Nagarjuna Long
Thọ - Phật Thích Ca tái thế (I)
Douglas Berger
Người
dịch: Hà Hữu Nga
Nagarjuna –
Long Thọ नागार्जुन (khoảng 150 - 250 SCN), được Phật giáo Đại thừa coi là
“Phật Thích Ca tái thế”, đã đề xuất những phê phán sắc sảo đối với triết
học bản chất luận, học thuyết nhận thức và các cách tiếp cận thực tiễn của
cả Phật giáo lẫn Bà La Môn giáo. Khái niệm trung tâm của Nagarjuna – Long Thọ là
शून्यता Śūnyatā - “không tính" của vạn hữu để chỉ sự biến đổi miên tục, vì vậy mà hết thảy hiện tượng không hề có tự
tính, được sử dụng làm định đề học thuật cho tư duy Phật
giáo, và sau đó đã gây ra không ít phiền não cho các hệ thống Vệ Đà đối địch. Khái
niệm ấy có những mối liên hệ cơ bản mật thiết với các mô hình triết học Ấn Độ
về nhân quả, bản thể học vật chất, tri thức học, các hệ thống khái niệm của
ngôn ngữ, đạo đức và các hệ thống lý thuyết cứu thế bằng giải thoát; nó đã
tác động ảnh hưởng mạnh mẽ tới tất cả các hệ thống triết học Phật giáo
tại Ấn Độ, Tây Tạng, Trung Quốc, Nhật Bản, và rất khác với chính tư tưởng của bản
thân Nagarjuna – Long Thọ. Có lẽ không phải là quá lời khi nói rằng khái
niệm không tính đầy sáng tạo của Nagarjuna – Long Thọ, mặc dù sau đó được các nhà triết học
ở Nam Á và Đông Á định giá bằng nhiều cách khác nhau, nhưng đã mãi mãi tác động
ảnh hưởng sâu sắc đến đặc trưng của tư tưởng Phật giáo.
Cuộc đời, huyền thoại và các công trình
Chỉ
có đôi điều quí giá còn lại về cuộc đời thật của Nagarjuna – Long Thọ lịch sử.
Hai bản tiểu sử phổ biến nhất của Nagarjuna, một bằng tiếng Hán và bản khác
bằng tiếng Tạng, được viết lại nhiều thế kỷ sau khi Nagarjuna – Long Thọ viên
tịch và là một sự kết hợp rất sinh động, nhưng về phương diện lịch sử lại là
những tư liệu không thể tin được, và đôi khi còn mang chất huyền thoại. Tuy
nhiên từ những phác thảo chi tiết lịch sử và huyền thoại có nghĩa là thực chất
có tính giáo dục, được kết hợp với những văn bản chắc chắn được gán cho ông, chúng
ta có thể tìm được một ý nghĩa nào đó về vị thế của ông trong truyền thống Phật
giáo và Triết học Ấn Độ.
Nagarjuna
– Long Thọ sinh ra trong một gia đình “Ấn Độ giáo”, trong thời ông có nghĩa là
lòng trung thành tôn giáo với người Vedas, có lẽ là thuộc về một gia đình đẳng
cấp tăng lữ Bà La Môn cao cấp, và có lẽ ở vùng Nam Andhra Ấn Độ. Các niên biểu
của cuộc đời ông thực sự là vô định, nhưng hai văn bản có lẽ đã được chính ông
viết đã đem lại cho chúng ta một hiểu biết nhất định. Có những tư liệu dưới
dạng những bức thư và đã được gửi cho nhà vua lịch sử Bắc Satvahana thuộc triều
đại Gautamiputra Satakarni (cai trị vào khoảng 166-196 SCN), người bảo trợ Bà
La Môn kiên định tại quốc gia đó, những trận chiến liên miên chống lại những
ông vua Shaka Satrap phía bắc hùng mạnh, và những cố gắng bành trướng đầy tham
vọng nhưng bất thành của vương triều này, dường như đã cho thấy rằng ông ta
không thể cố gắng để theo được lời khuyên của Nagarjuna – Long Thọ chấp nhận
chủ nghĩa hoà bình Phật giáo và duy trì một vương quốc thái bình. Ở bất cứ mức
độ nào thì những quan hệ thư từ của ông với quốc vương có lẽ cũng giúp xác định
những năm tháng đầy ý nghĩa của cuộc đời Nagarjuna – Long Thọ vào khoảng thời
gian từ 150 đến 200 SCN. Sau đó các nguồn văn tự Tây Tạng về cơ bản có thể là
chính xác trong việc vẽ lại chân dung cuộc hành hương của Nagarjuna – Long Thọ khỏi
Andhra đến Nalanda bây giờ là Bihar nghiên cứu Phật giáo. Đây chính là thánh địa
tương lai của Tự viện Phật giáo lớn nhất trong lịch sử đáng tự hào của truyền
thống đó tại Ấn Độ. Cuộc hành hương về phương Bắc ấy có lẽ đi theo con đường
của các nhà vua Shaka. Trong thế giới tri thức đầy âm hưởng của một miền bắc Ấn
Độ sôi động, Nagarjuna – Long Thọ đã bắt
đầu cuộc đời của một triết gia.
Cơ
hội để Nagarjuna – Long Thọ “cải giáo” theo Đạo Phật cũng chưa được biết chắc
chắn. Theo lý giải của Tạng bản thì người ta đã tiên tri rằng ông sẽ chết sớm,
vì vậy cha mẹ ông quyết định đánh bại số phận khủng khiếp ấy bằng cách cho ông
gia nhập tăng đoàn Phật giáo, sau đó sức khoẻ của ông đã nhanh chóng được cải
thiện. Vậy là ông đã đi về phương Bắc và bắt đầu được giáo dục bằng một hệ
thống mới. Hán bản, với cách kể chuyện huyền thoại Trung Hoa đầy màu sắc đã vẽ
lên chân dung một thanh niên bị ma ám, đã sử dụng sức mạnh phương thuật Yoga để
đi trốn, với một số ít bạn bè, vào hậu cung của nhà vua và cám dỗ các cung nữ. Nagarjuna
– Long Thọ đã trốn thoát khi họ bị phát hiện, nhưng tất cả những người
bạn của ông đã bị bắt và bị hành quyết, còn ông thì đi theo con đường xuất thế,
tìm kiếm giải thoát. Sau khi được cải đạo, nhờ tài nghệ về phương thuật và
thiền định, ông đã được mời xuống Long Cung. Trong thời gian ở đó, con người
phi thường mới khai tâm ấy đã “tìm được” “trí tuệ bát nhã” Phật giáo, gọi là प्रज्ञापारमितासूत्र Prajnaparamita
Sustras 般若波羅蜜多經,
Bát nhã Ba La Mật đa kinh. Nhờ
vào công quả lẫy lừng của mình, ông đã hồi hướng cho trần thế, và sau đó có
tên Nagarjuna – Long Thọ, “Thánh Long”.
Mặc
dù sự kiên định của truyền thống đó thấm nhuần kinh bổn của các trào lưu
tư tưởng cạnh tranh của स्थविरवाद Theravada cổ điển 上座部
Thượng Tọa bộ, nhưng sự xuất hiện của महायान Mahayana 大乘 Đại thừa
Phật giáo đã khích lệ quá trình ra đời của hệ thống kinh văn Nagarjuna – Long Thọ, và đôi
khi người ta cũng vẫn xếp nhiều tập kinh bổn Phật giáo sớm, do Nagarjuna – Long Thọ kết tập vào các văn bản Đại
thừa tiếng Phạn sau đó. Rất có thể là Nagarjuna
– Long Thọ đã trấn hưng bằng sự kích thích những cuộc luận chiến triết học hàn
lâm mới phát triển khắp miền bắc Ấn Độ
trong số/và giữa các nhà tư tưởng Bà La Môn và Phật giáo. Vào thời gian này
Phật giáo có lẽ có một thế giới quan hệ thống cạnh tranh lâu đời nhất, nhưng
sau đó các trường phái Vedic chẳng hạn như सांख्य Samkhya
(數論 Số luận)
đã phân chia vũ trụ thành các thực thể vật chất và tinh thần, Yoga bộ môn thiền
định và वैशेषिक Vaisesika
勝論宗 Thắng Luận tông,
hoặc nguyên tử luận có lẽ đã đứng vững. Nhưng các vấn đề mới đầy phấn khích
đang diễn ra trong các căn phòng tranh luận. Một trường phái Vedic mới (न्याय Nyaya 正理 Chính lý)
đã làm cho nó xuất hiện trước công chúng dưới dạng văn học bằng cách dựng lên
hiện thực luận phức tạp; nó phân loại các sự vật cơ bản có thể biết trong thế
giới này, thiết định một lý thuyết tri thức được dùng làm cơ sở cho toàn bộ các
xác nhận chân lý và đưa ra một lý thuyết phát triển mạnh mẽ về luận chứng logic
vừa chính xác lại vừa đầy ảo hóa. Cùng với nó, trong Phật giáo các giáo phái của các nhà
siêu hình đã xuất hiện cùng với các học thuyết riêng của họ về nguyên tử luận
và các phạm trù vật chất cơ bản. Nagarjuna – Long Thọ đã phải thực hiện một cam
kết mạnh mẽ của cả hai phong trào Phật giáo và Bà La Môn, một nỗ lực tri thức
cho đến lúc đó là chưa từng có.
Nagarjuna
– Long Thọ nhận ra trong khái niệm शून्यता sunyata 空性 không tính,
một khái niệm trong văn liệu Phật giáo Pali sớm có nghĩa là không có sự tồn tại
cố hữu, vững chắc trong các cá thể, nhưng từ thế kỷ II TCN nó cũng đã biểu thị
khái niệm mới thiết lập là “số không”, chìa khoá lý giải vấn đề trung tâm của
Phật pháp, và việc tháo gỡ mọi bí mật của các trường phái triết học siêu hình
trong thời gian đó đã phát triển sôi nổi xung quanh ông. Thực sự thì triết học
của Nagarjuna – Long Thọ có thể được coi là một cố gắng để tấn công toàn bộ các
hệ thống tư tưởng phân tích thế giới trong khuôn khổ của các chất và bản chất đã
được cố định. Theo Nagarjuna – Long Thọ, các sự vật trong thực tế không có bản
chất ổn định, và thực ra thì đó chỉ là vì tình trạng thiếu vắng sự tồn tại bản
chất, không đổi, mà nó có thể thay đổi, và một sự vật có thể chuyển thành sự vật
khác. Mỗi sự vật chỉ có thể có sự tồn tại của nó thông qua sự thiếu vắng cái
bản chất thường hằng và cố hữu của nó. Với khái niệm mới “không tính”, “trống
không”, “thiếu vắng”, “trống rỗng” này, một cái gì đó không phải một vật bất
bình thường, đó chính là cái giúp tạo nên từ và ngữ vựng của tư tưởng Phật giáo
vĩnh hằng.
Được
trang bị bằng ý niệm “không tính” của vạn hữu, Nagarjuna – Long Thọ đã xây dựng
lên bộ kinh văn Phật giáo độc đáo của mình. Trong khi hệ thống luận lý này vẫn
tồn tại trong các kinh văn mang tên ông, thì mọi người dường như đều cho rằng
điều đó là hiển nhiên. Vì người ta không biết các kinh văn ấy của ông được viết
theo trật tự niên đại như thế nào, nên cách tốt nhất có thể được là sắp xếp
chúng theo chủ đề Phật giáo, chủ đề Bà La Môn giáo và cuối cùng là chủ đề đạo
đức học. Việc xác định các trường phái mà Nagarjuna – Long Thọ coi là kinh văn Phật
giáo kiên định nhất về phương diện siêu hình học trong truyền thống Ấn Độ, đã thực sự thúc đẩy ông viết nên kiệt tác मूलमध्यमककारिका Mulamadhyamakakarika 根本中觀論頌 Căn bản
Trung quán Luận tụng,
và sau đó để tinh lọc thêm khái niệm mang tính cách mạng và mới được đặt ra, Sunyatasaptati
- Thất thập Không tính luận tụng 七十空性論頌, tiếp đó là chuyên luận về phương pháp triết
học Phật giáo, Yuktisastika 六十如理論 Lục thập Như
lý luận. Trong số các công trình được viết cho các Phật tử có thể kể thêm
một chuyên luận về thế giới kinh nghiệm được chia sẻ và sự khẳng định thông qua
thói quen xã hội được gọi là Vyavaharasiddhi 名言成就論 Danh ngôn Thành tựu luận,
mặc dù chỉ còn lại một số bài kệ được các tác gia trích dẫn, nhưng Danh ngôn Thành tựu luận đã thất lạc ấy
cũng giống hệt tình trạng một cuốn kinh điển được một số nhà Phật học Trung
Quốc và Ấn Độ trích dẫn khác, đó là Bodhisambaraka 菩提資糧 Bồ
đề Tư lương. Cuối cùng là kinh văn về nhân quả Phật giáo प्रतीत्यसमुत्पादहृदय Pratityasumutpadahrdaya 緣起心法 Duyên khởi
tâm pháp. Tiếp theo là một loạt công trình về phương pháp triết học, trong
đó phần lớn đều là những phê phán đối với các loại tri thức luận bản chất chủ
nghĩa của giới tăng lữ Bà La Môn, chẳng hạn như Vigrahavyavartani 迴諍論 Hồi
tránh luận và một kinh văn khác với cái đầu đề không mấy tinh tế Vaidalyaprakarana
廣破論 Quảng
Phá luận. Cuối cùng là một cặp đôi luận tụng
về tôn giáo và đạo đức gửi cho đức vua Gautamiputra, có tên là Suhrlekha
- Gửi người bạn thân) và Ratnavali
- Vòng hoa quý. Trên thực tế Nagarjuna – Long Thọ là một tác
giả khá năng động khi viết hầu hết những vấn đề triết học cấp thiết về Phật
giáo và Bà La Môn giáo thuộc thời ông, và hơn thế, đã mang những tư tưởng của
ông đến với các lĩnh vực triết học chính trị, đạo đức và xã hội.
Cho
đến bây giờ chúng ta vẫn không biết chính xác Nagarjuna – Long Thọ sống đến bao
nhiêu tuổi. Nhưng huyền tích về cái chết của ông lại là một tặng vật về thân
thế của ông trong truyền thống Phật giáo. Các tiểu sử Tạng ngữ kể với chúng ta
rằng khi người kế thừa của Gautamiputra chuẩn bị đăng quang, ông đã áy náy muốn
tìm cho ra một người thay thế với tư cách một cố vấn tinh thần để thống nhất các
sở thích Ba La Môn của mình và không biết làm thế nào để tiếp xúc một cách tế
nhị hoặc theo đúng nghi thức với Nagarjuna – Long Thọ, cuối cùng ông đã thẳng
thắn yêu cầu nhà hiền giả xắp xếp thể hiện lòng từ bi của mình về tình trạng
khó xử ấy bằng hành động tự tử. Nagarjuna – Long Thọ đã đồng ý, và ông đã được
cắt đầu bằng một loại lá cỏ thiêng rất sắc cạnh mà thỉnh thoảng ông vẫn tình cờ
nhổ rễ để lấy vật liệu làm toạ cụ thiền. Nhà logic học bất khuất chỉ có thể bị
gục ngã bởi chính ý chí và vũ khí của riêng ông mà thôi. Không biết có đúng hay
không, nếu bậc thầy của phương pháp hoài nghi này được đánh giá là người châm
biếm.
___________________________________
Còn nữa...
Tác giả: PGS.TS. Douglas L. Berger, Tổng biên tập, Dimensions of Asian
Spirituality Book Series, University of Hawaii Press, Phó Chủ tịch kiêm Tổng
thư ký, Hội Triết học So sánh và Triết học Châu Á; Giảng viên Khoa triết,
Southern Illinois University, chuyên về Tư tưởng Triết học Phật giáo Ấn Độ, Ấn
Độ giáo, Phật giáo, Nhân học Châu Á.
Nguồn: Nagarjuna
(c.150-c.250),
In Internet Encyclopedia of Philosophy IEP, A Peer - Reviewed Academic
Resources, Originally published: May 2003.
References
Nagarjuna’s
Works Addressed to Buddhists
Bodhisambharaka,
(Preparation
for Enlightenment) translated by Christian Lindtner, Nagarjuniana:
Studies in the Writings and Philosophy of Nagarjuna, Akademisk
Forlag, Copenhagen, 1987, 228-48.
Mulamadhyamakakarika,
(Fundamental
Verses on the Middle Way) translated as The Philosophy of the Middle Way by
David J. Kalapuhana, SUNY Press, Albany, 1986.
Pratityasamutpadahrdaya,
(The
Constituents of Dependent Arising) translated by L. Jamspal and
Peter Della Santina in Journal of the Department of Buddhist Studies, University
of Delhi, 2:1, 1974, 29-32.
Sunyatasaptati,
(Seventy
Verses on Emptiness) translated by Cristian Lindtner, Nagarjuniana:
Studies in the Writings and Philosophy of Nagarjuna, Akademisk
Forlag, Copenhagen, 1987, 35-69.
Yuktisastika,
(Sixty Verses
on Reasoning) translated by Christian Lindtner, Nagarjuniana:
Studies in
the Writings and Philosophy of Nagarjuna, Akademisk Forlag,
Copenhagen, 1987, 103-19.
Nagarjuna’s
Works Addressed to Brahminical Systems
Vigrahavyavartani,
(The End of
Disputes) translated as The Dialectical Method of Nagarjuna by Kamaleswar
Bhattacharya, Motilal Banarsidass, Delhi, 1978.
Vaidalyaprakarana,
(Pulverizing
the Categories) translated as Madhyamika Dialectics by Ole Holten Pind, Akademisk
Forlag, Copenhagen, 1987.
Nagarjuna’s
Ethical Epistles
Ratnavali,
(Precious
Garland) translated as The Precious Garland and the Song of the Four Mindfulnesses by
Jeffrey Hopkins, Lati Rimpoche and Anne Klein, Vikas Publishing, Delhi, 1975.
Suhrllekha,
(To a Good
Friend) translated as Nagarjuna’s Letter to King Gautamiputra by L. Jamspal,
N.S. Chophel and Peter Della Santina, Motilal Banarsidass, Delhi, 1978.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét