Chính sách đồng hóa bản địa hiện
đại – trường hợp Úc và Canada* (I)
Hà
Hữu Nga
Lịch sử các dân tộc bản địa ở Úc và Canada là những
sự kiện khác biệt nhau. Các sự kiện, các cá tính và khuynh hướng của mỗi quốc gia,
mỗi địa phương trong mỗi quốc gia đó đã tạo hình và thể hiện thực chất kinh
nghiệm bản địa tại các quốc gia này. Tuy nhiên vẫn có nhiều lĩnh vực hoạt động,
kinh nghiệm và hoạt động thực tiễn lại giống nhau một cách lỳ lạ trong hệ thống
lập pháp và hành pháp của hai quốc gia này. Mặc dù có những khác biệt về tác
động và ảnh hưởng địa phương nhưng chủ trương phân biệt chủng tộc, diệt tộc và
đồng hoá trá hình thông qua các hoạt động chia tách con em bản địa khỏi gia
đình chúng lại có một lịch sử giống hệt ở cả hai quốc gia. Các chính sách và
việc thực hiện chính sách đồng hoá ấy đều bắt nguồn từ các niềm tin và các lý
thuyết có nguồn gốc chung ở cả hai quốc gia này.
1. Khái quát về mối
liên hệ giữa châu Âu và các dân tộc bản địa
Có
lẽ đặc trưng chung nổi bật nhất trong các mối quan hệ bản địa giữa hai quốc gia
cũng mang tính phổ quát nhất. Lịch sử quan hệ giữa người da trắng và các dân
tộc bản địa đã được đánh dấu bằng các chính sách và các hoạt động thực tiễn
nhằm củng cố sự kiểm soát của người da trắng đối với người bản địa. Đối với
trường hợp Úc và Canada cung cách kiểm soát ấy vừa có những khác biệt là vừa có
nhiều tương đồng. Ở Canada các dân tộc bản địa có vị thế quyền lực trong giai
đoạn tiếp xúc đầu tiên với người da trắng khi những thương nhân da trắng muốn
tiếp xúc với người bản địa thì phải học ngôn ngữ của họ để hoạt động trao đổi.
Sau đó, vào các thế kỷ 18-19 các dân tộc bản địa bắt đầu thiết lập các liên
minh chính trị và quân sự quan trọng với các cường quốc châu Âu tại Bắc Mỹ. Sau
cuộc chiến tranh năm 1812, các dân tộc bản địa Bắc Mỹ đã mất đi các mối liên hệ
giữa họ với nhau với tư cách là các liên minh quân sự, và trở thành một trở lực
cần phải dọn sạch để mở đường cho các cuộc bành trướng và kiểm soát của người
châu Âu. Những kinh nghiệm thực dân địa đầu tiên tại Úc hoàn toàn khác với
trường hợp Bắc Mỹ. Đối với lục địa này, chính sách được theo đuổi nhất quán là
không có bất cứ một ưu tiên chính sách nào [Armitage, A. 1995; Miller, J.
1994]. Mặc dù có những khác biệt cơ bản về các phương thức cai trị và thực hành
tác động đến cả hai loại hình dân tộc bản địa ở hai quốc gia trên, nhưng vẫn có
rất nhiều điểm tương đồng với nhau. Điểm khác biệt cơ bản nhất phân biệt chính
sách dân tộc bản địa của hai quốc gia là lĩnh vực trách nhiệm của chính phủ đối
với các vấn đề dân tộc bản địa. Ở Canada chính phủ Liên bang chịu trách nhiệm
về các vấn đề dân tộc bản địa và Hiến pháp trao quyền cho chính phủ Liên bang
giải quyết các vấn đề dân tộc bản địa. Điều 91, mục 24, Hiến pháp 1867 của
Canada đặc biệt đòi hỏi chính phủ Liên bang phải kiểm soát đầy đủ đối với toàn
bộ các vấn đề liên quan đến các dân tộc bản địa Canada và tất cả đất đai giành
cho họ. Chương này thủ tiêu mọi quyền được hưởng độc lập và quyền được chính
phủ Liên bang bảo trợ của người bản địa. Hệ thống chính sách của Úc về cơ bản
khác với mô hình Canada. Năm 1901 Liên bang thành lập, theo Hiến pháp Úc, các
Bang phải chịu trách nhiệm về các vấn đề người bản địa, vì người ta coi lĩnh
vực này là thuộc về thẩm quyền bang. Hiến pháp Úc, Điều 51, mục xxvi, không trao quyền cho chính phủ
Liên bang ban hành các đạo luật liên quan đến các dân tộc bản địa. Mãi đến cuộc
trưng cầu dân ý năm 1967 thì chính phủ Liên bang mới có các quyền này [Barman,
J., Herbert, Y., and McCaskill, D. 1986; Chesterman, J., and Galligan, B. 1997;
Lippmann, L. 1992].
Mục
đích của cuộc trưng cầu dân ý năm 1967 là tham khảo ý kiến người dân Úc xem
liệu có nên sửa đổi hai điều khoản của Hiến pháp Úc không. Điều khoản sửa đổi
127 đồng ý đưa các dân tộc bản địa vào các mục thống kê dân số chính thức trong
các cuộc điều tra dân số liên bang, và điều khoản khoản sửa đổi 51 (xxvi) cho
phép chính phủ Liên bang ban hành các bộ luật về các dân tộc bản địa. Cuộc
trưng cầu dân ý đã được thông qua với 90.77% phiếu thuận. Sau đó người ta hy
vọng rằng chính phủ liên bang sẽ tiếp quản các vấn đề dân tộc bản địa và nhanh
chóng cải thiện vị thế của các dân tộc bản địa Úc. Trước cuộc trưng cầu dân ý
năm 1967, các bang và các vùng lãnh thổ xây dựng các hệ thống quản lý dân tộc
bản địa riêng rẽ. Cách tiếp cận đa diện ấy đối với các vấn đề dân tộc bản địa ở
Úc có thể có ý nghĩa là đến năm 1967 người ta vẫn không thể bàn luận được gì
phương diện pháp luật liên quan đến các vấn đề bản địa ở phạm vi quốc gia,
nhưng người ta lại có thể thảo luận một cách rộng rãi về các lĩnh vực chính
sách và các hoạt động thực tiễn liên quan đến các dân tộc bản địa Úc ở phạm vi
các bang và vùng lãnh thổ [Brock, P. 1995; Lippmann, L. 1992].
Quan
niệm về việc kiểm soát của người da trắng đối với các dân tộc bản địa Úc và
Canada là dựa vào các khái niệm và hệ tư tưởng được phổ biến rộng rãi ở hai
quốc gia này. Hầu hết người ta đều mong muốn giải quyết các vấn đề bản địa bằng
các giải pháp của người da trắng. Sau khi người châu Âu đã thiết lập được sự
cai trị trên các vùng đất này, quan điểm được phổ biến thịnh hành trong xã hội
là cần phải buộc các dân tộc bản địa thay đổi theo các khuôn khổ của người da
trắng [Culleen, C., & Libesman, T. 1995]. Lý do để người da trắng khát khao
kiểm soát được các dân tộc bản địa là dựa vào các lý thuyết và các ý thức hệ
chủng tộc rất thịnh hành trong các thế kỷ 18 và 19. Armitage cho rằng toàn bộ
các khái niệm về chủng tộc đều là các khái niệm châu Âu, và có một thực tế
không thể chối cãi là các phương pháp phân loại và xây dựng lý thuyết của châu
Âu đều thống trị lĩnh vực này. Vị thế không mấy quan trọng về chính trị/quân sự
của các dân tộc bản địa đối với các cường quốc châu Âu ở Úc trong các thế kỷ
18-19 được thể hiện rất rõ là rất hiếm thấy có các thoả ước được ký kết giữa
hai bên. Trong lịch sử tiếp xúc giữa người Âu và người bản địa chỉ có một
trường hợp ký kết chính thức, đó là thoả ước Victoria vào năm 1835 [Armitage,
A. 1995; Beresford, Q., & Omaji, P. 1998; McGrath, A. 1995].
Các
hiệp ước làm cơ sở cho mối quan hệ của Canada với các dân tộc bản địa được thực
hiện vào thế kỷ 19. Canada ký hơn 500 hiệp ước trong thời gian từ 1867 đến 1975
[Dickason, O. 1997]. Sau thời gian này thì chính phủ Canada bắt đầu thương
lượng với các dân tộc bản địa về các thoả ước trong đó không hề có hiệp ước nào
đã được ký kết trước đó. Các ví dụ về việc thoả thuận đã được đề cập bao gồm
Thoả ước James Bay và Bắc Quebec (1975), Thoả ước Đông bắc Quebec (1978), Thoả
ước Inuvialuit Cuối cùng (1984), Thoả ước Gwich'in (1992), Thoả ước Yêu sách
Đất đai Nunavut (1993), Thoả ước Sahtu Dene and Metis Agreement (1993), v.v…
Mới đây một số thoả ước mới cũng đã được thương lượng [Asch, M., & Zlotkin,
N. 1997]. Tình trạng không có các thoả ước tương tự tại Úc có thể là do địa vị
thấp của các dân tộc bản địa Úc đối với người châu Âu so với thế lực của người
bản địa Canada đối với người châu Âu tại Canada. Các dẫn chứng trên cho thấy
các nhân tố cụ thể có thể tạo ra mối quan hệ giữa người châu Âu và các dân tộc
bản địa ở Úc và Canada. Các lý thuyết thịnh hành nhất của thời đó và thái độ bề
trên của người châu Âu đã tác động lớn đến cung cách hành xử của họ đối với
chính sách và các hoạt động thực tiễn liên quan đến các vấn đề dân tộc bản địa,
trong đó có chính sách cách ly con cái họ khỏi gia đình của chúng [Buti, T.
2002].
2.
Hoạt động lập pháp
Đạo
luật số 17 về người da đỏ Canada năm 1876 là một ví dụ điển hình về phương diện
lập pháp thủ tiêu bất cứ ý nghĩa nào của khái niệm chính quyền tự trị cho người
Canada bản địa. Dưới cái ô bảo trợ của đạo luật này, tất cả các vấn đề tài
chính, các dịch vụ xã hội kể cả giáo dục đều nằm dưới quyền kiểm soát của chính
phủ liên bang. Đạo luật đã cho thấy rõ một thể chế “toàn trị” khác hẳn với hình thức xây dựng thoả ước đã
động chạm đến mọi khía cạnh đời sống của người bản địa Canada. Một hệ thống cai
trị mới do chính phủ Liên bang áp đặt đã thay thế cho phương thức quản lý cộng
đồng truyền thống và hệ thống các nhóm cai trị mới đã đơn phương áp đặt vào các
xã hội bản địa. Các nhóm này lựa chọn thủ lĩnh do các uỷ viên hội đồng cùng với
các đại diện của ông ta tự ý quyết định [Canadian Federal Government 1876]. Uỷ
ban Hoàng gia Canada về các dân tộc bản địa báo cáo rằng Đạo luật này đã hoàn
thiện nốt giai đoạn chuyển tiếp từ nhà nước bộ lạc thành người dân không còn
thẩm quyền về mặt pháp lý [RCAP 1996]. Đạo luật Liên bang Canada năm 1876 đã
đặt dấu chấm hết cho một lối mòn lập pháp đã thu hẹp quyền tối cao của các dân
tộc bản địa nhằm biến người bản địa thành các “công dân” Canada. Năm 1851, Quốc
hội Canada đã thông qua một đạo luật cải thiện việc bảo tồn đất đai và tài sản
của người da đỏ ở vùng Hạ Canada [Canadian Parliament 1851]. Đạo luật đã đưa ra
một định nghĩa về các dân tộc bản địa và được chính thức hoá trong các tài liệu
luật pháp. Năm 1857, Đạo luật khuyến khích các thành viên bộ lạc da đỏ trở
thành công dân Canada [Canadian Parliament 1857] và đó thực sự là một bước đi
quan trọng trong việc tiếp tục kiểm soát chặt hơn nữa cuộc sống của người bản
địa. Đạo luật này đã đưa ra khái niệm “quyền bàu cử” nhờ đó mà những người bản
địa Canada, trong những hoàn cảnh đặc biệt, có thể trở thành công dân Canada.
Muốn thế, những người bản địa phải từ bỏ vị thế chính thức với tư cách là
“người da đỏ” của họ và tất cả những gì có liên quan đến vị thế đó [Dickason,
O. 1997].
Kinh
nghiệm Úc cũng rất gần với kinh nghiệm Canada, nếu không nói là hệt như vậy. Hệ
thống thuật ngữ được sử dụng trong mỗi quốc gia có thể chỉ là một khác biệt nhỏ
có thể thấy rất rõ. Hoạt động lập pháp của Úc thể hiện là “hoạt động lập pháp
bảo hộ”. Khái niệm ‘bảo hộ’ xuất hiện trong báo cáo về người bản địa của Uỷ ban
Bầu cử Hạ viện năm 1837. Mối quan tâm đến việc ký kết thoả ước với người bản
địa cũng nổi lên trên toàn bộ Liên bang [HREOC 1997]. Báo cáo đã kêu gọi củng
cố hệ thống quản lý các thoả ước với người bản địa [Chesterman, J., and
Galligan, B. 1997] và cố gắng theo kịp với các bộ luật về người nghèo ở Anh,
tìm cách sáng tạo ra những “người bảo hộ” bản địa giống như những ‘di dân’ mà
các bộ luật về người nghèo đã được soạn cho những người cùng khổ. Hệ thống này
lẽ ra đã thống trị cách thức hoạch định chính sách đến giữa thế kỷ 20. Vì vậy
báo cáo đã xác lập các chính sách cho việc xử lý những người bản địa trên toàn
bộ khối Liên hiệp Anh, nhưng không có bất cứ khuyến cáo nào liên quan đến
Canada [Chesterman, J., and Galligan, B. 1997]. Hoạt động lập pháp Canada trong
thế kỷ đó cũng đặt ra yêu cầu về các quyền lực bảo hộ, và sau này đã thể hiện
các khuynh hướng đồng hoá trước khi các điều khoản kiểu này được sử dụng tại
Úc.
Hoạt
động lập pháp bảo hộ thực sự đầu tiên tại Úc đã được thông qua tại Victoria năm
1869. Đạo luật bảo hộ bản địa [Australia 1969] đã tạo ra những người giám hộ và
trao cho Thống đốc quyền ban hành các quy định những người bản địa Úc có thể
hoặc không thể cư trú ở những địa điểm nào đó. Đạo luật cũng kiểm soát việc làm
của người bản địa và cho phép Thống đốc đưa bất cứ đứa trẻ nào ông ta cho là bị
bỏ rơi hoặc không người bảo hộ vào các cơ sở đặc biệt hoặc vào các trại cải tạo
hoặc các trường dạy nghề được gọi là trường công nghiệp. Năm 1886 Đạo luật này
đã được sửa đổi và mở rộng thêm quyền lực. Trẻ em bản địa và trẻ lai được đối
xử bằng các phương thức khác nhau [Australia 1969]. Các quy định năm 1880 tại
bang Victoria đòi hỏi tất cả trẻ em trai bản địa dưới 14 tuổi và trẻ em gái
dưới 18 tuổi phải đến sống trong các khu giành riêng cho chúng [HREOC 1997].
Quy định pháp luật bảo hộ này nhằm mục đích kiểm soát người bản địa chặt chẽ
hơn theo các mô thức kiểm soát ở Canada. Đạo luật bảo hộ này một mặt nhằm ngăn
chặn sự huỷ hoại xã hội bản địa, mặt khác nó có tác dụng bảo vệ người da trắng
khỏi phải đụng chạm với người bản địa bị coi là dơ bẩn [Broome, R. 1994].
Tại
Úc, vào năm 1911 tất cả các bang và các lãnh thổ ngoại trừ Tasmania đã thông
qua đạo luật ‘bảo hộ’ [Culleen, C., & Libesman, T. 1995]. Tasmania không
thông qua bất cứ một đạo luật nào như vậy dựa trên cơ sở không thừa nhận có sự
tồn tại của người bản địa [Brock, P. 1995]. Đạo luật bảo hộ này nói chung nhắm
vào phân biệt chủng tộc và kiểm soát người bản địa Úc và còn hiệu lực mãi cho
đến những năm 1950 [Brock, P. 1993]. Trong thực tế chính sách bảo hộ pháp luật
có nghĩa là gần như toàn bộ đời sống với tất cả các quyền ra vào nơi cư trú,
quyền hôn nhân, quyền có việc làm của người bản địa đều bị kiểm soát [HREOC
1997]. Bình luận về cơ sở đạo luật này của Úc, Evans cho rằng động lực phân
biệt chủng tộc có thể được coi là tối hậu trong việc bảo hộ hoặc ngược lại, là
tối hậu trong kiểm soát và thanh lọc xã hội [Evans, R. 1991]. Sau trường hợp
Victoria, đạo luật bảo hộ quan trọng nhất của Úc được thông qua ở Queensland.
Đạo luật bảo hộ bản địa và hạn chế bán thuốc phiện [Queensland 1897] đã thiết
lập một hệ thống cai trị người Úc bản địa đã trở nên có hiệu quả trên toàn đất
Úc. Đạo luật này đã xác lập vai trò của “kẻ bảo hộ”, xác định “người bản địa”
và trao quyền cho Thủ hiến bang có thể di dời, cầm tù hoặc tái định cư những
người bản địa một cách tuỳ thích [HREOC 1997]. Broome cho rằng đạo luật này vừa
mang tính nhân văn, vừa mang tính phân biệt chủng tộc, trong đó nó tìm cách bảo
vệ cho người bản địa khỏi bị bóc lột, nhưng lại đặt họ vào vị thế bị bảo hộ
chính thức dù cho họ có muốn hay không [Broome, R. 1994].
Tầm
quan trọng của đạo luật Queensland là ở chỗ nó đem đến một hình mẫu cho việc ban
hành các đạo luật tương tự trong các bang khác. Chesterman và Galligan đã lưu ý
rằng Đạo luật Tây Úc năm 1905 đã tham khảo rất sát đạo luật Queensland và đạo
luật Nam Úc, còn đạo luật của Lãnh thổ Bắc thì gần với đạo luật Queensland và
Tây Úc. Vì vậy vào năm 1911, tất cả các bang và vùng lãnh thổ Úc, trừ Tasmania
đều có các đạo luật riêng về người bản địa trao quyền cho các chính quyền bang
cách ly và di chuyển những người bản địa ra khỏi cộng đồng mình. Cũng vì vậy mà
về phương diện lịch sử các công cụ lập pháp tại Úc và Canada đều thể hiện một ý
định khởi đầu nhằm kiểm soát mọi sinh mạng
bản địa. Khát vọng này đã phát triển thành đạo luật di dời người bản địa
có thể coi là loại kiểm soát và cách ly tuyệt đối người bản địa Úc [Chesterman,
J., and Galligan, B. 1997; Culleen, C., & Libesman, T. 1995; Southern
Australia 1910, 1911; Western Australia 1905].
3.
Hoạch định chính sách
Giai đoạn trước
Thế chiến II: Bản
điều trần quốc gia Úc về chính sách cách ly trẻ em bản địa khỏi gia đình chúng
cho thấy vì cơ sở của các chính sách đối với người bản địa trên toàn đất Úc là
nhằm “đồng hoá trẻ em bản địa vào xã hội da trắng, hòng làm triệt tiêu tính
năng động bản địa” [HREOC 1997]. “Tại Canada và Úc ngay cho đến gần đây văn hoá
bản địa vẫn bị các chính sách và thực tiễn của nhà nước phân biệt đối xử. Khái
niệm “đồng hoá” là mục tiêu thường hằng của các chính phủ thuộc hai quốc gia
này. Khái niệm “đồng hoá” có thể có vấn đề và nó thường bị các cơ quan công
quyền lẩn tránh, nhưng thực tiễn lịch sử của cả Anh, Canada và Úc cho thấy
chính phủ của các quốc gia này có thể được gọi bằng một cái tên chính xác nhất
là “kẻ đồng hoá”. Trong khuôn khổ đó, chính sách và thực tiễn giáo dục đã trở
thành công cụ để thực hiện mục đích này. Hệ thống thuật ngữ được sử dụng để mô
tả chính sách của các chính phủ có thể thay đổi theo thời gian và mặc dù các
thuật ngữ này thường không trùng lặp ý nghĩa, nhưng các thực tiễn được sử dụng
để hỗ trợ cho các mục đích cơ bản của các xã hội da trắng lại giống hệt như
nhau. Brock đã tuyên bố rằng trong khi các chính sách lập pháp và hành pháp ở
một vài bang và vùng lãnh thổ tại Úc có khác nhau, nhưng tác động của chúng đối
với các dân tộc bản địa thì lại giống hệt như nhau. Có thể sử dụng khẳng định
đó cho không chỉ cho Úc, mà còn cho cả Canada nữa, nhất là các chính sách và
việc thực hiện chính sách trong thế kỷ 20 [Bock, P. 1995].
Trong
khoảng thời gian từ 1920 đến 1940, các chính sách và thực tiễn tại Úc và Canada
đều được xây dựng dựa trên quan niệm cho rằng các dân tộc bản địa của các quốc
gia này đang bị “tuyệt chủng”. Miller tuyên bố rằng ở Canada khuynh hướng suy
kiệt về dân số bản địa trong thời gian dài là “một nhân tố không được đánh giá
đúng mức” trong chính sách của chính phủ. Năm 1920, Phó tổng thanh tra các vấn
đề người da đỏ Canada tuyên bố trước một Uỷ ban đặc biệt của chính phủ rằng mục
tiêu của Bộ các vấn đề da đỏ là tiếp tục cho đến khi không còn một người da đỏ
nào ở Canada không được cuốn hút vào thể chế và cho đến khi không còn có vấn đề
về người da đỏ nữa, cho đến khi không còn Bộ về các vấn đề da đỏ nữa. Còn Austin thì cho rằng ở Úc vào
những năm 1930 người ta vẫn nói về sự tuyệt chủng của các dân tộc bản địa tại
đây [Austin,
D. 1993; Miller, J. 1994; Reaume, D., and
Mackem, P. 1994].
Các chính
sách của các nhiệm kỳ chính phủ khác nhau tại Úc nói chung đều phản ánh một
mong muốn các dân tộc bản địa “chết dần chết mòn”. Năm 1921 Báo cáo thường niên của Sở Bảo hộ bản địa New South Wales đã khẳng định rằng “việc tiếp tục chính
sách cách ly trẻ em bản địa khỏi đời sống bộ lạc thực sự cần thiết để giải
quyết vấn đề người bản địa” [Kendall, C. 1993]. Mong muốn này có lẽ đã phản ánh
một thực tế là vào cuối những năm 1920, dân số người bản địa đã rơi xuống mức
thấp nhất kể từ khi người châu Âu đặt chân đến lục địa này. Năm 1933, “Nhà của Sơ Kates” giành cho trẻ em
bản địa Úc đã được mở ra tại Perth, Tây Úc và được một bà sơ thuộc giáo phải
Anh là Kate Clutterbuck quản lý mãi cho đến năm 1974 mới đóng cửa. Cơ sở của Sơ
Ketes thực chất là do chính phủ thành lập nhằm giải quyết duy nhất một vấn đề
con lai có ¼ dòng máu bản địa và Kates hy vọng là để “nhân giống da màu” từ
nhóm trẻ này. Ý tưởng ấy ngay lập tức đã diễn ra rộng khắp. Năm 1937, Liên bang
và Đại hội Phúc lợi Bản địa quốc gia tại Canberra lần thứ nhất đã đưa vấn đề
này ra thảo luận trên phạm vi toàn quốc. Đại hội được chủ trương bởi các bang
và các vùng lãnh thổ có dân số bản địa thuộc vào hàng đông nhất: Tây Úc,
Queensland, và Lãnh thổ Bắc. Đại hội đã thông qua một giải pháp ủng hộ chính
sách thu hút toàn bộ các dân tộc bản địa Úc vào cộng đồng da trắng. Chính sách
này được một đại biểu mô tả là “giải pháp duy nhất để giải quyết vấn đề người
bản địa” [Broome, R. 1994].
Với
đại chính sách này, cư dân bản địa đã bị đập vỡ thành hai bộ phận phải chịu
những cung cách đối xử khác biệt nhau. Bộ phận thứ nhất gồm những con lai “bất
kể nguyện vọng thế nào” và bộ phận thứ hai là người “bản địa thuần huyết”. Như
vậy có nghĩa là đại hội này đã chính thức tuyên đọc bản án “chết dần chết mòn”
cho bộ phận “bản địa thuần huyết”. Nghiêm trọng hơn nữa, tại đại hội, hầu hết
đều thừa nhận rằng các nhiệm kỳ chính phủ có quyền đồng hoá sinh học cũng như
kinh tế đối với người bản địa [Broome, R. 1994]. Bản điều trần quốc gia Úc ghi
nhận rằng mô hình thu hút đó do Chánh thanh tra các vấn đề bản địa Tây Úc A.O.
Neville khởi xướng, ban đầu là một mô hình sinh học, sau đó đã trở thành hiện
thân của sự đồng hoá, là một mô hình sinh học-xã hội, và cả hai loại hình đó
đều mang mầm mống của quá trình thủ tiêu các dân tộc bản địa Úc.
Giai đoạn sau Thế
chiến II: Sau
Thế chiến II, tại Canada và Úc đã có những thay đổi cơ bản diễn ra trong chính
sách đối với người bản địa. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những thay đổi này,
nhưng những hiểu biết về các chính sách chủng tộc của chủ nghĩa Quốc xã Đức và
hậu quả của nó có tác động lớn nhất. Thêm vào đó là sự phát triển như vũ bão
của các tư tưởng Freud đã đẩy nhanh kết cục của các hệ ý thức ưu sinh. Theo
Miller, sự thay đổi chính sách của Canada sau Thế chiến II là kết quả của cuộc
chiến đấu chống lại chủ nghĩa phân biệt chủng tộc đã được thể chế hoá tại quốc
gia này. Và lý do lớn nhất cho các thay đổi đó là ở chỗ sau Thế chiến II, các
cơ sở phân biệt chủng tộc cho việc xây dựng chính sách đối với người bản địa đã
thực sự bị đổ vỡ [Armitage, A. 1995; Broome, R. 1994].
Những
lý do đó đã khiến cho chính phủ Úc phải huỷ bỏ các đạo luật phân biệt đối xử,
đặc biệt là khi Úc đã có được vai trò nổi bật trong tổ chức Liên hợp quốc vừa
mới được thành lập. Tuy nhiên các chính sách đang thay đổi không thể thay thế
được cho hiện trạng của các dân tộc bản địa. Năm 1948, một báo cáo của Uỷ ban
Hợp tác Canada đã kêu gọi chấm dứt tình trạng đồng hoá cưỡng bức, nhưng lại
không kêu gọi chấm dứt tình trạng đồng hoá. Tuy nhiên chính sách giáo dục hội
nhập mới do bản báo cáo đề xuất vẫn được đánh giá là còn nặng mùi đồng hoá
[Armitage, A. 1995; Markus, A. 1995; Milloy 1996]. Áp lực đẩy tới hội nhập
chủng tộc ở Canada là rất mạnh, vì trong suốt lịch sử của mình, Canada luôn cố
gắng trao quyền công dân cho người bản địa nhằm gạt người bản địa ra khỏi trách
nhiệm của chính phủ. Trong Thế chiến I, nhiều người bản địa Canada đã có quyền
bàu cử, và năm 1920 những người bản địa sống ngoài khu cư trú giành riêng cho
họ và các cựu chiến binh người bản địa cũng có được quyền đó. Năm 1944, tất cả
những người bản địa Canada đã phục vụ trong quân đội và vợ của họ đều được trao
quyền bầu cử liên bang. Sáu năm sau các quyền này được trao cho tất cả những
người bản địa sống trong các vùng đất giành riêng cho người bản địa nhưng với
điều kiện là họ đã từ bỏ vị thế được miễn thuế [RCAP 1996]. Không phải đến tận
năm 1967 khi tất cả mọi người dân bản địa Canada được trao quyền bàu cử mà
không cần phải từ bỏ bất cứ vị thế hoặc quyền nào của mình. Điều quan trọng là
ở chỗ chính là cái “vị thế” là một người bản địa mà cái quyền được bỏ phiếu và
quyền công dân của họ luôn luôn có nguy cơ bị đe doạ [Chesterman, J., and
Galligan, B. 1997]. Những thực tiễn như vậy đáng tiếc là vẫn còn được duy trì
tại nhiều bang và vùng lãnh thổ Úc. Năm 1902, Đạo luật về quyền bầu cử của Liên
bang đã cấm chỉ người bản địa Úc quyền bàu cử Liên bang. Quốc hội bang New
South Wales đã thông qua một sửa đổi Đạo luật Bảo hộ người bản địa năm 1943, đã
có thể được ban hành và cắt bỏ các chứng chỉ miễn trừ thuế. Các chứng chỉ này
nghiễm nhiên cho rằng người sở hữu nó không phải là một người bản địa nữa [Aborigines
Protection Act 1943 (NSW); Chesterman, J., and Galligan, B. 1997; Commonwealth 1902; HREOC 1997].
Tại
Tây Úc, Đạo luật Bản địa về các quyền công dân năm 1944, buộc người bản địa Úc
phải lựa chọn giữa vị thế bản địa hay trở thành công dân của bang, mà không có
cơ hội cho cả hai [Native (Citizenship Rights) Act 1944 (WA)]. Để có
được cái nhãn vinh quang là công dân, một người bản địa phải chứng tỏ mình
trước quan toà hành chính địa phương rằng mình đã cắt đứt toàn bộ các ràng buộc
với gia đình, cộng đồng và bạn bè, bản thân không có bệnh tật thì mới được trao
quyền công dân có “các thói quen công nghiệp” [HREOC 1997]. Tuy nhiên quốc hội
liên bang đã thông qua Đạo luật quyền công dân và quốc tịch Liên bang năm 1948
trao quyền công dân cho tất cả mọi người sinh ra là người Úc [Commonwealth
1948]. Điều đó có nghĩa là giờ đây tất cả những người dân bản địa cũng đều là
công dân của Liên bang, nhưng nó lại không đảm bảo rằng họ là công dân của các
bang và các vùng lãnh thổ trên đất Úc. Chẳng hạn Tây Úc đã thi hành luật tước
quyền bỏ phiếu cấp bang và liên bang của người dân bản địa Úc [Beresford, Q.,
& Omaji, P. 1998]. Theo phong cách thực hành hành chính và pháp luật kiểu
này, người dân bản địa Úc có quyền công dân Úc, nhưng họ lại không có được các
quyền công dân cơ bản [Chesterman, J., and Galligan, B. 1997]. Việc cấp hoặc từ
chối cấp các chứng chỉ miễn thuế vẫn tiếp tục được duy trì tại Úc cho đến tận
những năm 1960. Các định nghĩa chính thức về văn hoá kiểu này có nghĩa là người
dân bản địa Úc phải có hộ chiếu để sống và đi lại trên một nước Úc của người
châu Âu, giống như cái chứng chỉ lần đầu được thống đốc Macquarie cấp cho họ
vào năm 1816 [McGrath, A. 1995]. Năm 1962, trước khi chính phủ Liên bang trao
cho mọi người dân bản địa Úc quyền bàu cử Liên bang cho dù họ có hay không có
quyền bàu cử tại chính bang mình. Thậm chí sau đó cách hành pháp phân biệt vẫn
tiếp diễn trong một số bang, với sự thông qua đạo luật hành pháp đặc biệt của
liên bang vào năm 1975 nhằm gạt bỏ các bộ luật phân biệt của bang Queensland
[Markus, A. 1995]. Thực tế cho thấy rằng mãi cho đến tận nửa sau của thế kỷ 20
tại Úc và Canada, các hoạt động pháp luật và hành chính của chính phủ luôn cố cách
ly người bản địa ra khỏi các nền văn hoá và xã hội của họ bằng nhiều cách.
Giai đoạn 1960 - 1980: Từ
những năm 1960 tại Canada và Úc đã diễn ra nhiều đổi thay, và điều đó đã đem
lại cho người bản địa một mức độ tự trị hạn chế. Tại Canada năm 1965 Đại hội
Tỉnh –Liên bang về các vấn đề người bản địa đã tiến tới một thoả thuận mang
tính nguyên tắc về chính sách hội nhập, theo đó dịch vụ giáo dục người da đỏ và
các dịch vụ khác sẽ được tích hợp với các dịch vụ của người Canada gốc Âu
[Milloy, J. 1996]. Năm 1969 chính phủ liên bang đã công bố sách trắng kêu gọi
hợp nhất toàn bộ các dịch vụ bản địa Canada vào cách dịch vụ chung của toàn bộ
cộng đồng. Theo Miller, khi ban hành lời kêu gọi này, Chính phủ Canada đã thấy
rõ rằng tất cả các vấn đề bản địa Canada chẳng hạn như tình trạng đại diện quá
mức trong việc bỏ tù, sự bất lực về chính trị, tình trạng bị gạt ra ngoài lề về
kinh tế đều không phải là do các thế hệ chính sách, các hoạt động thực tiễn và
định kiến phân biệt chủng tộc của chính phủ hoạt động trong các xã hội theo lề
thói châu Âu, mà tuỳ thuộc vào tình trạng thiếu hội nhập vào toàn bộ xã hội
Canada nói chung [Miller, J. 1994]. Theo các đề xuất được đưa ra trong sách
trắng, tất cả các dịch vụ cho người bản địa Canada cần phải được chuyển giao
cho các tỉnh, các khu vực giành riêng cho người bản địa sẽ trở thành tài sản tự
do duy nhất của các nhóm dân bản địa, và cư dân bản địa Canada sẽ không khác
biệt gì với các nhóm thiểu số khác mà không có phân biệt đối xử hoặc ưu tiên
pháp luật nào khác [Milloy, J. 1996].
Các
đề xuất nêu ra trong sách trắng là dựa trên quan niệm về bình đẳng cá nhân
người bản địa Canada, được trả giá bằng sự sống còn về phương diện văn hoá của
họ [Barman, J., Herbert, Y., and McCaskill, D. 1986]. Có lẽ kết quả quan trọng
nhất của sách trắng tối thiểu liên quan đến giáo dục là sự phát triển của các
trường học có kiểm soát của người bản địa. Ngay sau khi phát hành sách trắng,
Bộ bản địa đã quyết định đóng cửa trường Blue Quills ở Alberta thay bằng một
trường trung học mới. Bất mãn với quyết định này, những người dân bản địa
Canada đã yêu sách đòi được quản lý trường học của mình. Bộ đã im lặng về vấn
đề này, để rồi dẫn đến việc người bản địa chiếm giữ trường vào tháng 7 năm
1970. Ngày 1/9/1970, trường Blue Quills đã bắt đầu trở thành trường học đầu
tiên do người bản địa Canada chính thức điều hành [Persson, D. 1986]. Đến năm
1986, hầu hết trong số 577 nhóm bản địa Canada đã điều hành một phần hoặc toàn
bộ các hoạt động giáo dục của Bộ các vấn đề bản địa. Giống hệt như Szasz đã mô
tả mối liên hệ kết cục/đồng hoá chính là cái tên duy nhất thích hợp cho mục
đích của chính phủ da trắng, Armitage cho rằng hội nhập có thể đã là một từ
thông dụng trong giai đoạn này tại Canada, nhưng đồng hoá mới chính là mục tiêu
của chính sách hội nhập ấy [Armitage, A. 1995].
Tại
Úc, các định hướng chính sách của chính phủ cũng phải thay đổi bằng nhiều cách
theo kinh nghiệm của Canada. Năm 1951, Đại hội Liên bang và các bang/các lãnh
thổ đã thoả thuận về một chính sách đồng hoá thay cho chính sách hấp thụ trước
đây. Chính sách này đòi hỏi “một hư tưởng dân tộc chủ nghĩa…ngụ ý về sự tồn tại
của một nước Úc thống nhất và đồng nhất với các lợi ích và các niềm tin chung”
[Aboriginal Legal Service of Western Australia [ALS] 1995]. Đại hội 1965 đã lặp
lại định nghĩa đồng hoá sao cho mục đích hướng đến là “tất cả mọi người có dòng
dõi bản địa sẽ đều lựa chọn một thái độ sống giống nhau, như tất cả những người
Úc khác với tư cách là thành viên của một cộng đồng duy nhất” [HREOC 1997].
Khái niệm đồng nhất của Úc có vẻ rất gần gũi với phiên bản hội nhập của Canada,
vì đều có chung một mục đích. Trong khi các cơ sở ý thức hệ của việc hoạch định
chính sách Úc có thể giống hệt với các cơ sở hoạch định chính sách của Canada
thì vào những năm 1970, các quá trình điều hành thực thi lại rất khác biệt
nhau. Trong thời gian học theo Canada nhằm nỗ lực giải tập trung hoá các vấn đề
bản địa và chuyển trọng tâm ra khỏi chương trình nghị sự của chính phủ liên
bang thì Úc lại mở rộng tầm quan trọng của vấn đề ra phạm vi toàn liên bang.
Cuộc trưng cầu dân ý năm 1967 đã trao cho chính phủ liên bang một loạt quyền
hành liên quan đến các vấn đề người bản địa và lần đầu tiên trao cho các bang
và các vùng lãnh thổ các chương trình phúc lợi bản địa cùng với việc thành lập
Văn phòng các vấn đề bản địa. Đó chính là lúc chính sách của Úc chuyển từ đồng
hoá sang hội nhập. Tuy nhiên như bản điều trần quốc gia đã nhận xét, khó mà
đánh giá được một cách chính xác có gì khác nhau giữa đồng hoá và hội nhập, và
hội nhập có nghĩa là gì [HREOC 1997].
Cho
đến cuộc tuyển chọn người cho văn phòng vào năm 1972, chính phủ của thủ tướng
Whitlam đã lần đầu tiên lập ra Bộ các vấn đề người bản địa Liên bang. Trong
giai đoạn này chính phủ thiên về thay đổi chính sách hướng đến quyền tự quyết
cho người bản địa Úc. Gordon Bryant, Bộ trưởng đầu tiên được bổ nhiệm như một
ngoại lệ đã mô tả quyền tự quyết là ‘các cộng đồng bản địa quyết định bước đi
và thực chất quá trình phát triển tương lai của họ trong giới hạn kinh tế xã
hội và luật pháp của xã hội Úc’. Sau năm 1975, chính phủ của thủ tướng Fraser
đã thay thế chính sách này bằng quyền tự quản và tự lực. Năm 1976, cuộc tổng
điều tra dân số đã thay thế đòi hỏi của người bản địa về nguồn gốc chủng tộc
bằng quyền tự xác định. Ở Úc, mặc dù phạm vi ảnh hưởng của việc kiểm soát các
trường bản địa không rộng lớn như ở Canada nhưng vẫn có những tương đồng giữa
hai quốc gia trên [HREOC 1997; Stanton, J. 1988].
3.4.
Các chính sách hiện thời
Có thể thấy rõ những thay đổi về các mô hình hoạch
định chính sách trong nhiều vùng, thuộc nhiều lĩnh vực bản địa tại Úc và Canada
trong một quá khứ còn rất gần kề. Kèm theo quá trình thay đổi này là một sự
chấp nhận hàng loạt khó khăn và bất lợi ngày càng tăng đối với một số cấp độ
trách nhiệm mà người bản địa phải gánh chịu. Những thay đổi chính sách tiếp tục
được coi là sự tái hiện các loại chính sách đã được phác thảo. Có lẽ Canada là
nước phát động các đổi thay đầy kịch tính về phương diện chính sách liên quan
đến các dân tộc bản địa tại quốc gia này. Armitage cho rằng thay đổi chủ yếu
trong chính sách của Canada chính là quá trình tăng cường sự tham gia của người
bản địa vào các quá trình sáng tạo và thương lượng chính sách. Năm 1982, Canada
đã đưa thêm chương về các quyền và sự tự do vào hiến pháp. Chương này đã đem
lại sự thừa nhận hạn chế đối với sự tồn tại của các quyền bản địa và các thoả
ước với người bản địa là thuộc về người bản địa Canada. Liên quan đến công việc
giáo dục, đặc biệt là hệ thống các trường phổ thông bản địa, đã có những lời
kêu gọi chính thức điều trần về sự lạm dụng trẻ em trong hệ thống này ít nhất
là từ tháng 11 năm 1990. Lời kêu gọi này vẫn được Bộ các vấn đề bản địa đáp ứng
một cách tích cực [Armitage,
A. 1995].
Tại Úc cũng đã bắt đầu có những thay đổi cơ bản đối
với chính sách bản địa. Uỷ ban Bản địa và dân đảo eo Torres (Aboriginal and Torres
Strait Islander Commission (ATSIC) đã
được thành lập năm 1990 khi Bộ các vấn đề bản địa Liên bang (Commonwealth
Department of Aboriginal Affairs) hợp
nhất với Uỷ ban Phát triển Bản địa (Aboriginal Development Commission). ATSIC là sáng kiến của Bộ trưởng
các vấn đề bản địa Gerry Hand. Ngày 10/12/1989 ông đã trình bày một báo cáo tại
Quốc hội với tiêu đề “Các cơ sở cho tương lai”. Mục đích của báo cáo là thành
lập một tổ chức giúp người bản địa tham dự nhiều hơn nữa vào các công việc liên
quan đến bản thân họ. Báo cáo cho biết về một giai đoạn tham vấn bao gồm 6000
đại diện của cộng đồng bản địa. Các cuộc thương thảo nảy sinh ra các khuyến cáo
cho việc thông qua Đạo luật của Uỷ ban Bản
địa và dân đảo Torres (ATSIC). ATSIC
được thành lập bởi các thành viên được lựa chọn theo vùng. Họ là các đại diện
chính thức của những người dân bản địa Úc là những người đã bầu ra họ [Chesterman,
J., and Galligan, B. 1997]. Một sự thay
đổi ý thức hệ quan trọng liên quan đến việc cách ly trẻ em bản địa đã thúc đẩy
Đại hội Bộ trưởng Phúc lợi Xã hội vào năm 1986. Trong đại hội này, các Bộ
trưởng đã nhất trí thừa nhận Nguyên tắc Sắp xếp Trẻ em Bản địa - Aboriginal
Child Placement Principle (ACCP). Nguyên tắc này khẳng định rằng bất cứ trẻ em
bản địa nào bị cách ly khỏi cha mẹ chúng cũng đều phải được sắp xếp bố trí cuộc
sống cho chúng, mà không có bất cứ lý do nào trái với ý kiến của: i) một thành
viên trong gia đình lớn của đứa trẻ; ii) những thành viên khác trong cộng đồng
bản địa của đứa trẻ là những người có mối quan hệ hợp với đứa trẻ hoà hợp với
Tục lệ Bản địa; hoặc iii) các gia đình bản địa khác là hàng xóm của gia đình
đứa trẻ.
Hầu
hết các chính phủ bang và vùng lãnh thổ đều đã thực hiện nguyên tắc ACCP dưới
dạng hành pháp, hoặc đã giới thiệu nguyên tắc này như là một hướng dẫn chính
thức [Commonwealth 1989]. Việc xem xét lịch sử chính trị Úc và Canada đã thể
hiện sự phát triển của các niềm tin đã tác động đến các vấn đề bản địa. Quan
điểm cho rằng người bản địa đang chết dần chết mòn đã phát triển thành cơ sở
cho quá trình hoạch định chính sách từ hấp thu - đồng hoá - đến hội nhập và sau
đó đến nhiều hình thức chính sách khác nhau như quyền tự quyết, hoặc quyền tự
quản. Tuy nhiên vấn đề người bản địa vẫn còn đó với các câu hỏi chẳng hạn như
liệu các thay đổi chính sách có phải chỉ phản ánh một thay đổi duy nhất trong
hệ thống thuật ngữ dành cho các hoạt động thực tiễn hay không.
_________________________________
Còn nữa...
* Ghi chú: Bài viết năm 2008, tham gia Đề án: Luận cứ và giải pháp phát triển
nguồn nhân lực dân tộc thiểu số nước ta đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, do PGS. Nguyễn Đăng Thành, PGĐ Học viện Chính trị Hành
chính Quốc gia Hồ Chí Minh làm Chủ nhiệm, Hà Nội 2008 – 2010.
Tài liệu tham khảo
Aboriginal
Legal Service of Western Australia, 1995. Telling Our Story: A Report by the
Aboriginal Legal Service of Western Australia (Inc) on the removal of Aboriginal
children from their families in Western Australia, ALS, Perth, pp. 17-8.
Armitage,
A. 1995. Comparing the Policy of
Aboriginal Assimilation: Australia, Canada, and New Zealand. UBC Press,
Vancouver, p.14.
Asch,
M., & Zlotkin, N. 1997. Affirming
Aboriginal title: A new basis for comprehensive claims negotiation. In
Michael Asch, ed., Aboriginal and Treaty Rights in Canada: Essays on Law,
Equality, and Respect for Difference, UBC, Vancouver, pp.208, 270.
Australia
1969. Aborigines Protection Act 1969 (Vic)
Barman,
J., Herbert, Y., and McCaskill, D. 1986. The
Legacy of the Past: An Overview. In Jean Barman, Y. Herbert, and D.
McCaskill, eds, Indian Education in Canada: Volume 1: The Legacy,
University of British Columbia Press, Vancouver, p.4.
Beresford,
Q., & Omaji, P. 1998. Our State of Mind: Racial Planing and the Stolen
Generations, Fremantle Arts Centre Press, Fremantle, p.32; Harris, J. 1994.
One Blood. 200 Years of Aboriginal Encounter with Christianity: A Story of
Hope, 2nd Ed., Albatross, Sydney, p. 25.
Brock,
P. 1993. Outback Ghettoes: Aborigines, Institutionalisation and Survival,
Cambridge University Press, Cambridge, p.12.
Brock,
P. 1995. Aboriginal families and the law
in the era of segregation and assimilation, 1890s-1950s. In Diane Kirkby,
ed., Sex, Power and Justice: historical perspectives of law in Australia,
Oxford University Press, Melbourne, p.136.
Broome,
R. 1994. Aboriginal Australians: Black Responses to White Dominance
1788-1994, 2nd Ed., Allen & Unwin, Sydney, p. 161.
Buti, Tony 2002. The Systematic Removal of Indigenous Children from their Families in
Australia and Canada: the History – Similarities and Differences. Lecture in Law, Law
School, Murdoch University; JLV/ Louis St. John Johnson Memorial Trust
Fellowship in Aboriginal Legal Issues and Public Policy.
Canada
1876; 1925. Indian Act 1876; and Indian Act 1925 (Canada).
Canadian
Parliament 1851; 1857. An Act for the Better Protection of Lands and
Property of Indians in Lower Canada 1851 (Canada); and Act to Encourage
the Gradual Civilization of the Indian Tribes of the Canadas 1857 (Canada).
Chesterman,
J., and Galligan, B. 1997. Citizens Without Rights: Aborigines and
Australian Citizenship, Cambridge University Press, p. 60.
Commonwealth
1902; 1948; 1989. Commonwealth Franchise Act 1902; Commonwealth Nationality and Citizenship
Act 1948; and Aboriginal and Torres Strait Island Commission Act 1989.
Culleen,
C., & Libesman, T. 1995. Indigenous People and the Law in Australia,
Butterworths, Sydney, p. 36.
Dickason,
O. 1997. Canada’s First Nations: A History of Founding Peoples from Earliest
Times, 2nd Ed., Oxford University Press, p. 248.
Evans,
R. 1991. '"A Permanent
Precedent": Dispossession, Social Control and the Fraser Island Reserve and
Mission, 1897-1904', Ngulaig,
5, p. 7.
HREOC
(Human Rights and Equal Opportunity Commission) 1997. Bringing them home:
Report of the National Inquiry into the Separation of Aboriginal and Torres
Strait Islanders from Their Families, Commonwealth of Australia, Canberra,
p. 28.
Kendall,
C. 1993. History, present and future
issues affecting Aboriginal adults who were removed as children from their
families under the NSW Aborigines Protection Act 1882-1969. In Ken
Riddiford, Eric Wilson, and Barry Wright, eds, Contemporary Issues in
Aboriginal and Torres Strait Islander Studies: at 4. Proceedings of the
Fourth National Conference, Cairns College of Technical and Further Education,
September 1993, Cairns, p. 243.
Lippmann,
L. 1992. Generations of Resistance: Aborigines Demand Justice, 2nd Ed.,
Longman Cheshire, Melbourne, p. 18.
Markus,
A. 1995. Legislating White Australia,
1900-1970. In Diane Kirkby, ed., Sex, Power and Justice: historical
perspectives of law in Australia, Oxford University Press, Melbourne, p.
250.
McGrath,
A. 1995. A national story. In Anne
McGrath, ed., Contested Ground: Australian Aborigines under the British
Crown, Allen & Unwin, Sydney, p. 14.
Miller,
J. 1994. Skyscrapers Hide the Heavens: A History of Indian-White Relations
in Canada, Revised Ed., University of Toronto Press, Toronto, pp. 269-70.
Milloy,
J. 1996. “Suffer the little
children" A History of the residential school system, 1830-1992', RCAP
Notes, p. 220.
Persson,
D. 1986. The Changing Experience of
Indian Residential Schooling: Blue Quills, 1931-1970. In Jeanne Barman et
al., eds, Indian Education in Canada. Volume 1: The Legacy, UBC
Press, Vancouver, pp. 164-6.
Queensland
1897. Aboriginal Protection and Restriction of the Sale of Opium Act 1897 (Qld)
RCAP
(Royal Commission on Aboriginal Peoples) 1996. Looking Forward, Looking
Back, Canada Communication Group, Ottawa, p. 277.
Reaume,
D., and Mackem, P. 1994. Education for
subordination: Redressing the adverse effects of residential schooling,
RCAP Notes, at. 7-8. Toronto University Press.
Southern
Australia 1910, 1911. Northern Territory Aboriginals Act 1910 (SA);
and Aborigines Act 1911 (SA).
Stanton,
J. 1988. Mt Margaret Mission and the
Aftermath. In Tony Swain and Deborah Bird Rose, eds, Aboriginal
Australians and Christian Missions: Ethnographic and Historical Studies,
Australian Association for the Study of Religions, Adelaide, p. 292.
Western
Australia 1905, and 1944. Aborigines Act 1905 (WA); and Native (Citizenship Rights) Act 1944 (WA).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét