Triết học Bí truyền về तन्त्र* Tantras* Mật giáo स्वसंहिता* Shiva Samhita*
Giới thiệu của Srischandra Basu
Người dịch: Hà Hữu Nga
Giới thiệu
योग*
Yoga được Patanjali định nghĩa là
việc làm dừng lại mọi chức năng वृत्ति* vrtti tư duy. Vì vậy bất kỳ thảo luận nào về vấn đề này nhất thiết
phải tách thành ba bộ phận, đó là i) tư duy; ii) các chức năng tư duy; iii) và
phương thức làm dừng các chức năng đó. Theo chúng tôi không có bất cứ một
chuyên luận nào được coi là có thể hoàn hảo mà lại bỏ qua các vấn đề này. Thực
chất của tư duy là vấn đề đầu tiên cần phải được diễn giải. Nó bao gồm việc
khảo sát toàn bộ các giả thuyết mà các triết gia đã xây dựng nên liên quan đến
thực thể này. Phải chăng nó là phi vật chất và tự tồn tại hay nó chính là vật
chất nhưng đang rã hủy, tùy thuộc vào quá trình phân hủy của cơ thể? Có phải nó
là tinh thần hay hoàn toàn không phải là tinh thần? Liệu có phải đó chỉ là một
giấc mơ, một loại bóng chớp, một ánh phản của cái tối hậu; hay phải chăng đó là
một thực thể tách biệt và toàn vẹn tự thân? Những câu hỏi như vậy và nhiều câu
hỏi khác về thực chất này phải được trả lời trước khi người ta xóa bỏ vấn đề về
चित्त* citta Tâm.
Phần thứ hai bao gồm bảng kê, sự phân loại và các định nghĩa về
các năng lực của tư duy. Phần này nói chung không gây trang cãi, vì các năng
lực của tư duy là những sự thật đã được mọi người hiểu biết rất thấu đáo. Trong
khoa học, nhánh này chính là tâm lý học. Cho đến nay toàn bộ việc khảo sát có
thể nói là mới ở bước đầu, nhưng lại là một bước đi tuyệt đối cần thiết cho
việc hiểu biết đúng đắn bộ phận thứ ba, đó là निरोध* Nirodh, phương thức kiểm soát, làm dừng
tư duy. Bộ phận này bao gồm toàn bộ các phương pháp khác nhau được các cổ tác
gia cũng như các học giả hiện đại chấp nhận và sử dụng cho việc tập trung tư
duy, một bản chất của yoga. Toàn bộ các vấn đề về ăn kiêng, ngủ, thực hành, các
tư thế, và việc tạo điều kiện cho quá trình tập trung tự nhiên thuộc về bộ phận
đó. Có thể thực hiện một quan sát so sánh các phương tiện khác nhau mà các hành
giả yoga, các thánh nhân thiên chúa giáo, các owliyas thánh nhân Hồi giáo vì mục đích này, cũng như các bí tích
mà các nhà phương thuật hiện đại sử dụng để tạo ra trạng thái tư duy này. Trong
phần kết chúng tôi sẽ cố gắng chỉ ra những kết quả tích cực của môn yoga cùng
những năng lực tinh thần do môn này phát triển, cùng các kênh tìm kiếm tri thức
mới do yoga khai mở gắn liền với các công dụng mà nó tạo ra để các đạo sĩ và
môn đồ đạt tới trạng thái phúc lạc trong sáng nhưng siêu phàm. Trong phần Giới thiệu này, chúng tôi sẽ đề cập đến
hai vấn đề: i) Trước hết là tầm quan trọng của việc nghiên cứu môn khoa học
này; và ii) Thứ hai là các phản đối chống lại khoa học này.
Tính chất hữu dụng của khoa học này với tư cách là một phương tiện
văn hóa tinh thần đã luôn bị đặt thành vấn đề. Thực tế cho thấy nhiều người đã
bác bỏ tiêu đề khoa học cho môn yoga.
Đối với tư duy của chúng ta, nghệ thuật và triết học yoga thì không có bất cứ
xác quyết đã được thừa nhận nào về nó với tư cách là một ngành khoa học lại
vững chắc hơn khoa giả kim thuật hoặc chiêm tinh học. Đối với các bộ môn này
thì đó chính là một giấc mơ của các thi sĩ, một trạng thái ảo giác của những
người nhiệt tâm. Bằng quá trình suy lý nào mà họ đi tới được các kết luận đó,
một kết luận hầu như mâu thuẫn với toàn bộ các niềm tin tôn giáo cũng như các
xác tín triết học của cả thời cổ đại lẫn hiện đại – lại không phải là quá dễ
xác định. Nhưng chừng nào chúng ta chưa thể phát hiện ra được thì hầu hết sự
ngờ vực và hoài nghi vẫn còn bị quy cho là sự ngu dốt về chân lý thực của môn
yoga. Tại Ấn Độ, nhiều người hiểu rằng từ योगिन्* yogi hành giả yoga, những hạng người gớm
guốc về nhân tính diễu qua các đường phố với lem luốc bụi bẩn, làm cho trẻ em
kinh hoàng, và moi tiền của lương dân an phận bằng dọa nạt, cưỡng bức hoặc lì
lợm đòi hỏi. Tất nhiên toàn bộ các chân hành giả yoga đều từ chối bất cứ một
hành động nào như vậy. Nếu những con rối được quét bất kỳ một lớp sơn từ ngữ
nào như thế có thể được gọi là hành giả yoga, thì chắc chắn là môn yoga của họ,
theo nghĩa đồng đạo, chỉ là nhơ bẩn vì bùn đất và tiền bạc.
Còn có một lớp người khác ra vẻ thừa nhận danh hiệu thiêng liêng
và quang vinh này, nhưng bằng cách tin tưởng mù quáng và sự vô minh của mình,
họ đã chứng tỏ mình là một khối chướng ngại cản trở sự tiến bộ của môn khoa học
này. Tôi muốn nói đến các hành giả हत योगिन्* hatha yogin, các tu sĩ khổ hạnh lạ lùng
với cách thức hành xác, gây ra các vết thương trên cơ thể nhằm đạt tới giải
thoát tinh thần. Thông qua một suy nghĩ sai lầm cho rằng tâm và vật nhất thiết
phải đối lập với nhau, họ đã phát triển một triết học hành xác với học thuyết
hình như cho rằng năng lực tinh thần càng mạnh mẽ thì càng ít bị đau đớn khi
hành xác. Một nhóm người cùng nhau ngồi theo một tư thế nhất định trong nhiều
năm, cẳng chân họ tê liệt vì bất động; một nhóm khác giơ tay lên trời, và không
bao giờ hạ tay xuống, tay họ teo quắt và trở thành một cành khô đã chết; lại có
những người khác, bất chấp những tác động bên ngoài của tự nhiên, họ thích trải
qua mùa đông trong tuyết lạnh, và sống bên các đống lửa cháy bừng bừng trong
những ngày hè nóng bức nhất. Những con người này, với nguồn năng lượng và bầu
nhiệt huyết định hướng sai đã thực hiện được một cư sử đúng về mối hại. Họ đã
gây dựng được một lòng tin của loại tư duy thông thường cho rằng yoga hoàn toàn
không thể đạt tới được kết quả mà không có các thực hành khổ hạnh mà những con
người không được chuẩn bị để đấu tranh với bản chất vật chất chẳng hạn như các
cuộc vật lộn khắc nghiệt của các hành giả हत योगिन्* hatha yogin, thì không bao giờ nên trông
chờ có được bất kỳ bước tinh tiến nào về tinh thần. Một loại hình hành giả
yogin khác nhưng duy lý và cao quý hơn nhiều; đó là những người có thể được gọi
là các tu sĩ ẩn dật. Những con người này có trí tuệ rất cao, và thường được
hưởng một nền giáo dục hoàn hảo. Nhưng đối với chúng ta, dường như họ cũng đã
mắc phải sai lầm lớn. Bằng một ngoại suy giả nào đó về vật chất, họ cho rằng
không thể thực hành yoga theo nguyên tắc गृहस्थ आश्रम्* grihastha ashram [tự viện
chủ hộ*] vừa tu tập vừa thực hiện trách nhiệm của người chủ gia đình; muốn đạt
được các sức mạnh tinh thần thì hành giả phải từ bỏ cha mẹ, vợ con để lánh vào
tu tập trong vùng hoang mạc hoặc nơi thâm sơn cùng cốc. Theo phương thức đó,
thì không khí cuốn hút và mất trí của các đô thị và khu cư trú
không thuận lợi cho văn hóa tâm linh, mà chỉ có những nơi vẳng vẻ, tịch mịch
của hoang mạc hoặc hang động mới là nơi tốt nhất cho sự thăng tiến của hành giả
yogin. Định kiến cho rằng không có bất cứ một गृहस्थ*
grihastha chủ hộ nào lại có thể trở thành
một hành giả đó chính là niềm tin ngấm ngầm của những người anh em Ấn Độ giáo
có đầu óc thuần túy tinh thần của chúng ta; họ không còn suy tư về việc thực
hành yoga đạt được kết quả khi không trở thành một nhà tu khổ hạnh mà chỉ du
hành lên mặt trăng. Không những thế niềm tin này lại được một số nhà tu khổ
hạnh ẩn dật đa cảm đẩy tới đến mức ngớ ngẩn, trong khi họ lại suy nghĩ một cách
nghiêm túc rằng mối giàng buộc hôn nhân thiêng liêng và linh thánh chính là một
trở ngại không thể vượt qua được trên hành trình tu tập của một nhà khổ tu tập
sự. Khi nhìn vào hình ảnh đáng tởm của một kẻ hành khất lười nhác và bẩn thỉu,
những kinh hoàng của một hành giả हत योगिन्* hatha yogin, và sự lãnh đạm vô nhân của
nhà ẩn tu thì không còn phải băn khoăn gì nữa khi cho rằng nhiều người sẽ nghĩ
trên hết, yoga là một trò đại bịp, vì vậy không đáng để một người có đầu óc
lành mạnh phải bận tâm xem xét.
Còn một loại phản đối khác, đó là những người không tin vào những
năng lực lạ và huyền bí mà việc thực hành yoga đã đem lại cho các môn đồ sùng
mộ. Các nhà khoa học hiện đại thuộc vào lớp người này; họ là những người học
hành xuất chúng và hiểu biết minh bạch, những con người được trang bị bằng một
nền giáo dục của mình, và họ theo đuổi việc tìm tòi khám phá một lĩnh vực phức
tạp như Yoga. Chỉ có điều đáng tiếc là họ vẫn còn có cái nhìn khinh thị đối với
các xác quyết về môn Yoga với tư cách là một khoa học. Các quyền năng mà những
con người như Sankaracharya và Guru Nanak có được như việc truyền khả năng thấy
trước của linh hồn họ vào các cơ thể khác, việc họ phóng chiếu कामरूप* Kama-rupa [ý chí dưới dạng hình thể] của mình đến các vị trí xa
xôi, họ có khả năng chữa bệnh, v.v...là quá nhiều rào cản đối với các nhà khoa
học hiện đại. Trưởng thành trong một môi trường duy lý đến khắc nghiệt với sự
quan sát và thực nghiệm chặt chẽ, chính xác, nhà khoa học không hề mong muốn
trao gửi lòng tin của mình cho những kỳ vọng của các nhà Yogin mà không có bằng
chứng thuyết phục. Chúng tôi cho rằng đòi hỏi ấy là tự nhiên, chỉ có điều chúng
tôi hy vọng rằng lương thức của nhà khoa học đã chỉ rõ cho chính nhà khoa học
thấy tính chất phù phiếm của sự phản đối của ông. Ông cần phải biết rằng trong
khi cái khoa học của mình giải quyết các vấn đề có thể được nhận thức bằng tri
giác, vì vậy mà thậm chí có thể được thể hiện như một kẻ đại ngu dốt, thì chính
bảng chữ cái Yoga là जीवात्मन्* Jivatman
ngã thể và परमता* Paramata cứu cánh – những sự vật về cơ bản là phi vật chất. Trong
thực tế có thể không tồn tại sự tương đồng giữa khoa học tự nhiên và Yoga về
phương diện này.
Việc nghiên cứu cả khoa học tự nhiên và khoa học tinh thần, không
nghi ngờ gì nữa, cần phải được thực hiện thông qua thực nghiệm và quan sát,
nhưng các đối tượng của môn khoa học tự nhiên thì tất cả đều là vật thể
tồn tại bên ngoài chúng ta, trong khi đó đối tượng của khoa học tinh thần thì
lại chỉ là ý niệm và tư duy. Toán học có lẽ là khoa học duy nhất có thể có đôi
chút tương đồng nào đó với Yoga. Đối với một kẻ quê kệch, các phép tính của nhà
thiên văn học sử dụng để tiên đoán một hiện tượng thiên thực, thực sự là một
thứ gì đó không thể hiểu được, trừ khi anh ta bỏ ra nhiều năm trời để nghiên
cứu môn toán học; vì vậy lại càng không thể sử dụng lối tư duy khoa học thông
thường để có thể thấu hiểu được các kết luận về Yoga, trừ khi họ bắt tay vào
nghiên cứu môn này. Đối với câu hỏi tại sao các nhà Yoga không chỉ ra các hiện tượng, thì nó có thể được trả lời
bằng hai cách. Tất cả các hành giả Yoga không có năng lực tạo ra được các biểu hiện hữu hình của các lực lượng vô
hình. Rất nhiều người trong đa số các nhà Yoga Ấn Độ giáo thực hành Yoga vì mục
đích phát triển tinh thần, và tìm kiếm sự bình yên của tâm hồn. सिद्धि* siddhis, năng lượng tinh thần không phải là tham vọng tự ngã của
họ, họ không hề cầu tầm nguồn năng lượng đó, họ cũng hề không hãnh mạn khi
thỉnh thoảng có thể tạo ra được một vài hiện tượng nào đó. Cặp mắt hướng đến मोक्ष* mokhsha giải thoát, các hành giả Yoga không nấn ná vào lối nhặt
nhạnh những đồ trang sức rẻ tiền kiểu सिद्धि* siddhis. Những con người này, mặc dù
không bao giờ khoe khoang bất cứ một hiện tượng nào trong suốt dòng đời họ, mà
họ chỉ thuyết phục con tim chúng ta bằng trực giác thông qua sự thuần khiết,
không những thế, mà chính là tính linh thánh của cuộc đời mình. Bạn có thể phân
biệt được một hành giả Yoga thực thụ trong số hàng ngàn người thực hành Yoga
bằng vào sự thanh thản, bình lặng trên vẻ mặt của họ, một cái gì đó khôn xiết
tả trong ánh mắt, giọng nói, và mỗi cử động của cơ thể, nhờ ở những kết quả bất
biến của सम* Shama
chính định và दम* Dama
tự tại. Đến bất cứ nơi nào thì hành giả Yoga cũng mang theo sự an lạc và thuần
khiết. Không bao giờ có tình trạng gặp một hành giả Yoga mà lại không thấy
thanh thản, dễ chịu. Ông chính là nguồn cội của lòng từ bi; sự điềm tĩnh và tập
trung vô bờ bến của vị hành giả tạo nên dáng vẻ đáng tôn kính vô cầu nơi ông.
Nói tóm lại, thật may mắn cho ai trong đời được chiêm bái một hành giả Yoga như
vậy; và nếu chúng ta tin vào những nguồn năng lượng như vậy thì hãy coi Yoga là
chứng hoang tưởng hoặc một ảo hóa, chắc chắn nó sẽ đem lại cho ta phúc lạc.
Loại hành giả đó được gọi là सिद्ध* Siddhas,
成就者 Thành tựu giả,
người có khả năng tạo ra những hiện tượng cực kỳ hiếm có; hoặc tối thiểu họ
cũng không lẫn với người thường. Nhưng họ cũng không quá hiếm đến mức khó mà
tìm được lúc cần. Đó chính là các thành tựu giả có thể làm thỏa mãn tinh thần
thực nghiệm của nhà khoa học. Đó là những con người bằng ý chí có thể tạo ra
các hiện tượng tinh thần không thể không thuyết phục được hầu hết những người
hoài nghi. Nhưng vì nhiều lý do, các thành tựu giả giỏi nhất luôn luôn hiếm khi
thể hiện năng lực của họ trước người lạ. Chỉ có tình bạn mật thiết và lâu dài
mới có thể khiến họ vượt qua sự e ngại để thể hiện quyền năng của mình. Độc giả
khoa học của chúng ta, những người mà tôi băn khoăn về vấn đề này và nghĩ rằng
thà là không thể giải thích được cho họ còn hơn là những kẻ biết một khoa học
lạ như vậy sẽ lưỡng lự không tin tưởng rằng sự thật sẽ thỏa mãn được thế giới
bên ngoài.
Nhưng đức hạnh của các thành tựu giả ấy lại không hề khó giải
thích và không hề bí ẩn. Ngày nay, nếu không nhầm thì đa số các सिद्ध* Siddhas, 成就者* Thành
tựu giả* ấy đều thuộc chủng tộc Aryas, hoặc thuộc các chủng tộc gần như
liên minh với người Aryas. Người Aryas, như mọi người đều biết, là những
người đố kị nhất trên trái đất về phương diện khoa học của họ. Rất khó mà chiếm
được lòng tin của họ. Bị chống đối bởi các chủng tộc xâm lăng thành công, dân
tộc Ấn Độ đã biết được rằng phương tiện duy nhất để bảo tồn được các bộ môn
khoa học và các kinh bổn thiêng liêng của họ là giữ gìn các di sản đó trong sự
bí mật tuyệt đối. Và không còn nghi ngờ gì nữa, đó chính là cách thức bảo tồn
hiệu quả nhất trong thời cổ. Và chúng ta không thể không đồng ý với các ứng xử
khôn ngaon của tổ tiên chúng ta trong lĩnh vực này.
Chắc chắn là thế giới sẽ không đánh giá hết được giá trị của các शास्त्र* Shastras
tri thức và các वेदस्* Vedas khoa
học sớm đó. Chúng tôi tin chắc rằng hai thế kỷ trước, thế giới khó mà hiểu được
nhiều công trình khoa học của chúng ta, cho dù họ có được tiếp xúc. Ngay cả
ngày nay với rất nhiều tiến bộ mà ngôn ngữ học và môn nghiên cứu văn phạm đã
đạt được, nhưng chúng ta vẫn thấy rất nhiều bất công liên quan đến việc diễn
giải sai lầm các nguồn văn liệu của tổ tiên chúng ta. Thật quá trễ tràng để nhà
văn phạm पाणिनि* Panini* của
chúng ta mới được hiểu là một nhà khoa học giỏi nhất về lĩnh vực này, không chỉ
có thế, thậm chí còn có thể tiến xa hơn để xác quyết rằng phát hiện của ông
chính là một trong những nền tảng cho Cấu trúc Phổ quát của ngữ pháp châu Âu
hiện đại.
Vậy là ngay cả khi các học giả Ấn Độ, không là ai khác ngoài các
hành giả Yoga, vẫn còn rất đố kỵ với các khoa học thế tục thì chúng ta lại đổ
lỗi cho các सिद्ध* Siddhas 成就者* Thành tựu giả
ấy rằng họ không hề minh bạch và cởi mở. Chắc chắn họ phải có những nền tảng
vững chắc để bọc kín quyền năng của mình nhằm tránh những cặp mắt tò mò của
ngoại đạo xa lạ. Chắc chắn chúng ta không có quyền gọi họ là những kẻ mạo danh
và gọi khoa học của họ là một vớ vẩn, nếu họ không tuân theo những nhũng nhiều
vu vơ của chúng ta. Đối với những người tìm tòi tri thức thành tâm, với những
người khao khát tái sinh tinh thần thì họ luôn luôn được mở cửa đón chào. Các
thành tựu giả luôn sẵn sàng truyền dạy khoa học của mình; nhưng họ luôn mong
đợi những người xứng đáng được trao món quà cao quý đó. अधिकारी* adhikari
những người xứng đáng đang ở đâu? Những người thích hợp và mong mỏi được tu
luyện tinh thần để theo đuổi và hiểu biết các qui trình đạt đến quyền năng của
một thành tựu giả đang ở đâu? Đang ở đâu những con người có một ý chí vững
chắc, những con người có mục đích trang nghiêm, những con người bền gan vững
trí, không quản chọn con đường đơn độc để đi? Chúng ta biết có quá ít những con
người đánh dấu sự thành công trong các khoa học thông thường về con người.
Chúng ta không còn được gặp Newtons, Franklins, Tyndalls và Darwins ở bất cứ
nơi nào nữa, vậy thì chúng ta phải chờ để được gặp các hành giả Yoga và các
Thành tựu giả đã tạo thành những con người bình thường – mà tinh thần của họ
hoàn toàn đang ngủ im hoặc đã chết.
____________________________________
Còn nữa...
Nguồn:
The Esoteric Philosophy of the Tantras
Shiva Samhita, introduced and translated by Srischandra Basu, B.A., F.T.S.,
Vakil, High Court, N.W.P. Calcutta Heeralal Dhole, 127, Musjidbari Street,
1887.
Ghi
chú của người dịch: Các từ có đánh dấu sao [*] là do
tôi, Hà Hữu Nga, trộm dịch sang tiếng Phạn, tiếng Hán, và tiếng Việt để tiện
cho bản thân trong việc nghiên cứu, so sánh và xác định nghĩa của từ mà thôi.
तन्त्र tantra: nghĩa
đen là khung cửi; nghĩa bóng là nguyên tắc, hệ thống, học thuyết; chuyển sang
tiếng Anh là tantricism, có nghĩa mật giáo.
स्वसंहिता shiva samhita: tự kết nối, là
chính bản thân mình.
पाणिनि Pāṇini: Ông là một nhà văn phạm học
tiếng Sanskrit từ thế kỷ thứ VI trước tây lịch, người Pushkalavati, Gandhara,
nay thuộc Pakistan; ông nổi tiếng với hệ thống ngữ pháp gồm 3.959 quy tắc hình
thái học, cú pháp và ngữ nghĩa học tiếng Sanskrit, được gọi là अष्टाध्यायी Astadhyayi,
nghĩa là tám chương.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét