Phù
Nam nhìn lại: Giải cổ tác gia (II)
Michael Vickery
Người dịch: Hà Hữu Nga
Tiền
sử Phù Nam
Chúng ta hãy bắt đầu với tiền sử Phù Nam theo
các văn liệu Trung Quốc. Có nghĩa là thông tin về quá khứ cổ đại của mình đã được
người Phù Nam cung cấp cho các sứ bộ đầu tiên của Trung Quốc là 康泰* Khang Thái và 朱應* Chu Ứng, đã đến Phù Nam giai đoạn
245 – 250 SCN. Các tích truyện này là những truyền thống truyền khẩu, hoàn toàn
khác về giá trị bằng chứng lịch sử thu được từ các quan sát của những người khác đến
Phù Nam, hoặc các báo cáo đương thời mà người Trung Quốc có được về Phù Nam 22.
Dã sử của người Phù Nam cũng giống như dã sử của
nhiều dân tộc khác, cả ở châu Á lẫn châu Âu, đều bắt đầu bằng một truyền thuyết
khai sáng; và cũng giống như các truyền thuyết khai sáng khác nó liên quan đến một
anh hùng có nguồn gốc ngoại quốc 23. Các sứ bộ Trung Quốc đầu tiên vào
thế kỷ thứ ba đã nghe kể về truyền thuyết này, và nó đã được kể lại trong các
cuộc tiếp xúc sau đó giữa Phù Nam và Trung Quốc, và được ghi lại trong một số
văn liệu lịch sử Trung Quốc. Ngoài ra còn có 4 phiên bản khác nhau về cách thức
thú vị này.
- Phiên bản đầu tiên có được từ báo cáo của 康泰* Khang Thái vào thế kỷ 3 SCN và được lưu giữ trong các ghi chép về
sau. Thủ lĩnh Phù Nam đầu tiên là một phụ nữ có tên là 柳葉 Liễu Diệp Liu-ye/Lieouye/liǝu-iäp.
Còn 混填* Hỗn Điền Hun/ Ƴuǝn/
Houen-chen/ là người thờ một vị thần, có xuất sứ từ 摸趺國* Mạc
Phu quốc, nhờ được ban chiếc cung thần, đã khuất phục được 柳葉* Liễu Diệp và trở thành vị vua đầu
tiên của Phù Nam [Pelliot 1925- 3[6].24 .
- Phiên bản 2, văn liệu III-(3[6]): nữ thủ
lĩnh người Phù Nam là 柳葉* Liễu Diệp. Còn 混填[潰]* Hỗn Điền [Hội] là một người nước ngoài thờ các thần
linh nên có được cây cung thần, theo thương thuyền đến Phù Nam, khuất phục Liễu
Diệp rồi cưới bà làm vợ 25.
- Phiên bản 3, văn liệu V-(4[6]): nữ thủ lĩnh
người Phù Nam là 柳葉* Liễu Diệp. Còn 混填* Hỗn Điền là một người 激國* Kích quốc, có cây cung thần, đến Phù Nam, cưới Liễu Diệp 26.
- Phiên bản 4, văn liệu VI-(6[7]): nữ thủ lĩnh
người Phù Nam là 柳葉* Liễu Diệp. Còn 混填* Hỗn Điền là một người 徼国* Kiếu quốc ở phương Nam, thờ các thần linh nên có cây cung thần, đến Phù
Nam, cưới Liễu Diệp. Họ cùng cai trị vương quốc và chia 7 thành cho các con
trai 27.
Như Pelliot đã nhấn mạnh, trong vài thế kỷ, một
số tích truyện về Phù Nam đã được kể đi kể
lại, nên thay đổi một số chi tiết trong một số bộ sử Trung Quốc. Điều đó
rất đúng với các tích truyện từ thời tiền sử; và đó cũng là các tích truyện có ảnh
hưởng nhất đến các nhà tổng hợp hiện đại về lịch sử Phù Nam. Trong sự kiện tiền
sử đầu tiên này, việc hình thành hoàng tộc đầu tiên, không có bằng chứng cho thấy
người chinh phục đầu tiên có nguồn gốc Ấn Độ, cũng không có gì rõ ràng về việc
ông là một người Bà La Môn, và hầu như chắc chắn tên ông chỉ được ghi bằng tiếng
Trung Quốc chứ không phải là कौण्डिन्य* Kaundinya, như chúng tôi sẽ giải thích dưới
đây.
Về vấn đề thứ nhất Pelliot đã đồng ý. Ông
không thể đưa ra bất cứ gợi ý nào cho 激國* Kích quốc, 徼国* Kiếu quốc, mà chỉ coi chúng là những biến thể của một
cái tên duy nhất, và lưu ý rằng 徼国* Kiếu quốc ở phía nam Phù Nam. Còn về trường hợp 摸趺國* Mạc
Phu quốc, theo báo cáo của Khang Thái, thì trong một đoạn
khác của văn liệu này quê hương của người lạ ấy lại có tên là Heng-tie, trong khi đó theo Pelliot thì những
chữ Hán Mo/Heng và Fu/Tie hoàn toàn tương đồng và được người đi sau, không biết
gì về các địa phương đó, đã chép thế cho nhau. Để quyết định xem chữ nào giống
với nguyên mẫu nhất, Pelliot đã sử dụng phương pháp chọn “các chữ đã được sử dụng
trong việc chuyển dịch [các tên nước ngoài]” và ông đã chọn để kết hợp Mo-tie/mâk-d'iet
28. Cách kết hợp đó có thể không chính xác, nhưng báo cáo dẫn hai từ
“Heng-tie” cho rằng nó nằm ở đông nam Yeou-po, cách Ấn Độ về phía đông nam 5000
hải lý. Trong trường hợp đó thì nới mà Hỗn Điền khởi hành để đến Phù Nam có thể
thuộc bờ biển phía đông của bán đảo Mã Lai. Vì vậy mới có chuyện Coedès rất mù
mờ trong việc định vị địa điểm này như đã nói ở trên. Sự mơ hồ đó lại kèm theo
với các huyền thoại chính trị Indonesia trong đó “nhấn mạnh ...là...ở “bên kia
biển” chứ không có một địa điểm xác định” 29.
Còn về cái tên của vị khách có âm tiết đầu là
Hun/Ƴuǝn, còn âm tiết thứ hai thì
Pelliot vá víu với các chữ Hán trong bốn phiên bản trên thành Tien hoặc D’ien để
có thể chấp nhận được về phương diện ngữ âm học nhằm thể hiện một cách hợp lý
âm tiết thứ hai của cái tên Kaundinya. Tuy nhiên nếu đó là cái tên gốc thì thật
đáng ngạc nhiên là không hề có một văn bản nào nhắc đến âm tiết thứ ba, vì như
các nghiên cứu Hán tự đã nhấn mạnh, người Trung Quốc đã rất tài năng trong việc
chuyển âm một cách hệ thống ở nhiều khu vực tại châu Á, đặc biệt là các vùng sử
dụng ngôn ngữ Ấn Độ 30.
Về phương diện định hướng tôn giáo cho Hun/Ƴuǝn các nguồn gốc trên bán đảo Mã Lai của
ông nói riêng mà Pelliot cho là có thể không muộn hơn thế kỷ I, đã gây khó dễ
cho việc chấp nhận ông thờ cúng một vị thần, hoặc các vị thần, thì là người Ấn
Độ. Hơn nữa, như đã chỉ ra bên dưới, bản thân người Phù Nam thời gian đó không
chắc chắn quen thuộc Ấn Độ. Trừ phiên bản thứ nhất, cả ba phiên bản đều tiếp tục
tích truyện bằng những cung cách khác nhau như sau:
- Phiên bản 2 III-(3[6]): dòng dõi của Liễu Diệp
và Hỗn Hội cai trị.
- Phiên bản 3 V-(4[6]): con cháu của Liễu Diệp
và Hỗn Điền cai trị đến khi
混盤況* Hun Pan huang
Hỗn Bàn Huống chết 31.
- Phiên bản 4, VI-(6[7]): Hỗn Điền và Liễu Diệp
có một con trai và họ đã phân phong cho người này một thái ấp gồm 7 thành. Một
hậu duệ là 混盤況* Hun Pan huang Hỗn Bàn Huống đã kiểm soát toàn bộ
các thành, sau đó phân phong cho con cháu cai trị 32.
Tiếp đó, giai đoạn thứ ba trong ba phiên bản
trên là:
-III-(3[6]): các hậu duệ của Liễu Diệp và Hỗn
Hội suy yếu và mất quyền thống trị. Sau đó viên tướng 範熊* Fan Hsiun/Siun Phạm Hùng bắt đầu một
triều đại mới.
-V-(4[6]): sau khi 混盤況* Hun Pan huang
Hỗn Bàn Huống chết, người ta chọn viên tướng tài 范師蔓* Fan Shih man Phạm Sư Mạn lên làm vua. Khi ông chết
thì 范旃* Fan chan, Phạm Chiên, người cháu con chị gái của
ông giết chết con cả của 范師蔓* Fan Shih man Phạm Sư Mạn và lên
làm vua; sau đó một người con khác của 范師蔓* Fan Shih man Phạm Sư Mạn, là 范長* Fan chang
Phạm Trường, giết chết 范旃* Fan chan, Phạm Chiên. Rồi viên tướng của 范旃* Fan chan
Phạm Chiên là 范金* Fan hsin Phạm Kim giết chết 范長* Fan chang
Phạm Trường, và người dân nước này chọn ông làm vua. Điều đó xảy ra vào thời Ngô
(222-280), và Tấn (265 - 419) 33.
- VI-(6[7]): người con thứ hai của 混盤況* Hun P’an huang
Hỗn Bàn Huống là 盤盤* P’an P’an Bàn Bàn nối ngôi và trao
công việc quốc gia cho viên tướng 范蔓* Fan man Phạm Mạn [cũng chính là 范師蔓* Fan Shih man Phạm Sư Mạn hoặc Sri Mara trong
các tích truyện khác]. Sau khi 盤盤* P’an P’an Bàn Bàn chết, người dân tôn 范蔓* Fan man Phạm Mạn lên làm vua. 范蔓* Fan man Phạm Mạn đóng những con tàu lớn và
chinh phục các quốc gia láng giềng, gồm cả Tun sun Đốn Tốn. Ông được tôn là
“Vị vua Vĩ đại của Phù Nam”. Sau đó là các cuộc giết tróc nội tộc, rồi 范金* Fan hsin Phạm Kim, viên tướng của 范旃* Fan chan
Phạm Chiên lên ngôi 34.
Trong các văn liệu Trung Quôc, còn một tình tiết
khác trước khi bước vào giai đoạn lịch sử cùng thời với các sứ bộ đầu tiên của
Trung Quốc.
- X-(3[5]): Trong thời 范旃* Fan chan
Phạm Chiên [cháu của 范師蔓* Fan Shih man Phạm Sư Mạn], một người
nước T'an Yang đến Ấn Độ, sau đó đến Phù Nam và ông ta đã kể cho 范旃* Fan chan
Phạm Chiên về các phong tục, sự giàu có và vĩ đại của Ấn Độ 35.
- VI-(6[7]), 范旃* Fan chan
Phạm Chiên phái một sứ bộ đến Ấn Độ. Ông ta đi dọc ven biển [phía tây của bán đảo]
sau đó đến con sông Ấn Độ [Hằng Hà?], mất một năm để tới được thành phố nơi vua
Ấn Độ trị vì. Vua Ấn Độ ngạc nhiên gặp ông, vì nhà vua không biết gì về Phù
Nam. Ông cử một phái bộ đến Phù Nam mang theo 4 con ngựa; phái bộ Ấn Độ cùng về
với phái bộ Phù Nam, và họ từ Ấn Độ về đến Phù Nam sau 4 năm kể từ khi phái bộ
Phù Nam được gửi đi Ấn Độ. Đó cũng chính là thời gian mà các phái bộ đầu tiên của
Trung Quốc đến Phù Nam. Họ hỏi những người Ấn Độ rất kỹ về đất nước Ấn Độ 36.
Với tình tiết này, chúng ta đang ở trong thời đoạn lịch sử cùng các sứ bộ đầu
tiên của Trung Quốc đến Phù Nam khi 范金* Fan hsin Phạm Kim lên làm vua. Vì vậy hai vụ
sát hại nội tộc cuối cùng trong triều đại Fan của 范旃* Fan chan
Phạm Chiên do 范長* Fan chang Phạm Trường gây ra, và sau đó là do 范金* Fan hsin Phạm Kim gây ra, đã diễn ra trong 4
năm khi phái bộ đi Ấn Độ.
Trong các diễn giải này chúng ta thấy trước hết
là một triều đại Hun với số thế hệ không thể xác định được, tiếp theo đó là triều
đại Fan rất ngắn rõ ràng là thuộc thế hệ thứ ba, nói là “rõ ràng” bởi vì mối
quan hệ giữa 范金* Fan hsin Phạm Kim với những người
kế thừa trực tiếp không được ghi lại, đã trị vì Phù Nam khi người Trung Quốc tới
vào các năm 245 – 250 SCN 37.
Mặc dù Pelliot muốn thấy cái tên Hỗn Điền mà
trong thực tế là một hỗn hợp bốn cái tên khác nhau (trong âm tiết thứ hai)
trong bốn văn bản khác nhau, khi người Trung Quốc dịch hai âm tiết đầu tiên [kaun-diri]
từ cái tên Kaundin[ya], thì việc diễn giải này được chuyển dịch có vẻ không hợp
lý bằng tên tước vị hậu duệ của ông là 混盤況* Hun P’an huang
Hỗn Bàn Huống, trong đó âm tiết thứ hai và thứ ba không ăn nhập với âm tiết thứ
nhất để có được bất kỳ một cái tên hoặc một tước vị nào của Ấn Độ đã biết; còn
riêng từ kaun không được dùng làm đại diện cho cái tên 'Kaundinya' hoặc bất cứ
cái tên nào khác được. Chúng ta phải kết luận rằng Hun/Ƴuǝn là một tên thị tộc hoặc một tước vị tiền sử Austronesian hoặc
Mon-Khmer mà trong huyền thoại gốc của Phù Nam chính là tước hiệu của các thủ
lĩnh, có lẽ là huyền thoại, đầu tiên38. Dưới đây chúng tôi sẽ đưa
thêm bằng chứng khác cho thấy Hun/Ƴuǝn
không hề có liên hệ gì với cái tên 'Kaundinya' cả. Các tích truyện kể về vị thủ
lĩnh Hun đầu tiên đã trao cả 7 thành cho các con trai ông cũng quá mơ hồ đối với
một nghiên cứu nghiêm túc, và các tích truyện đó thuộc về một truyền huyền thoại
rất phổ biến ở Đông Nam Á. Vì vậy trong các truyền thống Lào những người sáng lập
đầu tiên của vương quốc này đã cử các con trai họ đi lập 7 chính thể khác nhau,
được gọi là Mường trong tiếng Thái và
tiếng Lào 39. Pelliot chắc chắn cũng hiểu rõ tính chất mong manh trong
sáng tạo của ông, nhưng vẫn phải bảo vệ nó với một chút khẩn nài riêng biệt. Trong
công trình nghiên cứu đầu tiên của mình, ông thừa nhận rằng “nguồn thông tin
duy nhất về khởi đầu lịch sử của vương quốc cổ này mà chúng ta có được lại mang
đặc trưng huyền thoại”; và ông đã dịch hai từ tiếng Hán 柳葉 Liu ye/Lieouye/liǝu-iäp là “người trị vì mơ hồ Lá Liễu”. Hai mươi hai năm sau ông đã
lưu ý về tính chất không chắc chắn của các tên địa danh và vị trí của chúng khi
nói rằng tích truyện về Kaundinya rành rành là có đặc tính truyền thuyết, và
chi tiết về chiếc cung thần không là cái gì khác ngoài một đặc trưng dân gian. Nhưng
ông vẫn biện hộ rằng “tuy nhiên cũng đã có một thời, khi đó các vị Bà La Môn đầu
tiên xuất hiện ở Phù Nam, và khi đó nền văn minh Ấn Độ đã bén rễ. Tại sao lại
là vô lý khi một Kaundinya thực sự là một trong những tác nhân chủ yếu của quá
trình Ấn Độ hóa đó?” 40.
Trước hết, ngay cả khi không có bất cứ lợi ích
gì của sự nhận thức muộn màng dưới dạng các nghiên cứu sau này về quá trình “Ấn
Độ hóa”, thì cái thời được gán cho Hỗn Điền, thế kỷ I SCN cũng là quá sớm. Không
hề có bằng chứng về quá trình Ấn Độ hóa [tôn giáo, nghệ thuật, kiến trúc, các
khái niệm về nhà nước] ở bất cứ nơi nào tại Đông Nam Á vào thời điểm đó. Hơn nữa,
bản thân người Phù Nam cũng không hề thừa nhận Hỗn Điền là người đem đến cho họ
văn hóa Ấn Độ, mà họ cho rằng họ hoàn toàn mù tịt về Ấn Độ trước thời 范旃* Fan chan
Phạm Chiên trị vì, rõ ràng là vào đầu thế kỷ III SCN. Pelliot biết rõ về điều
này và bị rắc rối với chính nó, nhưng ông đã gạt nó sang một bên bằng cách nói
“có lẽ chúng ta không nên hiểu văn bản chỉ theo nghĩa đen” 41.
Và với sự nhận thức học thuật muộn màng, tôi
nghĩ một số ít người sẽ không còn biện hộ cho ảnh hưởng của Ấn Độ là do các Bà
La Môn vào bất kỳ thời gian nào, hoặc cho rằng “Nền văn minh Ấn Độ đã được cấy
vào”. Đây là các yếu tố học thuật của văn hóa dân gian sớm ở Đông Nam Á cần phải
được thay thế bằng các cấu trúc mới. Như Pierre-Yves Manguin đã lưu ý “Không
gì có thể ít chính xác hơn quan điểm của Coedès về tính chất lạc hậu của Đông
Nam Á trước khi có người Ấn Độ giáo tới]. Các nghiên cứu khảo cổ học trong vòng
ba mươi năm nay đã chứng minh rằng quá trình “Ấn Độ hóa” [Đông Nam Á] trong thế
kỷ I SCN đã diễn ra sau khoảng một thiên niên kỷ giao lưu đều đặn với Ấn Độ,
trong đó các nhóm cư dân Đông Nam Á bắt đầu tự tổ chức thành các hệ thống chính
trị với mức độ phức hợp ngày càng tăng, đã đóng vai trò quyết định, đặc biệt là
trong việc hình thành mạng lưới thương mại biển khai thác vàng và thiếc” 42.
Tích truyện về người anh hùng khai sáng đến từ
bên kia biển là một thành tố của các huyền thoại khai sáng phổ biến rộng rãi,
trong đó một vị vua hoặc một anh hùng từ nước ngaoif tới cưới con gái của một
thủ lĩnh địa phương, mà trong thực tế không ai lại coi đó là một diễn giải lịch
sử có thật 43. Bên cạnh hoàn cảnh mà những cái tên Hun/Ƴuǝn không cho phép phục hồi lại thành
“Kaundinya”, thì tên của người nữ thủ lĩnh Phù Nam bị Hun/Ƴuǝn khuất phục cũng vẫn còn được để ngỏ cho việc diễn giải tiếp.
Cái tên Liu ye/Lieou ye/liǝu-iäp đã
được các sử gia lấy lại của Pelliot năm 1903 theo nghĩa đen, Lá Liễu [feuille-de-saule]. Tuy nhiên Pelliot đã
bị rắc rối với vấn đề này, vì ở Cambodia làm gì có cây liễu. Ông gợi ý rằng đã
có một chuỗi nhầm lẫn trong việc chuyển dịch ra tiếng Hán, vì vậy mà một từ gốc
là 椰子* da tử, dừa đã được dịch thành 柳* liễu vì hai chữ này rất giống nhau. Nếu đúng như vậy,
ông nói, thì có thể ở Phù Nam có thị tộc dừa “giống như thị tộc dừa mà chúng ta
đã biết ở Champa cổ” 44.
Quan điểm này có vẻ mâu thuẫn bởi việc mổ xẻ vô
cùng kỹ lưỡng niên đại công trình của người Pháp về bi ký Cham của Jean
Boisselier. Theo Boisselier “việc đề cập đến các bộ tộc क्रमुकवंश* Kramukavamša
Cau và नारिकेलवंश* Narikelavamša
Dừa xuất hiện rất muộn [thế kỷ 11], và hầu như ngẫu nhiên trong bi ký Chăm...trong
bất kỳ trường hợp nào cũng không cho phép đưa các ý tưởng này lui về đến thế kỷ
8”; và “Các bộ tộc này, chẳng liên quan gì đến điều mà G. Maspero đã nói về họ,
chắc chắn không là gì khác hơn những gia đình thủ lĩnh địa phương, dường như
không có bất kỳ vai trò quan trọng nào trước...Ông hoàng Than” (thế kỷ 11) 45.
Nếu đúng như vậy thì có lẽ cần phải tính đến một
cách diễn giải mới về “Lá Liễu”. Mặc dù
Pelliot chắc chắn rằng Liǝu-iäp không
phải là một cách chuyển âm một cái tên địa phương thành các chữ Hán, nhưng thay
vì cố gắng đi tìm để phục hồi nghĩa đen của cái tên địa phương, tôi cho rằng có
lẽ chúng ta nên xem xét khả năng ngược lại, có thể Liǝu-iäp chỉ là một cách mà người Trung Quốc diễn đạt ngữ âm học
cái tên đó mà không hề quan tâm gì đến nghĩa đen của nó khi thể hiện bằng các
chữ Hán. Điều đó có nghĩa là cái tên gốc có thể là một cái tên nào đó như “Liv/liu-eap”,
hoặc “Liv/liu-yeap/yàp”. Ngữ âm này không gợi lên bất cứ một mối liên quan trực
tiếp nào, nhưng nó lại là một cái tên có nghĩa tương tự với những cách chuyển dịch
cái tên Chenla/ Ts'iën-lâp [眞臘*],
Lin-i/ Liǝm-iǝp [林邑*] sang chữ Hán, v.v...trong đó người Trung Quốc
cổ cho thấy rằng những cái tên địa phương có âm tiết cuối là /p/, một đặc trưng
ngữ âm học thông dụng trong tiếng Khmer và các ngôn ngữ Đông Nam Á khác 46.
_____________________________
Còn nữa...
Nguồn: Funan
Reviewed : Deconstructing the Ancients. In: Bulletin de l'Ecole française d'Extrême-Orient. Tome 90-91, 2003.
pp. 101-143.
* Ghi
chú: Các từ có đánh dấu
sao [*] là do tôi, Hà Hữu Nga, trộm tìm, dịch sang tiếng Phạn, tiếng Hán và tiếng Việt
để tiện cho bản thân trong việc nghiên cứu, so sánh và xác định nghĩa của từ mà
thôi.
Chú thích
22. Từ “contemporaneity” cùng thời, đương thời
được sử dụng trong trường hợp này rất lỏng lẻo. Các bộ sử Trung Quốc trong đó
các tư liệu như vậy về nước ngoài còn lưu giữ lại thường được soạn muộn hơn nhiều
so với niên đại của các tư liệu gốc; vì vậy khi kể lại trong các bộ sử về sau,
thì thông tin thường trở nên xa lạ đối với ác sử gia Trung Quốc khi các câu
truyện truyền miệng lần đầu được nghe các sứ bộ đến Phù Nam kể lại vào thế kỷ
thứ ba SCN. Lần cuối cùng Pelliot lựa chọn niên đại mà sứ bộ đến Phù Nam là khoảng
năm 245 - 250, trong khi lần đầu tiên ông xác định là năm 225 – 230, xem Pelliot
1903, pp. 303 and 292-293.
23. Vì sợ rằng người châu Âu giễu cợt các huyền
thoại châu Á, nên hãy để họ không quên tích truyện Romulus và Remus đã được một
con chó sói nuôi dưỡng; Brut, cháu của Aeneas, người sáng lập đất của dân
Brestons, Anh quốc; hoặc Frankon, con trai Hector là tổ tiên của dân Franks.
Xem Vickery 1979, pp. 129-130; and Friedman 1987. Còn loại truyền thuyết kiểu
này ở Indonesia, có thể xem Manguin 1991.
24. Pelliot 1925, pp. 245-246. Vì tiếp theo
tôi đã đập vụn các phiên bản ra để so sánh theo từng giai đoạn, nên tôi đã gán
cho chúng những cái nhãn phân loại. Nhãn phân loại được tạo ra như sau: các tài
liệu trong đó có chứa các phiên bản [thế kỷ gốc soạn thảo phiên bản đó]. Phiên
bản đầu tiên chỉ có duy nhất trong Pelliot 1925. Đối với các phiên bản trong
Pelliot 1903, việc đánh dấu tư liệu đầu tiên được sử dụng bằng các số La Mã đã
được chính Pelliot sử dụng. Phiên bản cổ nhất này không có trong Pelliot 1903;
và ở đây Pelliot đã sửa đổi các quan điểm trước đó của ông về tôn giáo của người
khách ngoại quốc kia. Trong Pelliot 1903, tr. 254, n.5, ông cho rằng việc thực
hành “thờ cúng các thần linh”, “thêm vào ý nghĩa thông dụng của nó ...thường được
dùng để định danh là dòng Bà La Môn”, nhưng trong Pelliot 1925, tr. 245-246,
n.5, ông xác định rằng từ chữ Hán 神 thần, trong tất cả các ngữ cảnh này cần phải được dịch là số ít chứ
không phải là số nhiều, và thêm vào chữ thần thì “dùng chữ Thiên là đúng”. Điều
đó chưa chắc đã thể hiện đó là Đạo Bà La Môn, mặc dù Pelliot vẫn kiên trì rằng
“ngay trong trường hợp này tôi vẫn tin rằng đó là một câu hỏi về một dòng Bà La
Môn”. Những nhận xét hữu ích về vấn đề
này có thể thấy trong Porée-Maspero 1969, tr. 954-955. Để biết thêm về ngữ âm học
cổ đại Hun/Ƴuǝn xem Wheatley, tr.
121; những vấn đề khác, xem Pelliot 1925. Để có thêm thảo luận về các huyền thoại
sáng tạo và các nguồn tư liệu tiếng Trung Quôc mà tôi chưa kịp xem để thảo luận
rốt ráo tại đây, và với các nguồn này tôi không đồng ý về nhiều chi tiết, xin
xem Népote 1999.
25. Pelliot 1903, tr. 254, trong đó Pelliot gợi
ý rằng chữ 潰 houei Hội là viết nhầm của từ gốc 填 T’ien, Điền. Tôi không có bản tiếng Anh dịch chữ houei, và
cũng không có phiên âm cổ của từ này.
26. Pelliot 1903, p. 256.
27. Pelliot 1903, p. 265.
28. Pelliot 1925, pp. 247-248.
29. Manguin 1991, tr. 49. Một khác biệt rõ
ràng giữa các huyền thoại Indonesia và các huyền thoại Phù Nam, trong huyền thoại
Indonesia thì các thủ lĩnh địa phương là đàn ông và họ là những người chiến thắng
người khách lạ, thường là một thương nhân, nhưng chúng ta cũng không được quên
rằng huyền thoại Phù Nam được các nhà biên niên sử Trung Quốc ghi nhận và có lẽ
đã chịu ảnh hưởng của các định kiến của chính họ (nhờ đó người Phù Nam có thể
coi Liễu Diệp đã thắng), còn huyền thoại Indonesia thì được định niên đại từ
“cuộc bùng nổ kinh tế thế kỷ 15-17” [Manguin 1991, p. 53].
30. Xem Wheatley 1974, tr. 97, chú thích 2, và
tr. 100; Wheatley 1983, tr. 147, chú thích 2.
31. Pelliot 1903, tr. 257.
32. Pelliot 1903, tr. 265-266; với cổ âm do Wheatley
phục hồi, tr. 121.
33. Pelliot 1903, tr. 257. Để có thêm nhận xét
về một vấn đề liên quan đến bản tính của Fan-shih-man, xem “Phù Nam ở đâu?” bên
dưới.
34. Pelliot 1903, tr. 265-267. Hai tên địa
danh khác do Fan Shih man chinh phục là K'iu touk'ouen và Kieou-Tche được ghi
trong văn bản, nhưng Pelliot không thể cắt nghĩa được. Để biết thêm các cố gắng
ngoạn mục về phương diện này, xin xem Wheatley 1961, tr. 21 (Ch'i-tu-k'un) và tr.
23 (Chiu-chih), cũng như Stein (1947: 1 17-120), là người có thể đã bị hiểu sai
bởi việc xác định không thể chấp nhận được về Srï Mаrа, bia Võ Cạnh, với Fan Shih
Man. Tuy nhiên Tun-sun Đốn Tốn sẽ được giải thích rõ bên dưới, vì rất quan trọng
về phương diện xác định tộc thuộc.
35. Pelliot 1903, tr. 277-278. Pelliot 1903, tr.
292, cho rằng T'an Yang "có thể nằm ở Tây Ấn Độ”.
36. Pelliot 1903, tr. 271. Chi tiết cho rằng
phái bộ Trung Quốc thời Fan Hsiin được ghi nhận trong Pelliot 1903, tr. 268.
Jacques 1995a cho rằng con sông ở Ấn Độ phải là sông Ấn hà.
37. Trong một công trình nghiên cứu khác tôi
đã gợi ý rằng tước vị fan/biǝm chính là một tước vị quan đầu huyện rất phổ biến
trong các bi ký Khmer thế kỷ 7. Xem Vickery 1998, tr. 190-204, 446. Nếu điều đó
là đúng thì Fan Hstin có lẽ là một người anh em hoặc cháu của Chan. Coedès
1962, tr. 73, n. 2 viết rằng “cái tên Fan này...được viết bằng cùng một chữ được
dùng để ghi tên thần Brahma” khi ám chỉ rằng đó là một dấu hiệu chứng tỏ ảnh hưởng
Ấn Độ. Trong trường hợp này Coedès đã nhầm lẫn. Chữ này có ký hiệu 626e trong Karlgren
1957, theo Karlgren lại không được sử dụng cho bất kỳ khái niệm Ấn Độ nào. Một
chữ fan khác, tiết 18, chữ thứ tư, trong Karlgren 1974, tr. 40, đã được sử dụng
bằng chữ Hán để chỉ tiếng Phạn là tiếng “fan”, Brahma là vua “fan”, Ấn Độ là nước
“fan”, và thậm chí trong một số trường hợp thì Phật giáo cũng được gọi là “fan”
viện, có nghĩa là Phật viện. Nó được sử dụng để thể hiện cả Brahma và Brahman,
còn Từ điển Từ nguyên tiếng Hán thì ghi chú đây là phần đầu của biểu tượng đơn
vị âm học Brahma”. Thông tin này có được là nhờ Tiến sĩ Geoff Wade thuộc Đại học
Singapore. Sự khác biệt được lưu giữ trong tiếng Việt trong đó chữ đầu tương
đương với chữ fan của Phù Nam được viết
là phạm, còn chữ thứ hai có nghĩa Sanskrit thì được viết là phạn. Coedès tiếp tục “Điều đó liên tục
được coi là cách chuyển dịch chữ “braman”, sau đó là varman...cuối cùng là tên
bộ tộc xác định yếu tố bản địa của hoàng gia ngược lại với yếu tố Ấn Độ” [Stein
1947, pp. 252, ff., 319]”. Trong ba cái tên đó chỉ có cái tên cuối cùng là có
lý, nhưng trong thời gian đó, như cần phải rõ ràng ở đây, có lẽ vẫn không hề có
một “yếu tố Ấn Độ” nào trong hoàng tộc. Varman
luôn luôn là yếu tố cuối cùng trong các tước vị, trong khi fan luôn luôn đứng trước tên. Cách thức tốt nhất là giả định rằng
fan là một tước hiệu thể hiện cấp bậc, và cho dù mức độ tương hợp không đủ để
thỏa mãn các nhà ngôn ngữ học thuần túy, nhưng poň là khả năng duy nhất thấy trong bi ký học. Địa vị tương ứng
cũng thích hợp. Người Trung Quốc gọi fan
là tướng trước khi trở thành vua, còn poň
khi xuất hiện trong bi ký thế kỷ thứ 7, ở dưới vua một bậc [Vickery 1998, tr.
190-204].
38. Xem Porée-Maspero 1969, tr. 795-796 về việc
định danh mơ hồ cái tên Kaundinya, nhưng trong đó bà đã cố lạm dụng để kết nối
với một huyền thoại không tương hợp về “một người anh hùng đã sống qua cơn hồng
thủy”. Hoshino 1993, tr. 19 cũng nhận ra vấn đề này khi cho rằng “Tôi ngờ là
cái tên Kaundinya đã được gán ghép từ những chữ khác nhau. Hun có thể so sánh với
tước vị Fan của các vị vua và tướng lĩnh Phù Nam” và có thể đó là một từ có gốc
Nam Á, Nam phương ...kể cả Nam Đảo”. Với quan điểm đó, nếu Hoshino có ý định
cho rằng hun và fan có thể là những cách chuyển dịch khác nhau của cùng một tước vị
địa phương thì có lẽ tôi không đồng ý.
39. Để có thể dễ dàng tiếp cận được với nguồn
này, xem Martin Stuart-Fox 1998, pp. 25-26. Cần nhớ rằng còn có một tích truyện
như vậy trong các truyện cổ Lào, tối thiểu là với hai cách xác định khác nhau về
việc người khai sáng có 7 con trai, đó là Khun Bulom/Borom, và Khun Lô Kham.
Cũng cần lưu ý thêm là Bulom/Borom, trong một số phiên bản được viết là bolomensuvan, परमेश्वर* paramešvara,
Thần vương, thụy hiệu của Jayavarman II, người sáng lập Angkor, có một tiểu sử
mơ hồ chẳng khác gì Khun Bulom. Người khai sáng truyền thống Malacca cũng là một
người nước ngoài và cũng được gọi là परमेश्वर paramešvara, Thần vương, đến từ bên kia
biển [Wheatley 1961, tr. 307-308].
40. Pelliot 1903, tr. 290-291; Pelliot 1925, tr.
249.
41. Pelliot 1903, tr. 291. Hãy so sánh điều
này với sự cực kỳ miễn cưỡng của ông trong Pelliot 1903, tr. 300, để hiệu chỉnh
văn bản tiếng Hán, nếu có thể.
42. Xem Vickery 1998, tr. 51-60; Manguin 1999,
dịch từ tiếng Pháp. Đặc trưng huyền thoại của tích truyện Hun-t'ien/Kaundinya cũng
được Mabbet và Chandler [1995, tr. 71] đề cập.
43. Chẳng hạn, xem Friedman 1987.
44. Pelliot 1903, tr. 245, n. 2.
45. Boisselier 1963, tr. 61-62, trong đó
Boisselier xác quyết rằng các ghi chú G. Maspero liên quan đến các bộ tộc này
là "assez aventureuses" khá mạo hiểm, và tr. 230.
46. Ngữ âm học Hán cổ của Wheatley 1983. Các
cách thể hiện những cái tên Đông Nam Á bằng chữ Hán gồm có hai loại, một loại
thì cố gắng dịch âm tên nước ngoài bằng các chữ Hán, còn một loại thì dịch
nghĩa các tên gọi đó. Chen-la [眞臘*] , Lin-i [林邑*] rõ ràng thuộc loại đầu, trong khi Chi-tu [赤土*] Xích Thổ vẫn được coi là bán đảo Mã Lai thì
thuộc loại thứ hai. Xem Wheatley 1961, tr. 26-36.
Tài liệu dẫn
Anderson, John 1981, English Intercourse with Siam in the Seventeenth Century, Bangkok, Chalemmit Bookshop.
Aymonier, Etienne 1903, Le Fou-nan, Journal Asiatique 10/1 (janv.-fév. 1903), pp. 109-150.
Bellwood, Peter 1992, Southeast Asia Before History, The Cambridge History of Southeast Asia, vol. I, pp. 55-136.
Bergaigne, Abel 1882, Les inscriptions sanscrites du Cambodge, Journal Asiatique, pp. 1-56.
Wheatley, Paul 1966, A Note on the Capital of Srivijaya During the Eleventh Century, In Ba Shin, J. Boisselier & A. B. Griswold, eds., Essays Offered to G. H. Luce, Ascona, Artibus Asiae (Supplementum 23), I, pp. 225-239.
Tài liệu dẫn
Anderson, John 1981, English Intercourse with Siam in the Seventeenth Century, Bangkok, Chalemmit Bookshop.
Aymonier, Etienne 1903, Le Fou-nan, Journal Asiatique 10/1 (janv.-fév. 1903), pp. 109-150.
Bellwood, Peter 1992, Southeast Asia Before History, The Cambridge History of Southeast Asia, vol. I, pp. 55-136.
Bergaigne, Abel 1882, Les inscriptions sanscrites du Cambodge, Journal Asiatique, pp. 1-56.
Blust, Robert 1992, The Austronesian Settlement of Mainland Southeast Asia, in Papers
from the Second Annual Meeting of the
Southeast Asian Linguistics Society, edited by Karen L. Adams and Thomas
John Hudak, pp. 25-83. Arizona State University, Program for Southeast Asian Studies, Tempe, Arizona, 1994.
Brown, Robert L. 1996, The Dvaravati Wheels of the Law and the Indianization of South East
Asia, Leiden, Brill.
Boisselier, Jean 1963, La statuaire du Champa, Paris, École française d'Extrême-Orient.
Boisselier, Jean 1965, Nouvelles
données sur l'histoire ancienne de la Thaïlande, Conférence, Alliance française/Centre
culturel [Bangkok]. Seven pages, no pagination, introduction by Marie-Jean
Vinciguerra, Attaché culturel.
Boisselier, Jean 1966, Le Cambodge, 1. 1, in Asie du Sud-Est, première partie, Manuel
d'Archéologie d'Extrême-Orient, Paris, Éditions A. et J. Picard et Cie.
Charnvit Kasetsiri 1976, The Rise of Ayudhya, Kuala Lumpur, Oxford University Press.
Coedès, George 1928 E.C. 21, La tradition généalogique des premiers rois d'Angkor
d'après les inscriptions de Yaçovarman et de Râjendravarman, BEFEO 28, pp.
124-40.
Coedès, George 1931 E.C. 25, Deux inscriptions sanskrites du Fou-Nan,
BEFEO 3 1 , pp. 1 - 1 2.
Coedès, George 1938, Le fondateur de la royauté angkorienne et les récentes découvertes
archéologiques au Phnom Kulên, Cahiers de l'École française
d'Extrême-Orient 14, pp. 40-48; republished in George Coedès, Articles sur le
pays khmer, Tome II, pp. 277-284.
Coedès, George 1942, Inscriptions du Cambodge, Vol. 2, Hanoi, EFEO.
Coedès, George 1943-46, Quelques précisions sur la fin du Fou-nan, BEFEO 43, pp. 1-8.
Coedès, George 1948, Les États hindouisés d'Indochine et d'Indonésie, Paris, Ed. de
Boccard
Coedès, George 1951a, Inscriptions du Cambodge, Vol. 3, Paris, E. de Boccard.
Coedès, George 1951b, Les règles de la succession royale dans l'ancien Cambodge, Bulletin
de la Société des Études Indochinoises, nouvelle série no. 26 (2), pp.l 17-
130.
Coedès, George 1952, Inscriptions du Cambodge, Vol. 4, Paris, E. de Boccard
Coedès, George 1954, Inscriptions du Cambodge, Vol. 6., Paris, École française
d'Extrême-Orient.
Coedès, George 1962, Les peuples de la Péninsule indochinoise, Paris, Dunod.
Coedès, George
1964a, Les États hindouisés
d'Indochine et d'Indonésie, Paris, Ed. de Boccard.
Coedès, George 1964b, Inscriptions du Cambodge, Vol. 7, Paris, École française
d'Extrême-Orient.
Coedès, George 1966, Liste générale des inscriptions du Cambodge, In Inscriptions du
Cambodge, Vol. 8, pp. 76-225.
Coedès, George 1968, The Indianized States of Southeast Asia, Edited by Walter F. Vella,
Translated by Susan Brown Cowing, Honolulu, University of Hawaii Press.
Dowling, Nancy H. 1999, A New Date for the Phnom Da Images and Its Implications for Early
Cambodia, Asian Perspectives, Volume 38, Number 1, pp. 51-61.
Dupont, Pierre 1941, Variétés archéologiques, BEFEO 41, pp. 233-254.
Dupont, Pierre 1943-46, La dislocation de Tchen-la et la formation du Cambodge angkorien,
BEFEO 43, pp. 17-55.
Dupont, Pierre 1949, Tchen-La et Panduranga", Bulletin de la Société des Études
Indochinoises 24/1, pp. 9-25.
Dupont, Pierre 1952-54, Les débuts de la royauté angkorienne, BEFEO 46, pp. 1 19-76
Ferlus, Michel 1977, Étude d'une strate de changements phonétiques dans l'ancien Cambodge,
Mon-Khmer Studies 6, pp. 59-67.
Filliozat, Jean 1969, L'inscription dite de Võ-cạnh, BEFEO 55, pp. 107-1 16.
Finot, Louis 1904, Les inscriptions de Mi-son, BEFEO 4, pp. 897-977.
Finot, Louis 1911, Sur quelques traditions indochinoises, In Mélanges d'indianisme
offerts par ses élèves à M. Sylvain Levi, Paris, Ernest Leroux, pp. 193-212.
Finot, Louis 1927, Séance du 14 janvier, Journal Asiatique 210 (janv.-mars), p. 186.
Friedman, Jonathan 1987, Review Essay on Islands of History by Marshall Sahlins, in History
and Theory, Vol. 13, pp. 72-99.
Groslier, Bernard Philippe 1985-86, For a geographic history of Cambodia,
Seksa Khmer 8-9, pp. 3 1 -76.
Hall, D. G. E. 1955, A History of South-East Asia, New York, St. Martin's Press, [reed.
1981].
Hall, Kenneth R. 1985, Maritime Trade and State Development in Early Southeast Asia,
Honolulu, University of Hawaii Press.
Higham, Charles and Rachanie Thosarat 1998, Prehistoric Thailand: From Early Settlement
to Sukhothai, Bangkok, River Books.
Hoshino, Tatsuo 1986, Pour une histoire médiévale du moyen Mékong, Bangkok, Editions
Duang Kamol.
Hoshino, Tatsuo 1991, Wen Dan and its Neighbours: The Central Mekong Valley in the Seventh
and Eighth Centuries, typescript, n.p.
Hoshino, Tatsuo 1993, Puram; earliest Chinese sources on Sri Thep and Lopburi, Paper
presented to the Symposium sur les
sources de l'histoire du pays khmer, Paris.
Hoshino, Tatsuo 1995, Reappraisal of the Chinese texts on Shi li Fo Shi: Dvaravati and Sri
Buddha Sei (?), In Southeast Asian Studies, Tokyo University of Foreign
Studies.
Hoshino, Tatsuo 1996a, The
Kingdom of Red Earth (Chitu Guo) in Cambodia and Vietnam from the sixth to the eighth
centuries, Paper presented to the 14th I.A.H.A. conference, Bangkok, May
1996.
Hoshino, Tatsuo 1996b, Chang Zhou (Elephant/Master Province) and Sakolnakhon site in Northeast
Thailand, Paper presented to the 6th International conference on Thai
Studies, Chiang Mai, October 1996.
Jacques, Claude 1972, La carrière de Jayavarman II, BEFEO 59, pp. 205-20.
Jacques, Claude 1979, Funan, Zhenla. The Reality
Concealed by These Chinese Views of Indochina, In Early South East Asia. Essays in Archaeology, History and
Historical Geography, Ed. By R. B. Smith and W. Watson, New York/Kuala
Lumpur, Oxford University Press, pp. 371-389.
Jacques, Claude 1986a, Le
pays khmer avant Angkor, Journal des Savants, janv.-fév., pp. 59-95.
Jacques, Claude 1986b, Cours
Année 1985-1986, Paris, École pratique des hautes études, IVe section, typescript.
Jacques, Claude 1987, L'Empire angkorien: mythe ou réalité, typescript, Conférence à
Tokyo, 25 June 1987.
Jacques, Claude 1995a, Funan, Zhenla, Srîvijaya, In Les
apports de l'archéologie à la connaissance des anciens États en Thaïlande,
3e Symposium franco-thaï, 11-13 décembre 1995, Bangkok, Silpakon University,
pp. 14-23.
Jacques, Claude, éd. 1995b, Études épigraphiques sur le pays cham,
[Reprint], Paris, École française d'Extrême-Orient (Réimpressions 7).
Karlgren, Bernhard 1923, Analytical Dictionary of Chinese and Sino-Japanese, Dover/New York,
[Reprint, 1 974].
Karlgren, Bernhard 1957, Grammata Serica Recensa, Museum of Far Eastern Antiquities Bulletin
29, Stockholm.
Lê Xuân Diệm, Đào Linh Côn, Võ Sĩ Khải 1995, Văn hóa Óc Eo, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội,
Hà Nội.
Loofs, H. H. E. 1979, Problems
of Continuity the pre-Buddhist and Buddhist Periods in Central Thailand, with Special
Reference to U-Thong, in R. B. Smith and W. Watson, eds, Early South East Asia: Essays in
Archaeology, History, and Historical Geography, New York, Oxford University Press.
Mabbet, Ian and David Chandler 1995, The Khmers, Oxford (UK) / Cambridge (US
A), Blackwell. Manguin, Pierre- Yves
Mabbet, Ian and David Chandler 1980, The Southeast Asian Ship: An Historical
Approach, Journal of Southeast Asian Studies 11/2, pp. 266-276.
Mabbet, Ian and David Chandler 1985, Sewn-Plank Craft of South-East Asia, a
Preliminary Survey, in Sewn Plank
Boats, Archaeological and Ethnographic papers based on those presesented to
a conference at Greenwich in November 1984, ed. by Sean McGrail and Eric
Kentley, Greenwich, National Maritime Museum (Archaeological Series No. 10, BAR
International Series 276).
Mabbet, Ian and David Chandler 1991, The Merchant and the King: Political Myths
of Southeast Asian Coastal Polities, Indonesia 52, pp. 41-54.
Mabbet, Ian and David Chandler 1993, Palembang and Sriwijaya: An Early Malay
Harbour-City Rediscovered, Journal of the Malaysian Branch of the Royal
Asiatic Society 66/1, pp. 23-46.
Mabbet, Ian and David Chandler 1996, Southeast Asian Shipping in the Indian Ocean
During the First Millenium A.D.", in H. P. Ray & J.-F. Salles
(eds.), Tradition and Archaeology. Early Maritime Contacts in the Indian Ocean,
Lyon/New Delhi, Manohar (Maison de l'Orient méditerranéen / NISTADS),pp. 181-198.
Mabbet, Ian and David Chandler 1999, Srivijaya dans l'oeuvre de George Coedès,
in Colloque George Coedès aujourd'hui, Bangkok, Centre d'Anthropologie
Sirindhorn, 9-10 September.
Mabbet, Ian and David Chandler 2002, From Funan to Srivijaya: Cultural
Continuities and Discontinuities in the Early Historical Maritime States of
Southeast Asia", in 25 Tahun Kerjasama Pusat Penelitian Artkeologi dan
École française d'Extrême-Orient, Makalah Seminar Dimensi Budaya dalam
Membangun Persatuan Bangsa-Bangsa di Asia Tenggara, Palembang, 16-18 July 2001,
Jakarta, 2002, pp. 59-82.
Maspero, Georges 1928, Le royaume de Champa, Paris/Bruxelles, Éditions G. Van Oest,
[reprint. EFEO, 1988].
Mauger, Henri 1935, Angkor Borei, BEFEO 35, p. 491.
Mauger, Henri 1936, Asram Maha Rosei, BEFEO 36, pp. 65-95.
Maurel, Frédéric 1998, The work of George Coedès: views of a young man, Journal of the
Siam Society 86/1-2, pp. 235-238.
Népote, Jacques 1999, Mythes de fondation et fonctionnement de l'ordre social dans la basse
vallée du Mékong accompagnés de considérations sur l'indianisation,
Péninsule 38(1), pp. 33-64.
Paris, Pierre 1952-54, Quelques dates pour une histoire de la jonque chinoise, BEFEO 46,
pp. 267-278.
Pelliot, Paul 1903, Le Fou-Nan, BEFEO 3, pp. 248-303.
Pelliot, Paul 1904, Deux itinéraires de Chine en Inde à la fin du vine siècle, BEFEO 4,
pp. 13 1-385.
Pelliot, Paul 1925, Quelques textes chinois concernant l'Indochine Hindouisée, EFEO
Études Asiatiques II, pp. 243-263.
Porée-Maspero, Éveline 1950, Nouvelle étude sur la Nâgï Somâ, Journal
Asiatique, pp. 237-267.
Porée-Maspero, Éveline 1962-69, Étude sur les rites agraires des Cambodgiens,
3 Vol., Paris/La Haye, Mouton & Co. Pou, Saveros
Porée-Maspero, Éveline 2001, Nouvelles inscriptions du Cambodge, vol.
II & III, Paris, EFEO.
Reid, Anthony 1993, Southeast Asia in the Age of Commerce 1450-1680, Vol. 2, Chiang
Mai, Silkworm Books.
Reynolds, Craig J. 1995, A New Look at Old Southeast Asia, Journal of Asian Studies 54/2,
pp. 419-446.
Sanderson, D. С W., et. al. 2003, Luminescence dating of anthropogenically
reset canal sediments from Angkor Borei, Mekong Delta, Cambodia, Quaternary
Science Reviews 22, pp. 1111-1121.
Shorto, H. L. 1963, The 32 myos in the medieval Mon kingdom, Bulletin of the School of
Oriental and African Studies 26/3 (London), pp. 572-591.
Stargardt, Janice 1986, Hydraulic Works and South East Asian Polities, In Southeast Asia in
the 9th to 14th Centuries, ed. by David G. Marr and A. C. Milner,
Canberra, Australian National University / Institute of Southeast Asian
Studies, Singapore, pp. 23-48.
Stark, Miriam T. 1998, The Transition to History in the Mekong Delta: A view from Cambodia,
International Journal of Historic Archaeology 2/3, pp. 175-204.
Stark, Miriam T., et. al. 1999, Results of the 1995-1996 Archaeological
Field Investigations at Angkor Borei, Cambodia", Asian Perspectives
38/1, pp. 7-36.
Stein, R. A. 1947, Le Lin-Yi, sa localisation, sa contribution à la formation du Champa,
et ses liens avec la Chine, Han-Hiue Bulletin du Centre d'études sinologiques
de Pékin 2, pp. 1-335.
Stuart-Fox, Martin 1998, The Lao Kingdom of Lan Xâng: Rise and Decline, Bangkok, White Lotus
Press.
Syafei, Soewadji 1977, The Relation Between Cambodia and Indonesia in the 8th to 9th Century"
[sic], Majalah Arkeologi, Indonesia, pp. 14-18.
Thurgood, Graham 1999, From Ancient Cham to Modern Dialects, Two Thousand Years of Language
Contact and Change, Honolulu, University of Hawaii.
Vickery, Michael 1972, The 'Kalpana' documents in a review of three collections of Thai historical
documents, Journal of the Siam Society 60/1, pp. 397-410.
Vickery, Michael 1977, Cambodia after Angkor, the Chronicular Evidence for the Fourteenth to
Sixteenth Centuries, Ph.D. Yale University, dec. 1977 [Ann Arbor:
University of Michigan, University Microfilms].
Vickery, Michael 1979, A New Tâmnàn About Ayudhya, Journal of the Siam Society 67/2, pp. 1
23- 1 86.
Vickery, Michael 1986, Some Remarks on Early State Formation in Cambodia, In Southeast
Asia in the 9th to 14th Centuries, ed. by David G. Marr and A. C. Milner,
Canberra/Singapore, Australian National University (Research School of Pacific
Studies) / Institute of Southeast Asian Studies, pp. 95-115.
Vickery, Michael 1987, Review of K. R. Hall, Maritime Trade and State Development in Early
Southeast Asia, in Journal of Asian Studies 1987, pp. 21 1-213.
Vickery, Michael 1994, Where and What was Chenla?, In Recherches nouvelles sur le
Cambodge, dir. By F. Bizot, Paris, EFEO (Études thématiques I), pp. 197-212.
Vickery, Michael 1998, Society, Economies, and Politics in Pre-Angkor Cambodia: the 7th-8th
Centuries, Tokyo, The Centre for East Asian Cultural Studies for Unesco/The
Toyo Bunko.
Vickery, Michael 1999a, The Khmer Inscriptions of Roluos (Preah Ko and Lolei): Documents from a
Transitional Period in Cambodian History, Seksa Khmer n. s. 1 (jr- 1999),
pp. 47-93.
Vickery, Michael 1999b, Coedès' Histories of Cambodia, in Colloque George Coedès aujourd'hui, Bangkok, CEDREFT, 9-10 September 1999.
Vickery, Michael 2001, Resolving the Chronology and History of 9th-Century Cambodia",
SiksucakrZ (Newsletter of the Center for Khmer Studies, CKS, Siemreap, July
2001), pp. 17-23.
Wang Gungwu 1958, The Nanhai Trade, Journal of the Malaysian Branch Royal Asiatic
Society 3 1/2, pp. 1-135.
Wheatley, Paul 1961, The Golden Khersonese, Kuala Lumpur, University of Malaya Press.
Wheatley, Paul 1974, The Mount of the Immortals: A note on Tamil
cultural influence in fifth-century Indochina, Oriens Extremis, Vol. 21,
part 1, pp. 97-108.
Wheatley, Paul 1983, Nagara and Commandery: Origins of the Southeast Asian Urban Traditions,
University of Chicago (Research Paper Nos. 207-208, Department of Geography).
Wheatley, Paul 1966, A Note on the Capital of Srivijaya During the Eleventh Century, In Ba Shin, J. Boisselier & A. B. Griswold, eds., Essays Offered to G. H. Luce, Ascona, Artibus Asiae (Supplementum 23), I, pp. 225-239.
Wheatley, Paul 1967, Early Indonesian Commerce, Ithaca, Cornell University Press.
Wright, Michael 1999, The Nation, section Cl "Focus", "The Quest for
Bronze", Bangkok, 28 June.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét