Kinh
tế học Phật giáo
E.
F. Schumacher
Người dịch: Hà Hữu Nga
“Chính mệnh” là một trong những đòi hỏi của
Bát chính đạo của Đức Phật. Vì vậy rõ ràng phải có một môn Kinh tế học Phật
giáo. Các quốc gia Phật giáo thường tuyên bố rằng họ mong muốn duy trì lòng
trung thành đối với di sản của mình. Vì vậy Miamma khẳng định rằng: “Nước Mianma
mới không chấp nhận sự xung đột giữa các giá trị tôn giáo và tiến bộ kinh tế.
Sức mạnh tinh thần và sự thịnh vượng về vật chất không phải là những kẻ thù của
nhau: đó là những liên minh tự nhiên” 1. Hoặc “Chúng ta có thể hoà
nhập một cách thành công các giá trị tinh thần và tôn giáo trong di sản của
chúng ta với những lợi ích của công nghệ hiện đại” 2. Hoặc “Chúng ta
những người Mianma có một nghĩa vụ thiêng liêng trong việc làm cho cả những
giấc mơ của chúng ta và các hành động của chúng ta phù hợp với sự xác tín của
chúng ta. Chúng ta sẽ mãi mãi làm như vậy”3.
Tất cả đều giống nhau, những quốc
gia như vậy đều luôn luôn cho rằng họ có thể mô hình hoá các kế hoạch phát
triển kinh tế của họ phù hợp với Kinh tế học hiện đại, và họ yêu cầu các nhà
Kinh tế học hiện đại từ cái gọi là các nước tiên tiến cố vấn cho họ, để xây
dựng những chính sách cần phải theo đuổi và để tạo dựng một đại thiết kế cho
phát triển, Kế hoạch Năm năm hoặc bất cứ cái gì mà nó yêu cầu. Hình như không
có ai nghĩ rằng một lối sống Phật giáo lại tạo dựng được một nền kinh tế học
Phật giáo. Ngược lại, họ cho rằng chỉ có lối sống duy vật hiện đại mới sản
sinh ra một kinh tế học hiện đại.
Các nhà kinh tế học tự thân mình
giống như hầu hết các chuyên gia cũng thường chịu khổ sở vì một loại mù quáng
siêu hình học khi cho rằng có một khoa học về các chân lý hiển nhiên và tuyệt
đối mà không có bất cứ một tiền đề nào. Một số người còn đi xa tới mức cho
rằng các qui luật kinh tế không hề liên hệ gì với “siêu hình học” hoặc “các giá
trị” như qui luật hấp dẫn. Tuy nhiên chúng ta không cần can dự quá sâu vào các
lý lẽ phương pháp luận. Thay vào đó chúng ta đưa ra một số nguyên tắc cơ bản
và quan sát xem chúng vận hành như thế nào dưới con mắt của một nhà kinh tế học
hiện đại và một nhà kinh tế học Phật giáo.
Có một lý lẽ phổ biến cho rằng một
nguồn của cải chủ yếu đó là sức lao động của con người. Và giờ đây nhà kinh tế
học hiện đại đã bắt dầu coi “lao động” hoặc công việc phần nào như một điều
bắt buộc. Từ quan điểm của người chủ thuê lao động thì trong bất cứ trường
hợp nào, đó cũng chỉ đơn giản là một loại chi phí cần phải được giảm đến mức
tối thiểu nếu nó chưa bị loại bỏ hẳn bởi dây truyền tự động hoá. Từ quan điểm
của người lao động, đó là một “điều vô ích”; lao động là hy sinh sự hưởng thụ
và nhàn rỗi, còn đồng lương thì là một khoản bù đắp cho sự hy sinh đó. Vì vậy
mong muốn tột cùng của người chủ là có được sản phẩm mà không cần thuê lao
động, còn người lao động thì ngược lại: có thu nhập mà không phải làm thuê.
Kết quả của các thái độ đó, cả về
mặt lý thuyết lẫn thực tiễn tất nhiên đều khó mà đạt tới được. Nếu cái lý tưởng
về phương diện lao động là giải thoát khỏi nó thì mỗi phương pháp “giảm nhẹ
gánh nặng lao động” là một điều tốt. Phương pháp hiệu nghiệm nhất, không có tự
động hoá, chính là cái mà người ta gọi là “phân công lao động” và ví dụ kinh
điển là nhà máy đinh ghim được tán dương trong cuốn Sự thịnh vượng của các Quốc gia
của Adam Smith4. Đó không phải là một vấn đề chuyên biệt hoá thông
thường mà con người đã thực hiện từ rất xa xưa, mà là vấn đề chia tách mỗi
quá trình sản xuất hoàn chỉnh thành các bộ phận nhỏ, vì vậy sản phẩm cuối cùng
có thể được sản xuất với tốc độ lớn nhưng trong hầu hết các trường hợp không
có bất cứ ai phải đóng góp gì nhiều ngoài một động tác hoàn toàn vô nghĩa,
không cần thành thạo của tứ chi người đó.
Quan điểm Phật giáo coi chức năng
lao động quan trọng gấp ba: tạo cơ hội cho một con người trở nên hữu ích và
phát triển các khả năng của anh ta; tạo điều kiện cho anh ta vượt qua cái ngã
trung tâm bằng sự kết hợp với người khác để thực hiện một nhiệm vụ chung nào
đó; và tạo ra các sản phẩm và các dịch vụ cần thiết cho một sinh linh. Hơn nữa,
các công quả từ lối sống như vậy sẽ trở nên vô tận. Việc tổ chức công việc một
cách vô nghĩa, buồn chán, tẻ nhạt hoặc tra tấn thần kinh người lao động sẽ trở
thành một loại tội ác; nó thể hiện mối bận tâm đối với hàng hoá nhiều hơn so
với con người, sự thiếu vắng tình thương và mức độ huỷ hoại tâm hồn gắn liền
với những khía cạnh cổ sơ nhất của tồn tại trần tục. Tương tự như vậy, việc cố
gắng tạo ra được sự thư thái trong lao động sẽ được coi là sự lầm lẫn hoàn
toàn về một trong những chân lý cơ bản của tồn tại con người, đó là lao động
và ngồi rồi là những bộ phận bổ sung của cùng một quá trình sống và không thể
bị chia tách mà lại không huỷ hoại niềm vui lao động và nỗi sung sướng của sự
nhàn hạ.
Vì vậy Phật giáo cho rằng có hai
loại cơ giới hoá cần phải được phân biệt rõ ràng: loại làm tăng cường kỹ năng
và sức mạnh của con người; và loại làm cho công việc của con người trở thành
một thứ nô lệ cho máy móc, đưa con người trở về địa vị nô lệ. Làm thế nào để
người này có thể nói với người khác? “Bản thân người thợ thủ công” Ananda
Comaraswamy, một con người có đầy đủ thẩm quyền để nói về phương Tây hiện đại
như một phương Đông thời Cổ đại "xin được phép nói rằng chỉ có một sự
khác biệt rất mong manh giữa máy móc và công cụ. Một chiếc khung cửi là một
công cụ, một sáng kiến đỡ sợi dọc trên khung cửi để cuốn sợi bằng ngón tay của
những người thợ thủ công; nhưng chiếc khung cửi chạy điện lại là một chiếc
máy, và ý nghĩa của nó với tư cách là kẻ phá hoại văn hoá lại nằm ở một sự
thật là nó thay thế phần thiết yếu nhân văn của lao động5. Vì vậy rõ
ràng là Kinh tế học Phật giáo phải khác biệt hẳn với kinh tế học của chủ nghĩa
duy vật hiện đại, vì Phật tử coi bản chất của văn minh không phải là vô vàn các
nhu cầu mà là việc thanh tịnh tâm hồn con người. Đồng thời tính cách trước
hết được hình thành bởi sự lao động của một con người. Và lao động được thực
hiện trong chính các điều kiện của chân giá trị và tự do của con người, phù
trợ cho những người lao động và cho các sản phẩm của họ. Nhà triết học và kinh
tế học Ấn Độ J.C Kumarappa đã tóm lược vấn đề đó như sau:
“Nếu thực chất của lao động được
đánh giá và áp dụng một cách chính đáng thì nó sẽ duy trì mối quan hệ với những
khả năng cao hơn giống như thức ăn đối với cơ thể vậy. Nó nuôi dưỡng và chấn
hưng năng lực con người lên một mức độ cao hơn và thúc đẩy anh ta tạo ra
những sản phẩm tốt nhất mà anh ta có thể làm được. Nó hướng dẫn ý chí tự do
và tính kỷ luật của anh ta, cái động vật trong anh ta đi đúng theo đường hướng
tiến bộ. Nó tạo ra một nền tảng hoàn hảo cho con người để thể hiện qui mô các
giá trị và phát triển nhân cách của anh ta”6.
Nếu một con người không có cơ hội
kiếm được việc làm thì anh ta sẽ có một tình cảnh tuyệt vọng không chỉ đơn
giản vì anh ta thiếu đi một khoản thu nhập, mà vì anh ta thiếu đi khả năng nuôi
dưỡng và chấn hưng cái nhân tố lao động có kỷ luật không gì có thể thay thế được.
Một nhà kinh tế học hiện đại có thể cố công tính toán chi ly xem có phải việc
làm ổn định “được trả công” hoặc sẽ là “kinh tế” hơn bằng cách vận hành một
nền kinh tế có ít việc làm ổn định hơn để đảm bảo tính cơ động lao động cao
hơn, đồng lương ổn định hơn, vân vân. Tiêu chuẩn thành công cơ bản của anh ta
chỉ đơn giản là số lượng tổng thể của hàng hoá được sản xuất trong một khoảng
thời gian nhất định. “Nếu tính chất khẩn trương ngoại biên của hàng hoá thấp”
Giáo sư Galbraith nói trong The
Affluent Society (Xã hội
thịnh vượng) “thì đó là tính khẩn trương của việc thuê lao động đối với con người
cuối cùng hay triệu người cuối cùng trong lực lượng lao động”7.
Hơn nữa “Nếu…. chúng ta có thể tạo ra một tình trạng thất nghiệp nào đó có lợi
cho tính bền vững – một tiền đề, có lợi cho những tiền đề bảo tồn hoàn hảo –
thì chúng ta có thể giúp cho những người thất nghiệp các mặt hàng tạo cho họ
khả năng duy trì mức sống thông lệ”.
Người Phật tử không chấp nhận việc duy trì chân lý đầu bảng bằng cách coi hàng hoá quan trọng hơn con người và
tiêu thụ quan trọng hơn hành vi sáng tạo. Điều đó cũng có nghĩa là thay đổi
trọng tâm từ người lao động sang sản phẩm lao động, có nghĩa là từ con người
xuống mức dưới người, đó chính là sự đầu hàng đối với các lực lượng
của cái ác. Chính bước khởi đầu của kế hoạch hoá kinh tế học Phật giáo sẽ là
một sự kế hoạch hoá cho giải quyết việc làm đầy đủ, và mục đích đầu tiên của
công việc này thực ra là việc làm cho bất cứ ai cần một công việc “bên ngoài”:
đó không phải là tối đa hoá tạo thêm công ăn việc làm, cũng không phải là tối
đa hoá việc sản xuất. Về tổng thể, phụ nữ không cần một việc làm “bên ngoài”,
và việc làm của phụ nữ ở qui mô rộng hơn trong các cơ quan hoặc các nhà máy có
lẽ được coi là một dấu hiệu của sự thất bại kinh tế nghiêm trọng. Đặc biệt là
để cho những người mẹ nuôi con phải làm việc trong các nhà máy trong khi những
đứa trẻ chạy rông sẽ là phi kinh tế trong con mắt của một nhà kinh tế học Phật
giáo, vì việc làm của một người thợ có kỹ năng như một người lính trong con
mắt của một nhà kinh tế học hiện đại.
Trong khi nhà duy vật chủ yếu quan
tâm đến hàng hoá thì Phật tử lại chủ yếu quan tâm đến giải thoát. Nhưng Phật
giáo là “Trung đạo” và vì vậy mà không hề có sự đối lập với trạng thái thịnh vượng
về mặt vật chất. Không phải của cải chặn đường giải thoát, mà chính là lòng
tham luyến của cải; không phải việc hưởng thụ khoái lạc, mà chính là dục vọng
về các khoái lạc. Vì vậy nguyên tắc chủ đạo của kinh tế học Phật giáo là tính
đơn giản và phi bạo lực. Từ quan điểm của một nhà kinh tế, điều kỳ diệu của lối
sống Phật giáo là tính duy lý tuyệt đối của mô hình của nó – một phương tiện
vô cùng nhỏ mọn, nhưng lại dẫn đến những kết quả mãn nguyện phi thường.
Đối với nhà kinh tế học hiện đại
điều đó thật không dễ gì hiểu nổi. Chức năng của ông ta là đo lường “mức sống”
bằng khối lượng tiêu thụ hàng năm khi cho rằng trong toàn bộ cuộc đời mình một
con người tiêu thụ được nhiều hơn thì “khá giả” hơn một người tiêu thụ ít
hơn. Một nhà kinh tế học Phật giáo sẽ coi lối tiếp cận này là đặc biệt phi lý:
vì tiêu thụ chỉ là một phương tiện cho sự thịnh vượng của con người, còn cái
đích cần nhắm tới là đạt được sự thịnh vượng tối đa bằng một lượng tiêu thụ
tối thiểu. Vì vậy mục đích của việc mặc quần áo là duy trì được một nhiệt lượng
nhất định để làm cho vẻ ngoài hấp dẫn, nhiệm vụ của quần áo là giúp đạt được
mục đích đó bằng một cố gắng tối thiểu có thể, có nghĩa là hàng năm thải bỏ một
lượng quần áo tối thiểu, và bằng việc trợ giúp của mẫu thiết kế sao cho chi
phí lao động phải trở thành tối thiểu. Chi phí sức lao động càng ít thì người
ta càng có điều kiện dành nhiều thời gian và sức khoẻ cho sáng tạo nghệ thuật.
Có lẽ rất là phi kinh tế với những loại quần áo quá cầu kỳ, phức tạp, như phương
Tây hiện đại khi người ta cố gắng làm đẹp bằng trang sức cầu kỳ với loại chất
liệu sơ cấp. Có lẽ người ta đã trở nên hoàn toàn rồ dại khi cứ phải tạo ra các
loại chất liệu sao cho chóng hỏng và hoàn toàn trở nên man rợ khi làm cho mọi
thứ xấu đi, xoàng xĩnh, tầm thường đi. Những điều nói về việc ăn mặc vừa rồi
hoàn toàn đúng với tất cả mọi nhu cầu khác của con người. Sở hữu và tiêu thụ
hàng hoá là một phương tiện tối hậu, và kinh tế học Phật giáo là cách nghiên
cứu hệ thống để làm sao có thể đạt được những cái đích nhất định bằng những phương
tiện tối thiểu.
Một mặt kinh tế học hiện đại coi
tiêu thụ là cái đích bán hàng và là mục đích của toàn bộ hoạt động kinh tế bằng
cách làm cho các nhân tố sản xuất – và cả lao động lẫn tư bản – trở thành các
phương tiện. Nói tóm lại là cố gắng tối đa hoá những nhu cầu cần phải thoả mãn
của con người bằng mô thức tiêu thụ tối ưu, trong khi kinh tế học Phật giáo
lại cố gắng tối thiểu hoá tiêu thụ bằng mô thức tối ưu của việc cố gắng sản
xuất. Rất dễ nhận ra rằng việc nỗ lực duy trì một lối sống tìm cách đạt được
mô thức tối ưu của tiêu thụ lại có vẻ nhỏ hơn nỗ lực duy trì việc tối đa hoá lượng
tiêu thụ. Không có gì làm chúng ta phải ngạc nhiên vì rằng sức ép và hạn chế
của cuộc sống ít hơn nhiều tại Mianma so với tại Hoa Kỳ, mặc dù có một sự thật
là khối lượng máy móc tiết kiệm lao động được sử dụng tại Mianma chỉ là một
phân số nhỏ so với ở Hoa Kỳ.
Tính chất giản đơn và phi bạo lực
rõ ràng gắn chặt với nhau. Mô hình tiêu thụ tối ưu, bằng việc tạo ra một mức
độ thoả mãn cao của con người bằng tỷ lệ tiêu dùng tương đối thấp đã cho phép
người ta sống mà không phải chịu sức ép và tình trạng căng thẳng và cho phép
hoàn thiện những giáo huấn nguyên khởi của Đức Phật: “Khuyến thiện, lìa ác”. Vì
các nguồn của cải vật chất ở mọi nơi đều hữu hạn, thì thà là người ta thoả mãn
các nhu cầu bằng cách sử dụng tối thiểu các nguồn còn hơn là phải phụ thuộc vào
một mức độ tiêu dùng cao. Tương tự như vậy, những con người sống trong các
cộng đồng tự cấp tự túc địa phương ít có khả năng can dự vào những hành động
bạo lực ở qui mô lớn so với những con người sống gắn liền với các hệ thống thương
mại rộng khắp thế giới.
Từ quan điểm của một nền kinh tế
học Phật giáo vì vậy mà việc sản xuất từ các nguồn địa phương cho các nhu cầu
địa phương là một đời sống kinh tế hợp lý nhất, trong khi việc phụ thuộc vào
nhập khẩu từ bên ngoài và nhu cầu nảy sinh từ đó để sản xuất phục vụ xuất khẩu
cho các tập đoàn người ở xa và lạ lẫm là rất phi kinh tế và chỉ thoả đáng
trong các trường hợp ngoại lệ và ở một qui mô nhỏ. Chính nhà kinh tế học hiện
đại sẽ thừa nhận rằng một tỷ lệ tiêu thụ cao các dịch vụ giao thông giữa ngôi
nhà và nơi sản xuất của một con người là biểu thị một sự không may mắn và đó
không phải là một mức sống cao. Vì vậy mà nhà kinh tế học Phật giáo sẽ cho rằng
để thoả mãn những nhu cầu của con người từ các nguồn xa xôi chứ không phải là
từ các nguồn kề cận biểu thị sự thất bại chứ không phải là thành công. Nhà kinh
tế học hiện đại có khuynh hướng dùng thống kê để chỉ ra một sự tăng lên về số
tấn/dặm trên đầu người của một dân số nhất định được tiến hành bởi một hệ
thống giao thông của một nước như là bằng chứng của tiến bộ kinh tế, trong
khi đối với các nhà kinh tế học Phật giáo thì các con số thống kê đó sẽ chỉ rõ
một tình trạng xấu đi trông thấy trong các mô thức tiêu thụ.
Một sự khác biệt rõ rệt khác giữa
kinh tế học hiện đại và kinh tế học Phật giáo nảy sinh từ việc sử dụng các
nguồn tự nhiên. Bertrand de Jouvenel, một nhà triết học chính trị nổi tiếng của
Pháp đã đặc trưng hoá “con người Phương Tây” bằng các từ như là một sự miêu
tả trung thực của nhà kinh tế học hiện đại: “Ông ta có khuynh hướng coi con số
không là một sự tiêu thụ một nỗ lực khác chứ không phải của con người; hình như
ông ta không hề suy nghĩ rằng mình đã tiêu phí bao nhiêu quặng, và còn tồi tệ
hơn, bao nhiêu lượng vật chất sống mà ông ta đã huỷ hoại. Dường như ông ta
không hề nhận ra rằng cuộc sống con người là một phần lệ thuộc vào một hệ
thống sinh thái với rất nhiều dạng sống khác nhau. Vì thế giới bị thống trị bởi
các đô thị nơi mà con người bị tách rời khỏi bất kỳ dạng sống nào khác chứ
không phải là con người thì cái cảm giác phụ thuộc vào một hệ sinh thái không
hồi sinh được nữa. Điều đó làm nảy sinh ra một thái độ hoang phí và vô lối đối
với các vật chất mà chúng ta phụ thuộc vào đó, chẳng hạn như nước và cây
xanh”8.
Ngược lại, Kinh Phật khiến người
ta phải có thái độ phi bạo lực và cung kính không chỉ đối với toàn bộ các giống
hữu tình mà còn với cả cây cỏ nữa. Mỗi môn đồ của Đức Phật trong một vài năm
đều phải trồng một cây xanh và chăm sóc cây xanh đó cho đến khi nó lớn, và nhà
kinh tế học Phật giáo có thể không mắc phải khó khăn gì khi thể hiện sự quan
sát phổ biến về giới luật này sẽ tạo ra một tỷ lệ lớn sự phát triển kinh tế
chính cống độc lập với bất kỳ sự trợ giúp nước ngoài nào. Nhiều cuộc suy thoái
kinh tế Đông Nam Á (cũng như nhiều nơi khác trên thế giới) không còn nghi ngờ
gì nữa, vì đã lờ đi một cách rất đáng xấu hổ cây cối.
Kinh tế học hiện đại không phân
biệt giữa các vật chất có thể tái sinh và không thể tái sinh, vì phương pháp
của nó là cào bằng và định lượng mọi vật bằng giá tiền. Vì vậy việc lấy các
nhiên liệu thay thế như than, dầu, gỗ hoặc năng lượng nước: thì sự khác biệt
duy nhất giữa chúng được kinh tế học hiện đại nhận ra là chi phí tương đối
trên một đơn vị tương đương. Rẻ nhất là tự động hoá, một thứ được ưa thích
vì làm cách khác thì phi lý và “không kinh tế”. Tất nhiên từ quan điểm Phật
giáo thì lại không phải như vậy; một mặt, điều khác biệt cơ bản giữa các nhiên
liệu không tái sinh như than và dầu lửa; và mặt khác giữa các nhiên liệu có
thể tái sinh như gỗ và năng lượng nước, không thể đơn giản bị bỏ qua. Các
hàng hoá không thể tái sinh chỉ được sử dụng trong trường hợp bắt buộc, và
phải được sử dụng một cách cẩn trọng nhất, phải được quan tâm bảo vệ cẩn thận
nhất. Việc sử dụng chúng một cách tác trách hoặc quá đáng là một hành động tội
ác, và khi hành động hoàn toàn phi bạo
lực không thể thực hiện được trên trái đất này thì như vậy có nghĩa là con người
phải gánh vác một trách nhiệm không thể tránh khỏi để hướng tới lý tưởng phi
bạo lực trong toàn bộ những hành vi mà anh ta thực hiện.
Ngay cả một nhà kinh tế học hiện
đại châu Âu cũng sẽ không coi là một đại thành công nếu toàn bộ các kho báu của
nghệ thuật Châu Âu bị bán sang Mỹ với những giá cả rất hấp dẫn, vì vậy mà nhà
kinh tế học Phật giáo sẽ kiên trì quan điểm rằng một dân số đặt nền tảng đời
sống kinh tế của nó trên những nhiên liệu không tái sinh thì đang sống một cách
ký sinh trên tư bản thay cho thu nhập. Một lối sống như vậy có lẽ không bền
vững và vì vậy có lẽ chỉ được coi là một lợi ích hoàn toàn tạm thời. Vì các
nguồn nhiên liệu không tái sinh của thế giới – than, dầu mỏ và khí đốt tự nhiên
- được phân bổ đặc biệt không đồng đều trên quả địa cầu và không còn nghi ngờ
gì nữa các nguồn ấy rất hạn chế về khối lượng, nên rõ ràng là việc khai thác
chúng với một tỷ lệ ngày càng tăng chính là một hành động tội ác chống lại tự
nhiên và chắc chắn là nguyên nhân dẫn đến hành động tội ác trong nhân loại.
Trong các quốc gia Phật giáo, ngay
cả đối với những người không hề quan tâm đến các giá trị tinh thần và tôn giáo
trong di sản của họ nhưng lại có một khát vọng nồng nàn nắm lấy chủ nghĩa duy
vật của kinh tế học hiện đại với một vận tốc nhanh nhất khi chứng kiến sự thật
này cũng cần phải suy ngẫm. Trước khi họ gạt bỏ kinh tế học Phật giáo với tư
cách là không có gì hơn một giấc mộng luyến tiếc quá khứ, có thể họ đã muốn
nghiên cứu xem có phải con đường phát triển kinh tế được kinh tế học hiện đại
vạch ra có thể dẫn họ đến những địa vị mà họ thực sự mong muốn hay không. Hướng
đến cùng đích, trong cuốn sách can đảm Thách
thức Tương lai Nhân loại (The Challeng of Man’s Future), giáo sư Harrison
Brown của Viện Công nghệ California đã đánh giá như sau:
“Vì vậy chúng tôi cho rằng duy chỉ
có xã hội công nghiệp mới không có một nền tảng bền vững và tuỳ thuộc vào sự
quay trở lại với tồn tại của đất đai, mà trong đó các điều kiện đem lại quyền
tự do cá nhân là không chắc chắn vì khó có thể tránh được các điều kiện áp đặt
một lối tổ chức ngặt nghèo và một sự kiểm soát chuyên quyền. Thực ra khi chúng
ta xem xét toàn bộ những khó khăn có thể tiên lượng đe doạ đến sự sống còn của
nền văn minh công nghiệp thì khó mà tìm ra được một cách thức thích hợp để đạt
tới tính bền vững mà vẫn duy trì được quyền tự do cá nhân”9.
Ngay cả khi điều này bị khước từ
với tư cách là một tầm nhìn dài hạn thì vẫn có một câu hỏi trực tiếp là liệu
“hiện đại hoá” như hiện nay đã được thực hiện không liên quan đến các giá trị
tinh thần và tôn giáo đang thực sự tạo ra những kết quả có thể chấp nhận được
không. Chừng nào quần chúng còn được quan tâm thì các kết quả tỏ ra là tai hại
– một sự sụp đổ của nền kinh tế nông nghiệp, một cơn sóng triều thất nghiệp
trong các đô thị và trên toàn quốc, và sự phát triển nhanh chóng của một giai
cấp vô sản thành thị đói khát cả vật chất lẫn tinh thần.
Dưới ánh sáng của cả kinh nghiệm
trực tiếp lẫn các triển vọng dài hạn việc nghiên cứu kinh tế học Phật giáo có thể được giới thiệu
cho cả những ai tin rằng sự tăng trưởng kinh tế quan trọng hơn bất cứ giá trị
tôn giáo và tinh thần nào. Vì đó không phải là câu hỏi lựa chọn giữa “tăng trưởng
hiện đại” và “trì trệ truyền thống”. Đó là câu hỏi về việc tìm ra con đường
phát triển đúng đắn, đó là Trung đạo giữa sự khước từ chủ nghĩa duy vật chất và
tính bất tử của chủ nghĩa truyền thống, tóm lại là phát hiện ra “Chính mệnh”.
Không nghi ngờ gì là điều đó có
thể thực hiện được. Nhưng nó đòi hỏi rất nhiều chứ không chỉ là sự bắt chước mù
quáng lối sống duy vật chất của các quốc gia được gọi là “đã phát triển”9. Trên hết, nó đòi hỏi sự phát
triển của một Trung đạo có ý thức và có tính hệ thống về phương diện công nghệ,
sự phát triển của một “công nghệ trung gian” như tôi đã từng gọi nó 10, 11,
một loại công nghệ mạnh mẽ và sinh lợi hơn rất nhiều so với loại công nghệ trì trệ
của phương Đông cổ đại, nhưng đồng thời đó lại là loại công nghệ phi bạo lực, vừa
hết sức rẻ lại vừa hết sức giản đơn so với công nghệ tiết kiệm lao động của
phương Tây hiện đại.
_________________________________
Nguồn: E. F. Schumacher, Buddhist Economics, MANAS Journal, Volume XXII, No. 33 MANAS Reprint August 13, 1969.
Tác giả: E. F. Schumacher (1911 –1977) là một nhà tư tưởng kinh tế và nhà kinh tế
học Anh, gốc Đức, có ảnh hưởng quốc tế lớn; là cố vấn trưởng kinh tế cho Ngành
than Quốc gia Anh trong suốt hai thập kỷ, nổi tiếng với các đề xuất giải tập trung,
vì con người, các công nghệ phù hợp.
Ghi chú: Tiểu luận Buddhist
Economics - Kinh tế học Phật giáo
lần đầu tiên được công bố trong Asia: A Handbook, edited by Guy Wint,
published by Anthony Blond Ltd., London, 1966. Năm 1973 nó đã được tập hợp với
các tiểu luận khác của Ernest Friedrich Schumacher trong Small Is Beautiful:
Economics as if People Mattered. Cuốn sách đã được dịch ra 27 thứ tiếng
khác nhau và năm 1995 đã được London
Times đặt tên Literary Supplement
với tư cách là một trong một trăm cuốn sách có ảnh hưởng nhất được viết sau
Thế chiến II. Tháng 12 năm 2001, bà Vreni Schumacher và nhà xuất bản Hartley và
Marks đã đưa Kinh tế học Phật giáo
vào cuốn sách mỏng Bộ môn Kinh tế học Hoà
bình” vốn của Hội E.F.Schumacher, đường 140 Jug End Road, Great
Barrington, www.smallisbeautiful.org.
Tài
liệu dẫn
1. Pyidawtha 1954. The New Burma, Economic and Social Board.,
Government of the Union of Burma, p. 10.
2. Ibid., p. 8.
3. Ibid., p. 128.
4. Coomaraswamy A.K., 1910. Art and Swadeshi, Ganesh
and Co., Madras, p. 30.
5. Kumarappa C., 1958. Economy of Permanence, Sarva-Seva-Sangh
Publication, Rajghat, Kashi, 4th ed., p.117.
6. Galbraith K., 1962. The Affluent Society, Penguin, pp.
272-273.
7. Richard B. Gregg 1958. A Philosophy of Indian Economic
Development, Navajivan Publishing House, Ahmedabad, pp. 140-41.
8. Harrison B. 1954. The Challenge of Man's Future, The
Viking Press, New York, p. 255.
9. Schumacher F., 1964. Rural
Industries, in India at Midpassage, Overseas Development Institute,
London.
10. Schumacher F., 1964. Industrialisation
through Intermediate Technology, in Minerals
and Industries, Vol. I, No. 4. Calcutta.
11. Vijay Ch. and George McRobie 1964. Dynamics of District
Development, SIET Institute, Hyderabad.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét