Chân ngã của Đức Phật và Chân
thể của Whitehead (I)
Kenneth
K. Inada
Người dịch: Hà Hữu Nga
Bài viết này sẽ cố hình dung một
cuộc đối thoại siêu hình tổng quát giữa Whitehead và Đức Phật. Chắc chắn rằng
khoảng cách thời gian giữa hai nhân vật đó là quá lớn. Tuy nhiên căn cứ vào một thực tế là cho đến
tận ngày nay, lòng mộ đạo và số người thực hành đạo Phật vẫn liên tục tồn tại và không ngừng tăng lên, vì vậy chúng ta hoàn toàn có thể coi những tư tưởng của Đức
Phật như là đương đại. Còn về phía Whitehead, đặc biệt là trong những công
trình sau này của mình, ông đã thực hiện một số so sánh với Đức Phật, trong số
đó chúng ta có thể nhận thức được hai khía cạnh bất đồng nhau: i) tri thức về
Phật giáo của ông nhìn chung dựa trên một hiểu biết đại chúng về thời đó, vì
vậy mà những quan điểm chủ yếu của ông liên quan đến nó về cơ bản và đáng buồn
là nhầm lẫn1; và ii) tuy bị sai lệch, nhưng triết học của ông đã cho
thấy những hạn chế của tư tưởng rất giống với những hạn chế mà Đức Phật đã
chỉ ra. Tôi sẽ chỉ xem xét khía cạnh thứ hai thôi.
Liên quan tới các vấn đề khác, ông
đã bị buộc tội là quá mơ hồ hoặc là trừu tượng một cách thâm căn cố đế, bị
buộc tội vì đã nhắm, nhưng dường như lại không nhắm trúng vào tính xác thực
của các vấn đề. Thực ra thì có quá nhiều thứ để nói về phương diện này, nhưng
phải thừa nhận rằng triết học của Whitehead phần nhiều chỉ liên quan đến những
lý giải siêu hình về tự nhiên liên tục biến đổi, đòi hỏi sử dụng và ông đã sử
dụng những thuật ngữ mới, xa lạ và không toàn diện, ngoại trừ đối với những ai
đã hoà nhập và cảm thông được với triết học quá trình. Giống như nhiều nhà
triết học trước ông, Whitehead được đào tạo toán học và coi đó như là một mô
hình và một công cụ để mô tả bản chất của sự vật. Ông quan tâm sâu sắc đến ý
nghĩa và hiệu quả của biểu tượng trong trật tự tự nhiên. Đức Phật kể cả lúc
sinh thời và sau đó cũng đã bị cuốn hút vào rất nhiều bổn phận cuộc đời, nhưng lại
trái ngược với Whitehead. Ngay cả cho đến bây giờ các học giả (hầu hết, than
ôi, lại không phải là Phật tử) vẫn phê phán Đức Phật (và Phật giáo) là đã dấn
thân vào hư vô chủ nghĩa, phủ định luận, thần bí luận, chủ nghĩa trung lập tôn
giáo, tương đối luận, thái độ lánh đời, thói cam chịu, và...vv.
Phật ngôn, giống như Whitehead
đôi khi quá bí ẩn đến mức thích ứng một cách đơn giản với mọi loại giải thích,
thêu dệt, trong đó rủi thay, một số lại hoàn toàn tách rời khỏi tư tưởng gốc,
hoặc ý nghĩa thật của chúng. Theo một nghĩa nào đó thì Đức Phật cũng tự cho
phép mình tạo ra được một ngữ vựng mới. Vì vậy dựa vào cách hiểu đó, ông cũng
phải chia sẻ trách nhiệm về tình trạng mơ hồ, trừu tượng và bất nhất. Chẳng
hạn ông bị chỉ trích trong diễn ngôn về tính phi thực tại chứ không phải thực
tại tính của sự vật, trong đó chỉ rõ cái ngôn ngữ mới mà ông theo đuổi cũng bị
phản đối hoặc bị các đối thủ của ông lờ đi. Nhưng điều đó lại được nhận thức
rằng Đức Phật đã tạo ra một cuộc cách mạng chính yếu ở Ấn Độ liên quan đến cách
thức con người nhìn vào thực tại của các sự vật. Ông phải trở thành “phi chính
thống” trong cách thức những thể hiện của ông qui theo nội dung thực chất chứng
ngộ của ông. Kết quả là Đức Phật đã sáng tạo ra những thuật ngữ và những cụm từ
mới ngược lại với truyền thống và tôn giáo truyền thống. Ông vẫn phải viện đến
những thuật ngữ cũ, điều đó là chắc chắn, nhưng ông đã khéo léo biến đổi chúng
thành các thuật ngữ và cụm từ mang những ý nghĩa ngữ cảnh khác. Ông cũng tiến
tới sử dụng các thuật ngữ có vẻ phi logic, hoặc theo một cách rất kịch tính,
ông đã lật ngược các thuật ngữ vốn rất quen thuộc theo nghĩa đen của từ này.
Các thuật ngữ chẳng hạn như vô ngã, ngược nghĩa với thuật ngữ vẫn được chấp
nhận, ngã, hoặc vô thường thay thế cho thường hằng thì thực sự khó hiểu, lại
càng không được chấp nhận trong một nền văn hoá bị truyền thống vây bọc. Nhưng
tri thức thâm sâu của Đức Phật đã chứng tỏ là có hiệu lực và kiên định, như
lịch sử đã làm chứng. Giờ đây chúng ta phải cố để xem Đức Phật và Whitehead đã
hội tụ tại điểm nào trong diễn ngôn của họ về bản chất tối hậu của thực tại.
Trong việc tìm kiếm một nền tảng
và viễn cảnh chung thì miếng đất tự nhiên và màu mỡ nhất chính là bản chất con
người. Chính con người cũng quan tâm một cách sâu sắc đến cái vị thế tối hậu
của nó, và Đức Phật, thậm chí không hề có bất cứ sự trợ giúp nào của phương
pháp luận khoa học và công nghệ mà vẫn có thể trình bày được một quan điểm vô
cùng hợp lý. Vì vậy cuộc đối thoại giữa hai nhân vật đó sẽ trở nên có ý nghĩa
và mang tính trọng đại chỉ khi chúng ta lĩnh hội được những hạn chế tương tự
trong cách tư duy của họ. Rõ ràng cuộc đối thoại không thể là sự so sánh tay
đôi các tiểu tiết hoặc những điều lặt vặt trong những khái niệm hoàn chỉnh về
con người của Đức Phật và Whitehead. Đó sẽ là một nhiệm vụ bất khả thi không
chỉ về khía cạnh lý giải mang tính lịch sử, mà còn liên quan đến cả những khác
biệt văn hoá là cái tuyệt đối sai khiến loại ý nghĩa được chuyển tải một cách
riêng biệt bởi việc sử dụng các thuật ngữ. Hơn nữa cũng cần phải lưu ý đến cái
khởi điểm là mục tiêu hoặc cái đích của con người trong hai cách quan niệm lại
hoàn toàn khác nhau, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh nghiệm tôn giáo, đến mức
mà bất cứ một nghiên cứu so sánh nào cũng có thể bị loại bỏ. Tuy nhiên nếu tập trung
vào những vấn đề cơ bản hơn, thì kết quả cũng sẽ là một phần thưởng xứng đáng.
Bài viết này sẽ tập trung vào quan
niệm của Whitehead về một chân thể (hoặc là một cơ duyên thực sự) làm cơ sở so
sánh với quan niệm của Đức Phật về chân ngã (“ngã” đang phân đôi – đã phân đôi)
2. Các khái niệm này dường như không tương hợp, nhưng nó sẽ có
giá trị đối với chúng ta nếu xem xét chúng một cách kỹ càng hơn. Tôi rất quan
tâm đến một sự kiện thật là khái niệm về một chân thể thực sự là cái alpha và omega của hệ thống Whiteheadianism,
ở chừng mức là việc thảo luận về nó chắc chắn ngụ ý các khái niệm còn lại nhan
nhản trong hệ thống tư tưởng này. Thật lạ kỳ, tình hình cũng hệt như vậy đối
với học thuyết vô ngã. Về phương diện này, cả hai hệ thống đều có một cơ sở
chung, và cả hai đều bám chặt vào qui luật tự nhiên chủ nghĩa hoặc tín điều tự
túc về bản chất của vạn vật. Cả hai quan niệm, trong cách đặt vấn đề đều được
xử lý như là một khuôn khổ trong đó những tương hợp của các học thuyết bổ
sung tương ứng sẽ được thể hiện.
Chân thể
Whitehead là người có một cách
nhìn nhận hiếm có. Ông là một tín đồ tôn giáo thuần thành. Trong một tuyên ngôn
tôn giáo nổi tiếng của mình, ông nhấn mạnh: “Tôi mạo muội tiên đoán rằng thứ
tôn giáo đó sẽ chinh phục tất cả những ai có thể làm sáng tỏ sự hiểu biết phổ
biến về một sự vĩ đại vĩnh hằng là hiện thân bước chuyển của sự kiện thời gian”
3. Ông đã đưa ra nhận xét này rất muộn lúc sinh thời, nhưng tư tưởng
đó hình như lại ám ảnh ông trong cả một thời gian dài. Có thể là không thích
hợp khi nói rằng mối quan tâm sâu sắc đến sự kiện thời gian và cái mà thời gian
tạo ra đã thúc bách ông xem xét lại hoặc tái định giá chức năng tổng thể của
triết học. Liệu có phải cuối cùng ông đã thành công trong việc thể hiện trạng
huống của mình đối với tri thức phổ quát vẫn còn là một câu hỏi bỏ ngỏ, mặc dù
thách thức đó vẫn hiện diện một cách thường hằng. Chúng ta dễ dàng bị cuốn hút
vào những quá trình trừu tượng (biểu tượng) và duy lý khi nghĩ rằng người ta
có thể tiếp tục các quá trình mà không hề gắn kết các yếu tố được làm thành
trừu tượng hoá với tính chất trực tiếp của các sự kiện cụ thể. Whitehead hiểu
rất rõ về những hạn chế của logic, ngôn ngữ và quá trình biểu tượng tổng thể
trong con người. Nhưng theo nghĩa tối hậu, ông nói không có một “nhận thức
thuần tuý, cảm giác cá nhân thuần tuý, xúc cảm thuần tuý, mục đích thuần tuý,
ngoại diện thuần tuý, nhân quả thuần tuý”4.
Các sự kiện hoặc vạn vật không
xuất hiện trong một môi trường chân không, cũng không thể dứt khoát được xử lý như vậy. Trong mối
liên hệ này ông đã nhắc đi nhắc lại lời cảnh báo về tình trạng rơi vào nguỵ
biện của cụ thể tính bị đặt nhầm chỗ5. Ông không chỉ vạch rõ các
trừu tượng là gì, và chúng xuất hiện như thế nào, mà quan trọng hơn, ông còn
tập trung vào sự kiện cơ bản về thực chất bản thể luận cố kết của vạn vật.
Trong Khoa học và Thế giới Hiện đại, ông nhận định rõ ràng: “Tất nhiên
chất và lượng cũng là một sự định vị đơn giản, chính là những tư tưởng tự
nhiên nhất về tư duy của con người. Đó là cách chúng ta tư duy về vạn vật,
và không có những cách tư duy như vậy, thì chúng ta không thể đưa tư tưởng
của mình trực tiếp vào sử dụng trong cuộc sống hàng ngày. Không có gì phải nghi
ngờ về điều này. Chỉ có một câu hỏi duy nhất là, chúng ta đang tư duy cụ thể
đến mức nào khi chúng ta xem xét tự nhiên bằng các khái niệm này? Quan điểm của
tôi là, chúng ta đang tự thể hiện mình với những bản sao đơn giản hoá các vấn
đề trực tiếp của sự kiện. Khi chúng ta xem xét các yếu tố đầu tiên của những
bản sao đơn giản hoá này, chúng ta sẽ phát hiện ra rằng chúng chỉ là chân lý được
chỉnh sửa để trở thành những cấu trúc logic tinh vi của một mức độ trừu tượng
hoá cao. Tất nhiên với tư cách là một vấn đề tâm lý học cá nhân, chúng ta đạt
tới tư tưởng bằng phương pháp thô sơ cố ý của việc đình bản những gì có vẻ
là các chi tiết không thích hợp. Nhưng khi chúng ta cố gắng chỉnh sửa việc
đình bản cái không thích hợp đó, thì chúng ta lại phát hiện ra rằng có những
thực thể còn đó phù hợp với những thực thể mà chúng ta nói về chúng, nhưng
những thực thể này phải thuộc về một trình độ trừu tượng hoá cao. Vì vậy tôi cho
rằng chất và lượng có thể đem đến cho chúng ta một ví dụ khác nữa về cái ảo tưởng
của cụ thể tính bị đặt nhầm chỗ”6.
Hơn nữa: “Tôi cũng tin tưởng là
nếu chúng ta khát khao đạt được một sự thể hiện cơ bản hơn về đặc trưng cụ
thể của sự kiện tự nhiên thì cái yếu tố trong sơ đồ mà chúng ta đã phê phán đó
chính là khái niệm về tính định vị đơn giản...Việc nói rằng một chút vật chất
có một vị trí đơn giản có nghĩa là trong cách thể hiện những mối quan hệ không
thời gian của nó, chỉ cần nói đó chính là chỗ của nó, trong một vùng không gian
hữu hạn xác định, và dứt khoát là một độ dài thời gian hữu hạn xác định, ngoại
trừ bất cứ qui chiếu thiết yếu nào của các mối liên hệ của một chút vật chất
thuộc về những vùng không gian khác và thuộc về những độ dài thời gian khác.
Ngoài ra, khái niệm định vị thời gian đơn giản này không lệ thuộc vào việc
tranh cãi giữa các quan điểm tương đối luận và tuyệt đối luận về không gian
hoặc thời gian”7.
Khi Whitehead đưa ra một tuyên bố
sâu sắc rằng “tự nhiên gắn liền với tư duy” thì ông lại lập tức thêm rằng “sự
gắn bó ấy của tự nhiên không mang theo cùng với nó bất cứ một học thuyết siêu
hình nào về sự phân cách giữa tự nhiên và tư duy” 8. Còn hơn cả sự
phân cách, ông quan tâm đến tính thống nhất và tính liên tục của các sự kiện
thời gian trong tự nhiên. Vì vậy mặc dù “không gian hoá” các yếu tố tự nhiên và
những trừu tượng hoá tương ứng được tạo ra từ chúng, ông đặc biệt quan tâm đến
vấn đề là chúng có thể, như chúng đã, quay trở lại bên trong cái tổng thể bao
gồm tất cả ấy như thế nào.
Theo Whitehead điều này có thể
thực hiện bởi một triết học tư biện. Đó là “sự cố gắng để xây dựng một hệ
thống tư tưởng tổng quát chặt chẽ, logic và cần thiết trong khuôn khổ của một
thực tế là mỗi yếu tố kinh nghiệm của chúng ta đều có thể được lý giải” 9.
Với cố gắng đó, ông đã tiếp tục nói: “Bất cứ cái gì được tìm thấy trong “thực
tiễn” đều phải nằm trong phạm vi mô tả siêu hình. Khi việc mô tả không thể bao
gồm được “thực tiễn” thì siêu hình học là không đủ và đòi hỏi phải xét lại. Có
thể không có sự lôi cuốn vào thực tiễn để bổ sung cho siêu hình học, chừng nào
chúng ta vẫn còn thoả mãn với các học thuyết siêu hình của chúng ta. Siêu hình
học không là gì cả ngoài việc miêu tả những tính tổng quát áp dụng cho toàn bộ
các chi tiết của thực tiễn. Không hệ thống siêu hình nào có thể hy vọng hoàn
toàn thoả mãn các phép thử thực dụng đó. Trong mức độ hoàn thiện nhất, một hệ
thống như vậy sẽ chỉ lưu giữ một sự gần đúng so với các chân lý tổng quát vẫn
được tìm kiếm. Đặc biệt không có những tính chất chắc chắn mang tính tiên đề
đã được tuyên bố là bắt đầu từ đó. Thậm chí không có một thứ ngôn ngữ để xây
dựng các chân lý bằng thứ ngôn ngữ đó”10.
Vì vậy các nhà triết học có thể
chẳng bao giờ hy vọng công thức hoá những nguyên tắc siêu hình học đầu tiên vì
tính yếu kém của tri thức và sự khiếm khuyết của ngôn ngữ11. Hơn nữa
“chúng ta không bao giờ có thể nắm bắt được cái thế giới thực bằng cách lấy
một ngày nghỉ ra khỏi vòng xoay của nó”12. Cái thay thế duy nhất là
nắm bắt được các nguyên lý siêu hình đó bằng “những chớp loé của tri thức” và
phát triển một cách tiếp cận tiệm cận với một sơ đồ của các nguyên lý”13.
Vì vậy Whitehead đã thể hiện một cách mộc mạc rằng cấu trúc thế giới trong tính
toàn thể của nó không thể được nhận thức bằng các nguyên lý hoặc các qui luật
phổ biến, nhưng đó không phải là một nhiệm vụ vô vọng để thực hiện bằng thuộc
tính của “vạn vật như chúng là chính bản thân chúng” trong tính trở thành của
chúng đối với việc đặc trưng hoá được khái quát hoá một cách rộng lớn hơn của
các sự vật đó trong “tổng thể toàn bộ” của chúng 14. Trong sơ đồ này
có một khía cạnh duy lý cũng như khía cạnh kinh nghiệm, hoặc có những khía
cạnh cần thiết, logic và mạch lạc cũng như những khía cạnh đầy đủ và có thể áp
dụng. Đó là một sơ đồ toàn diện trong đó có tính liên kết hoàn toàn. Nhưng
chúng ta phải bắt đầu từ một nơi nào đó và Whitehead đã thực hiện điều này dựa
trên cơ sở thực của kinh nghiệm con người. Ông nói, “các sự kiện tối hậu của
kinh nghiệm thực sự trực tiếp là những thực tại thực sự, những hiểu biết, và
các mối quan hệ15. Chúng là,
như nó đã là dựa trên sự thể hiện
của mỗi kinh nghiệm. Chúng là những thuật ngữ liên kết theo nghĩa nội tại. Vì
vậy, ông nói “hệt như những mối quan hệ biến đổi các bản chất của các mối liên
kết, vì vậy mà những mối liên kết ấy đã làm biến đổi bản chất của mối liên hệ
đó. Mối liên hệ đó không phải là một qui luật phổ biến. Nó là một sự kiện cụ
thể với cùng một cụ thể tính như các mối liên hệ vậy” 16.
Đó là học thuyết của ông về tính
thân thuộc hoặc tính nội tại chung, một học thuyết ngăn cản một thực thể khỏi
sự biệt lập hoặc định vị một thực thể thực sự trong bất cứ một ngữ cảnh được
xác định tốt nào. Các thực thể thực sự là “những sự vật cuối cùng của cái mà
thế giới được tạo ra” 17, và là cơ sở của tính thân thuộc. Vì vậy
chúng không thể là những thực thể trống rỗng hoặc chân không. Chúng “liên quan
đến nhau bởi nguyên do hiểu biết lẫn nhau”18, hoặc đó là thực chất
của mỗi tồn tại là một tiềm năng cho mỗi trở thành. Vì vậy tính chất cùng với
nhau hoặc sự thống nhất của những thực thể này bằng phẩm chất của sự hiểu biết
của chúng chính là sự kiện của một mối quan hệ. Theo Whitehead, một sự hiểu
biết liên quan đến một “chủ thể”, cái luận cứ ấy, và hình thức chủ thể qui
chiếu vào thuộc tính “dễ xúc động” của “chủ thể”. Vì những hiểu biết là trật tự
của trở thành trong tự nhiên, từ những thực thể nhỏ nhất đến lớn nhất, thì sự
phân cấp hoặc thứ bậc của tồn tại là có thể. Cơ thể người là một trật tự phức tạp
cao hơn của tồn tại, một xã hội của những thực thể hiện thực; nó cũng được gọi
là một “nhóm họp của các cơ duyên”. Về phương diện này các quan niệm truyền
thống về tính đồng nhất nhân cách, ngã, linh hồn, cá nhân tính,..vv, cần phải được
đánh giá lại, và nếu chúng được chấp nhận thì chúng phải được nhìn nhận trong
ngữ cảnh của các thực thể có liên quan với nhau.
Whitehead thật sự nhậy bén trong
việc điều chỉnh các luận thuyết về trở thành, tồn tại, và tính thân thuộc của
các thực thể hiện thực. Ông không thể nói về một luận thuyết này mà lại không
liên quan đến những luận thuyết khác. Vì vậy “Bất cứ khi nào chúng ta cố thử
thể hiện vấn đề kinh nghiệm trực tiếp, thì chúng ta đều nhận ra rằng việc tìm
hiểu nó dẫn chúng ta vượt khỏi bản thân nó, để tới những đồng thời tính của
nó, tới quá khứ của nó, tới tương lai của nó, và tới những qui luật phổ biến
mà trong khuôn khổ của nó thì tính chất xác định của nó được thể hiện”19.
Hơn nữa, trong kinh nghiệm trực tiếp ông nói về nhận thức phi giác quan, là thứ
đóng một vai trò to lớn trong việc định giá kinh nghiệm đó. Chẳng hạn tri thức
về quá khứ trực tiếp của chúng ta là một nhận thức như vậy20. Một
nhận thức về bản chất này cũng là một thuộc tính của tính liên tục của tự
nhiên, mặc dù bằng một cách thức không nhìn thấy. Theo một nghĩa đặc biệt hơn, chân
thể trong khuôn khổ hình thức chủ quan của nó thường bộc lộ tính liên tục của
tồn tại của riêng nó. Kết quả là chân thể không bao giờ tĩnh hoặc độc lập; nó
vĩnh hằng trở thành. Nó có những nắm bắt và có mối liên hệ hài hoà với tính trở
thành của tự nhiên. Nó cũng có thuộc tính “bất tử một cách khách quan”, cái
phi-tồn tại của tồn tại trong bước chuyển đổi của các hình thức chủ thể tính21.
Đến lượt mình, thuộc tính “bất tử khách quan” ấy chính là tiềm năng cho những
nắm bắt bởi các chân thể khác. Bước chuyển từ quá khứ đến hiện tại và đến tương
lai là sự tiến bộ sáng tạo của mỗi chân thể. Một bước tiến như vậy có nghĩa
là một cái gì đó mới đang xảy ra hoặc cái thế giới đa dạng hoá của các yếu tố
này trở nên thống nhất trong khuôn khổ của sự liên trưởng của cái chân thể đó.
Vì vậy mỗi thực thể đều nắm giữ những tiềm năng thuần tuý hoặc những khách thể
vĩnh hằng là thứ tạo nên các hình thức của tính xác định liên quan tới thực thể
đó.
Trong ngữ cảnh của sự liên trưởng
mới năng động của mỗi chân thể, thì quan niệm truyền thống về tự ngã đều bị đổ
vỡ. Mỗi “ngã” không còn trống rỗng hoặc độc lập nữa; mỗi thực thể đều liên kết
chặt chẽ với mỗi thực thể khác và mỗi thực thể lại tự thể hiện mình một cách tiềm
tàng cho sự liên trưởng bởi những thực thể khác; và mỗi thực thể đều nắm giữ
những khách thể vĩnh hằng nhất định để bộc lộ mối liên hệ của tự thân nó. Nói
tóm lại, “ngã” là một thực thể quá phức tạp dễ được phân tích thành một hệ
thống cấu trúc vô cơ hoặc hữu cơ. Nó tạo ra cả hai và nhiều hơn thế nữa. Có một
cái gì đó vượt khỏi bản chất chóng tàn, khả huỷ của tồn tại. Nó có thể đã được
nhận thấy trong đoạn thảo luận vắn tắt đã đề cập ở trên cho rằng Whitehead đã
hoàn toàn khai thác một vốn ngữ vựng phức tạp để thể hiện những yếu tố đơn lẻ
hoặc ảnh hưởng lẫn nhau trong kinh nghiệm, đó là sự kiện thời gian. Về một phương
diện nào đó, ông đã bị thúc ép phải làm như vậy với hy vọng tìm ra được sự
thoả đáng và khả năng có thể ứng dụng lớn hơn. Về tổng thể ông đã phản ứng lại
với những niềm tin truyền thống và những phương thức tư duy dựa trên sự định
vị đơn giản. Vì vậy ông đã chấp nhận sử dụng cách thức sáng tạo ra những thuật
ngữ mới22.
________________________________________
Còn
nữa...
Tác giả: GS.TS. Kenneth K. Inada (1924 - 2011) sinh ra và lớn lên tại Honolulu, tốt nghiệp đại học Hawaii, và làm thạc sỹ tại
Đại học Chicago; nghiên cứu
Phật học và nhận học vị Tiến sỹ tại Đại học Todai, Tokyo; là học trò của D. T.
Suzuki; giáo sư Triết học tại Khoa triết, Đại học bang New York at Buffalo; dịch
và hiệu đính मूलमध्यमककारिका Mulamadhyamakakarika
根本中觀論頌 Căn bản Trung quán Luận tụng của Nagarjuna.
Nguồn:
Inada Kenneth K. 1971. Whitehead's 'Actual Entity' and the Buddha's
Anatman, Published in Philosophy East
and West 21, no.3 (July 1971), p.303-315, by The University Press of
Hawaii, USA.
Ghi chú:
1. Chẳng hạn, chắc chắn ông đã sai
lầm khi hiểu Phật giáo theo các cách xác quyết sau: [1] có một đấng Cứu thế
trong Phật giáo giống như trong Thiên chúa giáo; [2] các linh hồn siêu thoát sẽ
trở về với Thượng đế; [3] Phật giáo cổ vũ tinh thần cá nhân hành động; [4] các
mục tiêu đạo đức của Phật giáo định hướng vào việc thay thế các nguyên lý siêu
hình học đầu tiên; và [5] vô số cá nhân có đời sống hữu hạn đã bị đọa vào thế
giới hữu hình, còn thực thể tối hậu thì tụ hội thành một Tuyệt đối. Xin hãy đọc
Religion in the Making (Cambridge: At
the University Press, 1926), đặc biệt là các trang 139-141. Bằng cách xác quyết
như vậy, rõ ràng ông đã diễn giải Phật giáo là một loại tôn giáo phổ cập chấp
nhận các yếu tố như đấng Cứu thế, linh hồn, sự cam chịu của con người trong
trần thế. Cho dù trong quá trình phát triển về sau này ở khắp Châu Á loại hình
Phật giáo này trước hết kết hợp với/và chịu ảnh hưởng của tư duy phương Tây. Ông
còn lẫn lộn Phật giáo với loại hình tôn giáo Vedantic chính truyền, với nó con
người sống luân hồi trong माया māyā
ảo hóa cho đến khi được giải thoát nhờ một nỗ lực cuối cùng, và
hòa mình vào thực tại tối hậu ब्रह्म Brahman.
2.
Giờ đây tôi bắt đầu hiểu được rằng khái niệm अनात्मन् anātman là
một “chân ngã” nhị phân–bất nhị phân vì trong khái niệm आत्मन् ātman
có hai cấu phần/phương diện sống động luôn luôn can dự. Một mặt đó là “chân
ngã” đã phân đôi thể hiện một trạng huống ngã được coi là một cái gì đó tĩnh,
có cấu trúc, vì vậy mà có vẻ như là một thực thể bất sinh. Đây là một lĩnh vực
của sự tuyệt đối hóa thuần túy hoặc là hệ thống biểu tượng. Mặt khác lại còn
một “chân ngã” đang phân đôi, dựa vào thực tính độc lập hoặc biệt lập của nó, vẫn
tiếp tục quá trình phân mảnh hoặc tiếp tục sự phân biệt trừu tượng của các lĩnh
vực tồn tại khác nhau. Vị thế của một ngã, một chủ thể tách khỏi quá trình kinh
nghiệm mà nó can dự một cách năng động, vì vậy mà luôn tiến triển. Vì vậy quá
trình đó chỉ giúp thúc đẩy một loạt phân đôi trong tính liên tục của tồn tại. Chân
ngã đang phân đôi nhất thiết dựa vào chân ngã đã phân đôi và vì vậy mà vẫn tiếp
tục một truy vấn vĩnh hằng về các lĩnh vực phân biệt vật chất và tinh thần cùng
các yếu tố cấu thành của chúng. Không thể nắm bắt hoặc vươn tới được chân ngã
hoặc anātman
chừng nào sự truy vấn này vẫn còn tiếp diễn. Sau này chúng ta sẽ nhận diện nó
trong thảo luận về vấn đề Đức Phật khuyên răn những kẻ buông thả mình vào mọi
loại cực đoan vì họ không thể trải nghiệm con đường trung đạo.
3. Whitehead A. N. 1933. Adventures of Ideas (New York: Macmillan
Co.), p. 41.
4. Whitehead A. N. 1941. Process and Reality (New York: Social
Science Book Store), p.27.
5. Đã dẫn., trang 11, 27. Cũng
vậy, các biểu hiện hệ thống nhất của ảo tưởng này thể hiện rõ trong chương 3 và
4 của Science and the Modern World
(New York: Macmillan Co., 1948).
6. Science and the Modern World, pp. 76-77.
7. Đã dẫn., tr. 84.
8. Whitehead A. N. 1957. The Concept of Nature (Ann Arbor: The
University of Michigan Press, 1957), p.4.
9. Process and Reality, p. 4.
10. Đã dẫn., tr. 19.
11. Đã dẫn., tr. 6.
12. Đã dẫn., tr. 7.
13. Đã dẫn., tr. 6.
14. Về mục đích của Triết học, ông
cho rằng: “Nhiệm vụ của nó là giải thích sự xuất hiện của các sự vật trừu tượng
hơn từ các sự vật cụ thể hơn...Câu hỏi mang tính triết học đích thực là Làm thế
nào để một sự vật cụ thể có thể bộc lộ các thực thể trừu tượng khỏi chính bản
thân nó và nó đã tham dự thế nào vào các thực thể đó bằng thực chất của nó? Đã
dẫn, tr. 30.
15. Đã dẫn.
16. Adventures of Ideas, p. 201.
17. Process and Reality, p. 27.
18. Đã dẫn., tr. 29.
19. Đã dẫn., tr. 21.
20. Adventures of Ideas, pp. 232-235.
21. “Cái phi-tồn tại của các sự
kiện đặc biệt là “tính bất tử khách quan” của chúng. Việc nắm bắt thuần túy vật
chất chính là cách thức mà một sự kiện trong tính tức thì tồn tại của nó hấp
thu một sự kiện khác đã chuyển thành tính bất tử khách quan của sự phi-tồn tại
của nó. Đó là cách thức mà các sinh linh
quá khứ tồn tại trong hiện tại. Đó chính là quan hệ nhân quả. Đó là ký ức...Đó
là yếu tố cơ bản tạo thành nguồn gốc của quá trình tự sinh của mỗi sự kiện thời
gian. Vì vậy sự diệt vong chính là bước khởi đầu của quá trình trở thành. Cách
thức quá khứ tiêu vong chính là cách thức tương lại hình thành”. Đã dẫn, tr.
305.
22. Về việc xử lý các từ ngữ mới,
xem Adventures of Ideas, tr. 294-301.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét