Trào lưu vùng trong bối cảnh toàn cầu hóa (II)
Hà Hữu Nga
Văn hóa vùng trong trào lưu toàn cầu hóa
Trào lưu vùng
dù được qui về lĩnh vực chính trị học, về cả phương diện từ nguyên lẫn thực tiễn,
tuy nhiên chúng ta vẫn cần phải trả lời một câu hỏi mà các nhà khoa học xã hội
không thể lảng tránh. Văn hóa có vị trí gì trong quá trình toàn cầu hóa? Các
nhà nghiên cứu xã hội học chô rằng đặc trưng toàn cầu hóa không phải là khuynh
hướng của các văn hóa vùng và quá trình hội tụ như vậy rõ ràng là hướng tới một
văn hóa toàn cầu – một hiện tượng được gọi một cách giễu nhại là “McDonal hóa”
thế giới (cái tên do Ritzer đặt ra). Quá trình McDonal hóa tập trung vào việc
tiêu chuẩn hóa các tương tác xã hội trước hết được phát triển trong sản xuất
hàng hóa công nghiệp hàng loạt, sau đó được chuyển giao thông qua việc tổ chức
hệ thống cửa hàng ăn nhanh để thực hiện mỗi trao đổi giữa khách hàng và người
cung cấp sản phẩm và dịch vụ. Ở một khía cạnh nào đó, toàn cầu hóa đã được thể
hiện một cách kinh nghiệm chủ nghĩa bằng cách tiêu thụ hamburgers. Một ví dụ nổi
tiếng về sự thành công của hệ thống tổ chức McDonald là việc khai trương một
nhà hàng McDonald tại Moscow. Tuy nhiên một Big Mac ở Moscow không có hương vị
như một Big Mac ở Mỹ.
Bản thân
Ritzer đã đưa ra một ví dụ thú vị về một hợp
nhất (nhưng không phải là duy nhất) của các hệ thống tổ chức: một đặc trưng
của nhà hàng McDonald tại Moscow là khách hàng xếp hàng dài chờ đợi tại lối vào
nhưng một cửa hàng khác thì “người làm dịch vụ” lại cung cấp cho khách hàng các
Big Mac trong vòng 15 phút nếu có một khoản lót tay nhỏ. Vậy là sự hấp dẫn ghê
gớm của loại nhà hàng ăn nhanh này dường như bắt nguồn từ hình tượng của nó chứ
không phải là sự vận hành của nó. Ăn một bữa ăn nhanh của McDonal ở Moscow lại
không hề nhanh như nó được hứa hẹn tại Mỹ. Giá cho một bữa ăn như vậy giờ đây
cũng đang tăng lên, đã tạo thêm mâu thuẫn với chiến lược marketing đầu tiên của
McDonald. Kết quả trớ trêu đó là một sự pha trộn hoàn hảo của hai hệ thống Nga
và Mỹ. Ở Moscow, việc cung cấp cho ai một cái gì đó trước hết là vấn đề tiếp
xúc và các mối quan hệ đúng; ở đây theo đúng nghĩa thì “thời gian không phải là
tiền bạc”, mà những nhân tố sáng tạo hiện nay đã kết hợp hai hệ thống lại với
nhau bằng cách tạo ra một logic tương tác mới. Tương tự như vậy, trước khi đưa
sản phẩm của mình ra thị trường các giám đốc có đầu óc sáng tạo của các công ty
có một thị trường toàn cầu (“những người chơi toàn cầu”) luôn xem xét kỹ lưỡng
các đặc trưng vùng và cố gắng phát triển các mối quan hệ địa phương [Hahn 2005:
92]. Coca-Cola và Sonny mô tả nhiệm vụ này là “địa phương hóa toàn cầu” [Beck
1997]. Chúng ta đang được chứng kiến một nghịch lý ghê gớm: một mặt nhu cầu
tiêu chuẩn hóa vì các mục đích tổ chức toàn cầu, và mặt khác là việc tìm kiếm
“tính chất xác thực” trong các vùng. Tác động của vấn đề này cho đến nay vẫn
chưa được xác định.
Tình trạng nước
đôi này có thể được làm rõ bằng cách xem xét thực chất của cái mà Mill C.
Wright [1959] đã gọi là “sự tưởng tượng xã hội học” hoặc Georg Simmel gọi là
“nhãn kiến xã hội học” của các xã hội. Trong quan niệm chung nhất của nó xã hội
học qui về sự phát hiện ra các cấu trúc trong đời sống xã hội. Các cấu trúc này
được tạo ra bởi các mạng tiếp xúc giữa người và người và thường là những kết quả
đã được định trước của các tương tác này. Điều đó củng cố cho việc tập trung
vào các quá trình giao tiếp có thể nhìn thấy trong khuôn khổ của một phổ giữa
hai cực, giao tiếp địa phương mặt đối mặt và cái gọi là truyền thông đại chúng.
Sự đồng tồn tại của hai loại hình giao tiếp này có tầm quan trọng đặc biệt. Các
lý thuyết xã hội học gần đây có thể giúp chúng ta phân tích các hiệu quả xã hội
của các phương tiện giao tiếp hiện đại trong các vùng trong một bối cảnh mà
vùng không còn được coi là các không gian hoặc các lãnh thổ được vạch ranh giới
nữa. Để thảo luận các lý thuyết này, Hahn [2005: 93] đưa ra ba thuật ngữ chủ chốt:
“tộc cảnh”, “cầu phương hóa”, và “biệt gộp”. Chúng ta có thể thấy một khía cạnh
rất quan trọng trong khái niệm cầu phương hóa của Hahn là ở chỗ khái niệm này
là một phương trình hồi qui, nó chứa đựng không phải hai mặt của một vấn đề như
những cách nhìn “biện chứng” giữa hai mặt đối lập; ngược lại đây là một lối
nhìn vào một thế giới song hành tồn tại và vận động của những sự kiện, những
quá trình không đấu tranh với nhau, không loại trừ nhau mà nương tựa vào nhau,
vào điều kiện tồn tại và phát triển cho nhau. Từ đó chúng ta có thể thấy rằng
toàn cầu hóa không nhất thiết đồng hóa mọi văn hóa, ngược lại toàn cầu hóa làm
cho các nền văn hóa riêng biệt có điều kiện khẳng định bản sắc văn hóa của mình.
Theo Hahn,
thuật ngữ mới “tộc cảnh” qui chiếu vào một thực tế là căn nguyên của các bản sắc
văn hóa chắc chắn không gắn liền với sự hiện diện của chúng trong một vùng nhất
định nào đó [Appadurai 1991]. Ngược lại vô số bản sắc văn hóa có thể phát triển
trong cùng một vùng. Cái đặc biệt có ý nghĩa khi mô tả một nhóm tộc người hoặc
một văn hóa không thể có nguồn gốc riêng biệt từ những điều kiện nội tại trong
đời sống của nhóm. Thế giới hiện đại thường được coi là một lọat các cộng đồng
hòa trộn hoặc chuyển tiếp thay vì một số lượng nhất định các xã hội dân tộc.
Trong trường hợp này việc tổ chức các mối quan hệ xã hội và cuộc sống hàng ngày
không dựa trên sự phân loại vùng – theo nghĩa không gian. Hơn nữa hiện nay một
vùng được xác định bằng sự pha trộn văn hóa cụ thể, và những cách thức cụ thể
mà các sự kiện toàn cầu được đan dệt với các cấu trúc địa phương. Mặt khác,
vùng là một hỗn hợp của các mối quan hệ xã hội vùng và xuyên quốc gia. Qúa
trình “toàn cầu hóa” đã cho thấy rằng vùng vẫn là một vị trí mà ở đó các sự kiện
toàn cầu và các ảnh hưởng là có tính chất trung gian và được con người trải
nghiệm. Hàng lọat vùng và văn hóa không phải là “phi không gian” mà người ta đặc
biệt chú ý đến tính mở của các không gian xã hội và môi trường của chúng [Beck
1997: 118-119]. Quan điểm này cho rằng các cộng đồng người khác nhau “nắm bắt”
một cách chọn lọc các yếu tố từ các văn hóa đô thị để “tạo dựng” một phương tiện
lai tạp để khớp nối kinh nghiệm và
các đặc phẩm về phương diện lịch sử và xã hội riêng lại với nhau [Barber and
Waterman 1995: 240]. Cách nhìn nhận này nhấn mạnh vào vai trò năng động và sáng
tạo của con người với tư cách là những người sản xuất văn hóa chứ không phải là
thể hiện chúng như những nạn nhân thụ động của toàn cầu hóa.
Cuối cùng điều
này dẫn đến một câu hỏi: người ta cần phải hiểu như thế nào về các ranh giới giữa
các nhóm văn hóa mà giờ đây các ranh giới không gian đã không còn giá trị nữa.
Trong trường hợp này chúng ta có thể chỉ ra cái luận cứ “phân biệt gộp” đã nói.
Điều đó có nghĩa là các ranh giới không phải được tạo dựng bằng cách “loại trừ”
hoặc “chia tách” – mà thực tiễn hơn – bằng cách nhìn nhận rằng chúng không có
cơ hội để tham gia vào tất cả các nhóm hoặc để hấp thụ tất cả mọi thông tin mà
người ta tung ra. “Phân biệt gộp” ấn định một phương tiện nhất định để quan sát
đời sống xã hội. Những phương tiện này hạ thấp tầm quan trọng của sự chia tách
giữa các phạm trù xã hội hoặc các nhóm để làm nổi bật những giao điểm tạo ra những
mối quan hệ mới giữa các nhóm và các phạm trù xã hội. Trong việc gắn kết các cấu
trúc xã hội và văn hóa “Phân biệt gộp” không phân biệt giữa “cũng/hoặc” mà nhấn
mạnh “cũng như”. Các lý thuyết và các luận cứ này gợi ý các phương pháp phân
tích trào lưu vùng hoặc “các văn hóa vùng” trong các xã hội toàn cầu. Chúng chỉ
ra rằng chúng ta không nên quá mất
công thực hiện việc “phân biệt loại trừ” và không
nên tìm kiếm các ranh giới và các khác biệt bất biến do tăng cường các quá
trình đồng hóa của các nhóm văn hóa [Hahn 2005: 94]. Hoàn toàn có thể coi đây
là một trong những đóng góp lớn của Hahn vào việc xây dựng một cách tiếp cận mới
về văn hóa, đó là lối tiếp các quá trình bổ sung mà không bài trừ nhau, chúng
ta có thể gọi đó là phép biện chứng tổng quát, trong khi sự vận động và đấu
tranh giữa hai mặt đối lập là trường hợp riêng của phép biện chứng này.
Căn cứ vào một
thực tế là quá trình toàn cầu hóa thể hiện trong quá trình lai tạp mới các cấu trúc và bản sắc toàn cầu thì các mâu
thuẫn của toàn cầu hóa sẽ được phát hiện ra chủ yếu trong quá trình sống của
các cá nhân. Như Ulrich Beck đã nói: Chúng ta đang sống “toàn cầu” và chúng ta
trải qua hiện tượng này trong các cuộc sống gia đình đa văn hóa, trong kinh
doanh, trong tương tác và giao tiếp với bạn bè, xem phim, mua sắm, và nghe nhạc
[Beck 1997: 129]. Vì vậy các tiểu sử “hiện đại” đã đưa ra một sự thỏa hiệp giữa
tất cả các tư tưởng cá nhân về các cơ hội và các thách thức trong một môi trường
“mở” của các hành động và cái có thể thực sự được thực hiện. Điều này tác động
đến việc lý giải trào lưu vùng. Trước hết chúng ta có thể nói rằng giá trị và
việc định giá một vùng chỉ có thể được phát triển khi có dịp trải nghiệm sự
phân chia không-thời gian” trong các tiếp xúc hoặc “phép gián cách” khỏi nơi đó
[Robertson 1998: 215].
Vì vậy thảo luận về một vùng có nghĩa là bất cứ khi nào
việc thảo luận về hình ảnh của nó hoặc
cách thức mô tả vùng được thể hiện bằng cái nhìn của người dân sống ở đó.
Anthony Giddens đã viết: “Trong các điều kiện tính hiện đại, quê hương, nơi chốn
ngày càng trở thành ảo ảnh…Cái cấu trúc nên nơi chốn lại không đơn giản là cái
giờ đây đang hiện diện; “hình thức thị giác” của nơi chốn che đậy những mối
quan hệ đã trở nên xa cách là cái quyết định thực chất của nó [Giddens 1990:
18-19]. Cuối cùng việc nhận thức sâu sắc về “tộc cảnh” cần phải có sự phát triển
các phương pháp mới bằng cách coi văn hóa của một nhóm xã hội kết hợp một số
tiêu chuẩn vùng và liên vùng bao gồm cả sự thay đổi các suy tư về cái đặc trưng
cho vùng. Khi Robertson lý giải quá trình toàn cầu hóa thì ông đã phát hiện ra
rằng trong quá trình này, tính đặc thù đang trở thành một giá trị toàn cầu [Robertson 1992]. Điều này làm cho bản sắc trở
thành một cấu trúc phức tạp. Một mặt người ta phản đối ầm ĩ nhân danh lòng
trung thành với các giá trị địa phương và tự mình làm vững dạ mình bằng những
gì đã quá đỗi thân quen trong một thế giới đang toàn cầu hóa không gì cưỡng lại
được. Mặc khác người ta lại đánh giá cao các tư tưởng chủ nghĩa thế giới và
tham dự vào các lối sống theo chủ nghĩa thế giới [Beck 1997: 91; Giddens 1990:
140]. Trước khi tập trung vào các phương pháp kinh nghiệm chủ nghĩa
Honnighausen đã đưa ra một số gợi ý từ một số kết quả kinh nghiệm chủ nghĩa bằng
cách dẫn Daniel Miller như sau:
Hãy “thử cố gắng
tìm hiểu xem tại sao Lễ Giáng sinh lại gia sức bành trướng trên toàn thế giới…Chúng
ta cần lưu ý rằng lễ hội này vừa đáng yêu đối với các nhà nghiên cứu văn hóa
dân gian với tư cách là những người luôn luôn cất công tìm cho ra các tập quán
địa phương đi kèm với nó, và lại cũng phát triển như một lễ hội tiềm tàng khả
năng toàn cầu nhất trong các quốc gia Thiên chúa giáo…Trong khi các nhà triết học
vật lộn với câu hỏi: cái gì được gọi là “đang tồn tại trong ngôi nhà trên trần
thế” thì những người làm lễ Giáng sinh lại coi đây là một ngữ đoạn theo đúng
nghĩa đen. Lễ Giáng sinh tôn thờ ngôi nhà với tư cách một đời sống gia đình thuần
túy, một nơi chốn duy nhất mà người ta thực sự có mặt trong buổi lễ. Sau đó nó
sử dụng thế giới vi mô của đời sống gia đình để hoàn thiện ý nghĩa toàn cầu, nó
hình dung tất cả các dân tộc trên thế giới tiến hành cùng một nghi lễ trong
cùng một thời điểm như là một gia đình toàn cầu vậy. Như vậy lễ Giáng sinh vừa
tạo ra tính chất có thể so sánh với nhau về phương diện biểu tượng cũng như thực
tế giữa cái vũ trụ xã hội lớn nhất (hoặc đối với người theo tôn giáo – nó có
tính vũ trụ luận) mà chúng ta được mời gọi để hình dung ngay cả cái vũ trụ xã hội
nhỏ nhất mà chúng ta có ý giả định [Miller 1995: 18].
Quan sát này
mâu thuẫn với lý thuyết nổi tiếng của Joshua Meyrowitz. Bằng cách dồn nén vào mấy
chữ “Nơi chốn là vô nghĩa”, Meyrowitz nhấn mạnh tuyên bố này để lý giải các
thông tin được truyền qua các phương tiện thông tin đại chúng đã tác động như
thế nào đến các mối quan hệ giao tiếp mặt đối mặt. Chắc chắn là một khối lượng
khổng lồ phim ảnh và TV ở các xưởng sản xuất Hollywood được lưu hành trên toàn
thế giới cần phải được xem xét một cách cẩn thận khi đánh giá các tương tác và
các kinh nghiệm về quê hương bản quán. Nhưng trong bối cảnh này, nghiên cứu
kinh nghiệm chủ nghĩa sẽ đưa lại cho chúng ta những gợi ý về việc thấu hiểu các nội dung truyền thông. Để
chỉ ra cách thức nghiên cứu kinh nghiệm chủ nghĩa hướng dẫn cho chúng ta cách
thức tìm hiểu tư liệu truyền thông, chúng ta có thể đưa ra một số kết quả của một
dự án “các cách đọc liên văn hóa Dallas”.
Các tác giả Tamar Liebes và Elihu Katz đã cố lý giải việc “xuất khẩu nghĩa” của
hàng lọat Dallas rất nổi tiếng
[Liebes and Katz 1990]. Nhưng họ đã thấy là không thể xuất khẩu nghĩa bằng truyền
hình. Họ đã nhấn mạnh một cách cụ thể đặc trưng của tri giác, là cái trước hết tạo ra nghĩa và có thể phân biệt theo
thành viên nhóm xã hội. Khi Liebes và Katz cố gắng phát hiện ra những người thuộc
các dân tộc khác nhau (Nga, Arab, Nhật, Mỹ, và Do Thái sống trong một kibbutz –
khu định cư Do Thái) “đã thấy” gì khi họ xem Dallas, họ bắt đầu biết được rằng những lý giải của họ là mâu thuẫn.
Chẳng hạn trong một đoạn, Sue Ellen đã bỏ chồng cô là J. R. lại để quay trở về
với người yêu cũ của cô và sống với anh ta trong ngôi nhà của cha anh ta. Khi
các tác giả thảo luận về sự kiện này tất cả nhóm Arab đều tin chắc rằng Sue
Ellen đã trốn thoát khỏi J.R. và quay trở về với ngôi nhà của cha cô. “Lý giải”
sai lầm này cho thấy sự thống trị của cả hai cách đọc địa phương và tính chất bền
vững của việc tạo ra các kinh nghiệm chung trong các nhóm xã hội. Khẩu hiệu
“Nơi chốn là vô nghĩa” có thể được thảo luận theo cách cấu trúc vĩ mô hơn.
Blackely và Snyder đã nhấn mạnh rằng “việc sử dụng không gian vật lý để tạo ra
vị trí xã hội là một truyền thống sâu đậm và dài lâu của Mỹ” [Blakeley and
Snyder M.G. 1999: 1]. Truyền thống này được áp dụng vào một loại hình hiện đại
của vị thế cư trú, “các cộng đồng đóng kín”.
Trào lưu vùng, toàn cầu hóa và quyền tự trị xã hội
Các cộng đồng
khép kín bảo lưu một đặc trưng tổ chức xã hội đến mức mà các thành viên của cộng
đồng đó tìm mọi cách để phân biệt khi chia bất động sản của họ. Một mặt việc
phân vùng các cộng đồng đóng kín tạo ra một đặc trưng mới nào đó, cho dù cộng đồng
đó bị phân rã. Sự tách biệt (vì những lý do nào đó) thực sự sản sinh ra một mối
gắn bó thống nhất các cư dân lại và cho phép họ sống mà không để lộ tung tích của
mình như là những gia đình biệt lập hoặc đơn chiếc (chừng nào họ còn tôn trọng
rất nhiều nguyên tắc và qui định bắt buộc chẳng hạn như phải trang trí mặt tiền
ngôi nhà của họ như thế nào và thậm chí các hành vi của họ bên ngoài bức tường
ngôi nhà của mình ra sao). Nói tóm lại các cộng đồng đóng kín trong tổ chức
không gian riêng biệt của họ cho phép họ sống mà không tiếp xúc với mọi người
xung quanh mình. Tuy nhiên điều đó dẫn đến một vấn đề: Liệu có phải các cư dân
đóng kín đó sắp xếp các mối quan hệ xã hội mà không quan tâm đến không gian vật
chất (như NY-LON chẳng hạn) mà chỉ quan tâm đến tính vận động của không gian và
việc giao tiếp theo “không gian điều khiển” hay không? Ngay cả khi sống theo
quan niệm “nơi chốn là vô nghĩa” theo một lối sống cũ theo truyền thống tạo ra
sự phân biệt Châu Âu. Thay thế cho việc chia tách không gian thì sự phân biệt
xã hội được tổ chức theo những cách thức khác nhau hay bằng việc thể hiện của
các mô hình tiêu thụ nhất định về phương diện biểu tượng bằng cách cam kết với
bất cứ vị thế hoặc giai cấp nào của mọi người trong một đơn vị không gian
[Veblen 1991]. Thậm chí ngay cả ở đây ảnh hưởng của toàn cầu hóa cũng sẽ là một
đề tài cực kỳ hấp dẫn cần được tiếp tục nghiên cứu thêm.
Hahn gợi ý rằng
các phương pháp phân tích trào lưu vùng trong một thế giới toàn cầu hóa phải
đem đến một phương tiện quan sát nhằm trả lời cho các câu hỏi này: Trào lưu
vùng có thể được trải nghiệm như thế
nào trong một thế giới “phân ly không-thời gian”? Làm thế nào để những ảnh hưởng
và suy tư về “sự phân ly không-thời gian” được mô tả bằng cách kết nối với các
trải nghiệm về một nơi chốn nhất định? Từ quan điểm này liệu chúng ta có thể nhận
thấy nhu cầu kết nối giữa các viễn cảnh phân tích vĩ mô và vi mô cũng như nhu cầu
nhấn mạnh vào các mô thức lý giải chủ quan về các tác nhân? Hơn nữa quá trình
toàn cầu hóa chỉ có thể được làm chủ bằng cách khảo sát các trạng huống xã hội,
các tương tác địa phương, hoặc các dấu hiệu biểu trưng được qui vào các điều kiện toàn cầu. Gần đây
người ta đã phát triển một số phương pháp nghiên cứu văn hóa dựa trên những tiếp
cận bổ sung trước hết được phát triển trong các bộ môn khác nhau. Việc bổ sung
cho phương pháp nghiên cứu kinh nghiệm cổ điển trong xã hội học vẫn thường dựa
trên các dữ kiện vĩ mô thuộc các cấu trúc kinh tế xã hội. Giờ đây rất cần có
thêm các phương pháp của những lĩnh vực nghiên cứu khác. Chẳng hạn việc nghiên
cứu tiểu sử hoặc lịch sử truyền miệng, việc lý giải văn liệu thì các phương
pháp địa lý, ngôn ngữ học, và các mô tả về phương pháp luận tộc người hoặc nhân
học tất cả đều đưa ra cách tiếp cận các kinh nghiệm cá nhân. Khi đề cập đến tầm
quan trọng của việc xem xét ảnh hưởng chung của các cấp độ vi mô và vĩ mô của
tư liệu, cần đặc biệt nhấn mạnh đến hai phương pháp. Các phương pháp này gắn kết
dữ liệu vĩ mô với dữ liệu vi mô đến mức chúng có thể bổ sung cho nhau. Mỗi
phương pháp thể hiện một mô thức phân tích xã hội học về các văn hóa vùng.
Cách tiếp cận
đầu tiên được R.T. McKenzie phát triển. Ngay từ những năm 1920s-1930s ông đã là
thành viên của một nhóm các nhà xã hội học sau này trở nên nổi tiếng với tên gọi
là Trường phái Xã hội học Chicago. McKenzie đã đưa ra một số nguyên tắc gắn liền
với lý thuyết nổi tiếng của Trường phái Chicago về sinh thái học xã hội cho đến
nay vẫn còn hữu dụng như một phương pháp phân tích kinh điển về không gian xã hội.
Lý thuyết này được giành riêng cho cách tiếp cận chức năng để củng cố một viễn
cảnh vĩ mô. Trong khái niệm “sinh thái xã hội” của mình, McKenzie đã chỉ ra rằng
khái niệm sinh thái bao gồm tất cả các quá trình (được tạo bởi các tương tác và
các thể chế) trong một không gian. Đặc
biệt hơn, nó phân tích cách thức phân bố con người và các họat động của họ
trong không gian phù hợp với các loại hình tổ chức đặc biệt trong một vùng và với
các hình thức liên hệ chặt chẽ với cái không gian đặc biệt đó. Vì vậy “những
đơn vị sinh thái” khác nhau có thể được phân biệt theo các nguyên tắc tổ chức nội
tại. Để phân biệt các nguyên tắc này McKenzie đã xác định những phạm trù không
gian xã hội sau đây: i) Tính di động và
dao động: thay đổi các vị trí của cư dân, nơi làm việc hoặc hàng hóa vì
tính động của sự tiến bộ văn hóa và công nghệ; ii) Khoảng cách: sự mở rộng không gian và giao thông vận tải tùy thuộc
vào sự cân bằng về thời gian và chi phí; iii) Mức độ tập trung: mật độ người trong một giai đoạn nhất định; iv) Trung tâm hóa: các trung tâm hấp dẫn đặc
biệt mà rất đông người thường xuyên lui tới một cách tạm thời; v) Sự chia tách: sự thay đổi mật độ trong
các nhóm cư dân để tạo nên một cộng đồng có thể là đồng nhất hoặc khác biệt hơn
về phương tiện tài chính, điều kiện ngôn ngữ, tộc thuộc, và …vv.; vi) Sự xâm nhập: sự chuyển chỗ của các nhóm
cư dân tạo ra bởi sự chia tách; vii) Sự kế
tiếp: một quá trình thay đổi tuần hoàn trong việc tận dụng một không gian đến
mức các loại cư dân khác nhau hoặc các hình thức sử dụng không gian khác nhau xảy
ra kế tiếp nhau (kể cả kết quả của sự xâm nhập).
Các phạm trù
này vẫn còn giá trị khi tiến hành một phân tích cấu trúc, nhưng nó sẽ trùng với
một quan điểm gần hơn với chủ thuyết thế giới vi mô. Cách tiếp cận thứ hai dựa
trên khái niệm tương tác biểu tượng xuất phát từ Clifford Geertz. Geertz đã đưa
ra phương pháp “miêu tả dày”, có thể giúp hoàn thành các dữ liệu vĩ mô “bề mặt”
bao gồm cả viễn cảnh vi mô của các tác nhân [Geertz 1973]. Ngược lại với cách
tiếp cận của McKenzie nhấn vào tổ chức xã hội của không gian, “miêu tả dày” của
Geertz lại tập trung vào các phương biểu tượng của hành động xã hội, hoặc các ý
nghĩa mà tự thân các tác nhân gán cho các biểu tượng trong khi tương tác. Vì vậy
phương pháp này dựa trên cách tiếp cận verstehen
(nhận thức) của Max Weber, một trong những nền tảng phương pháp luận nổi tiếng
nhất trong các khoa học xã hội. Căn cứ vào đó Geertz giải thích rằng “con người
là một động vật treo lơ lửng trong các mạng ý nghĩa mà bản thân nó đã giăng
ra”, rằng mỗi mạng lưới đó có thể được coi là một “văn hóa” [Geertz 1973: 5].
Vì vậy ông đã đề xuất nhiệm vụ chủ yếu của nhà nghiên cứu là lý giải các biểu hiện xã hội được tạo dựng
bằng cách tìm ra nghĩa. Mục đích là
nhắm vào việc mô tả dân tộc học bao gồm cả ba đặc trưng: “đó là giải thích; giải
thích có nghĩa là dòng diễn ngôn xã hội; và hành động giải thích bao gồm cả việc
cố gắng cứu lấy điều “đã nói” của diễn ngôn như vậy vì các duyên do của nó đang
biến mất đi” [Geertz 1973: 20]. Dòng diễn ngôn trong mỗi tình huống xã hội tăng
cường mạng ý nghĩa, vì vậy công việc phân tích là phải phân loại cấu trúc của
nó. Nhưng phần lớn thời gian nhà dân tộc học phải đối mặt với “vô số cấu trúc
khái niệm phức tạp, mà đa phần đều được tống thêm vào hoặc được buộc chặt vào một
cấu trúc khác” [Geertz 1973: 10]. Geertz lý giải một tập hợp dữ liệu như một
văn bản, với một hàm ý rằng phương pháp tiếp cận đó thuộc về thuật phê bình văn
học [Geertz 1973: 9]. Trong trường hợp này các khác biệt phát triển cả trong việc
xác định cơ sở xã hội và sự nhập khẩu cách lý giải văn bản và - gắn liền với
nhiệm vụ này – là việc nhận thức, hoặc chí ít thì cũng ghi nhớ được rằng không
thể chia tách quan sát và lý giải kể cả trong tư duy lẫn trong thực
tiễn. Vì vậy có thể đi tới kết luận là “miêu tả dày” có nghĩa là “viết ra những
nguyên tắc hệ thống…là cái, nếu được tuân thủ, sẽ có thể vận hành như vậy, có
thể trao truyền …cho một địa phương” [Geertz 1973: 11]. Đồng thời việc đạt được
năng lực này làm tăng thêm giá trị của phương pháp tiếp cận ấy và là một biểu
hiện của việc vượt qua quan điểm thuần túy chủ quan của việc mô tả mang tính lý
giải. Hai cách tiếp cận này có thể bổ sung cho nhau. Tuy nhiên chúng cũng giúp
kết hợp các kinh nghiệm địa phương và các tác động vùng về mặt phương pháp luận
[Hahn 2005: 100].
___________________________________
Còn nữa....
Tài liệu Tham khảo
Appadurai,
Arjun 1991. Global Ethnoscapes: Notes and
Queries for a Transnational Anthropology. In Recapturing Anthropology: Working in the Present, ed. Richard G.
Fox (Santa Fe: School of American Research, 1991).
Barber, K.
and Waterman C. 1995. Treversing the
Global and the Local: Fuji Music and Praise Poetry in the Production of
Contemporary Yoruba Popular Culture. In Worlds
Apart: Modernity through the Prism of the Local, ed,. Daniel Miller (London
and New York: Routledge, 1995).
Beck, Ulrich
1997. Was ist Globalisierung? Irrtumer
des Globalismus – Antworten auf Globalisierung (Franfurt a.M: Suhrkamp).
Blakeley Edward
J. E.J. and Snyder M.G. 1999. Fortress
America: Gated Communities in the United States (Washington, DC: Brookings
Institution Press, 1999).
Geertz,
Clifford 1973. Thick Description: Toward
an Interprettive Theory of Culture. In The
Interpretation of Culture: Selected Essays by Clifford Geertz (New York:
Basic Books.
Giddens,
Anthony 1990. The Consequences of
Modernity (Stanford: Stanford University Press).
Hahn,
Kornelia 2005. Regionalism in Global
Societies A Contradiction?. In Regionalism
in the Age of Globalism – Concepts of Regionalism. Volume 1. Edited by
Lothar Honnighausen, Marc Frey, James Peacock, Nicolaus Steiner. Center for the Study of Upper Midwestern
Cultures 901 University Bay Dr. Madison, W1 53705. Copyright 2005, The Board of Regents of the University of
Winsconsin System All rights reserved. Printed in the United States of
America.
Liebes T. and
Katz E. 1990. The Export of Meaning: Cross-cultural Readings of Dallas (New York:
Oxford University Press, 1990).
Miller,
Daniel 1995. Introduction: Anthropology,
Modernity and Consumption. In Worlds
Apart, 18).
Mills C. Wright 1959. The
Sociological Imagination, New York. Oxford University Press.
Robertson,
Roland 1998. Glokalisierung: Homogenitat
und Heterogenitat in Raum and Zeit. In Weltgesellschaft,
ed., by Ulrich Beck (Franfurt a/M: Suhrkamp).
Veblen,
Thorstein 1991. The Theory of the Leisure
Class (Fairfield, NJ: Kelley, 1991). [Originally published in 1899].
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét