Đọc quá khứ – những
cách tiếp cận lý giải Khảo cổ học hiện nay (XVI)
Ian Hodder
Người dịch: Hà Hữu Nga
Các KCH khác ở phương Tây
Từ những người Sáng tạo luận và các độc giả của Von Daniken đến những người
sử dụng máy dò kim loại [Gregory 1983] và những người tìm kiếm các con đường mòn tiền sử [Williamson and Bellamy 1983], đã xuất hiện những quá khứ khác và cực kỳ nổi tiếng. Đó
là những thứ mà các nhà KCH (Khảo cổ học) truyền thống cố gắng lờ đi hoặc xa lánh coi là “ngoài
lề”. Tuy nhiên ngày càng có nhiều đối đầu trực tiếp đặc biệt là ở các xã hội
phương Tây, nơi mà quá khứ trở thành một nguồn cần phải được sử dụng hiệu quả
hơn cho công chúng, như là một món hàng, được đóng gói đẹp đẽ và đáp ứng được
nhu cầu của khách mua.
Trong nhiều nước phương Tây, KCH đã gắn kết lâu đời với các giai cấp trung
và thượng lưu. Ngày nay quá khứ được phục dựng thật đến mức nào, được sử dụng
ra sao cho các lợi ích hợp pháp đã thành và những gì tác động đến việc lý giải
quá khứ? Mới đây đã có một loạt khảo sát mức độ hiểu biết của công chúng Anh về
KCH và thái độ của họ đối với KCH [Hodder, Parker Pearson, Peck and Stone 1985]. Mặc dù các cuộc khảo sát theo bảng hỏi này chỉ cung cấp
những chỉ số tạm thời bước đầu, nhưng các cuộc khảo sát như vậy vẫn được tiếp
tục bằng những nghiên cứu trên qui mô rộng và công việc nghiên cứu được cấu
trúc tốt hơn [Merriman 1989a, b] sao cho những khuynh hướng chính đã được xác định có thể
đem ra thảo luận.
Các cuộc khảo sát đó cho thấy rõ ràng là có những nhóm người ở nước Anh
hiện nay hiểu biết về quá khứ nhiều hơn những nhóm khác. Họ có một tri thức
rộng hơn và chính xác hơn về những gì mà các nhà KCH viết ra. Họ xem các tư
liệu KCH trên TV nhiều hơn, đến bảo tàng, thăm các di chỉ, viếng nhà thờ và đọc
về quá khứ nhiều hơn. Không có gì đáng ngạc nhiên là những người này lại thường
có giáo dục nhiều hơn (thời gian học ở trường lâu hơn, hoặc có nhiều hình thức
giáo dục thêm khác nữa) so với những người ít hiểu biết về KCH. Họ cũng thường
có việc làm với giá trị cao hơn, kiểm soát các nguồn và những người khác nhiều
hơn.
Các nhóm khác nhau đó trong xã hội giải thích quá khứ chính xác đến mức
nào? Kết quả các cuộc khảo sát thử đã chứng tỏ rằng những nhóm thu nhập thấp
hơn và được giáo dục ít hơn có khuynh hướng quan tâm tương đối nhiều hơn đến
quá khứ địa phương họ, quan tâm đến KCH với tư cách là một lịch sử, và quan tâm
đến tính chất gần gũi của một kinh nghiệm quá khứ thông qua các hiện vật KCH.
Điều đó cũng có thể gợi lên những gắn bó chung giữa các mối quan tâm của giai
cấp trung lưu đương thời và các mối quan tâm đến KCH đương đại. Các mối quan hệ
có thể tồn tại giữa siêu truyền bá luận và chủ nghĩa phát xít, giữa các giả
thiết KCH về quản lý môi trường và những mối quan tâm đương đại về quá tải dân
số, suy thoái môi trường và giữa việc sử dụng thực chứng luận khoa học của khảo
cổ học mới đây và một niềm tin phổ biến vào khoa học trong việc giải quyết các
vấn đề kỹ thuật. Không nghi ngờ gì nữa, KCH Ngữ cảnh đã có những mối liên hệ
với các trào lưu “phản – hệ thống” của những năm 60, và hiện nay người ta nhấn
mạnh đến ý nghĩa, kinh nghiệm cá nhân, và nhấn mạnh đến quan niệm “nhỏ là đẹp”.
Những quan điểm đa dạng không thể phân chia một cách đơn giản dựa trên các
tuyến giai cấp. Có ít bằng chứng cho thấy những người săn tìm các con đường
tiền sử chẳng hạn lại chỉ xuất thân từ một bộ phận của xã hội. Hơn nữa những
quá khứ đa dạng khác cũng kích thích và đưa nhiều cá nhân và các nhóm lợi ích
đến việc thay đổi các lý giải về những môn KCH đã có.
Hầu hết các cá nhân trong xã hội đều thấy cực kỳ khó khăn
khi phải suy nghĩ về một quá khứ khác trong mối liên hệ với các dữ liệu từ quá
khứ. Họ bị kích thích bởi Von Daniken và các bộ phim chẳng hạn
như Một triệu năm trước Công nguyên và Những người đột kích vào con
thuyền đã mất và họ đưa ra các quan
điểm cá nhân của mình về một quá khứ phải như thế nào, trong khi họ bị cách
biệt các hiện vật KCH qua những chiếc tủ trưng bày, những phân tích hệ thống và
những biệt ngữ về lý thuyết xã hội. Họ tìm thấy ở đâu những lối tiếp cận với
các kinh nghiệm trực tiếp của quá khứ, trong khi họ thường phải đối diện trực
tiếp với những gì mà các nhà KCH đã viết ra, hoặc là các quan điểm của họ bị cố
ý bỏ qua. Chẳng hạn như những người sử dụng máy dò kim loại và thể chế KCH ở
Anh quốc tham gia vào cuộc tranh luận nóng nẩy và gay gắt chỉ để mở rộng vấn đề
phân công xã hội [Hodder 1984b]. Các nhà KCH đó cố làm việc với, chứ không phải là chống
lại những người say máy dò kim loại đã tìm ra các cung cách cổ vũ cho việc hợp
tác và khảo sát [Gregory 1983]. Vậy là các nhà KCH đã có một tiềm năng to lớn để
cổ vũ và trợ giúp tạo ra những quan điểm khác về cả những cách thức tham gia
vào quá khứ [Willey 1980]. Người ta thực hiện các phép thử để lý giải tại sao quá
khứ lại được khai quật lên [Leone 1983] và quá khứ được phục dựng như thế nào. Nhiều bảo tàng,
chẳng hạn như Jorvik Viking Centre ở York hiện quan tâm nhiều hơn đến việc tái
tạo những phiên bản sống của quá khứ để cho công chúng trải nghiệm. Đó là sự
thật về một số bảo tàng được tổ chức tốt.
Những phân đôi giữa các quá khứ được tạo bởi các nhóm lợi ích khác nhau và
KCH có vẻ như đã không thành công trong việc cổ vũ cho những nhận thức và kinh
nghiệm khác về quá khứ có thể liên quan đến vai trò của KCH và các nhà KCH
trong các chiến lược quyền lực ở xã hội phương Tây. Môn KCH Phê phán đã tạo ra
một cách nhìn về những mối quan hệ giữa tri thức và quyền lực hiện đang được
thảo luận trong KCH. Tất cả những chỉ trích về một khoa KCH đã được thể chế hoá
bao gồm cả những nền KCH xuất phát từ quan điểm nữ quyền và bản địa là thoả
đáng. Và cũng đặc biệt thích đáng với KCH khi nó can dự vào sự thống trị giai
cấp.
Lý thuyết Phê phán
“Lý thuyết Phê phán” là thuật ngữ chiếc ô
được sử dụng để mô tả tính đa dạng của các tác giả châu Âu, đặc biệt là các tác
giả thuộc “Trường phái Franfurt” tập trung xung quanh Viện nghiên cứu Xã hội
được thành lập ở Franfurt năm 1923 [Held 1980]. Những nhân vật chủ chốt là Horkheimer, Adorno và
Marcuse. Mới đây Habermas và các tòng sự của ông đã tái hệ thống hoá quan niệm
về Lý thuyết Phê phán. Các cách tiếp cận được sử dụng trong lý thuyết phê phán
xuất phát từ truyền thống tư tưởng duy tâm Đức kết hợp với một lối nhìn
Marxist. Một mặt, các nhà Lý thuyết Phê phán đã chỉ trích cái tình trạng toàn
bộ tri thức đều bị qui định về phương lịch sử. Đồng thời họ cũng lại cho rằng
rằng chân lý có thể được định giá và có thể tiến hành việc phê phán một cách
độc lập với các lợi ích xã hội – tóm lại thứ Lý thuyết Phê phán đó đã có một vị
trí ưu trội trong các lĩnh vực lý thuyết.
Trong nhiều vấn đề khác nhau của Lý thuyết Phê phán thì hấp dẫn nhất đối
với KCH chính là phép phân tích mỹ học và văn hoá đương đại vì nó trực tiếp
liên quan đến việc thể hiện quá khứ KCH trong bảo tàng, trên TV vân vân. Trong
tác phẩm Phép biện chứng của Kỷ nguyên ánh sáng Horkheimer và Adorno [1973] đã sử dụng thuật ngữ “công nghiệp văn hoá”. Chống lại,
chẳng hạn như âm nhạc “đại chúng” và sản xuất “hàng loạt” họ đã chứng minh rằng
văn hoá hiện đại được tiêu chuẩn hoá theo quá trình duy lý hoá của sản xuất và
của các kỹ thuật phân phối. Các cá nhân không còn “sống” bằng nghệ thuật và văn
hoá nữa – họ tiêu dùng việc biểu diễn. Công nghiệp văn hoá đã cản trở sự phát
triển của tư tưởng và tính độc lập của cá nhân. Nó truyền đạt một thông điệp về
sự hoà giải và tuân thủ. Con người trở thành kẻ tiêu khiển, lãng trí và thụ
động.Tuy có những ngoại lệ, nhưng trong các phim tư liệu truyền hình và trong
trưng bày bảo tàng, KCH thường được sắp đặt theo trật tự, để được quan sát một
cách thụ động. Nó được tiêu thụ như một hợp phần văn hoá của công nghiệp giải
trí, rất hiếm tính chất thử thách và tham gia. Các nhà KCH có thể sắp đặt ý
nghĩa của trật tự, sự kiểm soát, và cả uy quyền của khoa học (cái khoa học
riêng của họ và cái khoa học của các nhóm xã hội thống trị) vào một viễn cảnh
lịch sử dài hạn khi để hết tâm trí vào việc thoát khỏi cái quá khứ nguyên khởi
đã bị xuyên tạc thông qua việc đổi mới công nghệ. Kết quả đã tạo ra một bức
thông điệp ý thức hệ hùng mạnh.
Khía cạnh thích đáng khác trong công trình của các nhà Lý thuyết Phê phán
là các thảo luận của họ về triết học lịch sử. Habermas cho rằng việc phụ thuộc
vào tri thức lý giải duy tâm về các ý nghĩa ngữ cảnh là chưa đủ, và nhà phân
tích phải hướng tới việc lý giải về tình
trạng truyền thông bị xuyên tạc một cách hệ thống. Nói cách khác, người ta cần
phải nhận ra bằng cách nào mà những tư tưởng của một thời lại gắn liền với sự
thống trị và quyền lực. Những vấn đề tương tự đã được Marcuse, Horkheimer và
Adorno thực hiện. Mục đích của Biện chứng của Kỷ nguyên ánh sáng là “đột
phá vào sự kìm kẹp của các hệ thống tư tưởng đóng kín; nó được công nhận là có
công làm sói mòn tất cả mọi niềm tin nào khẳng định tính hoàn thiện và cổ vũ cho một sự khẳng định
không phản ánh về xã hội” [Held 1980, p.150].
Theo Hegel, Kỷ nguyên ánh sáng được coi là sự hưng thịnh của khoa học phổ
quát mà mục đích chủ yếu là kiểm soát tự nhiên và con người. Trong chủ nghĩa
thực chứng, thế giới được tạo bởi các vật vật chất có thể được điều khiển và
sắp xếp thành trật tự theo các qui luật vũ trụ, và các qui luật lịch sử cũng
được coi là tương đương với các qui luật tự nhiên. Người ta có thể đoan chắc
rằng [Hodder 1984b] việc KCH sử dụng các mô hình khoa học tự nhiên, lý
thuyết thực chứng và lý thuyết các hệ thống đã hỗ trợ cho một hệ tư tưởng kiểm
soát, vì vậy mà một nhà khoa học “phi chính trị” được coi là thiết yếu cho việc
kiểm soát xã hội trong thời gian và không gian của quá khứ và tương lai.
Ngược lại, Lý thuyết Phê phán tìm kiếm một Kỷ nguyên ánh sáng mới, một sự
giải phóng mà lý tính phê phán đưa tới tự do, thoát khỏi mọi sức mạnh thống trị
và huỷ diệt. Với các tác giả như Lukacs thì tri thức dẫn tới sự giải phóng đó
đã bị cấu trúc của quá trình xã hội cản trở, thống trị và quyết định tổng thể
tính xã hội, bao gồm cả tư tưởng và ý thức.
Những mô hình lý tưởng về khách quan tính và giá trị - tự do được các nhà
Lý thuyết Phê phán mô tả là tự thân mang giá trị. Lý thuyết phê phán tìm cách
phân xử các lý giải cạnh tranh về thực tại và để vạch trần các lĩnh vực thuộc
hệ tư tưởng, và vì vậy mà giải phóng con người khỏi sự thống trị giai cấp. Bằng
cách nhấn mạnh vào các điều kiện vật chất và xã hội mà những xuyên tạc hệ tư tưởng
có thể được khám phá dẫn tới tự thức tỉnh và giải phóng.
Một cách tiếp cận duy vật đối với lịch sử là ý thức hệ đã được Leone [1982; Leone et al. 1987; cũng có thể xem Handsman 1980 và
1981] tiến hành một cách rõ ràng nhất trong KCH.
Leone lưu ý rằng khi quá khứ được lý giải và làm thành lịch sử thì nó có khuynh
hướng trở thành hệ tư tưởng, và ông cho rằng rằng ý thức hoặc thiên khải về quá
trình đó có thể giúp cho những ai viết hoặc nghe về quá khứ bắt đầu hiểu rõ về
những quan niệm hệ tư tưởng là thứ đẻ ra cuộc sống hàng ngày hiện thời. Chẳng
hạn như thông qua việc xác định nguồn gốc chủ nghĩa cá nhân hoặc những quan
niệm hiện đại về thời gian trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản Mỹ
thế kỷ XVIII, các khách thăm quan viện bảo tàng có thể nhận thức rõ về hệ tư
tưởng của riêng họ dựa trên cơ sở lịch sử và các lập trường đúng sai của họ có
thể được bộc lộ như là những cội nguồn của sự thống trị.
Trong khi các quan niệm về tự phê bình, về nhận thức các giá trị chính trị
xã hội do chúng ta viết ra có tầm quan trọng hàng đầu trong sự nghiệp tiếp tục
phát triển KCH thì tôi cho rằng lập trường của trường phái Lý thuyết Phê phán –
như đã được Leone và Handsman khuyếch đại - dường như là khó mặc dù không nghi
ngờ rằng nó hấp dẫn và quan trọng vì cả hai lý do chính yếu.
Trước hết, các công trình ấy chứa đựng một quan niệm không thoả đáng về sự
thống trị. Xã hội được thể hiện cứ như là bị áp chế bởi những hệ thống đại diện
thống nhất bao trùm. Leone [1982, p.756] nói về việc áp đặt “hệ tư tưởng riêng của chúng ta để
biến nó trở thành một cái gì đó có vẻ chắc chắn”. Như đã thảo luận ở chương 4,
trong việc phê phán những quan niệm Marxist về hệ tư tưởng, không hề có sự cố
gắng nào kết hợp tính đa dạng vào những cấp độ nhận thức về các điều kiện xã
hội. “Trong các bài viết của họ, xã hội dường như bị điều khiển từ bên trên chứ
không phải là kết quả của một quá trình liên tục tranh giành quyền thống trị và
các nguồn tài nguyên” [Held 1980, p. 365]. Tuy nhiên vẫn có những bằng chứng cho thấy rằng những
con người khác nhau trong công chúng đương đại nhìn nhận quá khứ theo những
cung cách khác nhau. Cũng không có gì chứng tỏ rằng KCH có công trong việc duy
trì hệ tư tưởng phổ quát phương Tây, ngăn cản người ta tìm hiểu các điều kiện
tồn tại xã hội của họ. Sự thực thì như đã được cấu trúc và trải nghiệm trong
cuộc sống đương đại, những gì mà quá khứ có thể phơi bày về hiện tại cũng chẳng
ít hơn những gì mà nó che dấu.
Những khảo sát theo đường hướng trên đã cho thấy rằng các
cá nhân và các nhóm phụ thuộc ở nước Anh đương đại không dễ bị lừa bịp bởi
những lý giải thống trị về quá khứ. Mặc dù các nhóm bị trị bao gồm cả giai cấp lao
động có vẻ có ít tri thức khoa học về quá khứ, nhưng họ vẫn chấm điểm cao nhất
cho những câu trả lời về các vấn đề về nhu cầu đối với quá khứ. Các cá nhân ấy
vẫn nghĩ rằng quá khứ và KCH là cần thiết và đáng giá trong việc đem lại ý
nghĩa cho hiện tại. Nhưng các cá nhân cũng thường thể hiện sự bi quan về những
thao tác liên quan đến quá khứ của các phương tiện truyền thông hoặc các chính phủ
quốc gia; nhiều người cảm thấy rằng những gì do nhà KCH và các nhà khoa học nói
về quá khứ rất ít khi được chứng minh bằng bất cứ một cách nào đó.
Vì vậy mọi người có thể nhìn thấu cái phù du của tri thức khoa học mà các
nhà KCH cố gắng thể hiện. Họ buồn chán bởi cách trưng bày của các bảo tàng
truyền thống; họ tắt TV; họ đưa ra những cách nhìn của riêng mình về quá khứ.
Những người tiến hành các khảo sát ý kiến công chúng đều có một kinh nghiệm là
khi hỏi quan điểm của họ về quá khứ hoặc cảm giác của họ là gì khi sống với quá
khứ, nhiều người lập tức nói ngay về hiện tại, so sánh và đối lập giữa hai thời
đó. Nhiều người nói về ích lợi của công nghệ hiện đại và những tiện nghi vật
chất khác, nhưng lại cảm thấy rằng thế giới ngày nay đang vận động quá nhanh,
rằng con người đã đánh mất ý nghĩa về vị trí của mình trên đời này, rằng công
nghệ đã phát triển quá xa...vv. Họ đều có những bức tranh rõ ràng của riêng
mình về một quá khứ giống với những gì trong hiện tại, và bức tranh này thường
khác với các phiên bản “KCH” bằng cách đưa ra một phương án thay thế cho những
gì mà người ta coi là tốt hay xấu trong thế giới xung quanh họ.
Với cách tiếp cận phê phán hiện thời trong
KCH, vấn đề thứ hai liên quan đến sự chỉ trích về bản thân những cách tiếp cận
đó vì chúng nảy sinh từ phương diện lịch sử. Một mặt Lý thuyết Phê phán có thể
khẳng định như thế nào về một thực tế là toàn bộ tri thức là sự truyền thông
xuyên tạc về lịch sử, và mặt khác đó có phải là một phương tiện phê phán của sự
khai sáng và giải phóng?. Bằng thẩm quyền gì hoặc thao tác nào mà tự nó hoà hợp
thành một vị thế lý thuyết đặc biệt? Nan đề của lý thuyết phê phán trong KCH
là: tại sao bất cứ ai cũng sẽ chấp nhận một sự phân tích Marxist hoặc một phân
tích mang tính phê phán về những bức tranh quá khứ do chúng ta phục dựng bao
gồm cả những cội nguồn của chủ nghĩa tư bản? Nếu quá khứ là hệ tư tưởng thì làm
thế nào chúng ta có thể mạo muội cho rằng chỉ có những trí tuệ nhất định mới có
thể nhìn thấu hệ tư tưởng để xác định được thực tại xã hội?
Vị thế lý thuyết đặc biệt mà Leone yêu cầu để tránh nan đề trên là một “KCH
duy vật” công khai [ibid., p. 757]. Nhưng nếu chẳng hạn như tôi không chấp nhận các nguyên
lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật, vì những lý do đã được nêu ra trong tập sách
này, thì tôi cũng có thể khẳng định rằng tự thân chủ nghĩa duy vật là một hệ tư
tưởng giả - rằng đó chỉ là một lý thuyết phổ biến khác được phát triển bởi cái
cộng đồng hàn lâm để duy trì một sự kiểm soát đang thịnh hành về sự lý giải
“chính xác” quá khứ.
Một câu trả lời khác cho sự phê phán thứ hai được thực hiện ở trên là quan
điểm cho rằng quá khứ không thể biết được bằng bất cứ một tính nguyên vẹn nào.
Vậy thì nhiệm vụ của nhà KCH là chọn một lập trường chính trị mà ông ta hoặc bà
ta thích với tư cách là một thành viên của xã hội, và viết về quá khứ để giúp
thêm cho quan điểm chính trị đó. Đó có lẽ là một lời đáp lương thiện mà nhiều
người có thể thấy là hấp dẫn nhưng kết quả tiềm tàng thì lại nhiễu loạn. Nếu
quá khứ không có tính nguyên vẹn và sự lý giải của bất kỳ ai cũng tốt như bất
kỳ một ai khác thì KCH hoàn toàn bỏ ngỏ cho những thao tác chính trị của các
chính phủ, các nhóm tinh hoa, các nhóm lợi ích và sự độc tài Phát xít. Với
những dữ kiện được miêu tả như là một tổng thể chủ quan, nhà KCH không có được
nguồn dữ liệu để khách quan hoá “những lạm dụng” quá khứ. Cái quá khứ được phổ
biến sẽ hoàn toàn tuỳ thuộc vào quyền lực và khả năng kiểm soát lý thuyết,
phương pháp và truyền thông. Tuy nhiên trong tập sách này tôi đã cho rằng các
dữ kiện từ quá khứ vẫn luôn có một thực tiễn ngữ cảnh gắn liền với lý thuyết.
Một nguồn phê phán quan trọng khác trong KCH được các tác giả hậu cấu trúc
luận như Derrida [1975; xem Bapty và Yates 1990; Tilley 1990a] đưa ra. Những tư tưởng cơ bản ở đây (xem Chương 3 và
trang 50) là ngữ nghĩa được phổ biến theo chuỗi các vật mang ý nghĩa. Vì vậy
tính hiệu lực của các thuật ngữ như chân lý hoặc nguồn gốc vẫn bị sói mòn bởi
sự lệ thuộc của chúng vào những thuật ngữ khác trong một trật tự liên tục. Một
kết quả hữu dụng của phê phán này là nó cổ vũ các nhà KCH xem xét các công
trình của riêng mình và chỉ ra cái cách thức làm cho nó mang đậm phong cách và
lối tu từ học [Chẳng hạn xem Hodder 1989b; Tilley 1989]. Nói cách khác, những yêu cầu về tính khách quan có thể
được cấu trúc bằng cách sử dụng những cơ chế khác nhau (chẳng hạn như việc lựa
chọn các từ, thể hiện quyền uy, những mô tả không có cá tính, tránh sử dụng đại
từ nhân xưng “Tôi”, người trải nghiệm, nhóm đồng đẳng). Một kết quả hữu dụng
khác là việc cố thử nghĩ ra những cung cách mà quá khứ và các công trình của
chúng ta về quá khứ có thể mở ra cho cả những lối nhìn khác. Tuy nhiên vẫn luôn
luôn tồn tại những khó khăn tương tự với những khó khăn mà các cách tiếp cận
của Lý thuyết Phê phán phải đương đầu. Tình trạng phân mảnh quá khứ và sự rời
rạc ý nghĩa, các đặc trưng độc đáo của tư tưởng hậu hiện đại có thể được coi
như hoàn toàn nhất quán với những lợi ích thống trị trong chủ nghĩa tư bản phát
triển cao hoặc ở giai đoạn muộn [Eagleton 1983]. Trong thế giới Hậu quá trình, các cá nhân, thời gian và
không gian bị phân mảnh và bị biến thành hàng hoá thì những lợi ích của các
nhóm phụ thuộc bị điều khiển sẽ sói mòn đi và cái “chân lý” của họ bắt đầu tan
tác. Đó là lý do tại sao tôi lại kiên trì một quá trình giải tập trung cấp tiến
chủ thể và đi theo một lý thuyết trung gian và tại sao tôi lại giữ lại một cách
lý giải đưa tính trung thực vào trong thực tại và làm biến đổi khách quan tính
của quá khứ. Rút cục lại một KCH có trách nhiệm và mang tính phê phán đúng
nghĩa phải có khả năng sử dụng khách quan tính và thực tại kinh nghiệm các dữ
kiện của nó để tạo hình và chuyển đổi kinh nghiệm của thế giới.
Kết luận
Trong phần cuối chương này tôi đã bàn luận về
những quan điểm KCH tiềm năng và thực tế của một số nhóm xã hội có thể mô tả là
các nhóm phụ thuộc trên phạm vi toàn cầu và trong một xã hội. Những quan điểm
thay thế, nhưng không “thiểu số”, phải đương đầu với những quan điểm chính thức
và ngụ ý rằng các quá khứ mà chúng ta phục dựng vừa mang tính chủ quan lại vừa
can dự vào việc thương lượng quyền lực.
Dường như không thể phản ứng lại cuộc thảo luận về tính ngữ cảnh ấy của tri
thức KCH bằng cách khẳng định rằng “phương pháp” sẽ tạo thuận lợi cho sự phân
biệt giữa những lý giải khác nhau về quá khứ. Chủ nghĩa thực chứng, các lý
thuyết Tầm trung độc lập, cách phân tích duy vật chủ nghĩa tất cả đều có thể
được coi là gắn chặt với những định đề xã hội đương đại đặc thù; phương pháp
cũng là hệ tư tưởng.
Một chủ thuyết tương đối luận cởi mở trước hết có vẻ như là một giải pháp
duy nhất nhờ đó mà “bất cứ cái gì cũng vận động”. Chắc chắn là giải pháp này có
một vài khía cạnh hấp dẫn nếu như nó tạo điều kiện cho một cuộc tranh luận lớn
hơn giữa những quan điểm khác nhau và KCH sẽ tham gia đầy đủ hơn vào các vấn đề
chính trị và xã hội đương đại. Nhưng hầu hết các nhà KCH lại cảm thấy rằng giải
pháp này là quá cực đoan. Hầu hết đều cảm thấy rằng một số lý giải về quá khứ
không ổn thoả bằng những cách lý giải khác, rằng không phải mọi thứ đều có thể
được nói ra bằng một tính nguyên vẹn như nhau.
Cơ sở xã hội đương đại của những công trình phục dựng quá khứ của chúng ta
không nhất thiết không có giá trị cho các phục dựng đó. Các lý giải của chúng
ta có thể thiên lệch, nhưng chúng cũng vẫn có thể “đúng”. Tuy nhiên rõ ràng
điều quan trọng là tìm hiểu xem tư tưởng của chúng ta bắt nguồn từ đâu, và tại
sao chúng ta lại muốn phục dựng quá khứ theo một cung cách riêng.
Có một mối quan hệ biện chứng giữa quá khứ và hiện tại: quá khứ được lý
giải trong khuôn khổ của hiện tại, nhưng quá khứ cũng có thể được sử dụng để
phê phán và thách thức hiện tại. Theo quan điểm của tôi, về phương diện phê
phán, có thể đánh giá các ngữ cảnh của quá khứ và hiện tại trong mối liên hệ
với nhau nhằm đạt tới một hiểu biết sâu sắc hơn về cả hai. Con người có một khả
năng tinh thần để nhận thức được nhiều hơn về một bối cảnh mang tính chủ quan
và có thể xem xét có phê phán mối quan hệ giữa các viễn cảnh khác biệt nhau.
Lập luận này đưa chúng ta quay trở lại với những ý kiến đã phát biểu trong tập
sách về mối quan hệ giữa một toàn thể rộng lớn hơn (cấu trúc, hệ thống) và bộ
phận cá thể (hành động, thực tiễn, cá nhân). Các cấu trúc và những gì được cho
là đúng có thể là phương tiện cho tư duy và hành động, nhưng bản thân chúng
cũng có thể phải thay đổi bởi tư tưởng và hành động mang tính phê phán.
Vì vậy các dữ kiện không phải là khách quan hoặc chủ quan mà là thật. Và
không thể có những công cụ phổ biến để đo lường, nhưng lại có thể hiểu được
“tha tính”. Ngay cả những quan niệm về tính chất phổ biến của cấu trúc ngữ
nghĩa cũng phụ thuộc vào việc đánh giá có phê phán, đặc biệt là trong các giai
đoạn tiền homo sapiens sapiens. Chúng ta luôn luôn phiên dịch ý nghĩa
“của họ” thành ngôn ngữ “của chúng ta”, mà ngôn ngữ của chúng ta thì lại linh
động và đủ phong phú để xác định và nhận thức được những khác biệt theo cách sử
dụng cũng “những từ” đó nhưng trong những ngữ cảnh khác nhau. Chủ thể tính của
những khách thể khác có thể được lĩnh hội mà không cần áp đặt những chủ thể
tính “khách quan” của riêng chúng ta; sự phân chia chủ thể/khách thể đã từng
thống trị trong KCH có thể bị phá bỏ.
Vì vậy KCH hậu quá trình tham gia vào việc phá vỡ những thể chế, những cái
được mặc nhiên chấp nhận là đúng, những phân đôi và mở ra một công cuộc nghiên
cứu về những mối quan hệ giữa chuẩn mực và cá nhân, quá trình và cấu trúc, vật
chất và tinh thần, chủ thể và khách thể. Không giống như KCH quá trình, nó
không tán thành một cách tiếp cận duy nhất hoặc cho rằng KCH sẽ đưa ra được một
phương pháp luận mà tất cả mọi người đều chấp nhận. Đó
chính là lý do tại sao KCH Hậu quá trình lại đơn giản là “hậu -”. Nó phát triển
từ một sự phê phán về cái đã vận động trước đó bằng cách xây dựng trên
một sự phân nhánh từ con đường đó. Nó bao hàm tính đa dạng hoá và thiếu đi sự
đồng thuận. Nó được đặc trưng bởi sự tranh luận và tính chất bất định về những
vấn đề cơ bản có thể hiếm khi được đặt thành vấn đề trong KCH. Điều đó chứa
đựng những cách đặt vấn đề hơn là việc
đưa ra những lời đáp.
___________________________________
Còn nữa....
Tác giả: GS. Ian Hodder sinh năm 1949, tốt nghiệp cử nhân tại Đại học London năm 1971, nhận học vị tiến sĩ tại Đại học Cambridge năm 1975, trở thành giáo sư Đại học Cambridge từ năm 1977.
Tác giả: GS. Ian Hodder sinh năm 1949, tốt nghiệp cử nhân tại Đại học London năm 1971, nhận học vị tiến sĩ tại Đại học Cambridge năm 1975, trở thành giáo sư Đại học Cambridge từ năm 1977.
Nguyên
bản: Reading
the Past – Current approaches to Interpretation in Archaeology. Second
Edition. Cambridge University Press 1991.
Tài liệu dẫn
Bapty I., and Yates T. (eds.)
1990. Archaeology after Structuralism:
Introductory Readings in Post-Structuralism and Archaeology, London:
Routledge.
Derrida J. 1975. Of Grammatology, Baltimore: Johns
Hopkins University Press.
Eagleton T. 1983. Literary Theory, Oxford: Blackwell.
Gregory T. 1983. The Impact of Metal Detecting on Archaeology
and the Public, Archaeological Review from Cambridge 2, 5–8.
Held D. 1980. Introduction to Critical Theory, London: Hutchinson.
Hodder I. 1984b. Archaeology in 1984, Antiquity 58,
25–32.
Hodder I. 1989b. Writing Archaeology: Site Reports in Context,
Antiquity 63, 268–74.
Parker Pearson M., Peck N. and
Stone P. 1985. Archaeology, Knowledge and
Society: Surveys in Britain (typescript).
Horkheimer M. and Adorno T., 1973.
Dialectics of the Enlightenment,
London: Allen Lane.
Leone M. 1982. SomeOpinions about RecoveringMind,
AmericanAntiquity 47, 742–60.
Leone M. 1983. The Role of Archaeology in Verifying
American Identity, Archaeological Review from Cambridge 2, 44–50.
Leone M. 1987. The Georgian Order as the Order of Merchant
Capitalism in Annapolis, in M. Leone and P. B. Potter (eds.), The Recovery of Meaning, Washington:
Smithsonian Institution Press.
Merriman N. 1989a. Museum Visiting as a Cultural Phenomenon,
in P. Vergo (ed.), The New Museology, London: Reaktion Books.
Merriman N. 1989b. The Social Role of Museum and Heritage
Visiting, in S. Pearce (ed.), Museum
Studies in Material Culture, Leicester University Press.
Tilley C. 1989a. Discourse and Power: The Genre of the
Cambridge Inaugural Lecture, in D. Miller M. Rowlands and C. Tilley (eds.) Domination and Resistance, London: Unwin
Hyman.
Tilley C. (ed.) 1990a. Reading Material Culture, Oxford: Blackwell.
Willey G. 1980. The Social Uses of Archaeology, Murdoch
Lecture (unpublished typescript), Harvard University 1984, Archaeological Retrospect 6, Antiquity
58, 5–14.
Williamson T. and Bellamy L. 1983.
Ley Lines in Question, London:
Heinemann.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét