Đọc quá khứ – những cách tiếp cận
lý giải Khảo
cổ học hiện nay (I)
Ian Hodder
Người dịch: Hà Hữu Nga
1. Vấn đề
Càng ngày người ta càng hiểu rõ rằng
cái gọi là KCH Mới của những năm 60 – 70 của thế kỷ XX có rất nhiều khiếm
khuyết. Tuy nhiên người ta ít đồng ý với nhau về thực chất và mức độ của những
khiếm khuyết đó. Có thể khẳng định rằng KCH Mới đã thực sự ngăn chặn sự phát
triển của bản thân KCH [Khảo cổ học] bằng cách cố gộp nó vào những lĩnh vực nghiên cứu khác
(nhân học và đặc biệt là các khoa học tự nhiên). Mặc dù Davis Clarke đã kiên
trì “KCH là KCH là KCH” [1968], nhưng cách tiếp cận của ông vẫn là dựa vào các
ý tưởng thống kê học, địa lý học và các khoa học thông tin, nên đã không đi tới
một KCH độc lập và có thể phát triển. Mặc dù KCH Mới có đóng góp to lớn về mặt
phương pháp luận, nhưng nhiều vấn đề được đặt ra từ giai đoạn trước KCH Mới cần
phải được xem xét lại nếu chúng ta thảo luận đến nơi đến chốn về KCH.
Tất nhiên những cách tiếp cận truyền thống, bản thân chúng có những khiếm
khuyết, và những khiếm khuyết đó cần phải được khắc phục. Nhưng những cách tiếp
cận cổ lỗ hơn đã không được đồng thời vứt bỏ, theo đúng những cách thức mà KCH
Mới đã đối xử với KCH “định chuẩn” [Flannery 1967, Binford 1962; 1965].
Tôi có cách đi riêng để đến với lập
trường này chủ yếu thông qua công trình điền dã dân tộc khảo cổ học với tên đề
tài là Biểu tượng Hành động [1982a]. Từ công trình đó tôi phát triển
thành ba ý tưởng chính, tất cả đều song hành trong giai đoạn KCH trước KCH Mới.
Đó là: 1) văn hoá vật chất là có ý nghĩa; 2) cá nhân cần phải là một bộ phận
của các lý thuyết văn hoá vật chất và biến đổi xã hội; và 3) mặc dù KCH tồn tại
độc lập nhưng nó có những mối quan hệ chặt chẽ nhất với lịch sử. Giờ đây tôi
muốn tóm tắt thành ba “vấn đề”. Schiffer [1976; 1987] đã cho rằng những biến
đổi văn hoá tác động đến mối quan hệ giữa các di tích vật chất và hành vi của
những con người đã sản xuất ra chúng. Biểu tượng Hành động đã chứng tỏ
thêm tầm quan trọng của những “biến đổi – c” theo cách gọi của Schiffer.
Ngay từ đầu, nhận thức như vậy đã
không hề đe doạ gì cho KCH với tư cách là một bộ môn khoa học khái quát hoá.
Schiffer đã chứng tỏ người ta có thể khái quát hoá về “biến đổi - c”. Chẳng hạn
có thể chứng tỏ rằng khi độ dài thời gian và cường độ sử dụng một di chỉ tăng
thì tính tổ chức sẽ tăng cùng với sự vận động thứ sinh của vật được thải bỏ từ
các hoạt động của con người. Trong công trình của tôi ở Baringo, rõ ràng văn
hoá vật chất thường không phải là một phản ánh trực tiếp hành vi của con người;
đúng ra thì đó là sự biến đổi của chính hành vi đó. Chẳng hạn trước đây người
ta đã cho rằng sự tương đồng về kiểu dáng giữa các hiện vật tăng khi tương tác
giữa các con người tăng. Thực tế thì ở gianh giới giữa các nhóm tộc người ở Baringo,
trong khi những tương tác giữa con người tăng nhưng tính tương đồng về kiểu
dáng lại giảm đi. Những phát hiện ấy có thể được liên tưởng tới KCH Mới vì nó
có thể khái quát hoá và ấn định cái “qui luật” mà tính độc đáo văn hoá vật chất
tương quan với những tương tác âm giữa các nhóm [Hodder 1979]. Vì vậy càng có
nhiều sự cạnh tranh giữa các nhóm thì gianh giới giữa các văn hoá vật chất càng
rõ ràng.
Táng thức là một ví dụ khác, cho
thấy rõ ràng văn hoá vật chất không phải là một phản ánh đơn giản, cũng không
phải là một phản ánh trực tiếp các hành vi của con người. Binford [1971] đã đưa
ra một mối tương liên tổng quát giữa tính phức hợp của táng thức và tính chất
phức hợp của tổ chức xã hội. Như Parker Pearson [1982] đã chứng tỏ một cách
tinh tế rằng việc nghiên cứu về các thực hành táng thức gần đây ở Cambridge,
cho thấy những khái quát như vậy đã không lý giải được sự biến đổi văn hoá
trong mối quan hệ giữa các táng thức và con người. Ngay cả trong cái xã hội đã
phân cấp rõ ràng hơn ở Cambridge ngày nay người ta dường như cũng vẫn lựa chọn
cách mai táng người chết theo một lễ thức “bình quân chủ nghĩa”.
Một lần nữa công trình như vậy đã
không nhất thiết đưa đến cuộc chia tay đau đớn cuối cùng khi bị ném vào các
công trình KCH Mới. Có thể tìm thấy những khái quát hoá giống - như - qui luật
về việc tại sao các xã hội lại biểu hiện và phô trương bản thân một cách khác
nhau thông qua các táng thức. Chẳng hạn trong những giai đoạn phát triển sớm
của một xã hội phân cấp cao, thì lúc chết vị thế xã hội có thể được cường điệu
hoá và “tự nhiên hoá”, trong khi ở các giai đoạn sau thì sự phân cấp xã hội có
thể bị “khước từ” thông qua táng thức. Nhưng trong trường hợp thực hành táng
thức, những khái quát hoá như vậy là không thuyết phục và tác động của quan niệm
cho rằng văn hoá vật chất là một sự phản ánh gián tiếp xã hội con người
trở nên rõ ràng hơn. Vậy là chúng ta đã nhận ra rằng các tư tưởng, tín ngưỡng
và ý nghĩa đã nảy sinh giữa con người và sự vật. Mộ táng phản ánh xã hội như
thế nào rõ ràng là phụ thuộc vào thái độ của con người đối với cái chết.
Hoàn toàn có thể nói như vậy về các
gianh giới văn hoá và quá trình tích tụ trầm tích văn hoá. Cho dù một kiểu loại
hiện vật đặc thù thể hiện hoặc không thể hiện thì gianh giới của một nhóm tộc
người vẫn tuỳ thuộc vào những ý tưởng mà con người trong các xã hội đó có đối
với các hiện vật khác nhau và tuỳ thuộc vào cái gì là một hiện vật thích hợp
cho việc ghi dấu ấn nhóm tộc người. Mối quan hệ giữa tổ chức xã hội và trầm
tích KCH phụ thuộc vào thái độ của con người đối với cái dơ bẩn. Vì vậy ngay cả
những nơi ở tạm thời cũng có thể thu gom rác thải một cách cẩn thận và những
nơi cư trú lâu dài cũng có thể tạo điều kiện cho việc thải bỏ những loại chất
thải mà ngày nay chúng ta cho là dơ bẩn và mất vệ sinh. Những thái độ văn hoá
và các ý nghĩa ấy về văn hoá vật chất dường như đã làm mất tác dụng khái quát
hoá các mục đích của KCH Mới, vì toàn bộ nền văn hoá vật chất giờ đây có thể
coi là có ý nghĩa. Theo cách đó thì trên thế giới này đều có những khác biệt
giữa việc xem xét tính chất biểu tượng trong KCH và người chị em “nhân học biểu
tượng” của nó. Nhân học biểu tượng vẫn là một tập con trong nhân học, cùng với
nhân học kinh tế...vv. Có thể cho rằng nhân học kinh tế được nghiên cứu mà
không phải nhờ cậy vào nhân học biểu tượng. Nhưng trong KCH toàn bộ các suy
luận đều phải thông qua văn hoá vật chất. Nếu toàn bộ văn hoá vật chất đều có
phương biểu tượng chẳng hạn như mối quan hệ giữa con người và các sự vật thì
toàn bộ KCH, kể cả KCH kinh tế, xã hội đều được bao hàm trong đó.
Vậy thì vấn đề không còn là “chúng
ta nghiên cứu biểu tượng trong quá khứ như thế nào” mà là “chúng ta làm KCH thế
nào đây?”. Đối với KCH Mới, phương pháp luận được khai thác để lý giải quá khứ
là “cứng” và phổ quát. Nói một cách đơn giản nhất thì có thể liên hệ việc xây
dựng mô thức văn hoá vật chất với việc xây dựng mô thức con người, và đọc mô
thức con người từ mô thức văn hoá vật chất bằng cách áp dụng các qui luật phổ
quát và Lý thuyết Tầm trung. Cuối cùng thì văn hoá vật chất có thể được coi là
sản phẩm của sự thích ứng với môi trường, cả về phương diện vật chất lẫn xã
hội. Vì vậy nếu ai đó hỏi tại sao mô thức văn hoá vật chất lại như vậy thì
người đó cần phải quay trở lại với các câu hỏi về sự sinh tồn mang tính vật
chất. Với một cách tiếp cận “qui giản luận” như vậy người ta luôn luôn tiên
đoán được văn hoá vật chất có ý nghĩa gì, nó phản ánh cái gì trong một bối cảnh
môi trường nào đó.
Nhưng việc khẳng định rằng văn hoá
là có ý nghĩa thì đó chính là khẳng định rằng không thể qui giản được
các thuộc tính của văn hoá. Mối liên hệ giữa văn hoá vật chất và tổ chức con
người một phần mang tính xã hội như chúng ta sẽ thấy dưới đây. Nhưng nó cũng
tuỳ thuộc vào một tập hợp các thái độ văn hoá không thể được tiên đoán từ, hoặc
qui giản vào một môi trường. Các mối liên hệ văn hoá vật chất không được tạo
bởi bất cứ một cái gì khác ngoài bản thân chúng. Tuyệt đối là như vậy. Nhiệm vụ
của các nhà KCH là lý giải cái hợp phần không thể qui giản của văn hoá ấy sao
cho có thể đọc được cái xã hội ẩn sau bằng chứng vật chất ấy.
Vậy thì làm thế nào để bắt tay vào
một “cách đọc” như vậy được? Người ta vẫn cho rằng các đối tượng vật chất là
câm lặng, chúng không nói được, vậy thì làm thế nào để hiểu được chúng? Chắc
chắn rằng một hiện vật từ quá khứ không nói bất cứ điều gì về bản thân nó. Cầm
trên tay một hiện vật từ một nền văn hoá xa lạ, các nhà KCH thường gặp những
khó khăn trong việc đưa ra một lý giải nào đó. Nhưng việc xem xét các hiện vật
chỉ với chính bản thân chúng thì thực sự không phải là KCH. KCH quan tâm đến
việc phát hiện các hiện vật trong các lớp văn hoá và trong những ngữ cảnh khác
nhau (các căn phòng, di chỉ, hố, các mộ táng) nhằm mục đích giải thích các niên
đại và ý nghĩa của chúng.
Ngay khi ngữ cảnh của một hiện vật
được phát hiện thì hiện vật đó đã không còn câm lặng nữa. Các manh mối giúp lần
ra ý nghĩa của nó được chính ngữ cảnh của nó cung cấp. Các hiện vật được phát
hiện trong các ngôi mộ xung quanh cổ của bộ xương thì được lý giải là chuỗi
hạt. Các hiện vật tìm thấy trong những ngữ cảnh được tạo dựng công phu, không phải ở khu cư trú thì được gọi là lễ thức. Rõ ràng
chúng ta không thể khẳng định rằng ngay trong một ngữ cảnh thì các hiện
vật vẫn nói với chúng ta về ý nghĩa văn hoá của chúng, nhưng mặt khác chúng lại
không hoàn toàn câm lặng. Việc lý giải ý nghĩa bị hạn chế bởi việc lý giải ngữ
cảnh. Trong cuốn Biểu tượng Hành động, việc nhấn mạnh vào ngữ cảnh đã
dẫn tới việc đề cập đến táng thức, phong cách, sự trao đổi, các đồ thải, tổ
chức khu cư trú. Toàn bộ các lĩnh vực văn hoá vật chất giờ đây có thể được coi
là những ngữ cảnh khác trong mối liên hệ với nhau. Các hiện vật có thể có ý
nghĩa của những sự vật khác trong những ngữ cảnh khác nhau, nhưng các ý nghĩa
từ một lĩnh vực thì có thể lại được liên hệ theo cách bị biến đổi, với những ý
nghĩa trong những lĩnh vực khác. Việc “đọc” di tích KCH phải tính đến những
biến đổi văn hoá như vậy.
Một số vấn đề và câu hỏi xuất hiện
từ quan điểm ấy. Trước hết, ngữ cảnh là gì? Ngữ cảnh tự thân nó phải
được lý giải bằng dữ liệu, và định nghĩa ngữ cảnh là một vấn đề còn phải tranh
luận. Có phải ngữ cảnh của một loại hiện vật đặc thù được phát hiện trong các
nghĩa địa là một phần của cơ thể, ngôi mộ, một nhóm mộ, cái nghĩa địa đó, khu
vực đó hay bất cứ một cái gì khác? Giới hạn của ngữ cảnh được xác định như thế
nào?
Thứ hai, ngay cả khi giả định rằng
chúng ta có thể tạo dựng ý nghĩa từ những kết hợp ngữ cảnh, những tương đồng và
những khác biệt, thì liệu đó có phải là những ý nghĩa văn hoá trong tư duy của
người ta không?. Chắc chắn là hầu hết ý nghĩa văn hoá của các đối tượng vật
chất là không có ý thức. Một số người hiểu được đầy đủ các nguyên do đưa ta đến
lựa chọn một loại trang phục nào đó phù hợp với một bối cảnh nhất định. Nhưng
liệu chúng ta có cần tìm hiểu những ý nghĩa có ý thức và mang tính tiềm thức
trong tư duy của con người, hoặc có tồn tại những qui tắc văn hoá đơn giản và
những thực tiễn có thể được người bên ngoài quan sát không? Có phải chúng ta
chỉ đơn giản mô tả những qui tắc văn hoá vô thức về một xã hội hay chúng ta
phải hiểu được cả các qui tắc như vậy của những con người trong quá khứ? Chẳng
hạn chúng ta hoàn toàn có thể nói rằng trong một truyền thống văn hoá đặc thù
thì sự khác biệt về táng thức liên quan đến sự khác biệt về xã hội hoặc táng
thức được tổ chức bởi một biến đổi văn hoá/ tự nhiên, hay là chúng ta cần phải
hiểu các thái độ của con người đối với cái chết, bằng cách đạt tới cấp độ “tư
duy của người trong cuộc”?.
Vấn đề thứ ba đã được đề cập đến.
Trong một mức độ nào chúng ta có thể khái quát hoá về các tư tưởng trong tư duy
của con người? Những nguyên tắc khái quát nào đó liên quan đến những mối quan
hệ giữa các đối lập cấu trúc, các liên tưởng, các tương đồng, các ngữ cảnh và
các ý nghĩa đã được sử dụng để lý giải quá khứ và cái thế giới mà chúng ta đang
sống. Ngay cả quan niệm cho rằng ý nghĩa có nguồn gốc từ các liên tưởng ngữ
cảnh cũng là một lý thuyết tổng quát. Trong một mức độ nào thì những khái quát
hoá như vậy có giá trị? Lại nữa, mục đích của KCH là gì? Có phải nó đưa ra các
khái quát hoá không? Nếu chúng ta nói rằng các ý nghĩa là ngữ cảnh phụ thuộc
thì tất cả những gì chúng ta có thể làm là bắt tay vào tìm hiểu mỗi ngữ cảnh
văn hoá theo các thứ tự riêng của nó với tư cách là một tập hợp độc lập các cấu
trúc và thực tiễn văn hoá. Chúng ta không thể khái quát hoá từ văn hoá này đến
văn hoá khác. Ngay cả khi có một số tiền đề chung mà chúng ta cần phải sử dụng
để lý giải quá khứ thì căn cứ vào thực chất rất chung của chúng, các tiền đề
này cũng chỉ là những tiêu điểm vô giá trị đối với việc khảo sát có tính khoa
học. Trong một mức độ nào thì chúng ta có thể khái quát hoá về những ngữ cảnh
văn hoá thống nhất và tại sao chúng ta lại muốn khái quát hoá trong bất kỳ
trường hợp nào?
Những câu hỏi này cũng liên quan đến
vấn đề thứ hai xuất phát từ cuốn sách Biểu tượng Hành động.
Cá nhân năng động
Văn hoá vật chất thực sự không tồn
tại. Nó được tạo ra bởi ai đó. Nó được tạo ra để làm một cái gì đó. Vì vậy nó
không phản ánh xã hội một cách thụ động - đúng ra nó sáng tạo ra xã hội
thông qua các hành động của các cá nhân. Câu hỏi về tầm quan trọng của cá nhân
trong xã hội là một vấn đề đã cũ. Một mặt chúng ta đã biết đến câu nói nổi
tiếng của John Donne “Không phải mỗi người là một hòn đảo, mà trong tính toàn
thể của nó, mỗi người là một mảnh của lục địa, một bộ phận của cái toàn thể”.
Đây là một thuộc tính của cái chân lý cho rằng chúng ta cần nhìn tác động của
xã hội đối với một cá nhân như thế nào. Cuối cùng quan điểm này nói rằng các cá
nhân là ít có ý nghĩa trong cơn sóng triều của lịch sử nhân loại. Mặt khác,
J.S. Mill, một nhà cá nhân luận cổ điển đã nói: “Khi kết hợp lại mọi người
không bị biến thành một loại bản chất khác” [Mill,
J. S., 1963].
Trong KCH Mới, vấn đề cá nhân hoặc
bị lẩn tránh, hoặc được bàn luận vượt khỏi các lý thuyết xã hội. Như Flannery
đã lưu ý [1967], cái đích cần đạt tới không phải là hiểu biết cá nhân người Anh
điêng đàng sau một hiện vật, mà là vươn tới hiểu biết cái hệ thống đằng sau cả
người Anh điêng lẫn hiện vật. Trường phái KCH Qúa trình đã lý luận rằng có những
hệ thống nền tảng mà một văn hoá và các cá nhân không thể có đủ sức mạnh để làm
chệch hướng vận động của chúng. Đó là khuynh hướng quyết định luận – mà người
ta cho rằng việc xây dựng lý thuyết liên quan đến việc phát hiện những mối quan
hệ nhân quả mang tính quyết định luận. Có một mối quan hệ chặt chẽ giữa việc
loại bỏ các khái niệm về niềm tin văn hoá và về cái cá nhân. Cả hai đều được
coi là không thể bị bác bỏ thông qua bằng chứng KCH, và cả hai đều không thể
tiên đoán trước và đều hạn chế việc khái quát hoá.
Nhưng cái quan niệm cho rằng KCH
không thể “thấy” các cá nhân thì chỉ là một quan niệm dối trá. Thực ra thì các
nhà KCH hiếm khi có thể biết được tên của những người chế tạo ra những chiếc
bình, hoặc tên của những thủ lĩnh lớn trong các xã hội. Bằng việc nhấn mạnh vào
cái cá nhân trong lý thuyết xã hội tôi không có ý nói rằng chúng ta nên xác
định “những người đàn ông vĩ đại” và “những phụ nữ vĩ đại”; nhưng mỗi hiện vật
KCH đều được một cá nhân (hoặc một nhóm các cá nhân) sản xuất, chứ không phải
bởi một hệ thống xã hội. Mỗi chiếc bình được
một cá nhân tạo dáng và trang trí hoa văn. Vì vậy KCH đã làm nổi nét vấn
đề quan hệ giữa cá nhân và xã hội. Vậy thì mối quan hệ giữa chiếc bình cá thể
và xã hội tổng thể là cái gì?.
Trong KCH Mới vấn đề trung tâm này
đã bị bỏ qua một cách quá đơn giản. Những chiếc bình cá thể được xem xét độc
lập như là những phản ánh thụ động của cái hệ thống văn hoá xã hội đó. Mỗi
chiếc bình, mỗi hiện vật đều có thể được xem xét nó vận hành như thế nào trong
hệ thống với tư cách một tổng thể. Chẳng hạn chiếc bình phản ánh vị thế của chủ
sở hữu, vì vậy nó hỗ trợ cho người chủ đó phân phối dòng năng lượng và các
nguồn tài nguyên bên trong hệ thống. Hơn nữa hệ thống được xem là đang phát
triển “một khoảng thời gian quá dài”. Vì vậy các ví dụ đơn lẻ về tính khác biệt
không tác động đến sự hoàn chỉnh của hệ thống như một toàn thể có lẽ lại không
có ý nghĩa đối với sự mưu sinh dài hạn của hệ thống và trong bất cứ trường hợp
nào có lẽ cũng là rõ ràng về phương diện KCH.
Hai quan niệm – hệ thống thích nghi
tổng thể và một khoảng thời gian dài - đã dẫn tới sự khước từ cái cá nhân trong
lý thuyết KCH. Kết quả là văn hoá vật chất trở thành một sự phản ánh thụ động
hệ thống xã hội. Khi tạo tác chiếc bình, bất kỳ cá nhân nào cũng hình dung
trong đầu họ, một vật duy nhất quan trọng là cái bình có chức năng gì trong hệ
thống xã hội đó. Cái gì mà một cá nhân cố gắng thực hiện với đối tượng thì lại
trở thành không thích hợp. Công trình dân tộc học miêu tả Biểu tượng Hành động đã chỉ rõ tính chất
khiếm khuyết của quan niệm này. Chẳng hạn trong một làng người Lozi, những
tương đồng về gốm không phản ánh một cách thụ động các mạng lưới học việc và
tần số tương tác giữa những người thợ gốm. Đúng ra phong cách gốm đã được sử
dụng để tạo ra những khác biệt và bổn phận xã hội trong ngôi làng; nó được tạo
ra để có một vai trò năng động. Tương tự như vậy, một số hiện vật đã vạch rõ
những gianh giới xã hội ở Baringo, Kenya, nhưng những cây giáo chẳng hạn thì
lại không. Đó là vì các kiểu dáng của cây giáo do các thanh niên sử dụng là để
xúc phạm đến uy thế của những người già. Chúng đã đóng một vai trò tích cực.
Cái văn hoá vật chất ấy có thể tác
động trở lại và ảnh hưởng đến xã hội và hành vi của con người là cái tạo ra nó,
có thể được KCH Quá trình chấp nhận [Rathje 1978: 52]. Đặc biệt kiến trúc đô
thị và nhà cửa đều hướng về và tác động đến hành vi của con người. Mặt khác,
văn hoá vật chất tự thân nó không thể làm được bất cứ điều gì: nếu nó “tác động
trở lại” xã hội thì nó phải làm như vậy trong các khuôn khổ ý nghĩa bên trong
xã hội. Cung cách mà văn hoá vật chất tác động đến con người là có tính xã hội;
hành động đó chỉ có thể tồn tại trong một khuôn khổ niềm tin, khái niệm và cấu
trúc xã hội.
Văn hoá vật chất và các ý nghĩa đi
liền với nó đóng vai trò là những bộ phận của các chiến lược xã hội. Các cá
nhân không đơn giản chiếm giữ các vai trò mang tính tiền định bằng cách tác
động vượt khỏi các nguyên bản của nó. Nếu họ chiếm giữ các vai trò đó thì có lẽ
ít có nhu cầu sử dụng văn hoá vật chất một cách tích cực để thoả thuận vị trí
xã hội và tạo ra sự biến đổi xã hội. Chúng ta không đơn giản chỉ là những con
tốt đen trong một ván cờ được quyết định bởi một hệ thống - đúng hơn, chúng ta
sử dụng vô số ý nghĩa bao gồm cả biểu tượng văn hoá vật chất để tạo ra những
vai trò mới, để tái xác định những vai trò đang tồn tại và để khước từ sự tồn
tại của những vai trò khác.
Điều đó có thể được lập luận là KCH
Quá trình thực sự liên quan đến tính chất khác biệt cá nhân. Trên hết, có phải
nó đã không phản ứng lại những cách tiếp cận định chuẩn và nhấn vào tầm quan
trọng của hành vi thích nghi tình huống? Câu hỏi liệu KCH Quá trình có thoát
khỏi một lập trường định chuẩn không sẽ được đề cập đến trong suốt tập sách
này. Ngay lúc này cần phải xác định một ngữ cảnh bằng cách làm rõ một số ý
nghĩa đã được xác định cho thuật ngữ định chuẩn trong KCH. Trước
hết nó thường được dùng để chỉ cách tiếp cận lịch sử – văn hoá. Trong ngữ cảnh
này, đôi khi nó tiềm ẩn những ý nghĩa không hay; nó để chỉ lịch sử văn hoá mang
tính mô tả. Trong tập sách này tôi không sử dụng thuật ngữ ấy theo nghĩa như
vậy. Thứ hai “định chuẩn” là để chỉ cái quan niệm cho rằng văn hoá được tạo lập
bởi một tập hợp các niềm tin chung. Đôi khi điều đó hàm chứa những ý tưởng
chung (các chuẩm mực) ẩn sau sự khác biệt tình huống. Thứ ba, có một thành tố
đề xuất các qui tắc chuẩn mực – chúng chỉ rõ cái gì sẽ được làm. Theo nghĩa
này, các chuẩn mực dùng để ấn định những qui tắc hành xử. Tất nhiên người ta có
thể phê phán cách tiếp cận định chuẩn (theo nghĩa thứ nhất) trong khi vẫn quan
tâm đến các chuẩn mực theo nghĩa thứ hai và thứ ba, nhưng cả hai nghĩa thứ hai
và thứ ba của từ đó đều ít khẳng định vai trò cá nhân với tư cách là những tác
nhân xã hội. Tập sách này cũng sẽ thực hiện một phê phán khái quát hơn về các
lập trường định chuẩn.
Việc nhấn đi nhấn lại về cái cá nhân
trong lý giải KCH không phải nhằm khẳng định rằng sự biến đổi tiền sử là kết
quả của “ý chí tự do” hoặc cái cá nhân đặc thù trong quá khứ có thể hoặc sẽ được
khẳng định. Đúng ra mục đích của tôi là kết hợp cả ý nghĩa và tác dụng vào lý
thuyết KCH. Các lý giải của chúng ta về quá khứ cần phải kết hợp những ý nghĩa
văn hoá, các ý định và các mục đích (xem ở trên). Các xã hội không phải là
những tác nhân có tính mục đích luận [Shank và Tilley 1987a: 124], mà là những
tác nhân cá thể. Có thể khẳng định rằng các mục đích, ý nghĩa và ý định tự thân
chúng luôn luôn được cấu trúc trong những quĩ đạo lịch sử, nhưng khái niệm tác
dụng lại tạo điều kiện cho các cá nhân biến đổi các cấu trúc trong những trạng
huống cụ thể. Các chủ thể được đặt vào vị trí thao tác văn hoá vật chất như là
một nguồn và như là một hệ thống dấu hiệu để tạo ra và biến đổi các mối liên hệ
quyền lực và sự thống trị. Cần phải tránh quyết định luận, bởi vì nó thừa nhận
rằng trong những hoàn cảnh cụ thể thì xuất hiện những tình huống ngẫu nhiên,
những cấu trúc ý nghĩa và sự thống trị dần dần được tái cấu trúc [Giddens 1979;
Bourdieu 1977]. Johnson [1989] đã đưa ra một phê phán xây dựng trong các cuộc
thảo luận về mối quan hệ biện chứng giữa cấu trúc và tác nhân
trong các bài viết về KCH gần đây. Ông lưu ý rằng những lý giải về lý thuyết đã
không có bản sao dự phòng bằng những ứng dụng mối quan hệ thực sự linh hoạt
giữa cấu trúc xã hội và tác nhân con người. Những nghiên cứu chi tiết qui mô
nhỏ về tính khác biệt rất cần cho việc xác định mối liên hệ giữa các sự kiện
đơn lẻ, được cấu tạo nghĩa và những cấu trúc dài hạn. Ví dụ riêng của Johnson
xuất phát từ KCH Lịch sử và là bộ phận của một khuynh hướng rộng lớn hơn hướng
về những nghiên cứu lịch sử qui mô nhỏ [chẳng hạn Ladurie 1980; Le Goff 1985;
Duby 1980; và chương 5 của tập này] nhưng những phương pháp luận qui mô nhỏ
tương tự lại liên quan đến các ngữ cảnh tiền sử [Hodder 1987a và b] trong đó sự
đối lập giữa sự kiện cá thể và cấu trúc dài hạn được làm nổi bật.
______________________________________________
______________________________________________
Còn nữa…
Tác giả: GS. Ian Hodder sinh năm 1949, tốt nghiệp cử nhân tại Đại học London năm 1971, nhận học vị tiến sĩ tại Đại học Cambridge năm 1975, trở thành giáo sư Đại học Cambridge từ năm 1977.
Nguồn: Reading the Past – Current approaches to Interpretation in Archaeology. Second Edition. Cambridge University Press 1991.
Tài liệu Tham khảo
Binford, L. R.,
1962. Archaeology as Anthropology.
American Antiquity 28, 217–25.
Binford, L. R., 1965.
Archaeological Systematics and the Study
of Cultural Process. American Antiquity 31, 203–10.
Binford, L. R., 1971.
Mortuary Practices: Their Study and Their
Potential. In J. Brown (ed.), Approaches
to the Social Dimensions of Mortuary Practices, Memoirs of the American
Archaeology Society 25.
Bourdieu, P.,
1977. Race, Language and Culture. New York: Macmillan
Press.
Clarke, D. L.,
1968. Analytical Archaeology. London:
Methuen.
Duby, G., 1980. The Three Orders. Chicago: University of
Chicago Press.
Flannery, K. V.,
1967. Culture History v. Culture Process:
a Debate in American Archaeology. Scientific American 217, 119–22.
Giddens, A., 1979.
Central Problems in Social Theory.
London: Macmillan.
Hodder, I., 1979.
Social and Economic Stress and Material
Culture Patterning. American Antiquity 44, 446–54.
Hodder, I., 1982a.
Symbols in Action. Cambridge
University Press.
Hodder, I., (ed.),
1987a. The Archaeology of Contextual
Meanings. Cambridge University Press.
Hodder, I., (ed.), 1987b. Archaeology as Long-Term History. Cambridge University Press.
Johnson, M. H.,
1989. Conceptions of Agency in
Archaeological Interpretation. Journal of Anthropological Archaeology 8,
189 –211.
Ladurie, E., 1980. Montaillou. London: Penguin.
Le Goff, J.,
1985. The Medieval Imagination.
Chicago: University of Chicago Press.
Mill,
J. S., 1963. Collected Works of John Stuart Mill, J. M. Robson (ed.),
Toronto: University of Toronto Press.
Parker Pearson,
M., 1982. Mortuary Practices, Society and
Ideology: An Ethnoarchaeological Study. In I. Hodder (ed.), Symbolic and Structural Archaeology,
Cambridge University Press.
Rathje, W.,
1978. Archaeological Ethnography…Because
Sometimes It Is Better to Give than to Receive. In R. Gould (ed.), Explorations in Ethnoarchaeology.
Albuquerque: University of New Mexico Press.
Schiffer, M. B.,
1976. Behavioural Archaeology. New York:
Academic Press.
Schiffer, M. B.,
1987. Formation Processes of the
Archaeological Record. Albuquerque: University of New Mexico Press.
Shanks, M. and Tilley, C. 1987b. Re-Constructing
Archaeology: Theory and Practice. Cambridge: Cambridge University Press.
Introduction: The Red Book .
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét