó vận hành trong loại “tiến
hoá luận”, “thế giới luận”, và “phổ quát luận” là thứ đặc trưng cho giai đoạn
hình thành tác phẩm đầu tiên của ông, và là thứ mà chúng ta phát hiện trong các
nhà tư tưởng như 嚴復 Nghiêm
Phục 1853–1921, 梁啟超 Lương
Khải Siêu (1873–1929), 譚嗣同
Đàm Tự Đồng (1865–1898) và 康有爲
Khang Hữu Vi (1858–1927)? 13 Tư duy của chúng ta tựa vào sự sáng tạo
hữu cơ vô tận của vũ trụ cũng như vào những ý tưởng khác xuất phát từ tư duy
Trung Quốc cổ đại và hiện đại, là cái mà tôi sẽ mô tả chi tiết trong tiểu luận
này.
Kinh
nghiệm Thuần tuý và Đứa con Đoạ lạc
Hai
nghĩa của khái niệm “thống nhất” hợp làm một trong “kinh nghiệm thuần tuý”
trong đó chúng ta “trở thành một” với hiện thực, hoặc “trở nên khách quan” [nkz
12: 285, 302–3, 337–8, 375–9]. Nhưng một lập luận cốt lõi của Vấn thiện Nishida là ở chỗ mỗi khoảng khắc
chúng ta lại đoạ lạc 堕落 xa ngã
khỏi “trạng thái” phổ quát ấy. Bên cạnh sự quy chiếu hiển hiện vào huyền thoại
Thiên Chúa giáo, còn có thể bóng gió ngầm ẩn huấn ngôn của Mạnh Tử: Cái Đạo 學問
học vấn không có gì khác ngoài việc đơn giản là tìm kiếm nguyên bản tinh thần đã
vuột khỏi viễn kiến của ta [Mencius vi.a.11]. [Thật ra thì câu này không hoàn toàn thể hiện chính xác tinh thần
Mạnh học. Mạnh Tử thư mô tả cuộc đối đáp giữa Mạnh Tử và học trò Công tôn Sửu
khi Công tôn Sửu hỏi về sự khác biệt giữa cái bất động tâm của Cáo Tử và cái bất
động tâm của Mạnh Tử. Mạnh Tử trả lời: 告子曰:不得於言勿求於心不得於心勿求於氣;不得於心勿求於氣可;不得於言勿求於心不可夫志,氣之帥也,氣體之充也夫志至焉,氣次焉.故曰持其志無暴其氣…志壹則動氣也…我知言我善養吾浩然之氣.
Cáo Tử viết: “bất đắc ư ngôn, vật cầu ư tâm, bất đắc ư tâm, vật
cầu ư khí”; bất đắc ư tâm, vật cầu ư khí khả; bất đắc ư ngôn vật cầu ư tâm, bất
khả. Phù, chí khí chi suý giã, khí thể chi sung giã. Phù, chí chí yên, khí thứ
yên. Cố viết: Trì kỳ chí, vô bạo kỳ khí…Chí nhất tắc động khí, khí nhất tắc động
chí giã…Ngã chi ngôn, ngã thiện dưỡng ngô hạo nhiên chi khí]: Cáo Tử nói “Điều gì không nói được thì đừng tìm ở
tâm trí mình, điều gì không suy nghĩ được thì đừng trông đợi ở khí lực của
mình”. Còn ta thì nghĩ rằng điều không tìm được ở tâm chí thì trông đợi được ở
khí lực mình, điều không nói được thì không trông đợi vào tâm chí mình. Vậy thì
chí chính là chủ soái của khí đó, còn khí thì sung mãn trong người đó. Người biết
rồi, chí trước nhất rồi mới đến khí, vậy thì phải bền chí, không được huỷ hoại
khí. Ta thấu hiểu lời lẽ, và ngay lành bồi dưỡng cái khí hạo nhiên trong ta”. 孟子卷二,公孫丑章句上, Mạnh Tử, quyển nhị, Công Tôn Sửu Chương cú thượng ND*].
Rõ
ràng là Vấn
thiện
Nishida được cấu trúc theo tiến trình logic
“biện chứng” bốn bước Hegelien 14 gắn liền với tích truyện về sự đoạ
lạc và cứu rỗi Thiên chúa giáo Tam vị nhất thể [Dalissier
2009, 85–138]. Đồng thời nó cũng quy chiếu vào một nguồn
Đạo học chủ đạo: Đạo như là một cội nguồn đã mất, vẫn còn hiển hiện trong chính
hình tượng mà Nishida đã sử dụng để minh hoạ cho kinh nghiệm thuần tuý: đứa trẻ
đang bú bầu sữa mẹ [Nishida 1911, 120; xem. Dalissier
2009, 38, 131], hình ảnh một vị thánh nhân khéo nuôi dưỡng
bằng cách tiếp sức trực tiếp từ nguồn Đạo giống như là từ một nguồn suối vậy [Laozi 20].15 Một
nguồn suối khác có cấu trúc ba bộ phận trở thành một diễn giải đạo đức xuất hiện
trong các công trình của một tác gia Tân Khổng học được dẫn trong Vấn thiện, là Vương Dương Minh [王陽明 1472-1529]:
Ngay từ khởi đầu, tinh thần của tất thảy mọi kẻ trên trần thế này không thể nào
lại khác với tinh thần của thánh nhân. Nhưng khi cái tôi vị kỷ chen vào, và các
dục vọng vật chất quấy phá thì cái cao thượng trở thành nhỏ mọn, và cái vốn lưu
thông tự nhiên giờ trở thành ứ trệ bởi hành động của chính nó. Mọi người ai
cũng có nỗi quan ưu cá nhân, ở một mức độ nào đó có những kẻ còn cho rằng cha
con, anh em cũng là kẻ thù của nhau.
Đây
chính là mối lo lớn của thánh nhân, thúc giục thánh nhân truyền dạy ở mọi nơi về
cái nghĩa của chữ nhân, là cái làm cho 天地萬物一體
thiên địa vạn vật nhất thể. Khi hành động theo hiểu biết đó chúng ta sẽ chế ngự
được tính vị kỷ của mình, giải thoát được cái ứ trệ và phục hồi được cái mà
chúng ta đều có, đó là kiến tạo cái gốc của tinh thần chúng ta 16. Vấn
đề này thể hiện rất rõ trong di sản Đạo giáo và Tân Khổng giáo trong “phép biện
chứng” của Nishida giai đoạn sớm. Trong Vấn
thiện, ông đã tự phê phán từ một lập trường định vị, tư tưởng chung về một ứ
trệ [蔽,
tế che lấp; 塞,
tắc – bế tắc] của dòng hiện thực có hình dạng một “ngã” [Dalissier 2009, 526ff], nhưng
phê phán về sự “vị kỷ” này dẫu sao cũng định hướng đến một khẳng định về “nhân
cách” và “các khát vọng”.
Quên
thân
Nghịch
lý này gợi lại sự từ bỏ bản thân trong Phật giáo Đại thừa bằng cách giải thoát
khỏi ngã tính [Cheng 1997, 355]. Trong sự nỗ lực giải quyết mâu thuẫn này,
Nishida đã dựa trên cơ sở lý thuyết “tâm lý” của ông về khái niệm “quên thân” về
phương diện định vị, có nghĩa là dựa trên tư tưởng cho rằng tự ngã là một “vị
trí” cho việc hiện thực hoá cái hữu hạn và thực tính hữu thể luận của bản ngã [Dalissier
2009, 85–138]. Mặc dù phương thức từ bỏ tự ngã cũng được một số triết gia
phương Tây thực hành [Eckhart, Bergson, Heidegger], 17 nhưng đối với
Khổng giáo thì vấn đề trung tâm lại là tự khắc phục mình, quay về với lễ mới là
nhân [Analects
xii.1]. [顏淵問仁,子曰:克己復禮為仁一日克己復禮天下歸仁焉 為仁由己而由仁乎哉
Nhan Uyên vấn nhân, Tử viết: khắc kỷ phục lễ vi nhân. Nhất nhật khắc kỷ, phục lễ,
thiên hạ quy nhân yên. Vi nhân do kỷ, nhi do nhân hồ tai? Dịch nghĩa: Nhan Uyên hỏi về đức nhân, Khổng Tử đáp: thắng
được bản thân, theo đúng lễ là thực hiện được đức nhân. Hàng ngày làm được như
vậy thì người đời sẽ theo về với đức nhân. Thực hành đức nhân là do mình chứ
còn do ai nữa? [四書,論語,顏淵第十二章句 Tứ
Thư, Luận Ngữ, Nhan Uyên đệ thập nhị chương cú – ND*]. Về phương diện lễ, việc
quên thân mình chính là hoà đồng với vũ trụ và với tha nhân. Tuy nhiên, nếu “ngàn
bá tính bao gồm trong ta” [Mạnh Tử], nếu “ta bé mọn” [Trương Tải 張載 1020–1078] [Tây Minh: 乾稱父, 坤稱母;予茲藐焉乃混然中處.故天地之塞,吾其體天地之帥,吾其性.民,吾同胞, 物吾與也. Càn xưng phụ, Khôn
xưng mẫu; tử tư miểu yên, nãi hỗn nhiên trung xứ. Cố thiên địa chi tắc ngô kỳ
thể; thiên địa chi soái, ngô kỳ tính. Dân, ngô đồng bào, vật ngô đồng dã. Dịch
nghĩa: Càn xưng cha, Khôn xưng mẹ; ta đây
mọn, hỗn nhiên ở giữa. Trời đất cũ chính ta thân thể, trời thống đất soái, tràn
trề tính ta. Muôn dân cùng ta đồng bào, vạn vật với ta đồng thể. 西銘 -
張載 Tây Minh – Trương Tái, ND*], là hiện thực diễn
ra giữa trời và đất, giữa những con người với tư cách là anh em bè bạn, thì vẫn
có nhu cầu để kiên định bản ngã, tối thiểu với tư cách là một tác nhân thực
tiễn, tôn trọng và yêu thương nhau.18 Vì vậy, việc quên đi “ý thức”
cá nhân là để đạt tới viên mãn hành động, theo trí tưởng tượng nổi tiếng của
Trang Tử. 19 Khi “quên thân”, ta thống hợp với sự vận hành của hiện
thực và “trở thành khách quan”. Trong Đạo giáo và Phật giáo ẩn dụ về “tấm
gương” rất có ý nghĩa đối với Nishida [Dalissier
2006a, 99–142], mà động thái quên
ấy buộc chúng ta phải cư xử như một “chiếc gương soi vạn vật hệt như bản thân
vạn vật mà không hề có bất cứ thiên kiến nào”. 20 Trong Thiệu Ung 邵雍
[1012-1077] quan niệm này được thể hiện bằng tư tưởng phản quan 反觀,
quan sát ngược. Không quan sát sự vật từ điểm nhìn của cái tôi, mà từ điểm nhìn của bản
thân sự vật…Nếu chúng ta sử dụng con mắt của ngoại giới giống như con mắt của
riêng chúng ta thì không thể có vấn đề là con mắt của chúng ta không quan sát
được. 21 Thiệu cũng bị ảnh hưởng bởi quan niệm của Phật giáo và Đạo
giáo; Nishida [1940, 357–8, 377] đã đề cập đến vấn đề này và ông gọi là 反照
phản chiếu. Cuối cùng, Trương Tái lấy quan niệm 窮神知化
cùng thần tri hoá của Kinh Dịch làm cốt tử cho cái học của mình. 22 [Thần
là đức của trời, tràn trề cùng khắp và cực thịnh thì là cùng thần; hoá là đạo của
trời, 天之不測謂神,神而有常 謂天:
thiên tri bất trắc vị thần, thần nhi hữu thường vị thiên. Dịch nghĩa: biến hoá khôn lường gọi là thần, thần luôn
có đó gọi là trời [張載,正蒙
Trương Tái, Chính Mông – ND*]. Còn lý thuyết thị giác của Nishida thì gọi đó là
自覚 “tự giác”. Ngoài ra có thể nhận thấy “một cái tôi quá lớn lọt vào
dòng thường hằng của Đạo” [Cheng 1997,
136] và “自然
tự nhiên gồm chứa sự hài hoà với vạn vật, nên không còn chỗ cho bản
ngã” [Zuangzi, cited in Cheng 1997, 130; cf. Also 208, 326]. Hơn nữa, đề cập đến Trang Tử chúng tôi có viết: Khi con người 忘己
vong kỉ, quên mình thì nó đã gia nhập được với Trời”. Đề tài này thể hiện trong
Liệt Tử là người cũng coi hành vi quên thân là phải luôn cẩn thận với cái bản
tính giả tạo và hỗn hợp của bản ngã” [Cheng,
114].
Thư
viện của Nishida có ba tập sách thuộc bộ Liệt Tử ghi ký hiệu: stic, vol. 9; c.,
no. 241– 2/197. Hai tập cuối đề năm 1660 và 1748, (từ đây gọi là tập a và tập
b) trong đó còn để lại vô số ký hiệu đọc, gồm có dấu chấm câu, gạch chân bằng một
vạch đơn hoặc vạch kép, bōten 傍点:
bàng điểm, các bản sao, và các bản dịch từ tiếng Trung Quốc, các bình chú tiếng
Nhật viết bằng mực đen và mực đỏ, đặc biệt là trong các tài liệu tham khảo đã
nói ở trên; các chương được phân biệt bằng cách đánh dấu a, và có một số tờ ghi
dấu b. Trong khi đây là các cuốn sách cổ thì các dấu ghi lại có thể là của
Nishida vì không có gì để xác định là được kế thừa từ tổ tiên của ông. Tất cả
các cuốn sách đều có các khuyên đỏ để đánh dấu những thuật ngữ và các chương quan
trọng (chẳng hạn a, các chương 2, 3, 6,- 8), cũng như các dấu hiệu khác mà
Nishida sử dụng thường xuyên, như tôi đã thể hiện [Dalissier 2005 and 2009].
Thành
Chiều
góc giác ngộ này đưa chúng ta đến gần hơn với việc giải thích đạo đức về công
trình Vấn thiện, trong đó Nishida nhấn mạnh tầm quan trọng của tính “chân” và “chí
thành” [真摯]: thiện tính là hiện thực hoá nhân cách. Từ phương diện nội
quan, đây là việc thoả mãn một nhu cầu
chân thành – có nghĩa là sự thống nhất của ý thức – và hình thức tối hậu của
nó đạt được bằng việc cùng quên thân và là sự hợp nhất chủ thể và khách thể. 23
Tính
chất nguyên liêm với mình và kẻ khác cũng được mô tả là tối “thành”, “lương thiện”,
và “trung” [至誠], chí thành. 24 Thành không phải là chiều góc tâm
lý của cái “cá nhân” mà là mình và kẻ khác đều quên thân, hợp nhất chủ thể và
khách thể, nhờ đó mà thực hiện được “kinh nghiệm thuần tuý” thông qua một lập
trường đạo đức.
Ngoại
trừ ý nghĩa Thiên Chúa giáo được Nishida chỉ rõ, chúng ta có thể phát hiện được
các căn nguyên khác của cách tư duy này. Đối với Khổng Tử, điều cần thiết để
quy thuận lễ chính là “thành ý” 25. Còn hơn thế, chiều góc đạo đức của
thành thể hiện trong diễn giải của Nishida [“Thiện tính …là sự thoả mãn một nhu
cầu thành thực”] có thể cho thấy sự thật về việc lựa chọn cái thiện và vì vậy
mà “thực hiện được phần thiên tính trong mỗi con người”, vì chúng ta phát hiện
ra nó bộc lộ trong cái khiêm cung. 26 Trong Khổng giáo sau này,
chúng ta có thể quy chiếu trực tiếp đến quan niệm cốt lõi của [誠]
“thành”. Chiều góc kinh nghiệm chủ
nghĩa trong giải thích của Nishida [“hiện thực hoá nhân cách”] có thể được vay
mượn từ ý tưởng của Mạnh Tử cho rằng “thành” là người “thực hiện được đầy đủ đức
nhân của mình” [Cheng 1997, 183]. Đó là sự quay về với bản tính được Lý Ngao [李翺 772–836] gọi là [復性]
phục tính và được coi là ngang bằng với trạng thái chứng ngộ của Phật giáo và
Lão giáo [Cheng 1997, 417]. Đến lượt mình, điều đó có thể trực tiếp gắn liền với
truyền thống Kinh Dịch và ý tưởng về những cái vô đỉnh, vô biên, vô cực [無極] của Chu Đôn Di [周敦頤1017–1073]
[Cheng 1997, 443-4].
Nhưng
trong trường hợp này, nhà tư tưởng gần nhất với Nishida là Trương Tái: sự hợp
nhất giữa nhân tính và thiên đạo là ở thành [Zhangzaiji, 20–1; Cheng 1997, 457]. [Tư tưởng ấy thể hiện trong Chính
Mông: 氣與志,天與人,有交勝之 理
khí dữ chí, thiên dữ nhân, hữu giao thắng chi lý. Dịch nghĩa: khí và chí, trời và người, có chung nguyên
lý tương giao lẫn nhau, 張載,正蒙
Trương Tái, Chính Mông – ND*]. Sự hợp nhất thành thực này không giống với sự thống
nhất của hữu thể như trong Eingentlichkeit
[tính chân thực] Heideggerien; nó được mô tả là “tràn trề”, có nghĩa là tràn trề
“thái hư” [太虚]. Thái hư thể hiện cái vị trí đang tan biến đi tạo điều kiện
cho sự thống nhất chân thực, một trực giác cốt lõi của Trương Tử [4; Xem Billeter
2004, 96–99]. Vì vậy Vấn thiện là một cuộc tìm kiếm cái hư không, như đối với
Trương Tái: “tối thượng của tính thiện là thái hư” 27. Tất cả các lập
luận của Nishida cung cấp cơ sở hợp lý cho việc phát triển cái mà tôi gọi là một
“tân hữu thể luận” thống nhất: không tính
thống nhất. 28
Hơn
nữa chừng nào cái “kinh nghiệm thuần tuý” Nishidean còn thể hiện quá trình hiện
thực hoá các “sự kiện thông thường” thì có thể nói rằng thành thực phù hợp với một
loại hiện thực hoá bản tính của sự vật, như khi chúng ta nói: “Chính là như vậy,
không còn nghi ngờ gì nữa”; hoặc khi chúng ta xử lý chẳng hạn như tính thành thực
của một bằng chứng và xác nhận “Bà ta rõ ràng đang kể chân thực mà không thể là
dối trá”. Một vật là chân khi nó “tham gia vào quá trình sáng tạo của Trời …mọi
thứ ở đây, đều không có lý do gì để phải tìm kiếm bất cứ một cái gì đó có thể
là chân lý ở đâu khác” [Cheng 1997, 184].
Cái
cội nguồn của Nishida dường như nằm ở nghĩa của quá trình thống nhất. Trong
tính chí thành, một sự thống nhất không chỉ là một cái gì đó đã được thực hiện hoặc
phải được thực hiện; nó thực sự tự thực hiện. Về phương diện này chắc chắn ông
đã ảnh hưởng Vương Dương Minh mà ông đã trích dẫn trong Vấn thiện.29 Vương tin rằng tinh thần của ta có thể cảm
thông được với tất cả mọi tồn tại và toàn thể vũ trụ với tư cách là một 一體 nhất
thể như trước kia Trang Tử đã từng nhấn mạnh. 30 Bằng cách phục hồi
lại “Trực giác thượng cổ của Mạnh Tử: tinh thần có trước vì nó là thống nhất
tính” [Cheng 1997, 533], Nishida đã duy trì quan điểm đối lập với sự phân biệt
giữa lý và khí của Chu Hy [朱熹 1130–1200]
31 bằng cách biện hộ cho sự “thống nhất giữa tri và hành”. Vì vậy 誠意 “thành ý” của một con người có nghĩa
là tuân thủ chính bản tính của tinh thần: thống nhất [Cheng 1997, 534]. Ở đây
chúng ta phát hiện ra một 立誠
lập thành - “giải pháp trở nên thành
thực”, xác định tinh thần như là một ý chí tự thống nhất, thống nhất với những
tồn tại khác và với thế giới, ngược lại với một tư duy phân biệt được coi là một
thao tác giả dối. 32
Những
tư tưởng này là trung tâm của Vấn thiện, nên không cần phải nói đến chính cái cấu trúc biện chứng Hegelien bắt đầu
từ “kinh nghiệm thuần tuý”, mà chỉ cần nói đến việc đột phá một phần vào “khía
cạnh” sai lầm của “tư duy”, sau đó đến việc phục hồi lại chân tính của nó trong
khía cạnh hiệu quả của “ý chí”, trước khi quay trở lại với kinh nghiệm thuần
tuý từ bên trong cái 知的直観,
tri đích trực quan, hiểu bằng trực giác. Nishida vẫn luôn khẳng định một cách
tiên thiên như vậy về “ý chí” so với “tư duy”. Biết là hành động, hành động là
biết, và quan niệm này sẽ chắc chắn có một tác động sâu sắc đến lý thuyết 行為的直観 hành vi đích trực quan, “trực giác
hành động” của ông sau này. Tuy nhiên triết gia Nhật Bản dường như đã xuất
trình một khuôn mặt khái quát hơn đối với trực giác thống nhất so với điều mà
chúng ta phát hiện được ở Vương Dương Minh. Đối với Vương, “Thiên hạ là một gia
đình, còn quốc gia thì là một con người” [Da xue wen,; Chan 1963, 659], [大人者,以天地萬物為一體者也,其視天 下猶一家,中國猶一人焉 đại nhân giả, dĩ thiên địa vạn vật vi nhất
thể giả giã, kỳ thị thiên hạ do nhất gia, Trung Quốc do nhất nhân yên. Dịch
nghĩa: Kẻ đại nhân coi thiên địa vạn vật
là nhất thể, thiên hạ là một nhà, Trung Quốc là một người vậy - 王陽明,大學問 Vương Dương Minh,
Đại Học vấn - ND*] một sự thống nhất đã có, một đồng nhất tính cần phải được
triệu hồi. Nhưng khái niệm thống nhất 33 không thể bị quy giản vào
tính thống nhất nhị nguyên 一而二二而 一 nhất
nhi nhị, nhị nhi nhất “một mà hai, hai mà
một” của Chu Hi, hoặc vào 知 行合一 tri
hành hợp nhất của Vương Dương Minh là cái hiện thực hoá một “sự hợp nhất tổng
thể và hoàn hảo trong một hiện thực duy nhất và đơn nhất” [Cheng 1997, 540]. Đối
với Nidshida, thống nhất không đơn giản là “tính thống nhất cuối cùng” cũng
không phải là tính thống nhất “tương hỗ”
hoặc thống nhất “mâu thuẫn” [Dalissier 2009 and 2005, 1372]. Khác thế, tính thống
nhất Nishidean là “vật chất, cụ thể” đến mức là về thực chất nó mang tính sáng
tạo, và không thuần tuý được ấn định là một “nhất thể”, “gia đình”, hoặc “người”
như trường hợp của Vương Dương Minh. Trong khi đó, trong thực tế thì Vương chỉ
được trích trong phần thứ ba của cuốn sách, bằng cách quy chiếu vào một cấp độ
“đạo đức” có “trước” tôn giáo, và đối với Nishida thì tương hợp với cái thực sự
ở giữa, là cái đại diện cho “văn hoá Trung Quốc”.34 [Tôi sẽ phát triển
thêm quan điểm đó trong phần thứ hai của tiểu luận này].
Tóm
lại tôi có thể nhận thấy một ảnh hưởng quan trọng của tư tưởng Trung Quốc đối với
triết học Nishida giai đoạn sớm, đặc biệt trong Vấn thiện. Vấn đề mà chúng ta cần phải đưa ra ở đây là liệu ảnh hưởng
này có được tiếp tục hoặc giảm đi ở giai đoạn tư duy muộn hơn của ông hay không.
Phải chăng đây không phải là một câu hỏi về tình trạng chín chậm trong tư duy của
riêng ông? Phải chăng chúng ta không thể nói rằng các quy chiếu vào tư tưởng
Trung Quốc sẽ biến mất nhanh chóng cũng như các quy chiếu vào tư tưởng Phật học?
Có phải hệ thống hoá triết học của Nishida như là một “logic về vị trí” còn có
thêm điều gì liên quan đến di sản triết học của lục địa này trước đó? Triết học
Trung Quốc trong lĩnh vực “logic về vị trí” chẳng hạn?
Trước
khi bắt tay vào xem xét các vấn đề hữu thể luận và hậu hữu thể luận này, chúng
ta cần lưu tâm đến nhận định sau: Tư tưởng Trung Quốc cổ đại không quan tâm đến
cái hữu thể tuyệt đối. Nó không tìm kiếm cái được đặt nền tảng trên hữu thể – một
vấn đề siêu hình – mà tìm kiếm cái có thể giải thích tính đa dạng biến hoá phi
thường của “vạn hữu” vận hành như thế nào trong một vận động duy nhất, một vận
động của vũ trụ - một vấn đề vũ trụ luận. [Vandermeersch 1988, 28–9; xem Kamenarovic 2005, 202–4]. Để tránh cái mà nhà triết học Hàn
Quốc Lee Seung-hwan gọi là “triết học so sánh ngoài bối cảnh” [Lee 2004, 18],
chúng ta sẽ không nói đến “siêu hình học” và “hữu thể luận tuyệt đối”, chí ít
cũng không phải là cái mà triết học Trung Quốc cổ đại và hiện đại quan tâm. Tuy
nhiên chúng ta có thể quy vào tính đa dạng của 有 “vạn
hữu” và 物 “vạn
vật” chỉ đơn giản là mang “tính hữu thể luận” và vào Đạo như là “nguồn gốc của
vạn hữu” 35
Như
chúng ta sẽ thấy ở phần sau, ngay từ rất sớm, các nhà tư tưởng Trung Quốc đã được
chia thành các học phái dựa trên câu hỏi này, một số người – bất kể các khác biệt
của họ - đều hiển nhiên coi phi hữu có ưu quyền hơn hữu. 36 Tất
nhiên việc sử dụng các thuật ngữ vay mượn từ triết học phương Tây vẫn còn gặp
phải nhiều vấn đề. [Zheng 2005, 133–5] Đồng thời khi gợi lại lời cảnh báo của
Nishida liệu chúng ta có lấy đi tư tưởng về các ý nghĩa của Trung Quốc mà nó
chuyển tải? 37 Ông bình chú về khía cạnh này: Bằng quan điểm siêu
hình, tôi muốn nói mỗi nền văn hoá nhìn nhận khác nhau về vấn đề hiện thực như
thế nào. Tất nhiên có thể nói rằng tại Trung Quốc, và đặc biệt là ở Nhật Bản, vấn
đề về hiện thực không được coi là vấn đề khoa học; siêu hình học vẫn có thể bị
coi là không được đặc biệt phát triển. Nhưng cái sự thật không có một [khoa học
riêng biệt về] siêu hình học lại không nhất thiết có nghĩa là không có tư tưởng
siêu hình học. Vì một nền văn hoá cụ thể đã tự nó phát triển, nên nó có thể được
nhận thức bằng khuôn khổ siêu hình học. Ở đâu có một văn hoá thì ở đó phải có một
cách nhìn nhận về cuộc sống, được gọi là
人生観 nhân
sinh quan. Trong căn cội của nhân sinh quan phải bao gồm một loại tư tưởng siêu
hình nào đó, cho dù nó không được nhận thức một cách có ý thức [Nishida 1933,
237].
Vị
trí và Logic
Rất
nhiều người biết rằng siêu hình học basho 場所
“nơi chốn” của Nishida nảy sinh từ một
phê phán về các khái niệm như χώρα [khora
– loại không gian hoặc địa điểm không phải hữu, cũng không phải là phi hữu mà
là dạng trung gian, nơi ươm mầm các hiện hữu, kiểu như dạ con – ND*] của Plato; τόπος của Aristotle [nghĩa đen của từ này là vị trí, địa điểm, gắn liền
với năng lực của ký ức nhớ về các vị trí, địa điểm có thật hay tưởng tượng, giống
như người ta nhớ về vị trí ngôi nhà của mình vậy - ND*]; và Gebietskategorie [Emil Lask], lĩnh vực các phạm trù [ND*]. Tuy nhiên ngay từ đầu, những nơi
neo đậu phương pháp luận chung trong “logic về vị trí” của ông có thể được diễn
giải là “động thái hiểu gắn liền với việc xác định vị trí” [Dalissier 2009,
Appendix xv, 347ff] gợi lại một ý tưởng Đạo giáo thể hiện trong dàn đại hợp xướng
trình tấu cái đại thống của tư tưởng cổ đại dưới thời Hán, đó là tác phẩm Hoài
Nam Tử [Cheng 1997, 298]. Đây là một 類推 loại suy, “phương pháp quy nạp thông
qua các phạm trù” từ bên trong một mạng quan hệ “việc giải thích và suy luận là
xác định vị trí trong mô thức” [Graham 1989, 320] của việc “sản sinh và 造化 tạo
hoá các hữu” như đã xác định trong mô hình: “Đạo → khí → trong/đục → Trời/Đất → Âm/Dương →
nóng/lạnh → lửa/nước →mặt trời/mặt trăng, v.v…” Cuối cùng Cheng bổ sung thêm:
trong một mạng quan hệ như vậy không có khoảng cách hoặc phê phán nào là khả thể:
mọi thứ đều đã định và được thấy trước. Đó là động thái kết nối của tự thân mạng
lưới thực hiện một diễn giải, mà sự gắn bó của nó với hiện thực không bao giờ
được kiểm nghiệm [1997, 299].
Chúng
ta cũng có thể gợi lại rằng trong Vấn thiện,
Nishida đã nhanh chóng phê phán cách 推理 suy lý hoặc 推論 “suy
luận” logic và kinh nghiệm chủ nghĩa, để xác định tự thân hiện thực như là một
loại suy lý tự thống nhất thông qua ngoại suy [Dalissier 2009, 105]. Một mặt, nếu
vị trí học triết học có thể giải quyết được vấn đề đã đề cập ở trên về tính gắn
kết với cái hiện thực, thì đến lượt mình, môn vị trí học của ông không hoàn
toàn đi theo loại giải thích “hữu thể luận” hạn chế đã xác định trong cuốn sách
năm 1911. Trong thực tế, cái mà ông gọi là “vị trí của cái không tính tuyệt đối”
đã cho thấy không chỉ là một “chiều sâu” cấu trúc và trật tự đưa đến tình trạng
散乱 “tán
loạn” của các hiện hữu vào các vị trí quyết định có thể tương hợp với sơ đồ quy
nạp, nhưng trên hết là với việc mở vô hạn vào một chiều sâu ngày càng tăng trong
việc “rút về” bằng cách tạo điều kiện cho chính quá trình xác định vị trí của
truyền thống phương Tây, vì vậy mà tạo điều kiện cho việc hiểu của các nhà triết
học và cho việc phát triển các khái niệm của họ [xem nkz 3:283 và Dalissier
2009, 503–73]. Như vậy là quá nhiều cho một vài đầu mối liên quan đến các
nguyên tắc tri thức luận và phương pháp luận. Liên quan trực tiếp hơn đến vấn đề
này, bản thân logic vị trí tập trung vào một thao tác 包む tsutsumu [tiếng Nhật ghi bằng âm Hiragara, Hán: 包括 bao quát– ND*], đối lập với logic của Aristotle và Spinoza.38
Về phương diện này, không khó nhận ra những song hành với nhà logic 公孫龍 Công
Tôn Long thời Chiến Quốc vào thế kỷ 3-4 BC: trái ngược với logic Aristotle hiểu
định nghĩa về một sự vật đặc thù từ cái mà sự vật này không là hoặc từ cái mà
nó loại trừ, logic Trung Quốc giả định một phương thức đồng nhất hoá bằng cách
bao gồm: một sự vật là một toàn thể bao gồm các bộ phận, còn các bộ phận thì
không giống hệt với cái toàn thể. Quan niệm này có thể thấy rõ ở Công Tôn Long
cũng như ở chuẩn mực của Mặc Tử. 39
Về
phần mình, Nishida phân biệt 含む
[fukumu: bao hàm – Hán: 含括]hàm quát giản đơn khỏi nhất thể đã nói ở trên, để tư duy về “vị trí”
không chỉ như một sự “kết hợp” của các bộ phận, mà còn như là sự thống nhất của
“các bộ phận với tư cách là các hình tượng”. Theo Cheng: Công Tôn Long bắt đầu
từ tiền giả định rằng cái Toàn thể không phải là một với tư cách là toàn bộ các
bộ phận của nó; hệ thống logic của nó được thể hiện trong chuẩn mực của Mặc Tử
là: “bò và ngựa không phải là bò” [1997, 153]. Ngược lại Nishida lập luận rằng:
cái Toàn thể không phải là sự thống nhất của các bộ phận, nhưng thay vào đó,
cái bộ phận có thể được hiểu là yếu tố quyết định của cái toàn thể [Nishida
1917, 163–4]. Như cái hệ mẫu “đầu tiên” của ông trong Trực giác và Phản tư trong Tự thực hiện, Nishida lấy nghịch lý của
Royce về một người cố vẽ một tấm bản đồ hoàn hảo về nước Anh thì tự thân anh ta
phải được căng ra trên toàn bộ tấm bản đồ đó, bắt nguồn từ định nghĩa của Dedekind
về tính vô hạn, theo đó cái toàn thể trở thành tổng các bộ phận của nó [Nishida,
1917, 83–4]. Nhưng chín năm sau ông sẽ viết: [Cái phổ biến không chứa đựng cái
đặc thù như] không gian bao chứa đồ vật hoặc vạn vật trong không gian. [Cái phổ
biến và cái đặc thù] không khác nhau như sự khác nhau giữa không gian và vạn vật.
Những cái đặc thù là những bộ phận của cái phổ biến và hơn nữa nó tạo ra các
hình ảnh của nó [nkz 4: 227]. Định nghĩa trên đem đến cho chúng ta hệ mẫu “thứ
hai” của ông, quan niệm mang tính vị trí học về một “tấm gương tự chứng ngộ”. 40
Tôi đã chỉ ra đây chính là nguyên do tại sao mà triết học của ông về sự thống
nhất trong Vấn thiện lại khác với bộ
phận học về sự thống nhất của Leibnitz, cũng như nó khác biệt ra sao đối với lý
thuyết “tổng thể tính siêu vượt” [Allheit] của Heinrich
Rickert năm 1917 dựa trên phạm trù Kantien về lượng, và đến gần với tư tưởng của
Hermann Cohen về một “tính thống nhất tăng cường”. 41 Động thái thay
đổi từ logic bao gồm [Công Tôn Long] đến lý thuyết nhất thể phản ánh và phản tư
[Nishida] đã cho thấy một chủ đề hồi quy trong nghiên cứu hiện nay: tính gẫn
gũi giữa triết học Nishidean và tư tưởng Trung Quốc có thể rất đáng kể, vì dường
như nó thực sự thể hiện một khoảng cách cơ bản cần phải được đặt câu hỏi với tư
cách là một câu hỏi có ý nghĩa về phương diện triết học và hiện tượng luận. 42
Chúng
ta sẽ lấy một ví dụ khác. Mặc dù thay đổi đầu tiên này, một lần khác lý thuyết nhất
thể thế tục và phản ánh của Nishida dường như gần gũi hơn với sự thể hiện của
logic thống nhất của Trung Quốc trong khuôn khổ của các bộ phận, hình tượng, và
cái toàn thể mà chúng ta phát hiện được ở một tư tưởng gia Nam Tống thế kỷ 11
là 程頤 Trình
Di 1033–1107. Anne Cheng cho rằng: giữa các nguyên lý cụ thể về các sự vật cá
thể và Nguyên lý chung, có một mối quan hệ không phải là của hiện thực với lý
tưởng, mà là của bộ phận với toàn thể: toàn
bộ các bộ bận đều là hình ảnh của cái toàn thể…việc thống nhất với thế giới,
việc gia nhập vào cái đại thống chính là hành vi mang tính đạo đức [1997, 479,
485–6]. Nhưng mối quan hệ giữa các bộ phận với cái toàn thể cũng như với sự phản
ánh này thực sự được giải thích theo một hệ mẫu quan hệ qua lại và 睽 khuê
- “đối lập”. Trình Di viết: cái chung ẩn trong cái nhất thống, cái riêng và cái
đa bội. Cánh chung, vạn vật đều quy về một, không hai. Trời ban cho thì gọi là
mệnh, bẩm sinh có ở mỗi người thì gọi là tính, còn ở vạn vật thì là lý. Lý,
tính và mệnh không khác nhau. Cùng lý thì tận tính, tận tính thì tri thiên mệnh,
thiên mệnh và thiên đạo không khác [Er Cheng ji 144].
Nhưng hệ mẫu này trong khi được xem là một yếu tố trong logic của Nishida thì lại
không có cách nào để đồng nhất với nó. Vì vậy chúng ta phải có trách nhiệm đối sánh
hai mô hình logic phản ánh của Trình Di và Nishida: một cách thống nhất hữu hạn
tương quan và theo chiều dọc giữa các bộ phận và cái toàn thể, trong một vị thế
“đối lập”; và một cách thống nhất chuyển tiếp, topo học
vô tận giữa cái đặc thù và cái phổ biến trong thế hư vô tuyệt đối.
Hấp
lực, Chờ đợi và Ẩn mình
Cần
phải lưu ý rằng chiều góc nổi bật của logic vị trí, yếu tố tự quyết định của
cái hư vô tuyệt đối có tính lý trí tự làm rỗng bản thân một cách vô hạn định [Dalissier
2009, 526ff] đưa ra thêm những song hành mang tính gợi ý. Trước hết, Trực giác
và Phản tư trong Tự-thực hiện tiếp cận
với hư vô như là một loại “lặn biến” [躍入 dược nhập], theo cái đà [elan] sống hữu thể luận [Nishida 1917,
83–4], một quan niệm rõ ràng vay mượn từ tâm lý học triết học của Theodor Lipps
(1851–1914) [Dalissier 2006a, 118; 2007b; 2009, 215]. Một hấp lực như vậy có thể
hướng chúng ta quay trở lại với một số quan niệm trong Đạo giáo, mặc dù không
chỉ có ở đó. Ở Khổng Tử chúng ta đã thấy hình tượng này: người cai quản xã tắc
bằng sức mạnh đạo đức của mình có thể sánh với sao bắc đẩu, bất biến trên trục
quay của nó, làm lực hấp dẫn cho toàn bộ các vệ tinh. 43 [為政以德,譬如北 辰,居其所而眾星共之. Vi chính dĩ đức, thí như Bắc thần cư kỳ sở, nhi chúng tỉnh củng
chi. Dịch nghĩa: Kẻ trị quốc bằng đức giống
như sao Bắc đẩu yên tại vị mà mọi vì tinh tú đều vẫn quay chầu – 孔子,論語,為政,第二, Luận Ngữ, Vi
chính đệ nhị – ND*]
Chính
cái quan niệm “ở giữa” thiên hạ đã quy chiếu về ý tưởng “hấp lực” hướng đến cái
thiện, 44 gợi cho chúng ta nhớ đến cái đầu đề Vấn thiện của Nishida. Trong Lão Tử, lý tưởng 無為 vô vi đặc biệt quy chiếu vào sự vượt qua bạo hành thông qua vô
vi, không hành động quy chiếu vào sự rút khỏi giai đoạn hành động nhằm trung hòa
bản chất gây hấn của hành động. Vô vi xuất hiện như là khía cạnh “âm - nữ tính”
đối lập với khía cạnh “dương - nam tính” trong trật tự Khổng Giáo. Tác nhân đó
để lộ về một hành vi khác, hệt như việc tránh bạo hành không phải là đối lập hoặc
tìm cách đáp trả kẻ gây hấn, mà là để tự hạ mình nhằm xoa dịu bạo hành, giống
như nước bất định ở bất cứ hình dạng nào bằng phép 柔道 nhu
đạo, Judo Nhật Bản vậy, và đó chính là nghệ thuật sử dụng sức mạnh của kẻ đối
kháng với mình. “Tóm lại, vô vi lợi thế hơn vi, thông qua hấp lực hơn là câu
thúc, thông qua tồn tại hơn là có, hoặc hành động” [Cheng 1997, 191–3, 196].
Thứ hai, một động thái như vậy gợi lại
những huấn ngôn của nhà triết học chính trị 韓非 Hàn
Phi về hành vi cần thiết của đấng minh quân.45 [道者,萬物之始,是 非之紀也. 是以明君守始以知萬物之源,治紀以知善敗之端. 故虛靜以待令,令名自命也,令事定也 Đạo
giả, vạn vật chi thủy, thị phi chi kỉ dã. Thị dĩ minh quân thủ
thủy dĩ tri vạn vật chi nguyên, trị kỉ dĩ tri thiện bại chi đoan. Cố
hư tĩnh dĩ đãi lệnh, lệnh danh tự mệnh dã, lệnh sự tự định dã. Dịch nghĩa: Đạo là ngọn nguồn của vạn vật, là kỷ cương phải
trái. Chính vì vậy mà bậc minh quân phải nắm lấy cái ngọn nguồn để thấu suốt vạn
vật, khống chế kỷ cương để am tường giềng mối lành dữ. Bậc ấy phải yên cư cùng
hư tĩnh chờ đợi điều lành, để danh thơm tự đến, để điều lành khắc định. 韓非子,主道,第五:全文注釋本,任峻華注 釋, 華夏出版社: 2000, 2001重印. Hàn Phi tử, Vương đạo, Đệ ngũ:
Toàn văn chú thích bản, Nhậm Tuấn Hoa
chú thích, Hoa Hạ Xuất bản xã, 2000,
2001 trọng ấn - ND*]. Như bản thân Nishida đã ghi
chú, đây là một loại hình “vô vi thực tiễn” [Nishida, 1933, 250] trong chính
cái động thái chờ hành động đó [Cheng
1997, 246–7]. Trong Kinh Dịch, đức tính kiên
nhẫn ấy được cho là “không thể coi hành động chờ đợi ấy là sự từ bỏ công việc,
mà là một trông ngóng giải pháp mà không cần hấp tấp với một kết quả đã được
tiên liệu”. 46 Như nhà triết học Hàn Quốc Pak Tong-kwan đã chỉ ra,
trong văn hoá Trung Quốc, cái tự nhiên nằm trong sự kiện “chờ thời” trong khi
khoa học lại cứ cố ép buộc và thao tác tự nhiên, chẳng hạn trong việc tiên liệu
và tổng hợp các sự kiện mới. 47
Thứ
ba, như chúng ta đã thấy, topo học Nishida xác định hư vô tuyệt đối là sự vận
hành vô tận của động thái “thoái lui”, để giành chỗ cho một cái gì đó được hiện
hữu hoặc không hiện hữu. Theo nghĩa đó chúng ta có thể khớp nối các khái niệm về
hấp lực, chờ thời, và thoái lui đã được đề cập ở trên theo cách này: hấp dẫn là chờ đợi cái được hấp dẫn bằng một loại thoái lui. Động thái thoái lui đó có thể được nhận thấy rất rõ trong
Trang Tử, trong đó điển hình là Liệt Tử thánh nhân, cư nơi trí phúc, đi mây về
gió. 48 [夫列子御風而行,泠然善也...彼於致福者,未 數數然也.此雖免乎行,有所待者也.若夫乘天地之正,而御六氣之辯,以遊無者,彼且惡乎待哉? 故曰:至人無己,神人無功,聖人無 Phù liệt tử ngự phong nhi hành, linh nhiên thiện dã... Bỉ ư trí phúc giả, vị sổ sổ nhiên dã.
Thử tuy miễn hồ hành,
hữu sở đãi giả dã. Nhược phu thừa thiên địa chi chính, nhi ngự lục khí chi biến, dĩ du vô cùng
giả, bỉ thả ác hồ đãi tai? cố viết: chí nhân vô kỉ, thần nhân vô công,
thánh nhân vô danh. Dịch nghĩa: Liệt
Tử tiêu du cùng cơn gió thoảng…Kẻ đó ở nơi thần tiên, dễ thường kiếm đâu cho được.
Người đây thôi không phải đi, có nơi vẫn chờ đoái lại. Nhược bằng thuận theo
chính trời trực đất, nương cùng lục khí biến thiên, tiêu dao trong cõi vô cùng
thì còn nơi đâu chờ đến? Vậy mới nói: kẻ chí không nhớ đến thân, thần nhân
không màng công sức, thánh nhân chẳng đoái thơm danh 莊子南華經,內篇,逍遙遊 Trang
Tử Nam Hoa kinh, Nội thiên, Tiêu dao du – ND*].
Hữu
thể và Nhất thể
Ngoài cuộc thoái lui “ở ẩn” mang tính
lý trí, nếu chúng ta truy vấn một cách hệ thống vào “chiều sâu” khác mà Nishida
gọi là “gieo vãi” và nếu chúng ta đi theo một khải đạo đầy hoa thơm của yếu tố “quyết
định lý trí hư vô tuyệt đối” thì chúng ta không thể làm gì khác ngoài việc phát
hiện ra hấp lực so sánh mới. 絶対無
“Tuyệt đối không” thể hiện sự biến mất và làm tiêu tan vị trí trong đó hữu thể
và sự thống nhất được tạo hình, và đại diện cho topo học, cái vị trí cần thiết
cho hữu thể luận và ενωλογία nhất
thể luận. Trong cùng một mạch phát triển đó, Nishida nhận xét rằng Lão Tử đã định
nghĩa Đạo là cái khoảng trống hư vô không bao giờ lấp đầy được, là cái sản sinh
ra các mực thước, thanh tịnh tồn tại, và xoá bỏ sự khác biệt để sản sinh ra thống
nhất [Nishida 1933, 242, 250]. Đạo là hư không. Ta đổ đầy nó nhưng bản thân nó
không bao giờ tràn đầy. Từ cái vị trí không nền tảng này, hàng ngàn hiện hữu có
được nguồn cội của mình. Nó làm cùn nhụt mọi lưỡi bén. Nó gỡ suôn mọi nút rối.
Nó hài hoà mọi ánh sáng. Nó đem mọi [hạt] bụi vào sự thống nhất [Lão Tử 4] 49.
[Nguyên bản trong Đạo Đức kinh là:道沖,而用之或不盈.淵兮,似萬物之宗. 挫其銳,解其紛,和 其光,同其塵. 湛兮,似或存. 吾不知誰之子, 象帝之先. Đạo xung, nhi dụng
chi hoặc bất doanh, uyên hề tự vạn vật chi tôn. Toả kì nhuệ , giải kì
phân, hoà kì quang, đồng kì trần; trạm hề tự hoặc tồn. Ngô bất tri thuỳ
chi tử, tượng đế chi tiên. Dịch nghĩa: Đạo
rỗng kỳ thay đổ hoài chẳng đầy, vực thăm thẳm ghê, tổ tông vạn vật. Mài cùn bén
nhọn, gỡ mớ bòng bong, pha hoà ánh sáng, đồng cùng bụi trần; trong vắt thế, vĩnh
tồn thế. Đâu biết kẻ sinh thành, chắc có trước Thượng đế 老子道德經,第四章
Lão Tử Đạo Đức Kinh, Đệ tứ chương, ND*].
Chúng ta hãy bắt đầu
bằng ý tưởng về sự sáng tạo của tồn tại. Một mặt Đạo, như là “khởi nguyên” hoặc
“mầm sống” “không tên”. Nó vĩnh viễn “tự quyết định” trong tính “giản phác” và
hư không của nó. Trong tư duy vũ trụ luận Trung Hoa, điều đó thuộc về sự tự
sáng tạo vĩnh viễn của vũ trụ trong một quá trình tiến hoá hữu cơ muôn thuở thông
qua cái 元氣 “nguyên khí” là “thở
hắt ra”, “tan rữa”, và “tan biến đi” trong cái chết, một sự “tuyệt diệt”, được
đồng nhất với “trở về”, “không tồn tại”.50
Điều đó có thể, theo một nghĩa nào đó, tương tự với “yếu tố quyết định mang
tính lý trí của hư vô” như đã được làm rõ ở phần trước. Một mặt với tư cách là 萬物之母, vạn vật chi mẫu “mẹ của vạn vật”, hoặc “danh”, Đạo có được một tên gọi [Laozi
1 and 37]. Về phương diện vũ trụ luận, nó tương hợp với sự “cô đặc” của một dạng “năng lượng ban sơ”
trong nguồn cảm hứng của cuộc sống và sự sinh thành [Cheng 1997, 206, 252, 298,
378-9]. Trong khuôn viên topo học, một quá trình “hữu thể luận hoá” như vậy
được thể hiện bằng lối phân tích Nishidean về sự “cô đặc” [Dalissier 2009,
526-36], dẫn lối cho chúng ta đến với “vị trí của hiện hữu mang tính quyết
định”, và gợi về “yếu tố quyết định mang tính lý trí của các hư vô tuyệt đối”.
Hơn nữa, Nishida còn khẳng định rằng
nếu khoa học châu Âu hiện đại “phủ nhận thế giới thực tại theo hướng νόημα - noema [tri] thì ngược
lại, “các kinh sách của Lão Tử và Trang Tử lại từ chối thế giới thực tại theo
hướng νόησις - noesis [hành] [Nishida
1933, 244]. Với tư cách là một vấn đề về thực tại, khía cạnh tri thức tiên
thiên đối với khái niệm tri trong tư tưởng Trung Quốc. Theo Hoài Nam Tử, 51
thì sự tập trung, hoặc “hợp lại” 合 của khí thanh
tao của Trời thì có trước sự “đông cứng” lại hoặc “đóng băng” lại 凝滞 của Đất, đến mức
là “cái có được sinh ra từ cái không” 52 [Thật ra thì đoạn văn trong
Hoài Nam tử khác về bản chất với cách hiểu của Dalissier về quan hệ giữa cái “có”
và cái “không”: 气有涯垠,阳者薄靡而為天,重濁者凝滞而為地.清妙之合團易,重濁 之凝竭難,故天先成而地后定: Khí hữu giai ngân, thanh dương giả bạc mĩ nhi vi thiên, trọng trọc giả
ngưng trệ nhi vi địa. Thanh diệu chi hợp đoàn dịch, trọng trọc chi ngưng kiệt
nan, cố thiên tiên thành nhi địa hậu định. Dịch nghĩa: Khí có bến bờ, trong veo nhẹ lướt thì thành trời, đục nặng ngưng trệ
thì thành đất. Trong trẻo tinh diệu hợp lại thì biến đổi, đục nặng cặn kiệt thì
khó thay, [vì vậy] trời già có trước, rồi sau đất mới thành. 淮南子,子夜星网站整理編辑
[修改 稿] Hoài Nam tử. Tử dạ tinh võng trạm chỉnh lí biên tập [tu cải
cảo], 卷三天文 训 Quyển tam, Thiên văn huấn – ND*]. Vấn đề ưu quyền này đã được
nhà sư Phật giáo Tuệ Viễn (334-416) tái phát hiện trong tư tưởng về một “tinh
thần bất biến” duy trì và tự chuyển hoá thông qua sự biến đổi: “đời sống là một
trở ngại cho con người, trong khi cái chết là sự trở về với cội nguồn”. 53
[Đúng ra tư tưởng của Bạch Liên xã do Tuệ Viễn sáng lập thể hiện qua lời phát
nguyện của chúng đệ tử trước tượng Phật Adi đà là: 他們已知人生無常,
既不願再受地獄之苦, 也不想享受天堂之樂,而是要潛心修習,往生西方淨土 Tha môn dĩ tri nhân sinh vô thường, kí bất nguyện tái thụ địa
ngục chi khổ, dã bất tưởng hưởng thụ thiên đường chi lạc, nhi thị yếu tiềm tâm
tu tập, vãng sinh tây phương tịnh thổ. Dịch nghĩa: Chúng đệ tử coi đời người là vô thường, nên nguyện không tái
chịu khổ địa ngục, cũng chẳng màng hưởng thụ lạc thú thiên đường, chỉ dốc lòng
tu tập, đặng vãng sinh nơi tây phương tịnh thổ. 淨土宗,白蓮社,慧遠,高
僧大德故事,澳門佛教 20-21期 Tịnh Độ tông, Bạch Liên xã, Tuệ Viễn, Cao tăng Đại đức Cố sự,
Áo Môn Phật giáo 20-21kỳ - ND*].
Giờ
đây nếu chúng ta lưu tâm rằng “Đạo là vĩnh hằng, không tên, đồng thời bao gồm
trong mọi hiện thực khả hiện” (Cheng 1997, 204), thì chúng ta có thể nói rằng khía
cạnh đầu tiên mở ra khía cạnh thứ hai và đến rất gần với lý giải topo học của
Nishida về “gói bọc, bao hàm” [つつむ:
tsutsumu, tiếng Nhật tự dạng Hiragana – ND*]. Về phương diện này chúng ta có thể
đặt câu hỏi liệu sự “bao hàm” [含む:
fukumu, tiếng Nhật tự dạng Hanji và Hiragana – ND*] có được hiểu là được quây
kín và đã hoàn thiện trong khuôn viên của một vòng tròn “cuối cùng” không, liệu
nó có hoàn toàn giống hệt với “sự chồng lên” [重なり: kasaneru, tiếng Nhật tự dạng Hanji và Hiragana, Hán: 重疊 trùng điệp – ND*] vô hạn theo độ sâu của
vị trí [Dalissier 2009, 491ff] mà nó định vị ở đó không. (Tôi sẽ đưa ra câu trả
lời chung cho các câu hỏi trong phần thứ hai của tiểu luận này). Có thể nói gì
về một sáng tạo thống nhất dường như có trước sáng tạo vạn hữu?. Đạo sinh một,
một sinh hai, hai sinh ba, ba sinh vạn vật.54 [道生一,一生二,二生 三,三生萬物 đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật 老子道 德經,第四十二章,
Lão Tử, Đạo Đức kinh, chương 42].
Tính
thống nhất thể hiện trước tính đa dạng và vạn hữu. Để trích dẫn Anne Cheng, khi
lý giải huấn ngôn của Thiệu Ung “Một không đơn giản là một con số”, và theo
nghĩa đó, “diễn giải triết học về Một” đi trước “hữu thể luận”. Nhưng đồng thời
tính đa dạng lại là sự quay trở về với cái Một: Một không phải là đơn nhất và cố
định trong tính thống nhất và tính đồng đều; nó đa dạng hoá trong tính nhị
nguyên của các hơi thở của Âm/Dương hoặc Trời/Đất. Nhưng tính nhị nguyên không
phải là một mục đích tự thân: nó lẽ ra bị khoá chặt trong một cuộc chạm trán mặt
đối mặt bất sinh nếu như nó không được làm sống động bằng một mối quan hệ tay
ba đưa lại khả tính biến đổi và chuyển hoá. Vì vậy mà động thái của tính nhị
nguyên của các hơi thở Âm/Dương, xuất phát từ cái trống không…Khát vọng trở về với
sự thống nhất đã mất ấy có thể được tìm thấy trong các văn hoá khác, nhưng cái
đặc biệt đối với tư tưởng Trung Quốc là tính liên tục được tạo bởi sự đến – và
– đi vĩnh hằng giữa không và có, giữa vô hình và hữu hình. 56 Như
Nishida đã giải thích, cái không tuyệt đối chính là nơi sinh thành của một
“tính thống nhất vô dạng” [Nishida 1933, 249–50], nó có đó trước khi tính thống
nhất kết tinh dưới dạng hữu thể luận. Tính thống nhất, vì sinh ra từ hư không,
nên phải được hiểu như là một thao tác thống nhất hoá vĩnh hằng. Vì vậy trong
tư tưởng Trung Quốc nguyên lý đó có dạng bất nhị của một quá trình biến đổi hiệu
quả, mà đối với Nishida nó sẽ xảy ra như một nỗ lực chuyển tiếp cho tính thống
nhất.
Mâu thuẫn hiện tượng luận: Vương Bật, Quách
Tượng và Nishida
Giới
thiệu: Vận động hoặc/và không vận động trong Chu Đôn Di
Thực
tế thống nhất của không tính cung cấp thêm những song hành và những bất hoà giữa
triết học Trung Quốc và Nhật Bản. Ở Nishida chúng ta phát hiện ra quan niệm biện
chứng của vận động và bất động dường như chí ít cũng phần nào có nền tảng trong
Ấn Độ giáo 57 và các quan niệm của Trung Quốc như đã phát hiện được ở
Trang Tử xiii: “Cái rỗng không, đó là tịch tĩnh; lặng yên, nó vận động; khi vận
động nó chỉ còn cùng với bản thân mình”. Tính gần gũi này xuất hiện rõ ràng hơn
trong tư tưởng của Chu Đôn Di: “Động trong tĩnh, tĩnh trong động – đó là vạn vật.
Động trong không động, im lặng trong không im lặng – vì vậy mà có sức mạnh tinh
thần [神]”[Tongshu16; Zhou Dunyiji,
26]58 [Đúng ra là: 無極而 太極, 太極動而生陽, 動極而靜, 靜而生陰, 靜極復動, 一動一靜,
互為其根, 分陰 分陽, 兩儀立焉 Vô cực nhi thái cực, thái cực động nhi sinh dương, động cực
nhi tĩnh, tĩnh nhi sinh âm, tĩnh cực phục động, nhất động nhất tĩnh, hỗ vi kì căn,
phân âm phân dương, lưỡng nghi lập yên. Dịch nghĩa: Vô cực mà thái cực, thái cực động thì sinh ra dương, động đến cực điểm
thì chuyển thành tĩnh, tĩnh thì sinh ra âm, tĩnh đến cực điểm thì lại chuyển
thành động, một động, một tĩnh, cái này lấy cái kia làm gốc, chia thành âm
dương, lập thành hai thể. 周敦頤,太極圖說全文 與註解 Chu Đôn Di, Thái cực đồ thuyết toàn văn dữ chú giải – ND*]. Vì vậy mà
“thành thực” đem lại cho bậc thánh nhân cái khả năng phục hồi cái tĩnh theo
đúng hành vi trật tự và nghi lễ [đây không phải là ý của Chu Đôn Di - ND*]. Đồng
thời Chu cũng nhấn mạnh mối liên quan đến thống nhất, là thực tính của tư duy
Trung Quốc trước và sau khi du nhập Phật giáo. 59 Việc tập trung vào
cái Một chính là nguyên tắc vàng. Để tập trung vào cái Một thì phải không được
có dục vọng. Để không có dục vọng thì phải hoàn toàn trống tâm, và đi thẳng đến
vận động”. 60.
Đoạn
trích trên gợi cho chúng ta nhớ đến Nishida, người đã làm sáng tỏ tính thống nhất
động của thao tác bao gồm trong tự thân sự thống nhất (vận động) vĩnh hằng
(tính bất động): tính thống nhất của ý thức trong tính toàn thể của nó siêu vượt
biến đổi và vì vậy phải là cái bất biến chứa đầy tính bất động mà từ đó sự biến
đổi khởi lên, có nghĩa là, một cái gì đó
vận động trong khi không vận động [Nishida 1911, 186]. Vị trí cho tính thống
nhất mâu thuẫn này là không tính: Dòng ý thức, nhìn theo một hướng, được coi là
đang tiến triển thông qua mỗi vận động trong thời gian và không thể quay trở lại
quá khứ, cho dù chỉ trong khoảng khắc; nhưng đồng thời cái bất biến vĩnh hằng
phải là cơ sở của nó. Vì sự vật bất biến vĩnh hằng này là không tính, nên ý thức
được coi là không thể vận động quay trở lại [nkz 4:237–8; cf. Dalissier 2009,
399].
“Người thầy Trung Quốc” của Nishida?
Cách
diễn giải về thống nhất động và tĩnh như vậy thể hiện sự giao thoa khái niệm
trong các lập luận của Nishida đối diện với các lập luận của Vương Bật [王弼 226–249] mà ông có vẻ gần gũi với Nishida, thậm chí có thể gọi
Vương là “người thầy Trung Quốc” của Nishida. 61 Theo nghĩa này, Vương
Bật giống Nishida, bác bỏ quan điểm cho rằng “vận động” tự thân có thể cung cấp
yếu tố thống trị tối hậu của hiện thực [Dalissier 2007b] và cũng tìm kiếm một thống nhất tính của sự vận động đó: Cái
nhiều không thể thống trị cái nhiều; cái thống trị cái nhiều chính là cái duy
nhất [cái Một]. Tính động [cái vận động] không thể thống trị thực tại tính; cái
kiểm soát toàn bộ thực tại tính diễn ra trong thế giới này, nhờ vào tính kiên định,
chính là cái Một. Vì vậy, trên hết, cái nhiều cố tồn tại thì nguyên lý kiểm
soát của chúng phải với trở lại với cái Một [Cheng: cái tạo điều kiện cho sự đa
bội tự duy trì sự cố kết bản thân chính là ở chỗ nó có một kẻ kiểm soát, thực
hiện tính thống nhất của nó], và trên hết là với việc trở lại các hoạt động kiểm
soát để vận hành thì nguồn gốc của nó không thể không là cái Một được. Không có
sự vật nào vận động bừa bãi mà lại nhất thiết tuân theo nguyên lý riêng của nó
được. Để thống nhất các sự vật phải có một
kẻ điều khiến cơ bản; để tích hợp chúng lại thì phải có một kẻ khởi xướng.Vì vậy,
sự vật là phức tạp nhưng không hỗn độn, nhiều vô kể nhưng không lộn xộn. 62
Vì
đối với trường hợp Nishida, “trực giác trung tâm của tư tưởng Vương Bật chứa
trong tính thống nhất làm cơ sở cho toàn bộ tồn tại” [Cheng 1997, 329], nên không
đơn giản là tìm lấy một “tính thống nhất cuối cùng”, mà là một mối quan tâm đến
tính thống nhất. Tương tự như vậy, ông “thẳng thừng bác bỏ cái ý tưởng về một
tính đa bội không thể quy giản, loại trừ mọi quan hệ giữa các sự vật [Cheng
1997, 329]. Tính đa bội cần một thống nhất tính 統一 dẫn đạo phải là tự thân, như là một đa bội tính của các thống nhất
tính. 63 Vì tính đa bội có một kẻ kiểm soát thực hiện tính thống nhất
của nó, nên vạn hữu có một kẻ kiểm soát thực hiện chúng: đó là cái “không phân
biệt” (無 vô).
Trong thuật ngữ của Nishida, không tính tuyệt đối hiện thực hoá vị trí trong đó
thống nhất tính được thực hiện. Cái khác nữa, “hữu” bắt nguồn từ không phân biệt
(無 vô)
và có nghĩa là “sở hữu”. Như là cái phủ định của 有 hữu
(có nghĩa là có), vô có nghĩa là “không, không có” không phải theo nghĩa không
tính hoặc không là gì, mà vì nó “không có” những tính xác định và hữu hạn của
“có”…Vì không phân biệt không được hiểu theo cách phủ định trong khuôn khổ của
không tính hoặc sự vắng mặt của toàn toàn bộ tồn tại, nên im lặng không được hiểu
theo khuôn khổ của tính câm lặng hoặc sự vắng mặt của diễn ngôn, mà thay vào đó
là một cái gì đó vượt khỏi ngôn từ. 64
Trong
hệ thống thuật ngữ của Nishida “tính xác định” 限定[gentei: hạn định, giới hạn]và “tính hữu hạn” 有 限 [yuutei: hữu hạn] được sinh ra từ “không
tính tuyệt đối”, và “hữu” (有)
có nghĩa là “sở hữu” (有つ).
Không tính không phải là “phủ định” của hữu, mà là cái trụ vượt hữu, một loại
truất-hữu.65 Vì vậy ngay trong khuôn khổ của “logic vị trí” thì các
lập trường của Vương và Nishida cũng trùng hợp bộ phận với nhau: “có” có thể được
thể hiện là “có ở đây”. Vương Bật lập luận: Chúng ta muốn nói rằng nó không ở
đây (vô), tuy nhiên nó đi kèm với vạn vật. Chúng ta muốn nói nó có ở đây (hữu);
tuy nhiên chúng ta lại không thấy hình dạng của chúng. 66 Và Anne
Cheng bổ sung thêm: vạn hữu trong đa tính vô hạn của chúng không thể tự thân
chúng ở đây, chúng nhất thiết phải xuất phát từ một nguồn duy nhất. Vì vậy cái
không phân biệt không thể là một thực thể đối lập với cái hiển hiện; nó chính là cái
“nguyên do tại sao” (所以:
sho i) sở dĩ cái có đó [xảy ra] ở đây. 67 Đối với hệ thống thuật ngữ
của Nishida thì “hữu” không phải là một “sự vật” đối lập và phủ định phi hữu, một
“không tính đối lập”. Đó là vì việc ẩn giấu của không tính tuyệt đối trong và
thông qua tự thân nó. Nhưng đó không phải là tất cả; chúng ta cũng có thể nhấn
mạnh một sự gần gũi có tính “hiện tượng luận” 68. Như Cheng đã lập
luận: Vô chỉ rõ “không có” …theo nghĩa vẫn
chưa hiện ra; nó thiếu những đường viền của hiện thực khả thị. (Cheng 1997,
329)
Trong
quan điểm Vương Bật: Cái vẫn còn là không thì không thể tự hiện hình thông qua
cái không-có, mà phải hiện hình thông qua cái đã có mặt đây rồi. 69
Vạn hữu trong toàn bộ tính cao thượng của chúng tìm được hiệu dụng (用) của chúng trong cái không phân biệt mà không có nó thì chúng
không thể tự cho mình một thể tạng (體). Nếu chúng bỏ lại cái không phân biệt để chạm đến thể tạng thì chúng sẽ mất đi cái làm ra tính kỳ vĩ
của chúng. 70 Ở một mức độ nào đó chúng ta thấy một “hiện tượng luận”
của cái “vẫn không” trong Vương Bật. Trước hết, để sử dụng những câu từ riêng của
chúng ta, vì khi nói về cái “tuyệt đối” thì lại đánh mất nó, để nó mất đi:
“ngôn ngữ vừa là cái nói về một cái gì đó vừa là cái quy về một cái gì khác” [Cheng
1997, 332–3]. Thứ hai, theo một chiều góc hữu thể luận, chúng ta có thể phân biệt
một quá trình gồm 5 bước:
1.
“Cái gì vẫn không”, không thể nhìn thấy, không thể nói được, và “căn bản” (本 ben) thì đồng thời hiện ra trước mắt thánh nhân cái bản thể (本體benti) về thế giới chính là 理 li, lý (Cheng 1997, 336–7,
362, 435). Theo đó, cái “nguyên do tại sao”
mà vạn hữu bắt đầu tự hiện thể, chính là “chức năng/thao tác” (用: dụng, 發用
phát dụng) của cái không phân biệt, cái
“thực sự nghịch lý của không-có” trong tính thống nhất của nó được thể hiện
trong Lão Tử. 71 Cái thực sự của thống nhất tính này bao gồm cả cái
“kỳ vĩ” của một đa tính chân chính của vạn hữu (vật chất, con người, thần
thánh) là cái không được lẫn lộn với một “đa tính không thể quy giản”.
2.
“Cái hiện đã có mặt ở đây”, cái “hiện thể” như là một nhánh cây (末 mạt)
hữu hình và phi thực tính của ba yếu tố, phù hợp với “thể” và “tụ” thành vạn hữu
trong “những yếu tố xác định và hữu hạn” của chúng, “tính đa bội” về các hình
thể, “vạch ranh giới”, hoặc “tách riêng” (分 phân),
có danh xưng (稱 xưng) của chúng trong diễn ngôn của chúng ta. 72
3.
Trong khi ưu thích danh xưng, chúng ta lấy cành làm cội thì sẽ bị sai lầm, đảo
ngược trật tự của hiện thực và áp đặt chứng minh, che giấu và trá nguỵ thực tế
nghèo nàn của cội rễ. 73
4.
Việc “học” là rời bỏ cái phụ để có cái chính, là quy phục (復) cội rễ, làm cho bạo động “giảm” cho đến khi không có bạo động,
quay về 反 “phản”
từ “vận động” đến “tĩnh tại” cô đặc cái đa bội thành “thống nhất”, có nghĩa là 太極 “thái
cực”, cái vô. 74 Nishida đã nhấn mạnh cả hai khía cạnh trong Đạo
giáo. 75 Vương thực sự đồng nhất Đạo, Một và “thái cực” với 末 mạt;
trong khi đó trong Lão Tử thì cái Một được sinh ra từ cái 無 vô.
Vì vậy cái Một biến mất trong không phân biệt, còn cái không phân biệt thì là
cái Một (Cheng 1997, 331).
5.
Ở đây thánh nhân đã triệu hồi cái cấu trúc khả tri và cái thể (體) như là cơ sở của thế giới (理)
lý, tách khỏi cái giả (3) vừa thể hiện cấu trúc (2), vừa hiện thực hoá cái “căn
nguyên tại sao vạn vật lại như bản thân nó là”. 76 Đạo với tư cách
là cái không phân biệt “tự coi nó là một pháp” 77 “hệt như là bản
thân nó” “như thường”. 78 Không phân biệt tạo ra như tính của vạn vật.
Do đó, theo hiện tượng học topo học của “không tính tuyệt đối”, chúng ta có thể
phân biệt 5 cấp độ:
1.
Không tính tuyệt đối, vị trí mà ở đó hữu có thể là cái gì đó như chính bản thân
nó, thể hiện một tự thể tri thức như là cái “vận hành” “tự làm trống rỗng sạch”,
sự biến mất trong bản thân nó vào chiều sâu đang thực hiện của thực tại tính, một
sự rút lui vô hạn. Thực tính của không tính luôn luôn tái sinh và ném thống nhất
tính vào một nỗ lực vô hạn cho quá trình thống nhất, trong khi tính “phong
nhiêu” của “phân biệt” thực sự không thể quy giản vào “không tính đơn giản và
tuyệt đối” [Dalissier 2009, 346–9].
2.
“Vạn hữu xác định” là những thứ xác định mang tính tri thức trong không tính
tuyệt đối, một cấu trúc và “gieo vãi” từ bên trong chiều sâu cấu trúc của tính
hiện thực.
3.
Việc “đảo lộn cội thành cành” 本末転倒
bản mạt chuyển đảo, là coi không tính
là phi hữu, “bản chất hoá” vạn vật, ngôn từ, và ý tưởng, vì vậy mà bị “mắc lỗi”
79
4.
“Tự giác” 自覚 là
sự giải thoát từ bên trong của bản ngã, trong ý thức về không tính như là sức mạnh
thống nhất huyền bí của bản ngã và tha nhân.
5.
Trong “kinh nghiệm thuần tuý” và sau đó là trong sự thanh tẩy cái vị trí đang
biến mất được xác định là không tính tuyệt đối, chúng ta phát hiện ra “sự vật
là thế”, được giải thoát khỏi phép xấp xỉ của hữu. Không tính tuyệt đối thể hiện
vạn vật không phải như chúng là, mà
là như thế (Dalissier 2009, 148,
396).
Tất
nhiên nếu chúng ta kiên trì phát hiện tiềm tính và thời tính trong sự biểu hiện
“cái vẫn không là” thì chúng ta có thể giả định rằng Vương Bật đang xem xét một
loại hữu bất định, đang tiềm ẩn và sẵn sàng trở thành. Nếu điều này là chân thì
chúng ta có thể đi xa hơn và nói về một cái gì đó như cái “còn ngưng nghỉ” của
hữu khi đang nằm trong không tính, và nói về vấn đề khớp nối topo học mà
Nishida phơi bày trong công trình về hiện tượng luận và đặc biệt là ở Husserl
[Dalissier 2009, 461; 2006b]. Ở đây một hiện tượng luận về cái “vẫn không” và một
hiện tượng luận về “không tính tuyệt đối” sẽ tách rời ra. Tất cả những cái đó
là rất ổn, nhưng nó có thể bị chỉ trích là đi quá xa, hoặc khẳng định rằng một
từ vựng như vậy được nhập khẩu từ phương Tây, và triết học Nhật Bản không xem
trọng cái cội nguồn lớn trong tư tưởng Vương Bật. Vấn đề quan trọng là việc triệu
hồi tính gần gũi đáng kể của hai tác gia đó.
Nội
tại luận về Hữu?
Tính
chất gần gũi này được củng cố khi chúng ta đặc biệt tập trung vào khoảng cách lớn
giữa quan điểm của Vương Bật và quan điểm của các học thuyết về “nội tại luận
thuần tuý” chẳng hạn như Quách Tượng [郭象
252–312], một vị trí sau đó được rập khuôn
lại trong Phật học Nam Hán trong sự xung đột làm cho “các nhà chuyên môn về 無 vô”
chống lại “các nhà chuyên môn về hữu” (Cheng 1997, 362). Đối với những người
thuộc loại sau thì vạn vật có nguồn gốc từ chính bản thân chúng mà không có bất
cứ nguyên tắc diễn giải nào khác; chúng thực sự tồn tại. Một cái gì đó như một
cái “trống rỗng” sẽ gây ra một trở ngại về các biến đổi vô hạn. Tính tự trị của
nguyên tắc này trở thành sự “sáng tạo ngẫu nhiên” của vạn hữu, cùng tuyến với một
khái niệm cơ bản của Đạo giáo: tất cả vạn hữu đều “tự chúng tạo ra chính bản
thân mình” [自造 tự
tạo] (Cheng 1997, 338). Hữu là 天然
“tự nhiên” như chính bản thân nó là: “cái ngẫu nhiên là cái bởi chính bản
thân nó, không có hành động” 80 Từ quan điểm chính trị xã hội, chúng
ta có thể nói về một bước quá độ từ “một xã hội lý tưởng không có các giai cấp
và gợi cho ta nhớ về cái không tưởng bình quân chủ nghĩa của nền thái bình”
[Vương Bật] đến một xã hội đức trị cho phép phân biệt tôn ty tồn tại như một phần
của trật tự tự nhiên có vận hành” [Quách Tượng, Robinet 1983, 102]. Vì vậy 無 vô
được hiểu là “mâu thuẫn đơn giản và thuần tuý của cái có (hữu)”, chính là cái
không-có, được hiểu là không-tồn tại. Quay trở lại vấn đề này, nếu lập trường của
Vương gợi lại lập trường của Nishida, thì lập trường của Quách gợi lại Berson,
cũng như phê phán của Nishida [Dalissier 2007b]. Quách cho rằng: Cái mà Lão Tử
và Trang Tử gọi là vô, thì đó là cái gì? Nó đơn giản có nghĩa là cái đưa cuộc sống
vào vạn hữu thì không phải là một vật, 無物 [vô
vật], có nghĩa là các hữu đó sống chính bằng tự thân chúng. [Guo Xiang 11, in
zzjc 3: 173]. Không-có (vô) không thể
tự chuyển hoá thành có, bất cứ cái gì có đều có thể tự chuyển hoá thành
không-có. Vạn hữu có thể tự thân chuyển hoá trong các cách thức vô hạn, nhưng
chúng sẽ không bao giờ có thể không tồn tại. Vì vậy, không bao giờ có thời gian
khi không có gì tồn tại, và luôn luôn đã có một cái gì đó 故自古無末有之時而常存也
cổ tự cổ vô mạt hữu chi thời nhi thường
tồn dã, từ cổ đại đến giờ thời gian vô mạt
vậy thì thường tồn. Quách Tượng đã khai thác cạn kiệt một cách đầy nghịch
lý cái không tính của toàn bộ “bản chất và thực tính” (Cheng 1997, 337) khi tin
rằng chỉ có bản chất mới tồn tại một cách hiệu quả, mà không có bất kỳ một “cái
bóng” nào của không tính, và không chấp nhận quan điểm coi cái trống rỗng chính
là bản thân cái trống rỗng. 81 Ngược lại đối với Lão Tử và Vương Bật
thì 無 vô
là 淵 uyên,
sâu vô cùng, không có nền, theo nghĩa không phân biệt, đối với Quách Tượng thì 有 hữu
về bản chất là 淵
uyên theo nghĩa không có bất cứ cái gì khác ngoài tự than nó là cái
nền của nó [Lão Tử 4] 82
Trong
hệ thuật ngữ của Nishida, hữu là “sở hữu” trở thành “hữu” là 存在 sonzai
- tồn tại” [Dalissier 2009, 339]. Vì không tính được hiểu là thứ sinh đối với hữu
(on), có nghĩa là, như phi hữu (mē on), nên nó không thực sự tồn tại; “không tính tuyệt đối” là
một cấu trúc tri thức (Bergson) và vì vậy mà hữu quay trở lại, trong cái được gọi
là tái hữu thể hoá [Dalissier 2009, 339]. Lĩnh vực của hữu, vương quốc của sự hiện ra không có cơ
sở, không cư ngụ ở “cái bóng” vật vờ nhất
của không tính, trong khi hữu thực sự lại không là gì khác ngoài một “hình tượng”
xuất hiện trong một không tính trong suốt như là một “tấm gương tự ngộ bản thân
mình” với không tính là “cái bóng” hiện thực [490]. Hữu không có bất cứ nền tảng
nào khác hoặc bất kỳ chiều sâu nào khác, chiếm lấy vị trí của không tính tuyệt
đối thể hiện một chiều sâu không đáy nền. Nhưng việc tự tạo theo một “nguyên tắc
cá thể hoá”, phận mệnh 分命,
áp đặt một định mệnh vào cái mà mỗi cá nhân phải thích hợp. 83 Tự tạo
trở thành tự quy định theo 理 lý. Quách Tượng cho rằng không có hữu, là cái không có nguyên
lý của nó; nó chỉ đơn giản phải thích hợp 當順之 đương
thuận chi, với nó [Guo Xiang 22, in zzjc 3: 325].
Vạn
hữu tồn tại tự thân; tất cả đều là 非相為 phi tương vi, chúng không tự làm cho mình cùng tồn tại. Nếu ta để chúng vận hành
theo cách như vậy thì nguyên tắc sẽ tự thân xuất hiện. 84 Bất cứ ở
đâu nó xuất hiện, có con ngươi đi kèm, trong an bình và vì vậy mà cảm thấy thuận
ở mọi nơi. 85 Theo quan điểm của tôi về cái “logic vị trí” thì cái
mà chúng ta phát hiện ra ở đây chính là mối quan hệ biện chứng điển hình giữa hữu
thể luận và “phi hữu thể luận” [Dalissier 2009, 331; 2006]. Hữu thể là sự tự tạo
ngẫu nhiên các hiện hữu (cơ thể, sức lực, các sự kiện, các hiện tượng) đối lập
với nhau trong vị trí của một không tính đối lập. Nhưng khi một “không tính tuyệt
đối” bị che giấu và tránh khỏi viễn cảnh này thì chúng ta có được vị trí của
mình trên một bình diện của một hữu xác định thuần tuý, trong đó sự bá quyền của
hữu [hữu ở “bất cứ đâu”] phát hiện ra “tính an toàn” và “tính bền vững” của nó
(“hoà bình” và “thoải mái”) [Dalissier 2008, 646]. Vì vậy chúng ta theo một con
đường của cái quyết định vạn hữu, chứ không bị một Chúa Toàn năng sắp đặt như
trong Leibniz, mà theo chính thực chất của bản thân hữu: phi hữu thể luận trở
thành hữu thể luận, và con đường đến với tân hữu thể luận đã được Vương Bật
khai mở nay đã khép lại.
___________________________________________
Nguồn: Nishida
Kitarō and Chinese Philosophy, Journal of the
International Research Center for Japanese
Studies.
Ghi chú
BC: Before
Christ – Trước Thiên chúa
ND*: Người dịch
*
Tiểu luận này
là phần đầu của một nghiên cứu gồm hai phần. Phần kết luận sẽ xuất hiện trên Japan
Review: Journal of the International Research Center for Japanese Studies. Tác giả muốn bày tỏ lòng biết ơn sự
hỗ trợ của Bộ Khoa học và Giáo dục Nhật Bản (Kakenhi 20682002) và Trung tâm Quốc tế Nghiên cứu Nhật Bản tại Kyoto. Tác
giả cũng xin tỏ lòng biết ơn đến với giáo sư Inaga
Shigemi 稲賀繁実, đối tác của tôi tại Trung tâm, đến Lei
Guo-shan Lôi Quốc Sơn
雷国山
với sự giúp đỡ
của ông về kinh điển Trung Quốc, và đến Inotani
Kazuo 猪谷一雄, quản thủ văn khố Nishida tại Unoke, Quận Ishikawa.
1.
Tôi sẽ tập trung vào Khổng giáo Trung Quốc trong tiểu lụân này, nhưng cũng có
thể coi Khổng giáo Nhật Bản gắn liền với triết học Nishida. Xem Dalissier 2009,
36, 79, 93, 286, 287, 322, 390, 403 và 538. Những mối liên hệ giữa triết học
Nishida và triết học và văn hoá Triều Tiên cho đến bây giờ vẫn chưa được nghiên
cứu. Chỉ cần nói rằng nó đề cập đến hai công trình về tư tưởng Triều Tiên được
kê trong các tài liệu tham khảo (c. 207/234, 308/201, 278/199).
2.
白黑論
Bạch Hắc luận, trích trong Cheng 1997, 377. Từ
“thực hiện” được dùng theo hai nghĩa, như Nishitani Keiji (1982, 5) đã chỉ rõ.
3.
Chúng ta cần phân biệt một vài nghĩa của từ triết
học trong tiểu luận này. Bằng khái niệm “triết học phương Tây” chúng ta sẽ
đặc biệt quy vào triết học “lục địa” như tư tưởng duy lý và mang tính khái niệm
ra đời tại Hy Lạp. “Triết học Nhật Bản” thuộc về loại hình tư tưởng Tây phương
hoá thời hậu Minh Trị bắt đầu với Nishi Amane. “Triết học Trung Quốc” là nói đến
tư tưởng Trung Quốc nói chung, cả cổ đại lẫn hiện đại. Liên quan đến vấn đề sử
dụng từ “triết học” trong việc thể hiện “triết học Trung Quốc” xem các nghiên cứu
được tập hợp trong mục ypc. Việc sử dụng tương tự với các thể hiện “triết học
Triều Tiên”, xem Lee 2004, 10.
4.
Trong công trình đầu tiên Vấn thiện của
Nishida, các nhà triết học Trung Quốc được trích dẫn ở phần thứ ba giành cho
“cái thiện” gồm có Vương Dương Minh (王陽明 1472–1529),
Tuân Tử (荀子 298–338),
Khổng Tử (孔子 551–479),
và Tử Tư (子思 485–
420). Để biết thêm các tài liệu dẫn khác, xem c, no. 440–9/310. Tăng Triệu/Triệu
Pháp sư (僧肇/肇法師, 374–414) được dẫn trong Nishida 1973, 78. Có thể tiểu luận
quan trọng nhất liên quan đến diễn giải của Nishida về triết học Trung Quốc là
Nishida 1933, trong đó Lễ ký, Xuân Thu Biên niên, Kinh thư, Kinh thi, Tả Truyện,
Luận Ngữ, Trung Dung, Trang Tử, và Đạo Đức Kinh cũng như Khổng Tử, Mạnh Tử, Tử
Tư, Mặc Tử, các tác giả phái Pháp gia, Tuân Tử, và các học giả Công Dương truyện
cũng được trích dẫn. Thêm vào còn có Nam Tuyền Phổ nguyện (南泉普願 748–835),
Bàn Sao Bảo Tích (盤山寶 積), Lâm Tế (臨濟), Triệu Châu (趙州 778–897),
Bàn Khuê (盤珪 1622–1693),
Chí Đạo Vô nan (至道無難
603–676), Huệ Năng, và các Thiền sư
khác cũng được dẫn trong Tiểu luận được xuất bản sau khi ông qua đời, Logic Vị trí và Thế giới quan Tôn giáo (nkz
11: 424, 454–5, 430, 449).
Tôi
đã nghiên cứu sưu tập cá nhân các sách báo Trung Quốc của Nishida, xấp xỉ 886 tập
được giữ ở Unoke, thậm chí còn nhiều hơn sách tiếng Nhật (561 cuốn). Về việc
Nishida học các kinh điển Trung Quốc, xem Yusa 2002, 10, 15.Trong các sách này,
chúng ta thấy có các chú thích tối thiểu gồm hai phong cách viết. Việc truy vấn
bằng phép xem tự dạng có thể giúp phân biệt và xác định các văn bản đó. Để cố “xác
định” những ghi chú ngoài lề, chúng ta cần phải xem liệu sách có ghi: (祖父遺書幾多郎記 -
tổ phụ di thư ki đa lang kí) “truyền lại từ ông nội do Kitarō viết” hoặc (自祖父の代所傳幾多郎記 -
tự tổ phụ dã đại sở truyền ki đa lang kí) Trong
trường hợp đó, như trong các tập i–iii về công trình của nhà tư tưởng Tân Khổng
giáo Minagawa Kien (1734–1807) [助字詳解 Trợ Tự Tường Giải] [Nghiên cứu về các mạo từ xác định] c. no. 281/200, thì các dấu mực đỏ (chấm, khuyên, gạch chân
có hoặc không có đoạn chép phần gạch chân ra ngoài lề), gắn mầu giấy màu nhỏ để
đánh dấu các từ hoặc đoạn văn quan trọng (một loại kỹ thuật thông dụng cho độc
giả kinh sách Trung Quốc và Nhật Bản), và các chú thích sao chép và bình chú có
thể là của ông nội Tây Điền Tân Đăng (西田新登 Nishida
Aranori, vào khoảng 1850), “một kẻ sỹ được dạy dỗ hoàn hảo rất thông thạo kinh
sách Trung Quốc” (Yusa 2002, 5). Nếu không thì các ghi chú có thể là của
Nishida. Rõ ràng là nếu niên đại biên tập cuốn sách là sau 1850 thì nó không thể
là của ông nội hoặc tổ tiên khác được.
Cũng
có một số sách có các dấu đọc theo phong cách viết có thể của Nishida, có các
đoạn ghi bên lề giúp nhận ra các ghi chú của ông trong các cuốn sách khác. Trường
hợp đặc biệt là trong các bản sao thuộc tập I,c.no78/188, trong đó thấy có chữ Mean được ghi suốt bằng bút chì cũng như
bút mực hoặc bút lông. Xem 2-6, và nhất là ở các chương 9 đến 13, trang 32-7. Có
một dấu bút chì mờ đánh dấu ở trang 8, ở đoạn Mean được trích đầu tiên trong công trình của Nishida 1933: “Mệnh
trời được gọi là tính người; cái thống trị tính người được gọi là Đạo; việc
giáo hoá Đạo được gọi là chân huấn” (241). Tuy nhiên chúng ta không thấy có dấu
nào được đánh ở trang 95, phù hợp với trích dẫn thứ hai (243). Chúng tôi phát
hiện ra cùng loại chú thích trong suốt Luận Ngữ, đặc biệt ở các chương 1, 3, 9,
và 20, các trang 16-21, 28, 58, 160-1, 372-3 và 390. Ngoài ra chỉ còn một số ít
sách khác là có nhiều ghi chú như vậy. Liên
quan đến tư tưởng và văn học Trung Quốc, ngoại trừ những gì được trích dẫn
trong nghiên cứu này, còn có các tài liệu tham khảo sau c., no. 201/195, 216/196,
241, 242, 245/197, 252/198, 281, 284, 288, 292/200, 299/201, 422/208. Liên quan
đến các kinh sách Nhật Bản, xem c., no. 316/201, 332, 337/203. Liên quan đến Phật
giáo, nhất là Thiền, xem c., no. 354, 358, 368, 375/205, 380, 381, 389,
390/206, 411/207.
5. “Một nguyên tắc duy nhất tạo điều kiện cho tôi nắm bắt được
mọi thứ” Luận Ngữ, trích theo Granet 1934, 15. [Đúng ra đoạn đó là: 子曰:賜也,女以予為多學 而識之者與? 對曰: 然,非與? 曰:非也,予一以貫之. Tử viết: Tứ
giã, nhữ dĩ dư vi đa học nhi chí chi giả dư? Đối viết: Nhiên Phi dư? Viết: Phi
giã dư nhất dĩ quán chi. Dịch nghĩa: Khổng
Phu Tử hỏi Tử Cống: Tứ à, anh tưởng ta học nhiều mà nhớ hết có chăng? Tử Cống
đáp: Thầy, chẳng hẳn thế dư? Tử đáp: Chẳng hẳn. Ta nắm Một để quán thông vậy.
孔子, 論語,衛靈公第十五共四十一章
Khổng Tử, Luận Ngữ, Vệ Linh công đệ
thập ngũ cộng tứ thập nhất chương - ND*]. “Giữa cứng mạnh và mềm nuột, bàn tay thần
tìm ra các lời đáp linh diệu. Có một xảo thuật mà thần không thể giải thích bằng
lời” (Zhuangzi
13, trích trong Billeter 2004, 21. [Đoạn
này đúng ra là: 彼節者有間,而刀刃者無厚,以無厚入 有閒,恢恢乎其於遊刃必有餘地矣. Bỉ tiết
giả hữu gian nhi đao nhẫn giả vô hậu, dĩ vô hậu nhập hữu gian khôi khôi hồ kỳ ư
du nhẫn tất hữu dư địa hĩ. Dịch nghĩa: Giữa
các khớp cứng kia có khe hở, mà lưỡi dao của thần lại mỏng, lấy lưỡi mỏng bén
lùa vào khe hở thì dao cứ rạch lem lém như không vậy. 莊子,南華經,內篇,養 生主. Trang Tử, Nam Hoa Kinh, Nội thiên, Dưỡng
sinh chủ ND*]. Chúng ta có thể phát hiện được
nhiều tư liệu liên quan đến Trang Tử trong thư viện của Nishida, xem stic, vol.
9; c., no. 79, 243–5, 436, 437/188, 249, 208.
6.
Cheng 1997, 351–2, 385–6. Chúng ta không tìm thấy đằng sau toàn bộ các trạng
thái tâm lý, tình cảm, tư tưởng và hành động bất cứ một nguyên lý liên kết bất
biến hoặc thống nhất nào mà ta có thể coi như là một Ngã được” (Faure 1998,
352–3). Vì vậy nếu Nishida suy nghĩ lại về đề tài Phật giáo, Đạo giáo và Khổng
giáo về vong thân, từ bỏ bản ngã để hiện thực hoá chân ngã, đồng thời khởi đầu
với cuốn sách đầu tiên của mình, ông đã trầm tưởng về tính “ngự thống” hoặc 統一 “nhất
thống” về phương diện tâm lý và vũ trụ luận.
7.
Nishida 1911, 38, 80. Cf. Dalissier 2009, 125.
8.
Đây là một huấn ngôn rất nổi tiếng trong sách 大學 Đại
Học mà Cheng [1997, 73] đã trích dẫn. Chính cái hệ mẫu này lại không đậm chất
tôn giáo bằng chất đạo đức và chính trị: “Các hiền nhân cổ thời mong muốn minh
họa đức hạnh rạng rỡ trong khắp cả Đế chế, trước hết là trong các đất phong của
họ. Mong muốn cai trị tốt, trước hết là phải “tề gia”, sắp xếp điều chỉnh được các
mối quan hệ gia đình. Mong muốn tề gia tốt, có nghĩa là phải tu thân, vun trồng
cho nhân cách cá nhân của mình. Mong muốn tu thân tốt, trước hết phải chính
tâm, chỉnh sửa được suy nghĩ cho ngay thẳng, đoan chính. Mong muốn chính tâm tốt,
trước hết phải thành ý, sao cho suy nghĩ tình cảm của mình phải thành thực. Mong
muốn thành ý, trước hết cần phải trí tri để mở mang được tri thức của mình. Mong
muốn chí tri để mở mang được tri thức của mình, đòi hỏi phải cách vật, nhằm hiểu
thấu đáo vạn sự. Chỉ có như vậy thì mới trị quốc và bình được thiên hạ”.
(358-9). [四書, 大 學, 朱熹章句在明明德, 在親民, 在止於至善列為三綱, 將格物, 致知,誠意,正心, 修身, 齊家,
治國, 平天下 Tại minh minh đức, tại thân dân, tại chỉ ư chí thiện liệt
vi tam cương,
tương cách vật, trí tri, thành ý, chánh tâm, tu thân, tề
gia, trị quốc,
bình thiên hạ – Tứ Thư, Đại học,
Chu Hy chương cú -ND*]. Một số dấu đọc được đánh bằng bút
chì trong lần biên tập năm 1912 của ông, stic, vol.1, 10-14.
9.
Zhuangzi, 33; Watson 1968, 375; emphasis added.
10.
“Khi một tác giả Trung Quốc nói về “tự nhiên”, ông ta nghĩ ngay đến chữ 性 tính,
được cấu tạo bởi chữ 生
sinh, thuộc về cái sinh sản hoặc sống
động, và là yếu tố quyết định cho tâm ý/tinh thần, là cái định hướng cho suy tư
của ông ta về tính, đặc biệt là nhân tính, theo nghĩa sinh lực luận. Theo đặc
trưng của cách viết, tư duy Trung Quốc có thể tự hình dung là đang diễn ra
trong hiện thực chứ không phải được đơn giản đem chồng chất lên đó” (Cheng
1997, 35).
11.
Ở nơi mà con người thể hiện là “được thống nhất bằng khát vọng mọi người đều
tuân thủ mệnh lệnh” (Granet 1934, 24, 60, 97, 112; emphasis added).
12.
Cheng 1997, 455. Một bản sao có thể được tìm thấy ở thư viện Nishida, stic,
vol. 2. Dấu chú thích nhiều khả năng là của Nishida.
13.
Cheng 1997, 619–28, 637–8. Có lẽ việc so sánh Nhân học của Đàm Tự Đồng và Đại Đồng
thư của Khang Hữu Vi với Nishida [1911] thì sẽ rất hữu ích.
14.
Encyclopaedia
of Philosophical Sciences, Addition
§171 (Hegel 1975, 236;
Marquet
2001, 193). Liên quan đến câu hỏi liệu có thể áp dụng phép biện chứng bốn bước
này vào việc giải thích trước đó về “logic vị trí” năm 1926 không, xem Dalissier
2008. Về phê phán Hegel của Nishida sau này, xem nkz xii: 64–85 (Bản dịch Pháp
văn, Nishida 1931).
15.
Chúng ta có thể thấy một khối tư liệu đáng kể về Lão Tử trong thư viện của
Nishida, gồm có ba tập sau khi ông nội của ông mất đi: stic, vol. 9; c., no.
79, 201/188, 195. Hai tập khác cổ hơn: c., no. 239–40/197. Anne Cheng giải
thích: “Hiện tượng mất gốc có thể thực sự được cảm nhận bằng cách tiếp xúc với bọn
trẻ con: trong khi chúng ta biết rằng tự bản thân chúng ta đã ở trong tình trạng
này, thì chúng ta có cảm giác rằng mọi thứ đã bị xoá bỏ, vì vậy khó khôi phục lại
trạng thái gốc này” (Cheng 1997, 202. In Zhuangzi v, việc trở thành bé mọn và làm “cạn kiệt” “sơ đồ” chủ đích của
hành động là ngược lại với việc khôi phục sơ đồ “bình thản” hữu hình của hành
vi cần thiết (xem Billeter 2004, 43–53, 63, 78, 87, 113).
16.
Truyện Tập lục [王阳明,传习录, Vương Dương Minh, Truyện tập lục] ii. Cuốn sách này trong thư viện của Nishida, c., no.
260/198, một công trình mà ông tham khảo trong nhật ký năm 1898, c., no. 441,
449/310. See no. 1054/339.
17.
Xem Dalissier 2009, 93. Về mối liên hệ giữa Nishida và Eckhart, xem Heisig 2004,
57–67.
18.
Mạnh Tử
vii.a.4; Chánh mông 正蒙, 17, trong Zhangzaiji 62–3.
19.
Đại đầu bếp Bào Đinh của Văn Huệ Quân, Trang Tử Nam Hoa Kinh, Dưỡng sinh chủ.
20.
Cheng 1997, 130. Đường Quân Nghị giải thích: “Hãy để cho tinh thần ta tự làm trống
rỗng bản thân nó. Sau đó nó sẽ trở nên thuần tuý dễ lĩnh hội và sẵn sàng tiếp
nhận sự vật, còn toàn bộ sự vật thì trở nên trong suốt đối với chúng ta. Lúc đó
sẽ là quên thân và chứng ngộ” (1967, 272).
21.
Thiệu Ung, vi.26b; cited in Cheng 1997, 439–40.
22.
“Từ bỏ tự ngã là hành động rất thông thường để thứ ánh sáng đó sẽ đến” (Zhangzaiji, 285).
23.
Nishida 1911, 163–4, 166–7; nhấn mạnh thêm. Xem 37, 134, 144, 152, và
Takeuchi
1996, 211.
24.
“Chúa nói rằng
chỉ những kẻ nào giống với một trẻ thơ thì mới có thể vào nước Trời. Thành thật
là thiện không chỉ do các kết quả của nó khởi lên, mà nó là thiện tự trong bản
thân nó... Lừa dối kẻ khác chính là tự lừa
dối mình và phủ nhận nhân cách của
mình…Nhu cầu tự thân của nhân cách – đó là thành thật – là một nhu cầu dựa trên
sự thống nhất của tri, cảm, và chí. Nó không đơn giản xác định xung lực mù loà
theo sau đối lập với sự phán quyết được trí và tình cảm thực hiện. Chỉ khi nào
chúng ta dốc kiệt trí và tình thì nhu cầu thực của nhân cách – thành – sẽ khởi
lên trong ta…Khi động cơ là thiện nhưng hành vi thực lại bất thiện thì con người
thường nói rằng cái thành của cá nhân và cái tối thiện của toàn thể nhân loại
đôi khi xung đột với nhau. Tuy nhiên tôi tin rằng người nào nói điều này vẫn
còn thiếu một hiểu biết chính xác về thành – cái mà những người như vậy nói thì
không phải là chân nếu chúng ta sử dụng “thành” theo nghĩa những nhu cầu thực sự
sâu sắc nhất của tinh thần như một tổng thể. Các nhu cầu chân thực của chúng ta
không được chúng ta tạo ra một cách giả tạo; chúng là những sự kiện của tính” (Nishida 1911, 133–4, 144).
25.
Luận ngữ iii.4.
有子曰:禮之用,和為貴 Hữu Tử viết: Lễ chi dụng, hoà vi quí. Hữu Tử
nói: Trong việc lễ thì giữ hoà khí là quí. 論語,學而第一
Luận Ngữ, Học Nhi Đệ nhất - ND*. 子游曰:喪致乎哀而止. Tử Du viết: tang trí hồ ai, nhi chỉ. Ông Tử Du nói rằng: trong việc tang, đau thương là tối cực. 論語,子張第十九, Luận Ngữ, Tử Trương đệ thập cửu -
ND*.
26.
Cheng 1997, 182. Một tiểu luận được Nishida trích dẫn năm 1933, và có lẽ được
ông chú thích. Cần lưu ý rằng một loại chiều góc tri thức luận về 誠 tính
thành thật của các tư tưởng được thể hiện trong sự khớp nối chủ chốt trong phần
trích dẫn sách Đại Học, ghi chú 8 ở trên.
27.
Zhangziyulu
324–6; Cheng 1997, 457.
28.
Dalissier 2009, 319–565. Chúng ta có thể diễn giải các bình chú của Nakagawa về
cuốn sách Reverse
and Surface [Đảo ngược và Bề mặt] của Doi Takeo [2005, 49–50] bằng cách này. Trong văn hoá Nhật Bản,
裏,本音 [lý,
bản âm] là một loại tính trống rỗng thống nhất các sự vật đối lập với 面,建前 [diện,
kiến tiền] “bề mặt”. Nakagawa đưa ra các ví dụ về các thương thảo hành chính và
cái “cấu trúc kép của ý thức Nhật Bản”. Chúng ta cũng có thể quy vào vị “Hoàng
đế Thoái vị” hoặc một người già 元老
[nguyên lão] được kính trọng vì vẫn
còn có ảnh hưởng trong truyền thống chính trị Nhật Bản. Xem Herail 1986, 58,
77, 411, 421. Theo nghĩa này, ura (裏), lý thống nhất ở nơi nào mà omote (面), diện, bề mặt từ chối. Từ quan điểm siêu hình, đó hệt như là
một hiện thực không nền tảng, tự làm trống rỗng bản thân và xây dựng nền tảng
trên toàn bộ các hiển hiện. Trong thuật ngữ của Nishida, cái “vị trí của không
tính tuyệt đối” thống nhất “vạn vật, phát hiện bản thân “biệt lập” khỏi “vị trí
của hữu xác định” và thống nhất các “lực”, “hành động”, và “cá nhân” khi tự
phát hiện là vẫn đối lập với nhau từ bên trong của cái “vị trí không tính đối lập”.
Về điểm này, ý tưởng của Nishida có thể đối lập với cái lý tưởng “biệt lập” của
vị thánh vĩnh hằng của Đạo giáo, mà đối với vị thánh này thì cái trống rỗng
không thống nhất, mà làm cho ngôn ngữ biến mất và che giấu các mối liên hệ gia
đình và xã hội, như đã tuyên bố trong Liệt Tử iv.5,8. Đoạn này được nhấn mạnh bằng
các bình chú bằng mực đỏ trong biên tập của Nishida về Liệt Tử.
29.
“Như trong nhấn
mạnh của Vương Dương Minh về tính đồng nhất tri và hành (知行同一), tri thức thực, hoặc tri thức về hiện thực, phải luôn luôn đi kèm với
việc thực hiện của ý chí” [Nishida
1911, 106].
30.
“Bậc quân tử
coi Trời, Đất, và vạn hữu là nhất thể. (Tham khảo Huệ Thi và Trang Tử, như đã
chỉ rõ ở trên). Ông coi thế giới như một gia đình, và đất nước như một con người.
Còn đối với những ai tạo ra sự chia tách giữa các đối tượng và phân biệt giữa tự
ngã và tha chúng, thì đó chỉ là những kẻ tiểu nhân…Vì vậy khi thấy một đứa trẻ
sắp rơi xuống giếng mà ông ta không thể giúp được gì ngoài tình cảm xót thương.
Điều đó cho thấy rằng tình cảm nhân đạo của ông [lòng nhân] đã tạo ra một cơ thể
thống nhất với đứa trẻ…Điều đó có nghĩa là cái tâm của người tiểu nhân nhất thiết
cũng có nhân tính và nó thống nhất làm một thể với vạn vật [không thể thoát ra
khỏi tất cả những tình cảm này]”. Vương Dương Minh, Vấn Đại học trích lại của
Chan 1963, 659-66.
31.
Thư viện của
Nishida có vài cuốn sách của Chu Hy, đóng thành các tập c., no. 215, 217, 256, 295/196, 198, 200, đặc biệt là c., no. 216/196 (bao gồm việc đọc các dấu hiệu và các đầu mối).
32. Ý tưởng này cũng được phát hiện trong
Lão Tử 18: 大道廢, 有仁義; 智慧出, 有大偽; 六親不和, 有孝慈; 國家昏亂, 有忠臣. Đại
đạo phế, hữu nhân nghĩa;
trí tuệ xuất, hữu đại ngụy,
lục thân bất hoà, hữu hiếu từ﹔
quốc gia hôn loạn, hữu trung thần. Đạo lớn hoang phế thì sinh xuất nhân nghĩa; trí
tuệ ra đời nảy sinh đại trá nguỵ; gia đình lục đục xuất hiện hiếu, từ; nước nhà
rối loạn mới có trung thần. Lão
Tử Đạo Đức Kinh, Chương 18.
33.
“Kỳ lạ là một sự
phân đôi như vậy về tính trầm tưởng và thụ động [Aristotle] lại có thể
thấy ở Trung Quốc, trong triết học Chu Hy (cuối thế kỷ 11 đến đầu thế kỷ 12).
Nhưng Vương Dương Minh (cuối thế kỷ 15 đến đầu thế kỷ 16) đã thống nhất hai
quan niệm này vào một khái niệm chủ chốt trong học thuyết triết học của ông, theo
đó tri thức và thực tiễn đơn giản chỉ là một, hệt như Hegel đã cố tái thống nhất
tư duy và hành động trong biện chứng pháp của ông. Nishida đã thực hiện triết học
Hegel cũng như các huấn điều của Vương Dương Minh tạo ra hệ thống của ông dưới
tác động kép của các truyền thống triết học này, của Trung Quốc và của Tây
phương. (Nakagawa 2005, 61).
34.
“Văn hoá Trung
Quốc đã từ lâu đời đã là văn hoá đạo đức, khi thấy trong tổ chức xã hội của người
Trung Quốc sự phát triển một bản tính con người vĩnh hằng” (nkz 12: 357–8).
35.
Cheng 1997, 289. Như chúng ta sẽ thấy dưới đây, Izutsu (2001) dịch 有 theo
nghĩa đen là “Being – Tồn tại, hữu” và 物 vật
là “Phi hữu”.
36.
Nishida đặc biệt nhấn mạnh khía cạnh này của Lão Tử và Trang Tử (1933, 242,
250). Về Khổng Tử và Trang Tử, xem Billeter 2004, 144. Xem Liệt Tử ii.1.4,
ii.1; iv. 13–15. Vương Bật và những người khác, chẳng hạn Mặc Tử, và Quách Tượng,
Bùi Ngỗi, và Nguyễn Tịch dường như gần gũi với một nhãn kiến “hữu thể luận”.
37.
Nếu các “kết quả lý thuyết của các nhà triết học Trung Quốc chủ yếu thể hiện
trong các lĩnh vực triết học văn hoá và siêu hình học…và hữu thể luận” (Zheng
2005, 133), thì liệu có phải đó chỉ là kết quả của một ngẫu nhiên lịch sử, hoặc
đó là một phản ứng lại với Kant và Hegel? Đối với bản thân Zheng, đó là vì nó
“đem đến một bước ngoặt hiện thực luận hoặc hữu thể luận cho các khái niệm tư
tưởng truyền thống (135).” Nhưng để đáp lại, chúng ta có thể hỏi: Có phải đó cũng
là vì các nhà triết học Trung Quốc cổ đại và hiện đại tối thiểu cũng liên quan
đến các vấn đề cơ bản hoặc các vấn đề siêu hình và hữu thể luận? Nói cách khác,
liệu có phải “ngôn ngữ” hữu thể luận và siêu hình học có nhiều vấn đề hơn các
“đối tượng” của nó (134-135)?
38.
Dalissier 2009, 481ff. Việc dịch “bao gồm” (J. Tremblay) thì trung tính hơn. “Là
hiện thân” thì duy trì được khía cạnh “thể dạng” sẽ được Nishida phát triển
trong các quan niệm chẳng hạn như “vị trí” hoặc sau này là “thể lịch sử”.
39.
Cheng 1997, 152. Chúng ta có thể phát hiện ra ba phiên bản của Mặc Tử trong thư
viện Nishida, c, no. 78, 246–247/188, 249. Còn có thể phỏng đoán từ nội dung của
đoạn trích Mặc Tử là ông đã có đọc Mặc Tử nhiều. Xem Nishida 1933, 244).
40.
Chẳng hạn Nishida viết: “Vượt tiến về phía trước là thoái lui một bước về phái
sau; vận động là trực cảm” (nkz 3: 283). Xem
Dalissier 2009, 33, 203–73.
41.
Xem Dalissier 2006a, 100–22, đặc biệt là
110. Xem thêm Maraldo 2006.
42.
Đối với câu hỏi này, người đọc nên xem lại phần thứ hai của tiểu luận.
43.
Analects
ii.1; xem xv.4; nhấn mạnh thêm. Vào thời
Hán, trong tư duy Hoàng Lão, chúng ta thấy ý tưởng cho rằng đấng tối cao không
có gì khác để làm ngoài việc “không làm gì và ở yên”. Vai trò của ông ta không
vượt quá xa để đảm bảo cho một sự thật
là “hình” và “danh” luôn có sự hài hoà tuyệt hảo và giám sát được bước tiến của
điều thiện trong trật tự chính trị lý tưởng đó. Có vẻ như ông ta ở trong cái lốt
của một đạo sĩ khôn ngoan, giống như bản thân Đạo, là “rỗng không” và đồng thời
cái trung tâm tạo ra các biến đổi vô tận của vũ trụ. (Cheng 1997, 296) Thuật ngữ
tiếng Nhật 天皇 Thiên
Hoàng là cách thể hiện kiểu Trung Quốc bằng việc đặt tên linh thiêng của trời giống
như sao Bắc đẩu; Hoàng Đế có thể so sánh với “một kẻ bất động, xác định một hướng
cố định và để cho vũ trụ tự vận hành trong trật tự” (Herail 1986, 67, 77).
44.
“Cái ở giữa không phải là một điểm ngang bằng nhau giữa hai số hạng, mà đúng ra
là một cực mà lực hấp dẫn của nó hút chúng ta mạnh hơn, bằng cách tạo ra và duy
trì trong toàn bộ các trạng thái đời sống một độ căng làm cho chúng ta luôn
khao khát có được nhiều hơn nữa cái phần tốt đẹp nhất của cái sinh ra giữa
chúng ta” (Cheng 1997, 42; nhấn mạnh và
bổ sung).
45. Hàn Phi Tử 8,
tham khảo mục zzjc, 30; xem Watson
1964, 35. Có ba bản Hàn Phi Tử trong thư viện của Nishida, c, no. 78, 250–251/188, 198.
46.
Cheng 1997, 277. Chúng ta có thể thấy 6 bản Kinh Dịch khác nhau trong thư viện
Nishida, tập 3, 4 và các tập cổ hơn, có ghi: c, no. 210, 212, 214 và 220/195–196.
Quan trọng nhất là một bản có cách ghi chú, số 422/208, với đầy các bình chú và
các hình dấu sao sáu cạnh cần phải được diễn giải mang tính phân tích và tự dạng
xác định. Nishida tham khảo Kinh Dịch trong một quyển vở ghi tháng 7 năm 1943,
đánh dấu: c, no. 751/323; see also 1061/340.
47.
Mặc dù đã trải qua hàng ngàn năm kinh nghiệm canh tác, nhưng người Trung Quốc vẫn
khẳng định nguyên lý tuần hoàn của tự nhiên, là cái có thể thoả mãn họ. Canh
tác không được thực hiện bởi các thao tác tinh xảo của con người đối với tự
nhiên mà bằng việc chờ đợi cho đến khi mùa màng tự chín để thu hoạch. Tự nhiên
vận hành các biến đổi tuần hoàn đối với chính bản thân chúng, không hề vay mượn
bất cứ sức lực nào ngoài bản thân nó.” (Pak
2004, 35–6; nhấn mạnh).
48.
Trời lâu, đất
dài. Vậy thì cái gì làm cho chúng trường cửu? Sự thật thì chúng không tồn tại
vì chính bản thân chúng. Ở đây chúng ta chạm trán với cái làm cho chúng trở nên
vĩnh hằng. Cũng bằng cách đó, thánh nhân đặt con người ông ta vào thế ẩn dật.
Trong khi bản thân ông ta chiếm vị trí hàng đầu, nhưng ông ta lại đặt nó ở cuối
cùng. Đó chính là lý do vì sao mà nó được duy trì. Không phải là ông ta bị bỏ lại
mà không có cái bản ngã của riêng mình sao? Về phương diện này, bản ngã của ông
ta luôn luôn đi kèm” (Zhuangzi, quoted in Cheng 1997, 208, nhấn mạnh thêm). Sự “rút lui” của thánh nhân Liệt Tử và Khổng Tử tại Hổ Khâu được coi
như là một cuộc trở về với bản thân để khôi phục nguồn sinh lực trong chính họ (Billeter 2004, 117–22). Đúng ra thì cuộc trở về nguồn (Lão Tử),
cuộc lui về ẩn dật hoàn toàn phù hợp với sự vận động trượt của hiện thực mà
không có bất cứ cội nguồn nào (Zhuangzi; Billeter 2004, 124–5, 136).
49.
Izutsu dịch (2001, 34) từ nguyên văn: 谷神不死,是謂玄牝.玄牝之門,是謂天 地根.綿綿若存,用之不勤. Cốc thần bất tử,
thị vị huyền tẫn. Huyền tẫn chi môn, thị vị thiên địa căn. Miên miên nhược tồn,
dụng chi bất cần. Dịch nghĩa: Thần hang bất
tử, gọi là Huyền Mẫu; cửa Huyền Mẫu là gốc của đất trời. Miên viễn hằng tồn, sinh
thành vạn vật mà không kiệt [Lão Tử Đạo Đức
Kinh, Chương 6].
50.
Nishida sẽ đặc biệt nhấn mạnh đến 復歸無物
phục quy vô vật, trở về với vật [phi hữu] trong Lão Tử và 自然に復帰するする要 hồi
quy tự nhiên, trở về với tự nhiên; hoặc すべてを否定して幽玄なる天 地 の根 源に復帰するtrở về với Huyền Mẫu, căn nguyên thiên địa bằng cách từ bỏ tất
cả.
51.
Huainanzi, 3; zzjc, 35–6; Tiếng Anh trong Major
1993. Xem sk 14: 131. Xem thêm quan niệm “ngưng trệ” ở Chu Hy (Cheng
1997, 502).
52.
Laozi, 40. Izutsu dịch: “Hữu sinh ra ở bên ngoài phi hữu” (2001,
104).
53.
慧遠
Tuệ Viễn:
“Thể xác tự mòn kiệt nhưng tinh thần thì không thể bị huỷ hoại” [慧遠大师“因果报应论”和“神不灭論” Tuệ Viễn Đại sư “Nhân quả báo ứng
luận” hòa “Thần bất
diệt luận”-ND*]. Về khái niệm “trở về”, xem Liệt Tử, i.6, iv.9. Cheng
1997, 378–9. Trong các tập Nishida a và b, khái niệm 鬼歸 quỷ quy được đánh dấu bằng khuyên đỏ và viêt ở ngoài lề.
54. 道生一一生二二生三三生萬物 [Đạo
sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật]. Lão Tử, 42 and
Cheng 1997, 205. Izutsu: (2001, 108).
55.
Huangji
jingshi shu, 8b, 23a, trích và bình chú, trong Cheng 1997, 435.
56.
Cheng 1997, 206. Rất thú vị là thuật ngữ “như đá nguyên khối” trong topo học Nishida
lại thực sự thuộc về vị trí của hữu xác định (Dalissier 2009, 431–5).
57.
Dựa theo Monier-Williams (1919), Nishida lập luận rằng vị “Thượng đế của tôn
giáo Brahman vận động và không vận động”, và là “thực thể duy nhất của tôn giáo
Ấn Độ” được cho là “vừa bất động vừa vận động” (動にして然後静,静 にして然後動; Nishida 1933, 240, 251). Công trình này không thấy có trong
thư viện riêng của Nishida, nhưng có tài liệu dẫn c., no. 207/234.
58.
Chúng ta có thể
phát hiện một cuốn sách lớn khác của Chu Đôn Di “Thái Cực đồ thuyết” trong thư
viện Nishida, bản in năm 1673 edition, c, 257/198.
59.
“Giống Thiệu Ung, Chu Đôn Di đặt vấn đề về mối liên quan của cái Một và cái Nhiều,
một chủ đề đã được Vương Bật tiếp cận vào thế kỷ thứ Ba, sau đó được tiếp tục
trong Phật giáo Thiên Thai và Huệ Viễn trước khi tái sinh vào Thiền: “Cái nhiều
trở thành cái Một và cái Một tự phân biệt bằng cái nhiều” (Cheng 1997, 447).
60.
Zhou
Dunyi ji 一爲要.一者無欲也,
無欲則靜, 動直. Nhất vi yếu. Nhất giả vô dục dã, vô
dục tắc tĩnh,
động trực. Da tongshu
20; 29–30; nhấn mạnh thêm. Xem Cheng 1997,
445.
61.
Điều này có thể được đề cập ngay cả khi về phương diện lịch sử, mối liên hệ vẫn
không chắc chắn. Chúng ta chỉ có thể phát hiện tập thứ hai (§38–81) của Vương Bật Bình chú về Lão Tử trong thư viện của
Nishida, tập in năm 1771
c, no. 238/197, nhưng cuốn đầu
tiên thì bị thất lạc.
62.
Zhou
yi lueli, 周易略例, Chu Dịch Lược lệ, Chương về “Đọc các quẻ” 591. Xem Lynn
1994, 25.
63.
“Chính quyền tập trung thời Hán thực sự diễn ra dưới thời Hoàng đế Hán Vũ Đế
(140-87 BC). Khái niệm 太一 Thái
nhất sau này trở thành đối tượng của một tục thờ cúng có tác động lịch sử thể
hiện trong 大一統 “đại
nhất thống” rất được đề cao trong giai đoạn sớm của triều đại này. Chữ 統 thống về mặt từ nguyên học là đầu mút
sợi tơi của cái kén tằm, nguồn gốc hình thành ý tưởng về sự liên tục và sức mạnh
thống nhất” Cheng 1997, 302–3.
64.
Cheng 1997, 329, 333. Tính hữu hạn và hữu tử của hữu (trong các thuật ngữ của
Nishida, “vị trí của hữu xác định” được nhấn mạnh trong Liệt Tử 1.4: “Những kẻ
nào mà bản tính ổn định thì không ra khỏi vị trí (宜定者不出所位 nghi định giả bất xuất sở vị, được đánh dấu và ghi chủ trong
tập b của Nishida) cũng như trong i.6 và iv.9: “Hữu dụng và chết cũng được gọi
là Đạo”, một đoạn quyết định cho cách đọc sáng tạo-Nishida (đặc biệt là nếu
chúng ta xem các thể hiện 無用而生謂之道
vô dụng nhi sinh vị chi đạo, vô dụng mà sinh sản thì cũng được gọi là đạo: chữ 生 “sinh”
[hoặc 存 “tồn”
như ai đó đã viết ở đây trong bản b để chỉ nghĩa của chữ 生 sinh]
từ không tính chính là Đạo). Chúng ta thấy ở đây có một mẩu giấy, giải thích bằng
tiếng Nhật những cách thể hiện khác nhau lien quan đến phân tích tính hữu hạn (由生而生, 由生而兦,
由死而死, và 由死而生 do
sinh nhi sinh, do sinh
nhi 兦, do tử nhi tử, and
do tử nhi sinh. Dịch nghĩa: Do sinh mà
sinh, do sinh mà nhập, do chết mà chết, do chết mà sinh – ND*). Hơn nữa
Claude Romano, “Un etrange oubli” “Một cách quên lạ
lùng” trong ypc, 165–6, đã chỉ rõ chúng ta có thể
thấy trong Trang Tử cái ý tưởng cho rằng chỉ có thực sự “quên đi” thì mới dẫn đến
được chiều sâu thực sự của hành động. Nếu đối với Aristotle, đức hạnh đi cùng với
sở hữu một cái gì đó trong việc thực hiện một sắp xếp thì trong Trang Tử, “đức
nói chung chính là cái mà chúng ta thực sự có khi chúng ta không có chúng và
cái mà chúng ta thực sự không có khi chúng ta có chúng [như một cái gì đó]:
chúng không bao giờ có được.” Quên sở hữu sẽ dẫn đến đức. Sự lãng quên trở
thành căn nguyên của việc hiện thực hoá, trong thuật ngữ của Nishida thì không
tính là thao tác của hiện thực. Xem Liệt Tử iii.8 (trong bản b, đoạn này được
đánh dấu bằng mực đỏ, và động từ 忘
vong [quên] được đánh dấu bằng khuyên
đỏ.
65.
Dalissier 2009, 334ff. Về sự tương đương giữa “tồn tại” và “sở hữu”, xem Sakabe
2007, 56–8.
66.
Chú
giải Lão Tử, 14 (1: 32). Chiều góc topo học có
khuynh hướng biến mất trong đoạn dịch sau: “Bạn có thể muốn nói rằng nó không tồn
tại, nhưng mọi thứ đều tồn tại vì nó, và sau đó bạn có thể muốn nói rằng nó tồn
tại, nhưng chúng ta không thấy hình hài của nó” (Lynn 1999, 73). Nhưng nó lại
hiện ra trong đoạn này: “Nếu chúng ta nói về cái không tồn tại của nó, thì mọi
thứ đến từ nó. Nếu chúng ta nói về sự tồn tại của nó thì không thể nhìn thấy
hình dáng của nó” (Lin 1977, 25; nhấn mạnh thêm).
67.
Cheng 1997, 329. Về nghĩa topo học của 所以 sở dĩ ở Nishida như là vị trí (所 sở) cung cấp “lý do tại sao” (以 dĩ), xem Dalissier 2009, Appendix xv, 444, 449.
68.
Có ý kiến phê
phán là một thuật ngữ như vậy, được vay mượn từ tư tưởng phương Tây, đối với tư
tưởng Trung Quốc thì không hữu dụng bằng triết học Nishida. Vì vậy ở đây nó được
khai thác theo nghĩa rất khái quát, mà việc mô tả cái đối lập theo đó các hiện
tượng được đem đến cho ý thức con người. Ngãu nhiên là phê phán của Nishida về
triết học Husserl và Heidegger cũng có thể có căn nguyên từ một vài kết quả đọc
triết học Trung Quốc, nếu chúng ta nhớ lại, chẳng hạn phê phán về tính chủ đích
(故 cố [ý]), là cái xuất hiện trước khi hành động, khi huỷ bỏ cái tất yếu (命 mệnh) trong kinh nghiệm nội tại cơ thể mà J.
F. Billeter đã làm rõ
trong Trang Tử (2004,
41–2, 48–9, 78, 82, 108, và 113). Cái trật tự được đưa
vào – “Con người, ý thức và hành động có chủ đích là thấp kém; trời, mệnh và
hành động ngẫu nhiên, vô ý thức theo một nghĩa nào đó là cái cao siêu” – có thể
được thể hiện về phương diện topo học như là cái ưu quyền về vị trí của cái
không tính làm nảy sinh cái mặt bằng của không tính đối lập, trong đó Nishida định
vị các lĩnh vực cảu tổng thể “cuộc phiêu lưu” hiện tượng luận.
69.
Vương Bật, 王弼,周易十卷,韓康伯注,韓康伯注, Vương Bật, Chu dịch Thập
quyển, Hàn Khang Bá chú [ND*], xem Cheng
1997, 330.
70.
Chú
giải Lão Tử 38 (1: 94). “Mặc dù vạn vật là cao quý,
nhưng chức năng của chúng không dựa trên cái gì cả, và chúng không thể từ chối
có không tính như là hiện thân của chúng. Nếu một người từ chối không tính với
tư cách là hiện thân của mình thì anh ta sẽ đánh mất sức mạnh to lớn của chính
mình” (bản dịch của Lynn 1999, 121-2). “Mặc dù vạn vật là giá trị, nhưng chúng
phải khai thác cái không tồn tại và không thể ngừng là hiện thân không tồn tại,
chúng không thể to lớn vĩ đại được” (Lin 1977, 71).
71.
三十輻共一轂, 當其無, 有車之用. 埏埴以為器,當其無, 有器之用. 鑿戶牖以 為室,當其無, 有室之用. 故有之以為利, 無之以為用. Tam
thập phúc, cộng nhất cốc,
đương kì vô, hữu xa chi dụng.
Duyên thực dĩ vi khí, đương kì vô, hữu khí chi dụng. Tạc hộ dũ dĩ vi thất,
đương kì vô, hữu thất chi dụng. Cố hữu chi dĩ vi lợi, vô chi dĩ vi dụng. Dịch
nghĩa: Ba mươi nan hoa chầu về trục xe,
nhờ có cái trống không của trục xe mà xe chạy được. Nặn đất làm nồi niêu
bát đĩa, nhờ có khoảng trống mà nồi niêu bát đĩa mới công dụng. Khoét cửa
chính, cửa sổ dựng nhà, nhờ khoảng trống đó nhà mới có cửa chính cửa sổ để dùng.
Ta cho cái “có” làm lợi cho mình, nhưng đích cái “không” mới làm “có” hữu dụng.
Lão Tử Đạo Đức Kinh, Chương 11. Laozi 11. Izutsu dịch
(2001, 45).
72.
Commentary
on Laozi, 25, 38; Lynn 1999, 95, 119–24; Lin
1977, 46, 70–3.
73.
“Đạo thanh thoát tự nhiên như một cái cây. Nó càng tích được nhiều dưỡng chất
thì càng lớn xa gốc rễ. Càng tích ít dưỡng chất thì càng gần nền đất. Tích luỹ
là để xa khỏi các chân của nó… Vương Bật,
Commentary
on the Laozi, 22 (1: 54,
nhấn mạnh thêm). “Cái Đạo tự nhiên giống như cái cây. Cây càng có thì càng xa cội rễ. Một
người càng có thì càng xa cái thành thực của mình…Một người càng không có thì
càng dễ trở về cội rễ” (Lynn dịch 1999,
89). Đạo tự nhiên
giống như một cái cây. Quay đi quá thì khiến nó xa cội rễ. Quay đi ít khiến nó
gần cội rễ. Quay đi quá nhiều thì xa khỏi chân lý” (Lin dịch 1977, 22, nhưng chư kết
thúc). Về phép “nghịch đảo cội rễ và cành nhánh trong tư tưởng Trung Quốc, xem Dalissier 2009, 287.
74.
Cheng 1997, 330–33. Chu dịch lược lệ và
“Đọc quẻ” Hexagram 24 復
(1: 336–7). Chẳng hạn việc “nói” về “yên lặng” là “chiêm tượng” các “từ” (言 ngôn: tên, các hình thức nói) “giải đoán” các tượng quẻ, việc
“quên” chúng và “quan sát” các “quẻ” (象
tượng); và sau đó chiêm tượng xem nó thể hiện cái gì, rồi ấn định nghĩa, quên
tượng để chiêm nghiệm “nghĩa” (意:
ý). Loại chiêm nghiệm bằng cách lãng quên này là trở về, đó là trở về với 舞, người múa. Để hiểu được logic của cái không tuyệt đối ở
Nishida, thì cần phải quên từ “không tính” và trở về với 無 vô bằng cách triệu hồi nghĩa gốc của nó là người múa. Từ các từ
này đến việc thể hiện nghĩa, tính vô hạn của nghĩa được giải phóng khỏi sự tập
trung và cô đặc. Xem Dalissier 2009, 502.
75.
Không chỉ 復 phục,
復歸
phục quy, “quay về” với tồn tại hoặc tự
nhiên trong Lão Tử và Đạo giáo, mà còn là sự quay về 反, phản, của tự bản thân Đạo, 遠曰 反 viễn viết phản, “rời xa có nghĩa là sẽ quay về” (Nishida
1933, 243).
76.
所以然, sở dĩ nhiên, Wang Bi, cited in Cheng 1997, 336.
77.
Nishida hai lần gợi lại huấn ngôn của Lão Tử: “Đạo tự xây dựng mô hình theo
tính 道法自然
Đạo pháp tự nhiên, để kiên trì ý tưởng
về sự cầm giữ trong lễ: “Người Trung Quốc, cho đến cùng không bao giờ vượt khỏi
một khái niệm về lễ. Lão Tử dạy: 人法地, 地法天, 天法道, 道法自然 nhân pháp địa, địa pháp thiên,
thiên pháp đạo, đạo pháp tự nhiên: Dịch nghĩa: Người theo phép tắc của đất, đất
theo phép tắc của trời, trời theo phép tắc của Đạo, Đạo theo phép tắc của tự
nhiên” có lẽ ép một ý tưởng như vậy về tự nhiên vào điểm cao nhất” (Nishida 1933, 243).
78.
Laozi
25. Izutsu: “Đạo theo cái tự nhiên
thanh thoát của nó [mà hành xử]” (2001, 73).
79.
Xem, chẳng hạn, nkz 3: 370. So sánh phân tích trong Dalissier
2009, 286ff and 374ff. Chúng ta phát hiện thấy trong Liệt Tử một biểu hiện về
cái logic “cặp đôi”: Trong khi tồn tại đối lập với Đạo, thì Đạo lại không đối lập
với tồn tại…Khi cố vượt trội như Đạo đã làm, bằng cách sử dụng nhìn, nghe, thân
thể, và trí, dẫn đến thất bại: 瞻之在前,怱焉在後 chiêm
chi tại tiền, thông yên tại
hậu, nhìn trước
để thấy sau…Làm thế nào mà một người không thể làm được lại làm được? (iv.15). Đoạn này là ở sk
24: 207–8, ngay ở những
chữ đầu đã được đánh dấu đỏ trong bản b. Trong hệ thống thuật ngữ của
Nishida, từ “đối lập” của tồn tại ở cấp “hành động” và “tiềm năng” (không tính
đối lập) che dấu và lấp liếm cái “đối lập” của không tính tuyệt đối.
80.
自然為正自然不為. Tự nhiên vi chính, tự nhiên bất vi. Quách Tượng ở zzjc 3: 10, cited in Cheng 1997, 338–9. Công trình này là ở thư
viện Nishida, bản năm 1662, c, no. 245/197. Chương 1 và 2 chúng tôi sẽ tham khảo
nhiều nhất, có nhiều dấu đọc bằng mực đen, nâu, và đỏ (chúng tôi cũng thấy có một
vài vạch có lẽ là của chính Nishida). Cuốn sách có lẽ không phải của ông nội
ông. Cùng các từ Quách còn có toàn bộ đoạn về Trang Tử và ghi chú của Quách về
đoạn này được ghi chú bằng mức nâu. Tương tự như vậy, đoạn đầu ghi chú của
Quách được làm nổi bật trong văn bản bằng các dấu màu đỏ, 8-9 trong tập của
Nishida. Chúng ta có thể bổ sung thêm là ở bản b Liezi ii, có bình chú của Nishida, thì việc thể hiện “Quách Tượng
nói” rất thường được gạch chân bằng mực đỏ.
81.
Thuật ngữ “cái bóng” có nguồn gốc từ việc dịch đoạn “mọi vật, thậm chí cả một
cái bóng, cũng tự thân chuyển hoá trong bóng tối huyền bí”. Xem Quách Tượng 2,
trong zzjc 3: 24–6, 53. Các trang 22 và ở dưới trong cuốn của Nishida có nhiều
chú thích.
82.
Trở lại vấn đề,
chúng ta có thể triệu hồi từ siêu hình Cartesien nghĩa của từ “bản chất” là tự trị. Xem chẳng hạn, định nghĩa về bản chất
trong Descartes: “Một sự vật tồn tại theo cách nó chỉ
cần bản thân để tồn tại” Principles of Philosophy, §51.
83.
Quách Tượng, 1,2 (được ghi chú trong tập Nishida) và 22, trong zzjc 17, 24, 27,
325. Ở đây chúng ta có thể tạo dựng bất kỳ song hành nào đối với đạo đức học Cartesien
trong Các cảm xúc của Linh hồn.
84.
Quách Tượng, 2, ở zzjc 3: 27, nhấn mạnh thêm. Đoạn này được ghi chú bằng mực
nâu trong bản của Nishida, 16.
85.
Quách Tượng, 1, ở zzjc 3: 17, dẫn trong
Cheng 1997, 340. Đoạn này được ghi chú bằng mực nâu và mực đen trong bản của
Nishida, 14.
References
Abbreviations
c.
Yamashita Masao 山下正男, Sơn Hạ Chính Nam ed., 西田幾多郎全蔵書目 録 Tây Điền Ki Đa Lang toàn tàng thư mục
lục (Kyoto: Institute of Cultural Studies
of Kyoto University, 1982).
nkz
西田幾多郎全集 Tây Điền Ki Đa Lang Toàn tập
(Tokyo: Iwanami Shoten, 1988), 20 vols.
sk
新訳漢文大系
Tân dịch Hán văn đại hệ (Meiji Shoin,
1979).
stic
先哲遺著漢籍国字解全集Tiên triết di trứ Hán tịch Quốc tự giải Toàn tập (Tokyo:
Waseda University, 1912).
ypc
“Y a-t-il une philosophie chinoise? Un etat de la question Extreme-Orient,” Extreme
Occident 27 (Saint Denis: Presses
Universitaires de Vincennes, 2005).
zzjc
諸子集成 Chư
tử Tập thành (Hong Kong: Zhonghua shuju, 1978).
Chinese
and Korean Works
韓詩外伝 Hàn thi Ngoại
truyền [An anthology of Korean poetry]
(Shōmuinshokan, 6th Year of Minkoku or 1918), 4 vols.
朝鮮司訳院日満蒙語学書断簡 Triều Tiên ti dịch viện Nhật Mãn Mông ngữ học thư đoạn giản [A Korean
manual for the study of the Mongolian language]
(Kyoto Imperial University, 1918).
Analects. 論語 Luận Ngữ. Trans.
by James Legge (Hong Kong University Press, 1960).
Baihei lun.白黑論 Bạch hắc luận [Treatise of white and black].
Chan
Wingtsit [Trần Vinh Tiệp], Instructions
for Practical Learning and Others Neo-Confucian Writings by Chuanxi lu Wang Yang-ming (New York: Colombia University Press, 1963).
Commentary on the Laozi. 欲言無邪,而物由以成.欲言有邪,而不見其形, in 王 弼集校釋 Dục
ngôn vô tà, nhi vật do dĩ thành.
Dục ngôn hữu
tà, nhi bất kiến kì hình, in vương
bật tập giáo
thích [The works
of Wang Bi, revised with commentaries] (Zhonghua Shuju, 1980).
Datongshu. 大同書 Đại Đồng thư [Book of the great unity] 康有爲 Khang Hữu Vi
(1935).
Da xue wen. 大學問 Đại học vấn [Inquiry on the great learning], Vương Dương Minh.
Er Cheng ji. 二程集 Nhị Trình tập [Writings of the Cheng brothers] (Beijing: Zhonghua shuju,
1981).
The Great Learning. Trans. by James Legge (Hong Kong University Press, 1960).
Quách
Tượng 郭象自然為正自然不為 Tự nhiên vi chính, tự nhiên bất vi, Commentary
to the Zhuangzi.
Thiệu Ung 皇極經世書
Hoàng cực kinh
thế thư [Crossing of centuries of the noble
ultimate].
Hoài Nam Tử. 淮南子. zzjc edition.
Lão Tử. 老子. See Izutsu 2001.
Liệt Tử. 列子, trans. by Jean-Jacques Lafitte, Traite du
vide parfait (Paris: Albin
Michel,
1997).
Mạnh Tử. Trans. by James Legge (Hong Kong University Press, 1960).
Nhân học. 仁學 [A study of humaneness], by Đàm Tự Đồng 譚嗣同 (1918).
Vương Bật Tập giáo thích 王弼,集校釋 [Complete
works of Wang Bi (Beijing: Zhonghua shuju,
1980).
Vương Dương Minh Toàn thư 王陽明全集 [Complete works of Wang Yangming] (Shanghai
guji chubanshe, 1992).
Trương Tái thư 張載集 [The works of Zhang Zai] (Beijing:
Zhonghua shuju,
1978).
Chu Đôn Hy
thư 周敦頤集 [The works of Zhou Dunji] (Beijing: Zhonghua
Shuju,
1990).
Chu Dịch Lược
lệ 周易略例 [General remarks on the changes of the zhou], in 王弼集校釋 Vương Bật tập
giáo thích [The
works of Wang Bi, revised with commentaries] (Beijing: Zhonghua Shuju,
1980).
Trang Tử. The
Complete Works of Chuang Tzu, trans.
by Burton Watson (New
York:
Columbia University Press, 1968).
Other
References
Billeter,
Jean-Francois 2004 Lecons sur Tchouang-tseu (Paris:
Allia, 2004).
Chan,
Wing-tsit1963 A Source Book in Chinese Philosophy (Princeton University Press).
Cheng,
Anne 1997 Histoire de la pensee chinoise (Paris: Seuil, 1997).
Dalissier,
Michel 2005 Nishida Kitarō, une philosophie de l’unification. Doctoral dissertation, Ecole
Pratique des Hautes Etudes, Paris.
2006a
“The Idea of Mirror in Nishida and Dōgen,” in Heisig 2006, 99–142.
2006b
“De la neontologie chez Nishida Kitarō” フランス哲学.思想研究 Pháp
quốc đích Triết học. Tư tưởng Nghiên cứu 11: 184–94.
2007a
“Unification and Emptiness in Predication: The Stoics, Frege, Quine, Strawson,
Nishida Kitarō. History of Logic under a Topological Enlightenment,”
Philosophia
Osaka (2007): 29–37.
2007b
“Nishida, interprete de Bergson, 1: L’elan et la duree; ii: Bergson et le doublage,”
人文 Nhân văn (2007) 6: 21–51; (2008) 7: 1–44
2008
“La topologie philosophique. Un essai d’introduction a Nishida Kitarō,”
Les
Archives de philosophie 71/4:
631–68.
2009
Anfractuosite
et unification. La philosophie de Nishida Kitarō (Geneve: Droz). The Appendice to this work we refer to in the
present study can be found on-line at www.droz.org/siteDroz/rubrique. php?ID=1002339.
Faure,
Bernard 1998 Bouddhismes, Philosophies et religions (Paris: Flammarion).
Graham,
Angus C. 1989 Disputers of the Dao: Philosophical Argument in Ancient
China (La Salle: Open
Court).
Granet,
Marcel 1934 La pensee chinoise (Paris:
La renaissance du livre).
Hegel,
Georg W. F. 1975 Hegel’s Logic,
trans. by William Wallace (Oxford: Clarendon Press).
Heisig,
James W. 2001 Philosophers of Nothingness: An Essay on the Kyoto School (Honolulu: University of Hawai‘i Press). 2004
“Nishida’s Medieval Bent,” Japanese Journal of Religious Studies 31/1: 55–72. 2006 (ed.). Frontiers of Japanese Philosophy (Nagoya: Nanzan Institute for Religion and
Culture).
Herail,
Francine 1986 Histoire du Japon des origines a la fin de Meiji (Paris: Publication Orientalistes de
France).
Izutsu
Toshihiko 2001 The Way and Its Virtue (Tokyo:
Keio University Press).
Kamenarovic,
Ivan P. 2005 “De la ‘traduction philosophique’,” Revue
Internationale de Philosophie 232:
199–212.
Lee
Seung-hwan 2004 “Continuity and Discontinuity of Traditional and Modern
Philosophy in Korea,” in Korean Philosophy: Its Tradition and Modern Transformation (Seoul:
Hollym).
Lin,
Paul J. 1977 A Translation of Lao Tzu’s Dao Te Ching and Wang Bi’s
Commentary (Michigan
papers in Chinese Studies).
Lynn,
Richard J. (trans.) 1994 The Classic of Changes: A New Translation of the Yijing as
Interpreted by Wang Bi (New York: Columbia University Press) 1999
The
Classic of the Way and Virtue. A New Translation of the Tao-te- Ching of Laozi as Interpreted by Wang Bi (New York: Columbia University Press).
Major,
John S. 1993 Heaven an Earth in Early Han Thought: Chapters Three, Four
and Five of the Huainanzi (Albany: suny Press).
Maraldo,
John 2006 “Self-Mirroring and Self-Awareness: Dedekind, Royce, and
Nishida,” in Heisig 2006, 143–64
Marquet,
J. F. 2001 Restitutions,
etudes
d’histoire de la philosophie allemande (Paris:
Vrin).
Monier-Williams,
Monier 1919 Hinduism (London:
Macmillan).
Nakagawa
Hisayasu 2005 Introduction a la culture japonaise (Paris: puf).
Nishida
Kitarō 1911 An Inquiry into the Good,
trans. by Abe Masao and Christopher Ives (New Haven:
Yale University Press). 1917 Intuition and Reflection in Self-Consciousness, trans. by Valdo H. Viglielmo with
Takeuchi Yoshinori and Joseph S. O’Leary (Albany: State
University of New York Press). 1923 Art and Morality, trans. by Valdo H. Viglielmo (Honolulu: University of
Hawai‘i Press). 1931 “La dialectique de de Hegel considerede de ma position,”
trans. by M. Dalissier and D. Ibaragi, Philosophie (2009). 1933 “The Forms of Culture of the Classical Period of East and
West Seen from a Metaphysical Perspective.” Trans. in David A. Dilworth,
Fundamental Problems of Philosophy (Tokyo:
Sophia University), 237–54. The original text can be found in nkz 7:
429–53.
Nishitani
Keiji 1982 Religion and Nothingness, trans. Jan Van Bragt (Berkeley: University of California
Press).
Pak
Tong-kwan 2004 “Korean Thought: Its Development Pattern Examined in the
Context of Social Circumstances,” in Korean Philosophy: Its Tradition
and Modern
Transformation (Seoul: Hollym), 25–39.
Robinet,
Isabelle 1983 “Kouo Siang ou le monde comme absolu,” T’oung
Pao 69: 73–107.
Sakabe
Megumi 坂部恵 Phản Bộ Huệ 2007
あらわれとおもての解釈学試論
xuất hiện hệ từ diện tiền giải thích học thí luận
[Expression and copula: an essay on the hermeneutics of the face] trong 坂部恵集 Phản Bộ Huệ tập
[Works of Sakabe Megumi] (Tokyo: Iwanami) 3: 51–73.
Takeuchi
Seichi 竹内整一
Trúc
Nội Chỉnh Nhất (ed.) 1996 善の研究用語索引 thiện
tại nghiên cứu dụng ngữ tác dẫn
[Glossary of An
Inquiry into the Good] (Tokyo: Pelican).
Tang
Junyi 1967 “The Individual and the World in Chinese Methodology,” in
Charles A. Moore, ed., The Chinese Mind: Essentials of Chinese Philosophy and
Culture (Honolulu: University of Hawai‘i Press), 264–85.
Vandermeersch,
Leon 1988 “Tradition chinoise et religion,” in Catholicisme
et societes asiatiques (Paris
and Tokyo: l’Harmattan and Sophia University), 28–9.
Watson,
Burton (trans.) 1964 Han Fei Tzu: Basic Writings (New York and London: Columbia University
Press).
Yusa
Michiko 2002 Zen and Philosophy: An Intellectual Biography of Nishida
Kitarō (Honolulu: University
of Hawai‘i Press).
Zheng
Jiadong 2005 “De l’ecriture d’une ‘histoire de la philosophie
chinoise’,” ypc, 121–44.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét