Lợi thế so sánh vùng và phát triển* (I)
Hà Hữu Nga
I. Khái niệm vùng kinh tế
Khái niệm vùng kinh tế hiện đại có một lịch sử phát triển
hàng thập kỷ, với rất nhiều thay đổi, tuỳ từng điều kiện kinh tế, chính trị, xã
hội của mỗi quốc gia. Liên Xô và hầu hết các nước thuộc khối xã hội chủ nghĩa
Đông Âu trước đây vẫn coi định nghĩa vùng kinh tế của Alaev là một định nghĩa
mang tính kinh điển: “Vùng kinh tế là một bộ phận lãnh thổ nguyên vẹn của nền
kinh tế quốc dân, có những dấu hiệu sau: chuyên môn hoá những chức năng kinh tế
quốc dân cơ bản; tính tổng hợp: được hiểu theo nghĩa rộng như là mối quan hệ
qua lại giữa các bộ phận cấu thành quan trọng nhất trong cơ cấu kinh tế và cơ
cấu lãnh thổ của vùng..., coi vùng như là hệ thống toàn vẹn, một đơn vị có tổ chức
trong bộ máy quản lý lãnh thổ nền kinh tế quốc dân” [Dẫn theo: Nguyễn Xuân Thu,
Nguyễn Văn Phú (Đồng chủ biên) 2006: 20]. Kể từ khi Liên Xô tan vỡ, quan niệm
về vùng kinh tế và cấu trúc vùng kinh tế của nước Nga đã có rất nhiều thay đổi.
Hiện nay người Nga chia đất nước thành 12 vùng kinh tế
và đó cũng chính là các nhóm đơn vị hành chính, có chung các đặc trưng sau: i)
có các mục đích kinh tế và xã hội chung và đều tham gia vào các chương trình
phát triển; ii) có các điều kiện và tiềm năng kinh tế tương đối giống nhau;
iii) có các điều kiện địa chất, sinh thái và khí hậu tương đồng; iv) tương đồng
về các phương pháp thanh tra kỹ thuật xây dựng mới; v) có các phương pháp giám
sát hải quan tương đồng; vi) tương đồng tổng thể về các điều kiện sống của dân
cư. Không có bất cứ một chủ thể nào của Liên bang có thể vừa thuộc về vùng kinh
tế này lại vừa thuộc về một vùng kinh tế khác. Các vùng kinh tế còn được chia
thành các khu kinh tế (còn gọi là các vùng vĩ mô “macrozones”). Một vùng kinh
tế hoặc các bộ phận của nó có thể thuộc về các vùng vĩ mô khác nhau. Việc thành
lập mới hoặc huỷ bỏ các vùng, các vùng vĩ mô, hoặc bất cứ thay đổi nào về cấu
trúc của chúng cũng đều do chính phủ Liên bang quyết định [Russian Government 2001].
Các nước Đông Âu mới cũng đã không ngừng cải cách cấu
trúc kinh tế của mình, trong đó có việc tái cấu trúc các vùng kinh tế thích hợp
với những đòi hỏi của quá trình hội nhập quốc tế, đặc biệt là hội nhập với các
nước thuộc Liên minh Châu Âu, trong đó Ba Lan có thể được coi là một trường hợp
điển hình cho một cách tiếp cận mới đối với khái niệm vùng kinh tế. Theo họ
“Một vùng kinh tế là một lĩnh vực xã hội tổng thể được tạo bởi các công ty, các
thể chế cũng như các bản sắc và các tác nhân trong vùng. Trong một khuôn khổ
chung nhất, các lĩnh vực như vậy bao gồm: i) các tổ chức tìm cách tái cấu trúc các môi
trường của mình; ii) các đạo luật và thể chế đã có từ trước vận hành để vừa
hạn chế vừa tạo điều kiện cho các tác nhân trong vùng; và iii) các tác nhân
chiến lược có kỹ năng điêu luyện làm việc trong các tổ chức, giúp duy trì sự
hợp tác nhóm và các lợi ích khác nhau” [Fligstein and Stone Sweet 2002: 1211].
Năng lực vùng được gắn chặt với năng lực tổ chức của các công ty, cấu trúc
công nghiệp, các mô hình chuyên môn hóa, và cấu trúc thể chế của nó. “Đặc trưng
này gắn liền với các khái niệm thuộc các hệ thống đổi mới vùng định danh mục
tiêu, và các cụm vùng. Về cơ bản hệ thống đổi mới vùng bao gồm hai loại tác
nhân chính và các tương tác giữa các tác nhân đó. Những tác nhân đầu tiên là
các công ty trong cụm công nghiệp chủ yếu trong một vùng, bao gồm cả các ngành
công nghiệp hỗ trợ của chúng. Tiếp đó, cần phải có một hạ tầng thể chế, tức là
các viện nghiên cứu, các cơ sở giáo dục cấp cao, các cơ sở chuyển giao công
nghệ, các tổ chức đào tạo nghề, các hội kinh doanh, các thể chế tài chính,
v.v... có đủ năng lực để hỗ trợ cho quá trình đổi mới vùng” [Asheim and Isaksen
2002: 83].
Ngược lại với khái niệm cụm được định nghiã là “các
công ty gần gũi về phương diện địa lý theo mối quan hệ dọc hoặc quan hệ ngang
liên quan đến một hạ tầng cơ sở hỗ trợ công ty được địa phương hóa có một tầm
nhìn phát triển chung cho tăng trưởng kinh doanh dựa trên cạnh tranh và hợp
tác trong một khu vực thị trường cụ thể” (Cooke 2002: 121) – tầm quan trọng tương
đối của các cấu trúc thể chế hỗ trợ là rất cao. Các cấu trúc đó chính là “ký
ức” của vùng, là kết quả của những kinh nghiệm hợp tác và xung đột trong vùng.
Các cấu trúc thể chế này được Salais và Storper [1997] mô tả là các trật tự
vùng, chẳng hạn như các truyền thống, mong muốn cố kết lẫn nhau, thói quen, và
cách thức hành động trong vùng. Các thể chế, hoặc các cấu trúc hành chính, các
truyền thống, các thói quen đó được tạo ra và được tái tạo theo cách cởi mở,
nhưng lại phụ thuộc vào những cách thực hiện bởi: i) các chiến lược tối thiểu
hóa chi phí giao dịch của công ty; ii) các nhà chức trách vùng (đặc biệt là nhà
nước liên bang) và; iii) các tác nhân phi chính phủ (chẳng hạn như các công
đoàn, các hội kinh doanh, hội nghề nghiệp, các tổ chức phi chính phủ (NGOs)
hoặc đôi khi là các tác tố cá nhân). Các cấu trúc hành chính đóng vai trò quyết
định cho tiềm năng đổi mới của các vùng và các công ty trong vùng, vì chúng
liên quan đến các mô hình tổ chức họat động, quản lý và đổi mới, luôn tạo ra
các mô thức liên tổ chức hợp tác, cạnh tranh, và còn vì chúng điều chỉnh các
mối quan hệ giữa các doanh nghiệp, khoa học, công nghệ, giáo dục và chính trị
[Cooke 1998].
Khác với các định nghĩa tương đối phức tạp trên, người
Canada lại quan niệm rất đơn giản: “Một vùng kinh tế là một cách nhóm các đơn
vị dân cư nguyên vẹn để tạo thành một đơn vị địa lý chuẩn phục vụ cho việc phân
tích các hoạt động kinh tế vùng”. Trong tỉnh Quebec, các vùng kinh tế còn được
gọi là các vùng hành chính (régions administratives) và việc phân vùng
được tuân thủ theo pháp luật. Trong tất cả các tỉnh và các vùng lãnh thổ khác,
các vùng kinh tế được tạo bởi sự thoả thuận giữa Cục thống kê Canada và
tỉnh/lãnh thổ liên quan. Đảo Prince Edward Island và ba vùng lãnh thổ khác mỗi
vùng đều được coi là một vùng kinh tế. Riêng Ontario có một ngoại lệ vì ở đó
ranh giới vùng kinh tế không tuân thủ theo các ranh giới đơn vị dân cư: đơn vị
dân cư Halton bị chia tách bởi vùng kinh tế Hamilton – Bán đảo Niagara và vùng
kinh tế Toronto [Buckner P.A. 2000].
Còn đối với người Mỹ thì quan niệm về vùng
kinh tế đã có những thay đổi đáng kể. Từ giữa thế kỷ 19, Văn phòng Dân số đã
tập hợp dữ liệu các bang thành các vùng gốm nhiều bang. Gần đây Văn phòng này
đã chia 50 bang thành 4 vùng kinh tế và bốn vùng đó lại được chia thành 9 phân
vùng. Không kể việc bổ sung Alaska và Hawaii vào phân vùng Thái Bình Dương vào
những năm 1950 thì việc chia thành 9 phân vùng vẫn không thay đổi kể từ năm
1910. Tuy nhiên, sau cuộc tổng điều tra dân số năm 1950, một Uỷ ban Liên cơ
quan thuộc Bộ thương mại đã xem xét lại định nghĩa về vùng và phân vùng bằng
tiêu chuẩn đồng nhất kinh tế - xã hội. Các nhân tố kinh tế khác được xem xét
trong định nghĩa vùng đều được cấu trúc bởi thu nhập theo các nguồn dữ liệu năm
1950. Các nhân tố phi kinh tế được sử dụng để nhóm các bang thành vùng bao gồm
mật độ dân số và mức tăng trưởng, các cấu trúc tộc người, chủng tộc, tỷ lệ chết
của trẻ em năm 1949, số máy điện thoại trên đầu người năm 1950. Cơ sở cuối cùng
để phân vùng bao gồm cả các nhân tố kinh tế và phi kinh tế. Các nhà kinh tế học Mỹ đã có ý định sử dụng
các vùng của Văn phòng Phân tích Kinh tế Liên bang để phân tích vì việc nhóm
các bang thành các vùng kinh tế rất thuận lợi cho việc phân tích. Vào cuối
những năm 1970 và đầu những năm 1980, các vùng kinh tế theo cách phân chia của
Văn phòng Phân tích Kinh tế Liên bang đã được sử dụng để kiểm tra các hiệu ứng
vùng về phương diện chính sách tài chính và tiền tệ. Từ cuối những năm 1990
người ta vẫn sử dụng các vùng kinh tế của Văn phòng Phân tích Kinh tế Liên
bang; hiện nay đang có khuynh hướng sử dụng phương pháp phân tích cụm kinh
tế để xác định các vùng, và phân 48 bang thành 8 vùng kinh tế khác
nhau căn cứ vào cách phân tích cụm [Crone 2003: 1-2].
Thực chất của vùng kinh tế là chuyên môn hoá sản xuất, dựa vào những điều kiện thuận lợi của vùng về tự nhiên-kinh tế, xã hội-lịch sử để sản xuất ra nhiều sản phẩm hàng hoá với chất lượng tốt, giá thành hạ, cung cấp cho nhu cầu của nhiều vùng khác, cho nhu cầu cả nước và xuất khẩu. Chuyên môn hoá sản xuất của vùng kinh tế thể hiện nét đặc trưng, độc đáo của vùng, vai trò, nhiệm vụ của vùng với các vùng khác, cũng như đối với nền kinh tế quốc dân trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Những ngành chuyên môn hoá sản xuất trong vùng được hình thành và phát triển dựa trên những điều kiện thuận lợi của vùng. Vì vậy những ngành này thường là những ngành cho hiệu quả kinh tế cao nhất, quyết định phương hướng sản xuất chính của vùng và thường là những ngành đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế vùng. Trong thực tế, mỗi vùng kinh tế thường có nhiều ngành chuyên môn hoá sản xuất khác nhau (đặc biệt là vùng kinh tế lớn). Vì vậy cần phải xác định được vai trò vị trí của từng ngành chuyên môn hoá sản xuất trong vùng, cũng như vai trò vị trí của từng cơ sở chuyên môn hoá sản xuất trong ngành để có phương hướng đầu tư phát triển hợp lý. Để làm được điều đó, người ta thường căn cứ vào một hệ thống nhiều chỉ tiêu để phân tích trong đó những chỉ tiêu được sử dụng phổ biến là: i) Tỷ trọng giá trị sản phẩm hàng hoá của một ngành sản xuất chuyên môn hoá nào đó trong vùng so với toàn bộ giá trị sản phẩm của ngành ấy được sản xuất ra ở trong vùng trong một năm; ii) Tỷ trọng giá trị sản phẩm hàng hoá của ngành sản xuất chuyên môn hoá nào đó trong vùng so với toàn bộ giá trị sản phẩm hàng hoá của ngành đó được sản xuất ra trên cả nước trong một năm.
Thực chất của vùng kinh tế là chuyên môn hoá sản xuất, dựa vào những điều kiện thuận lợi của vùng về tự nhiên-kinh tế, xã hội-lịch sử để sản xuất ra nhiều sản phẩm hàng hoá với chất lượng tốt, giá thành hạ, cung cấp cho nhu cầu của nhiều vùng khác, cho nhu cầu cả nước và xuất khẩu. Chuyên môn hoá sản xuất của vùng kinh tế thể hiện nét đặc trưng, độc đáo của vùng, vai trò, nhiệm vụ của vùng với các vùng khác, cũng như đối với nền kinh tế quốc dân trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Những ngành chuyên môn hoá sản xuất trong vùng được hình thành và phát triển dựa trên những điều kiện thuận lợi của vùng. Vì vậy những ngành này thường là những ngành cho hiệu quả kinh tế cao nhất, quyết định phương hướng sản xuất chính của vùng và thường là những ngành đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế vùng. Trong thực tế, mỗi vùng kinh tế thường có nhiều ngành chuyên môn hoá sản xuất khác nhau (đặc biệt là vùng kinh tế lớn). Vì vậy cần phải xác định được vai trò vị trí của từng ngành chuyên môn hoá sản xuất trong vùng, cũng như vai trò vị trí của từng cơ sở chuyên môn hoá sản xuất trong ngành để có phương hướng đầu tư phát triển hợp lý. Để làm được điều đó, người ta thường căn cứ vào một hệ thống nhiều chỉ tiêu để phân tích trong đó những chỉ tiêu được sử dụng phổ biến là: i) Tỷ trọng giá trị sản phẩm hàng hoá của một ngành sản xuất chuyên môn hoá nào đó trong vùng so với toàn bộ giá trị sản phẩm của ngành ấy được sản xuất ra ở trong vùng trong một năm; ii) Tỷ trọng giá trị sản phẩm hàng hoá của ngành sản xuất chuyên môn hoá nào đó trong vùng so với toàn bộ giá trị sản phẩm hàng hoá của ngành đó được sản xuất ra trên cả nước trong một năm.
II. Lợi thế tương đối và tuyệt đối của vùng
kinh tế
Một trong những cơ sở quan trọng nhất, cần quan tâm trước tiên, của lợi thế
so sánh vùng là sự phân công lao động và chuyên môn hóa sản xuất. Phân công và
chuyên môn hóa càng sâu thì nhu cầu hợp tác càng lớn. Trong khi đó chuyên môn
hóa phụ thuộc chủ yếu vào lợi thế của mỗi vùng so với vùng khác (tương tự giữa
địa phương này và địa phương khác trong một vùng). Lý thuyết hay được sử dụng
nhất để lý giải sự phân công và chuyên môn hóa vùng là Lý thuyết thương mại
vùng, mượn khái niệm lợi thế so sánh (hay lợi thế tương đối) từ lý thuyết
thương mại quốc tế (vì cho rằng thương mại vùng lớn hơn và tự do hơn). Theo
kiểu mô hình cổ điển Ricardo, trong số tất cả các hàng hóa có thể sản xuất, các
vùng sẽ tập trung vào những hàng hóa mà chúng có chi phí sản xuất tương đối
thấp. Sự khác biệt về chi phí sản xuất là do năng suất tương đối khác nhau của
các yếu tố sản xuất (công nghệ khác nhau). Thậm chí nếu một vùng nào đó sản
xuất tất cả các hàng hóa với chi phí cao hơn các vùng khác, nghĩa là sản xuất
kém hiệu quả nhất trong số các vùng (bất lợi thế tuyệt đối), nó có thể ít kém
hiệu quả hơn một cách tương đối trong việc sản xuất một hàng hóa nào đó. Và do
đó, nó có thể có vị trí trong phân công lao động vùng bằng cách chuyên môn hóa
sản xuất vào loại hàng hóa mà nó có hiệu quả cao hơn một cách tương đối. Như
vậy mỗi vùng sẽ tập trung sản xuất vào một hay một tập hợp hàng hóa mà nó có
lợi thế tương đối và trao đổi với các vùng khác để lấy các hàng hóa khác và mọi
vùng đều có lợi trong mối quan hệ trao đổi này. Phân công theo mô hình
Heckscher-Ohlin (Tân cổ điển) hơi khác một chút. Theo đó, một vùng sẽ tập trung
vào sản xuất loại hàng hóa mà nó có nhiều nhân tố sẵn có nhất bởi vì chi phí
sản xuất sẽ tương đối rẻ và trao đổi với các vùng sản xuất các hàng hóa sử dụng
nhiều nguồn lực mà nó có tương đối ít (giả định công nghệ có thể lan tỏa tới
mọi vùng). Thực chất đây cũng là một biểu hiện của lợi thế so sánh theo kiểu
Ricardo.
Tuy vậy, các mô hình thương mại vùng nêu trên không lý giải được những vấn
đề thực tế đang diễn ra về phân công lao động và chuyên môn hóa. Thứ nhất, có nhiều bằng chứng chỉ ra rằng không có sự
liên quan chặt chẽ giữa sự dồi dào nhân tố và chuyên môn hóa về mặt công nghệ.
Thậm chí trong nhiều trường hợp có sự trái ngược. Điều này gợi ý rằng xem xét
sự dồi dào nguồn lực, ngoài số lượng, phải quan tâm đến chất lượng (nhân tố sản
xuất, thể chế, hạ tầng,…). Thứ hai, ở cả hai mô hình trên, giả định quan trọng
nhất là không có sự di động nhân tố sản xuất. Tuy vậy điều này chỉ có ý nghĩa
nào đó ở cấp quốc gia, còn ở cấp vùng giả định này không hợp lý. Ngoài ra,
nhiều cơ chế khác đảm bảo cho sự vận hành của lý thuyết thương mại quốc tế như
cán cân thanh toán, tỷ giá hối đoái, thị trường lao động,… không thể áp dụng
cho cấp độ vùng quốc gia. Thứ ba, các lý thuyết nêu trên không giải thích được
sự trao đổi giữa các vùng (hay địa phương) có các điều kiện công nghệ và nhân
tố giống nhau, hay nói cách khác không lý giải được sự khác nhau về cấu trúc
sản xuất giữa các vùng có điều kiện giống nhau; và cũng không giải thích được
sự trao đổi sản phẩm nội ngành [Martin R. 2003].
Chính vì vậy, gần đây ngày càng có nhiều ý kiến cho rằng vùng khác quốc gia
ở chỗ chúng chuyên môn hóa và cạnh tranh trên cơ sở lợi thế tuyệt đối
(so với vùng khác) hơn là lợi thế tương đối. Và trong điều kiện tự do di chuyển
một cách tương đối lao động và vốn trong vùng thì lợi thế tuyệt đối sẽ không
nằm ở chi phí nhân công và vốn rẻ mà ở các điều kiện tự nhiên (khí hậu, đất
đai, thổ nhưỡng, tài nguyên, vị trí địa lý,…) và một vài yếu tố khác. Camagni
[2002] đưa ra quan điểm rằng vùng được cho là có lợi thế tuyệt đối khi nó sở hữu
các tài sản công nghệ, xã hội, thể chế, hạ tầng ưu việt hơn các vùng khác.
Những tài sản này mang tính ngoại sinh nhưng mang lại lợi ích cho các
chủ thể trong vùng mà không có lực hấp dẫn nào khác có thể tạo ra sự phân bố
lại các hoạt động kinh tế. Các chuyên gia cộng đồng kinh tế
Châu Âu cũng cho rằng ý tưởng về khả năng cạnh tranh
của vùng nên được hiểu là mặc dù trên thực tế có những doanh nghiệp có sức cạnh
tranh cao và sức cạnh tranh yếu ở mọi vùng những có những đặc điểm chung trong
vùng (địa phương) ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của tất cả các doanh nghiệp
ở đó. Những đặc điểm chung này có thể được xem như tính ngoại sinh vùng hoặc
các nguồn lực nằm ngoài các doanh nghiệp cá biệt ở địa phương và được các doanh
nghiệp này dựa vào một cách trực tiếp hoặc gián tiếp, và ảnh hưởng tới hiệu
quả, khả năng đổi mới, sự linh hoạt và năng động của các doanh nghiệp đó. Những
lập luận trên đưa ra một hàm ý là nếu một vùng (địa phương) không có một lợi
thế tuyệt đối nào thì không có nghĩa là nó sẽ có vị trí trong hệ thống phân
công và chuyên môn hóa (ngược với cách quan niệm về phân công dựa trên lợi thế
tương đối) [Capello, 1999, 2001, 2007].
III. Lợi thế quy mô và sự phân biệt hóa sản phẩm vùng
III. Lợi thế quy mô và sự phân biệt hóa sản phẩm vùng
Để lý giải mối quan hệ trao đổi giữa các nước (vùng) có điều kiện về nhân
tố sẵn có tương tự như nhau, Lý thuyết thương mại mới tập trung vào tính kinh
tế theo quy mô, sự phân biệt sản phẩm và cạnh tranh không hoàn hảo. Các mô hình
của Lý thuyết thương mại mới gồm hai loại chủ yếu: i) Các mô hình cho phép lợi
thế nhờ quy mô mang tính nội sinh đối với doanh nghiệp (internal scale
economies). Krugman [1979, 1980] đưa ra mô hình cạnh tranh có tính độc quyền
(monopolistic competition) trong đó người tiêu dùng thu được lợi ích nhờ sự đa
dạng của sản phẩm và việc sản xuất mỗi chủng loại sản phẩm phụ thuộc tính kinh
tế nhờ quy mô nội sinh và thương mại chính là phương tiện để khai thác những
lợi thế này thông qua việc mở rộng thị trường; ii) Các mô hình xem xét tính
kinh tế nhờ quy mô và sự phân biệt hóa sản phẩm trong sản xuất hàng hóa trung
gian. Trong đó việc sản xuất hàng hóa cuối cùng có lợi tức nhờ quy mô tăng khi
số lượng các đầu vào tăng, nghĩa là số lượng các loại đầu vào tăng lên sẽ có
tác động làm giảm chi phí. Thương mại cho phép quốc gia (vùng) tiếp cận với
nhiều nguồn cung cấp đầu vào, do đó thu được lợi thế nhờ quy mô. Thương mại nội
ngành đối với các đầu vào trung gian bổ sung cho sự di chuyển nguồn lực; do đó
thương mại nội ngành tăng giữa các nước (vùng) tương đồng về nhân tố sẵn có [Martin R. 2003].
Trong Lý thuyết thương mại mới, lợi thế nhờ quy mô là động lực của sự chuyên
môn hóa và trao đổi. Krugman [1995], Fujita
M. và Krugman [2004] cho rằng trong thương mại, những lợi thế như chi phí vận
tải, tính kinh tế nhờ quy mô và vấn đề quy mô thị trường quan trọng hơn nhiều
so với những lợi thế so sánh truyền thống, và có thể tạo ra sự trao đổi giữa
những nơi lợi thế so sánh tương đối có tầm quan trọng không đáng kể. Lý thuyết
thương mại mới chuyển trọng tâm từ hiệu quả trao đổi sang hiệu quả sản xuất,
hay nói cách khác nó cho rằng lợi thế trong thương mại có thể đạt được khác hẳn
với các lợi thế mang tính tự nhiên hay sẵn có trong lý thuyết truyền thống [Martin, 2003]. Cách tiếp cận này mang lại một cách nhìn khác về lợi
thế so sánh giữa các quốc gia nói chung, các vùng nói riêng; và do đó có cách
lý giải khác về phân công và chuyên môn hóa. Vì vậy, nó gợi ý các biện pháp
khác hẳn trong việc tạo lập và củng cố các mối liên kết vùng. Hơn nữa, tốc độ
mà các lợi thế nhờ quy mô đạt được, đến lượt nó, lại có thể ảnh hưởng trở lại
đối với lợi thế ban đầu theo kiểu lợi thế của người đi trước. Các yếu tố ảnh
hưởng đến sự hiện thực hóa lợi thế nhờ quy mô quan trọng nhất bao gồm: lao động
có kỹ năng, các ngành phụ trợ, cơ sở hạ tầng chuyên biệt, mạng lưới cung cấp và
công nghệ.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng cách tiếp cận của Lý thuyết thương mại mới chưa
hoàn thiện bởi nó xem các lợi thế về mặt địa lý (gần thị trường, nguồn cung đầu
vào,…) có tính ngoại sinh. Các nước (vùng) khác nhau về quy mô thị trường nhưng
Lý thuyết thương mại mới không giải thích vì sao sự khác biệt này nảy sinh, và
vì thế thiếu cơ sở cho việc giải quyết các bài toán về vùng. Điều này dẫn đến
sự ra đời của Địa lý kinh tế mới (New Economic Geography – NEG), do Paul
Krugman đề xuất. Krugman [1993] cho rằng các vấn đề về địa lý có tầm quan trọng đặc biệt
trong việc trao đổi, thậm chí ngay cả khi không có lợi thế nhờ quy mô. Do đó,
Krugman hướng các nghiên cứu về lợi thế nhờ quy mô và cấu trúc thị trường (lý
thuyết thương mại) sang vai trò của tính kinh tế ngoại sinh và các quá trình
diễn ra trong quá khứ và kỳ vọng, trong việc lý giải sự tập trung của các hoạt
động kinh tế. NEG tương đồng với Lý thuyết thương mại mới ở lợi tức tăng theo
quy mô nhưng NEG nhấn mạnh tính kinh tế ngoại sinh còn Lý thuyết thương mại nhấn
mạnh tính kinh tế nội sinh [Krugman, 1995]. NEG hướng tới trả lời hai câu hỏi chính: i) những lợi
thế của sự tập trung các hoạt động kinh tế được tạo ra và duy trì trong điều
kiện nào?; ii) và trong điều kiện nào sự khác biệt nhỏ ban đầu giữa các vùng
tạo nên những khác biệt lớn theo thời gian? Câu trả lời cho cả hai câu hỏi trên
xoay quanh sự cân bằng giữa các lực hướng tâm thúc đẩy sự tập trung (ví dụ như
lợi tức nhờ quy mô tăng) và các lực ly tâm [Fujita, Krugman & Venables, 1999; Krugman, 1992]. Đối với loại lực thứ nhất, NEG mượn khái niệm tính kinh
tế ngoại sinh của Marshall cũng như khái niệm về liên kết của Hirchman. Còn đối
với loại lực thứ hai, NEG theo cách tiếp cận của kinh tế học đô thị trong việc
xem xét các nhân tố không di động (ví dụ như đất đai, tài nguyên,….), tiền tô
các loại và tính phi kinh tế ngoại sinh (như sự tắc nghẽn giao thông ở đô thị)
hoặc sự cạnh tranh.
Ottaviano & Puga [1998] phân ra bốn loại cơ chế dẫn tới sự tập trung các hoạt
động kinh tế và các mối liên kết có tính nhân quả và tuần hoàn trong các mô
hình của NEG. Một là, sự di cư của lao động dẫn tới các liên kết cầu hàng hóa
và dịch vụ. Khi các doanh nghiệp chuyển đến một thị trường nào đó xuất phát từ
những lợi ích của sự tập trung, chúng kéo theo sự di cư của lao động và do đó
làm tăng cầu đối với hàng hóa và dịch vụ. Khi đó sự di động của nhân tố (lao
động) làm tăng hơn là làm giảm sự khác biệt giữa các vùng, và thay bằng thay
thế cho sự chuyên môn hóa của vùng, sự di động nhân tố lại thúc đẩy nó [Krugman, 1999]. Các liên kết cầu tạo ra ở đây giống với hiệu ứng thị
trường địa phương đã nói ở phần trên. Hai là, tiêu dùng và cung ứng các hàng
hóa trung gian dẫn tới các liên kết cầu và chi phí. Cách lập luận này là sự di
chuyển địa điểm của các doanh nghiệp nhằm có được lợi thế nhờ quy mô hay lợi
thế so sánh không kéo theo sự di động của lao động mà kéo theo sự di chuyển của
các ngành sản xuất các hàng hóa trung gian (các liên kết xuôi và ngược). Như
vậy các ngành khác nhau sẽ đặt địa điểm ở các vùng khác nhau tùy theo lợi thế
so sánh. Các ngành sử dụng nhiều lao động sẽ tập trung ở vùng tương đối dồi dào
lao động và tương tự như vậy đối với các ngành sử dụng nhiều vốn [Krugman &Venables, 1995]. Ba là, có cơ chế tích tụ các hoạt động kinh tế thông
qua tăng trưởng nội sinh và tạo các mối liên kết liên tục. Tăng trưởng và tích
tụ các hoạt động kinh tế củng cố lẫn nhau. Luôn luôn có các hiệu ứng học tập
tạo xung lực cho khu vực nghiên cứu và triển khai (R&D) – động lực của tăng
trưởng nội sinh – đặt địa điểm gần với các doanh nghiệp khác trong ngành. Sự
phát triển của khu vực R&D thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, kéo theo sự tập
trung của các doanh nghiệp khác; đồng thời tăng trưởng, đến lượt nó, lại hấp
dẫn sự tập trung của các hoạt động R&D. Bốn là, vấn đề lịch sử và kỳ vọng
cũng đóng một vai trò không nhỏ trong việc tạo ra sự tập trung các hoạt động
kinh tế và các mối liên kết. Lịch sử (ví dụ như quy mô việc làm hay một khoản đầu
tư nào đó trong quá khứ của nhà nước) có thể tạo ra sự bất cân đối ở những vùng
mà trước đó giống nhau và mang lại sự gia tăng quá trình tập trung. Những thay
đổi nhỏ trong các tham số chủ chốt (ví dụ tỷ phần của ngành trong vùng, chi phí
vận tải,…) có thể dẫn tới các bước nhảy về sự tập trung thông qua quá trình tự
củng cố. Tuy vậy, cũng có thể các kỳ vọng có tầm quan trọng hơn vấn đề lịch sử
và các vùng bị bỏ quên bởi lịch sử cũng có thể cố gắng thu hút và tạo ra các
mối liên kết. Điều này sẽ xảy ra nếu những lợi thế ban đầu, chi phí di cư và
vận tải không quá lớn. Nếu những khía cạnh trên đủ lớn, các kỳ vọng sẽ củng cố
thêm lịch sử; nghĩa là mức độ tập trung các hoạt động kinh tế ngày càng lớn ở
vùng có lợi thế ban đầu.
Fujita & Mori [2005] cũng chỉ ra hiệu ứng tương tự về vai trò của địa lý tự
nhiên trong việc quyết định địa lý kinh tế. Ai đó tình cờ quan sát về địa lý
kinh tế trên thực tiễn cũng phải chú ý về tính lịch sử của vấn đề: New York là
New York bởi vì một con kênh mà đã không còn quan trọng về mặt kinh tế từ 150
năm qua; Thung lũng Silicon tồn tại do tầm nhìn của các quan chức ở Stanford
hai thế hệ trước đây. Do vậy, xét về mặt hiện tại các con sông và cảng biển
đóng vai trò rất quan trọng. Những khía cạnh ưu đãi về mặt địa điểm, như sự sẵn
có một cảng biển tốt, thường có vai trò “xúc tác”: chúng có khả năng làm cho
một trung tâm nếu đã hình thành thì sẽ tiếp tục ở đó chứ không ở nơi khác trong
vùng phụ cận. Nhưng một khi một trung tâm đã được thiết lập, nó sẽ phát triển
thông qua quá trình tự củng cố, và do đó có thể đạt được một quy mô mà lợi thế
về địa điểm ban đầu trở nên kém quan trọng hơn so với lợi thế tự duy trì của sự
tập trung.
Như vậy, NEG đã có cách tiếp cận khác về lợi thế so sánh vùng. Những lợi
thế về tập trung sản xuất - sự tương tác giữa quy mô thị trường và lợi thế nhờ
quy mô - và chi phí vận tải mới là điểm mấu chốt tạo nên sự khác biệt vùng [Fujita M. and
Krugman 2004]. Các lợi thế ban đầu về tự nhiên (lợi thế tuyệt đối) chỉ
có ý nghĩa quan trọng lúc đầu, còn về sau chính sự tương tác giữa các chủ thể
bên trong sự tập trung mới tạo nên các dòng di chuyển nguồn lực. Nói cách khác
sự tập trung tạo ra, đồng thời ngày càng làm sâu sắc thêm, các lợi thế so sánh
vùng thông qua tính kinh tế ngoại sinh. Tuy nhiên lực hút của sự tập trung
không phải là vô hạn mà bị hạn chế bởi các lực ly tâm do chính sự tập trung tạo
ra (tính phi kinh tế ngoại sinh). Điều này tạo ra sự cân bằng động trong việc
hình thành, phát triển sự tập trung các hoạt động kinh tế - xã hội.
________________________________
Còn nữa...
* Ghi chú: Bài viết năm 2008, thuộc đề tài cấp Bộ, Viện Phát triển Bền vững vùng Bắc Bộ, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Nghiên cứu cơ sở lý thuyết cho việc xác định các ưu tiên trong phát triển bền vững vùng kinh tế do tác giả làm Chủ nhiệm.
Tài liệu tham khảo
Asheim B.T., and A. Isaksen 2002. Regional Innovation Systems: The Integration of Local ‘Sticky’ and Global ‘Ubiquitous’ Knowledge. Journal of Technology Transfer 27: 77‐86.
________________________________
Còn nữa...
* Ghi chú: Bài viết năm 2008, thuộc đề tài cấp Bộ, Viện Phát triển Bền vững vùng Bắc Bộ, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Nghiên cứu cơ sở lý thuyết cho việc xác định các ưu tiên trong phát triển bền vững vùng kinh tế do tác giả làm Chủ nhiệm.
Tài liệu tham khảo
Asheim B.T., and A. Isaksen 2002. Regional Innovation Systems: The Integration of Local ‘Sticky’ and Global ‘Ubiquitous’ Knowledge. Journal of Technology Transfer 27: 77‐86.
Buckner, P.A. 2000. Limited
identities Revited: Regionalism and Nationalism in Canadian History,
Acadiensis, 30, 1 Augt. pp.8-10.
Camagni R.
2002.
Regional cluster, regional competencies
and regional competition. Paper
delivered at the International Conference on Cluster management in structural policy –International experiences and
consequences for Northrhine-Westfalia, Duisburg, December 5th, 2003-11-26.
Capello R. 1999.
Spatial Transfer of Knowledge in
High-technology Milieux: Learning vs. Collective Learning Processes, Regional Studies, Vol. 33, n. 4, pp.
353-365.
Capello R. 2007. Local
Patterns of Growth in a Global Perspective: a Territorial Scenario for an
Integrated Europe, in Johansson I. (ed.), Entrepreneurship and
Development – Local processes and Global Patterns, University West,
Uddevalla, pp. 197-228.
Capello R. 2001.
Urban Innovation and Collective Learning:
Theory and Evidence from Five Metropolitan Cities in Europe, in Fischer
M.M. and J. Froehlich (eds.), Knowledge, Complexity and Innovation Systems,
Springer, Berlin, Heidelberg, New York, pp. 181-208.
Cooke P. 1998.
Introduction: Origins of the Concept.
In: Braczyk, H.; Cooke, P and Heidenreich, M (eds.) (1998) Regional
Innovation Systems. (1st edition) London: UCL Press, pp. 2‐25.
Cooke, P. 2001.
Regional Innovation Systems, Clusters,
and the Knowledge Economy. Industrial
and Corporate Change 10 (4): 945‐974
Crone, T.M. 20003. An
Alternative Definition of Economic Regions in the U.S. Based on Similarities in
State Business Cycles. Presented at the Conference of the Use of Composite Indexes in Regional
Analysis, (September 4-5, 2003).
Fligstein N. and Stone Sweet 2002. Integration. The American Journal of Sociology, Vol. 107, No. 5. (Mar., 2002), pp. 1206-1243.
Fujita M. and
Krugman P., 2004. The New Economic
Geography: Past, present and the future. Papers in Regional Science 83, 139-164.
Fujita,
Masahisa & Mori, Tomoya, 2005. Frontiers
of the New Economic Geography, IDE Discussion Papers, 27, Institute of
Developing Economies, Japan External Trade Organization (JETRO).
Fujita M., Krugman P., and Anthony Venables 1999. The Spatial Economy – Cities,
Regions and International Trade. MIT Press, July 1999.
Fujita, M., P, Krugman and A. J. Venables 2000. Spatial Economy: Cities, Regions, and
International Trade, Cambridge: MIT Press
Krugman P.
1979. Increasing
returns, monopolistic competition, and international trade. Journal of International Economics 9, pp. 469–79.
Krugman P.
1980.
Scale economies, produc differentiation,
and the pattern of trade. Amrican
Economic Review 70, pp. 950–59.
Krugman
P. 1991.
Increasing returns, and economic
geography. Journal of Political
Economy 99, pp. 483–99.
Krugman P.
1993.
What Do We Need to Know About the International Monetary System? Essays in International Finance, No 190 July
1993.
Krugman
P. 1995.
Development, Geography, and Economic Theory, Ohlin Lectures, September 1995.
Krugman P. 1998. The Role of Geography in Development. Paper prepared for the Annual World Bank Conference on Development Economics,
Washington, D.C., April 20–21, 1998.
Martin
R. 2003. Regional
Venture Capital Policy in Germany and the UK, Anglo-German
Foundation, (with P. Sunley, B. Klaage and C Berndt), London and Berlin,152pp.
Nguyễn Xuân Thu - Nguyễn Văn Phú (Đồng chủ biên) 2006. Phát triển
kinh tế vùng trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá (Sách chuyên
khảo). Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2006.
Ottaviano G.I.P.,
& D.
Puga 1998.
Agglomeration
in the Global Economy: A Survey of the 'New Economic Geography'. The World Economy. Volume 21, Issue 6, pages
707–731, August 1998.
Russian Government 2001. Russian Classificaton
of Economic Regions (OK 024-95) of January 1, 1997 as amended by the Amendments in
January 1998 through May 2001. Section II. Economic Regions.
Salais R. and M. Storpper 1997.
Worlds of Production: the Action Frameworks of the Economy, Cambridge, MA,
Harvard University Press, 1997.
Storper, M.
1997. The regional world: territorial development in a global economy, New
York: Guilford Press.
Storper M. and R. Walker 1989. The capitalist imperative: territory, technology, and industrial growth. Basil Blackwell, New York.
Storper M. and R. Walker 1989. The capitalist imperative: territory, technology, and industrial growth. Basil Blackwell, New York.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét