Powered By Blogger

Thứ Bảy, 13 tháng 10, 2012

Các Dân tộc Thiểu số và Nhà nước Trung Quốc



Các Dân tộc Thiểu số và Nhà nước Trung Quốc

Erin Elizabeth Williams

Người dịch: Hà Hữu Nga

Giới thiệu

Từ nhiều năm nay các nhà nghiên cứu phương Tây đã dự báo rằng động lực hiện đại hoá của Trung Quốc sẽ làm sắc nét hơn chứ không phải là làm giảm bớt đi ý thức tộc thuộc của hơn 100 triệu người DTTS (dân tộc thiểu số) tại Trung Quốc [Dreyer, June Teufel 2005; Gladney, Dru 1995; Harrell, Stevan 1995; Mackerras, Colin 1994]. Sự bùng nổ bạo lực mới đây tại các vùng Tây Tạng thuộc Trung Quốc đã có vẻ củng cố cho quan điểm này. Đảng Cộng sản Trung Quốc thống trị có thể không bất đồng nhiều hơn nữa. Trong khi các quan chức đã rất mất bình tĩnh bởi những tình tiết này thì họ lại chỉ bàn qua loa về chúng như là những ngoại lệ thứ yếu so với khuynh hướng tổng thể về “hài hoà” tộc thuộc, và khuynh hướng các dân tộc đang cố gắng để đồng nhất hơn nữa với “dân tộc Trung Hoa”.

Cốt lõi xác quyết của Đảng Cộng sản Trung Quốc là một niềm tin kiên định vào sức mạnh chuyển hoá của hiện đại hoá kinh tế. Trong thực tế thì chính sách dân tộc của Trung Quốc chủ yếu đặt tiền đề vào khả năng tạo tác các bản sắc dân tộc của nhà nước thông qua quá trình hiện đại hoá bằng cách đáp ứng các nhu cầu về lợi ích riêng của nó [Potter, Pitman B.  2005]. Chẳng hạn nhà nước xoá bỏ một cách tương đối hệ thống các mô thức sống và các phương thức tư duy truyền thống (kể cả tôn giáo) được coi là “lạc hậu” và vì vậy mà cản trở Trung Quốc trở thành một dân tộc hiện đại. Đồng thời nhà nước hỗ trợ to lớn cho các loại hình thể hiện bản sắc dân tộc về thực chất là phi chính trị, chẳng hạn như các nghi lễ, văn học, ca múa nhạc truyền thống. Theo quan điểm của nhà nước, việc thúc đẩy các thuộc tính dân tộc dân gian này sẽ phục vụ cho hai mục đích sống còn: nó tạo ra các lối thoát cho việc thể hiện bản sắc dân tộc không thách thức quyền kiểm soát của nhà nước đối với các vấn đề dân tộc thiểu số, và nó lại cũng giúp làm nổi bật hình ảnh một xã hội Trung Hoa đa văn hoá, bao dung, và “hài hoà” [Gladney Dru 1995]. Nói tóm lại, chủ nghĩa đa văn hoá ở Trung Quốc về cơ bản không cho phép có khác biệt văn hoá vì nó kiểm soát bằng cách chỉ cho phép nó một không gian có thể dự liệu và được vạch giới hạn rõ ràng [Wade, Peter 1999].

Cả quan điểm của các học giả phương Tây lẫn quan điểm chính thống của Trung Quốc đều không quan tâm nhiều lắm đến một khả năng là quá trình hiện đại hoá kinh tế có thể đưa đến một kết quả không phải là xung đột hoặc đồng hoá sắc tộc. Trong công trình này, tác giả đặt cơ sở cho kết quả khả dĩ thứ ba: sự chấp nhận, mặc dù hạn chế và có lựa chọn, các thực tiễn và chuẩn mực quốc tế có thể làm cho chính sách DTTS của Trung Quốc mang tính tham gia và tạo điều kiện hơn cho sự khác biệt. Tôi cho rằng cỗ xe chuyên chở sự thay đổi chính là sự tuyển chọn có tính chất ngược đời các tác nhân phát triển quốc tế vào nhiệm vụ hiện đại hoá các lĩnh vực thiểu số của nó. Các tác nhân phát triển này ngày càng chấp nhận các chuẩn mực quốc tế nhấn mạnh đến tầm quan trọng của sự đồng thuận và tham gia của “địa phương” và việc hoạch định và thông qua các dự án, nói cách khác là các chuẩn mực mâu thuẫn với cách tiếp cận phát triển đồng loạt từ trên xuống mà nhà nước Trung Quốc vẫn theo đuổi.

Việc khảo sát xem các chuẩn mực này được chuyển dịch như thế nào sang bối cảnh Trung Quốc không thể được minh hoạ các văn liệu truyền bá chuẩn mực đang tồn tại. Chẳng hạn hầu hết các văn liệu này đều giả định rằng cấu trúc cơ hội chính trị quốc nội cho phép chuẩn mực địa phương chủ trương huy động và theo đuổi các chiến lược quốc tế khác nhau để gây sức ép đối với các chính phủ của họ. Nó cũng giả định rằng các nhóm tinh hoa có thể đưa các tiêu chuẩn này vào diễn ngôn quốc nội ở một mức độ nào đó được “giải tập trung hoá” về tư duy của họ và vì vậy mà mở ra các tư tưởng mới về phương diện nhận thức. Về phương diện chính sách DTTS của Trung Quốc, những giả định này đều không đứng vững được. Đảng Cộng sản Trung Quốc duy trì một xung lực Leninist khá mạnh nhằm ngăn cản bất cứ hình thức đa nguyên hoặc tổ chức bên ngoài nhà nước nào khác [Saich T. 2000: 127]. Điều đó tước đoạt hết khả năng tiếp nhận các chuẩn mực quốc tế thông qua sức ép xã hội. Tuy nhiên cách tiếp cận của chính phủ trung ương đối với việc hoạch định chính sách đối với các DTTS mang tính tập trung cao. Vì vậy phạm vi cho một nhúm tinh hoa sử dụng tính minh bạch quốc tế để đưa các hệ quy chiếu định chuẩn mới vào diễn ngôn quốc gia là rất hẹp.

Tuy nhiên đơn giản là các văn liệu lý thuyết hiện có không đủ để tạo điều kiện cho trường hợp Trung Quốc, điều đó không có nghĩa là chúng ta cần phải cho rằng Trung Quốc là một “ngõ cụt” cho các chuẩn mực thống trị tộc thuộc quốc tế. Thay vào đó khảo sát của chúng ta cần phải được hướng dẫn bởi một sự tìm hiểu mang tính quy nạp về cách thức thay đổi ở cơ sở xảy ra như thế nào. Việc nghiên cứu hệ thống chính sách DTTS ở Trung Quốc là một lãnh địa tương đối khó khăn đối với các nhà khoa học xã hội; hầu hết những gì mà chúng ta biết được đều dựa trên những chứng cớ rất vụn vặt và trung tâm điểm lại chỉ thiên về một hai dân tộc trong quốc gia này [1]. Vì vậy luận chứng được đưa ra ở đây chỉ mang tính sơ bộ. Tuy nhiên mục đích của bài viết này là xây dựng một khuôn khổ có thể hướng dẫn cho các quan sát của chúng ta hướng đến hai điểm tiếp cận đối với các loại chuẩn mực quốc tế được xem xét ở đây. Trước hết là các chuẩn mực cai trị sắc tộc có thể đèo bòng theo các chuẩn mực có thể chấp nhận được về phương diện chính trị, mà các chuẩn mực này lại liên quan đến việc quản lý về môi trường. Thứ hai là các chuẩn mực này có thể được thực hiện dựa trên cơ sở thực nghiệm hạn chế, mang tính địa phương hoá. Nếu điều đó thành công đối với các mô hình mới cho việc quản lý quá trình hiện đại hoá các vùng DTTS thì chúng có thể được nhân rộng ra các địa phương khác của Trung Quốc.

Bài viết này sẽ bắt đầu bằng việc giới thiệu vắn tắt chính sách DTTS của Trung Quốc bao gồm cả logic của nhà nước về các tác nhân quốc tế liên quan trong động lực hiện đại hoá của nó. Sau đó tôi sẽ đưa ra một cái nhìn chung về một tập hợp các chuẩn mực quốc tế mà các tác nhân quốc tế này ngày càng khai thác nhiều trong các dự án phát triển ngoại quốc. Tôi đặc biệt tập trung vào chuẩn mực đảm bảo “đồng thuận trước, tự do, và hiểu thấu vấn đề” (FPIC - free, prior, and informed consent) của cộng đồng chịu tác động của dự án phát triển. Như sẽ được thảo luận dưới đây, trong khi việc chấp nhận và thực hiện chuẩn mực này mâu thuẫn và chồng chéo với các ngữ cảnh quốc gia thì chúng sẽ trở thành một ấn định thường trực về các thực tiễn phát triển quốc tế. Cần tóm lược khung lý thuyết cho cách thức mà các chuẩn mực quốc tế tác động đến cấp độ quốc nội để nhấn mạnh rằng các chuẩn mực này sẽ được đưa vào chính sách Trung Quốc theo cùng một cách mà chúng đã được đưa vào các ngữ cảnh quốc gia khác. Bài viết sẽ kết thúc bằng một việc thảo luận tóm tắt về hai phương thức xây dưng chính sách DTTS như vậy.

Chính sách DTTS và Chiến dịch Đại khai phá miền Tây

Sự bao trùm của hệ mẫu hiện đại hoá của Đảng Cộng sản Trung Quốc với tư cách là trung tâm điểm trong chính sách DTTS bắt đầu vào đầu năm 2000 khi họ phát động Chiến dịch Đại khai phá miền Tây (xibu ta kaifa). Chiến dịch này là một dự án phát triển và xây dựng quốc gia đầy tham vọng nhằm “hiện đại hoá” các tỉnh nằm sâu trong nội địa nơi tập trung phần lớn các DTTS [2]. Kể cả những lời hùng biện về Chiến dịch Khai phá Miền Tây lẫn các chính sách cụ thể do chiến dịch đó sinh ra đều bộc lộ mối quan hệ xoắn xuýt giữa các mục tiêu hiện đại hoá và đồng hoá. Một số người ủng hộ chiến dịch to tiếng nhất đã ra sức hoan nghênh việc sử dụng chiến dịch như một sức mạnh cho quá trình “đồng nhất hoá xã hội” ở Trung Quốc [Goodman D.S.D. 2004: 326-327]. Những lời hô hào “đồng hoá” mạnh mẽ hơn nữa chính là sự ám chỉ được che đậy sơ sài đối với một niềm tin chắc rằng các DTTS sẽ tranh đua với người Hán đa số thường nổi bật là người mang tiêu chuẩn hiện đại hoá. Chứng cớ cho động lực đồng hoá cũng được thể hiện trong các chính sách của chính phủ trung ương về việc xây dựng cơ sở hạ tầng vật chất và truyền thông nhằm đưa các DTTS đến gần hơn với cái cốt lõi Hán, hán hoá giáo dục và thực hành ngôn ngữ, và đưa rất nhiều người Hán đến sống tại các vùng DTTS.

Mặc dù dự án Đại khai phá miền Tây do chính phủ Trung ương khởi xướng nhưng trước hết ở cấp địa phương những căng thẳng sắc tộc liên quan đến các chính sách này đã xuất hiện. Chẳng hạn những người du mục Tây Tạng và Mông Cổ đã kêu lên một cách cay đắng rằng nhà nước đã buộc họ phải tái định cư khỏi các vùng đất chăn thả và tịch thu gia súc của họ mà không có đền bù tương xứng. Các nhóm DTTS nhỏ khác cho rằng ngôn ngữ của họ đã bị thay thế bởi tiếng Hán (putonghua - phổ thông hoa) vì các quan chức địa phương khẳng định rằng các ngôn ngữ DTTS ít có giá trị trong nước Trung Hoa hiện đại. Và một trong những bất đồng lớn nhất là hiện đại hoá được quan niệm là một kích thích tố cho quá trình tạo ra việc làm tại các khu vực DTTS. Nhưng các nhà thầu người Hán lại chỉ thuê các công nhân người Hán dựa vào trình độ học vấn cao của họ và đạo đức lao động mạnh mẽ hơn. Thế mà không hề có bất cứ một sự phản đối nào về một sự thật là các DTTS từ chối và kháng cự hiện đại hoá; nhiều DTTS coi dự án Đại khai phá miền Tây là một cơ hội mà họ đã mong đợi từ lâu để thoát khỏi tình trạng đói nghèo. Điều mà họ phản đối là cách thức thực hiện dự án này mang tính cưỡng bức và phân biệt [Dreyer 2005].

Như đã lưu ý ở trên, một trong những của chiến dịch Đại khai phá miền Tây là việc tuyển chọn các tác nhân chẳng hạn như Ngân hàng Thế giới (WB), Liên hợp quốc (UN), và các NGOs ngoại quốc [3]. Căn cứ vào tất cả những dáng vẻ bề ngoài thì các dự án được thực hiện tại các vùng DTTS về thực chất là không mang tính chính trị - giáo dục nông thôn, chăn sóc y tế, bảo vệ môi trường và thúc đẩy du lịch. Tuy nhiên sự khởi đầu và quá trình thực hiện lại trùng khớp sự xuất hiện của hàng loạt chuẩn mực quốc tế không còn nghi ngờ gì nữa, thực chất là chính trị nhằm thu hút và hợp nhất các đầu vào của cộng đồng địa phương thông qua việc thực hiện chuẩn mực đồng thuận FPIC. Trong bối cảnh ở tầm quốc gia khác, các chuẩn mực này đã hợp nhất với mục tiêu rõ ràng về “các quyền của người bản địa”.  Nhưng như sẽ được thảo luận ở dưới đây, khái niệm các quyền của người bản địa này lại hoàn toàn xa lạ đối với hệ thống chính trị Trung Quốc.

Không nghi ngờ gì nữa, chính phủ Trung Quốc đã có những e ngại về việc can dự của các yếu tố nước ngoài là những tác nhân có thể đưa vào các ý tưởng và các thực tiễn hoàn toàn khác với các ý tưởng và thực tiễn Trung Quốc [Wang Shuping 2004: 167]. Nhưng sức hấp dẫn của các tác nhân phát triển quốc tế này là ở chỗ họ cung cấp nhiều nguồn vốn cần thiết cho hầu hết các vùng đã bị bần cùng hoá của Trung Quốc. Đó còn là một nguồn chuyên môn kỹ thuật được đánh giá là một trong những trụ cột trung tâm cho Chiến dịch Đại khai phá miền Tây nhằm phát triển vùng này theo hướng thân thiện với môi trường sinh thái [Lai 2002]. Vì vậy mà bằng phép tính lợi ích rủi ro của nó nhà nước Trung Quốc đã đánh cược khả năng của nó vào việc khai thác các hoạt động của các tác nhân quốc tế này để hướng đến các mục tiêu đầy tham vọng của nó, và để ngăn cản các tác nhân này khỏi việc tạo ra những thách thức đối với mục tiêu dài hạn trong việc thống nhất các DTTS vào khối dân tộc Trung Quốc do người Hán thống trị.

Việc làm sáng tỏ những khác biệt giữa chính sách DTTS của Trung Quốc và các chuẩn mực quốc tế đang xuất hiện này, đặc biệt là các chuẩn mức FPIC cần có một cái nhìn khái quát về các nguyên tắc cốt lõi của các chuẩn mực này. Chúng ta cũng cần phải làm sáng tỏ những cách thức mà các nhóm quốc nội trong các quốc gia khác đã thúc đẩy một cách thành công để có được các chuẩn mực được các chính phủ quốc gia chấp nhận.

Nguyên tắc và thực tiễn của chuẩn FPIC

Chuẩn FPIC đã xuất hiện như một phần của diễn ngôn cộng đồng quốc tế về Phát triển Bền vững (SD - Sustainable Development) [Cowell et al., 1999: 277]. Để bổ sung thêm vào việc nhấn mạnh đến các hoạt động thực tiễn môi trường bền vững và hợp lý hơn, Phát triển Bền vững còn phản ánh một nhận thức đang phát triển cho rằng các nhóm cư dân bên lề và dễ bị tổn thương trong các vùng chịu tác động đã phải trả một cái giá quá nặng nề cho phát triển cả về phương diện văn hoá lẫn sinh thái. Việc khai thác các nguồn tự nhiên và việc xây dựng các dự án hạ tầng lớn hơn chẳng hạn như các đập thuỷ điện đã được xác định là đặc biệt có hại. Vì vậy các nhóm hoạt động môi trường đã bắt đầu gây sức ép lên những người đỡ đầu về tài chính cho các dự án này như Liên hợp quốc, Ngân hàng Thế giới, các ngân hàng phát triển vùng và các nhà tài trợ song phương - để đảm bảo rằng những nhóm bị gạt ra ngoài lề vẫn có thể “tham gia đáng kể” vào toàn bộ các quy trình của dự án [Mehta, Lyla and Maria Stankovitch 2000]. Các nhà phê bình cho rằng nếu không có sự tham gia này thì những người xây dựng và thực hiện dự án sẽ thiếu đi cái “giấy phép xã hội” cần thiết để vận hành. Quy trình chuẩn mực FPIC được coi là yếu tố quyết định chính xem liệu cái giấy phép xã hội ấy có tồn tại hay không [MacKay 2004].

Chuẩn FPIC được đặc trưng là có 4 yêu cầu chính: sự đồng thuận của cộng đồng chịu ảnh hưởng phải là (1) được hình thành một cách tự do; (2) được cung cấp thông tin đầy đủ; (3) có quyền ưu tiên đối với việc khởi đầu dự án; và (4) liên ứng. Về cơ bản thì quy trình FPIC về cơ bản phải đảm bảo rằng cộng đồng “được cung cấp toàn bộ các thông tin cần thiết sẵn có để thương thảo một cách bình đẳng với những người chịu trách nhiệm về dự án”. Goodland cho rằng ở những nơi cần thiết thì cộng đồng phải có “các chủ trương, những người hỗ trợ, và sự trợ giúp kỹ thuật” cho phép các cộng đồng bất lợi về phương diện tổ chức hoạt động một cách bình đẳng với các bên liên quan khác của dự án [Goodland 2004]. Chuẩn FPIC không có nghĩa là một tham vấn một lần duy nhất, mà là một quá trình tương tác thường xuyên, liên tục trước hết bắt đầu bằng việc lý giải về các hoạt động của dự án và sau đó tiếp tục với những vấn đề khác xuất hiện gắn liền với việc thực thi dự án [Berlin B. and Elois Ann Berlin 2003].

Trong khi FPIC và các chuẩn khác liên quan đến “tri thức địa phương” và đầu vào địa phương trong quá trình phát triển đã ngày càng được chấp nhận rộng rãi cùng một số tác nhân kinh tế và phát triển có ảnh hưởng mạnh mẽ khác [Tamang P. 2005] thì việc thực hiện của các tác nhân đó bên trong và giữa các bối cảnh quốc gia khác nhau sẽ vẫn không giống nhau. Một phần là vì không có sự đồng thuận rộng rãi về ý nghĩa chính xác của FPIC cũng như cách thức áp dụng chuẩn này. Vì vậy các bên liên quan đến dự án khai thác những yếu tố mập mờ này và thao tác, lý giải nhầm lẫn hoặc thậm chí lờ đi các nguyên tắc cốt lõi của chuẩn mực này. Chẳng hạn sự đồng thuận được hình thành “một cách tự do” có nghĩa là hoàn toàn tự nguyện, không hề có bất cứ một sự cưỡng bách hoặc lừa gạt nào. Nhưng việc tạo ra các điều kiện cho sự đồng thuận tự nguyện thực sự trong một môi trường chính trị độc đoán khác thì rõ ràng là nói thì dễ nhưng thực hiện thì lại khó. Trong thực tế thì người ta có thể thấy rằng ngay trong những môi trường chính trị dân chủ và tương đối cởi mở thì các nhóm lợi ích khác nhau vẫn ra sức tác động ảnh hưởng đến nhận thức của cộng đồng mục tiêu về chi phí và lợi ích của dự án [Rosenthal P. 2006].

Đồng thuận “được cung cấp thông tin đầy đủ” có nghĩa là các cá nhân chịu tác động của dự án ý thức được một cách hoàn toàn đầy đủ về tác động tiềm tàng của dự án và về các quyền của họ có quan hệ đến các bên liên quan khác. Khả năng “được thông tin đầy đủ” tối thiểu dựa trên hai giả định: i) môi trường chính trị cho phép minh bạch hoá một cách đầy đủ về thông tin; ii) các thành viên cộng đồng có đủ kiến thức khoa học và kỹ thuật cần thiết để hiểu rõ tác động của dự án. Trong các cộng đồng nghèo, biệt lập và bị chèn ép thì khó lòng mà có được các tiền đề này.

Cuối cùng trong thực tế thì điều đó tỏ ra là hoàn toàn khó cho các bên liên quan trong việc đạt được sự đồng thuận về việc ai có đủ tư cách để là thành viên của cộng đồng có liên quan”. Giải pháp là xác định một cách đơn giản và thương thảo với các nhóm đại diện của  làng xã, nhưng các chuyên gia thì lại cho rằng phương pháp này thực sự không thoả đáng vì các nhóm đại diện của làng xã có thể chỉ đại diện cho lợi ích của chính nhóm đó mà lại không đại diện đầy đủ cho lợi ích và các mối quan tâm của các thành viên cộng đồng khác [Goodland 2004].

Mặc dù có những thiếu sót trên nhưng không còn nghi ngờ gì nữa, quy trình FPIC không chỉ ngày càng được chấp nhận, mà còn là một yếu tố được kỳ vọng trong các dự án phát triển quốc tế. Việc thực hiện quy trình này đặc biệt hiệu quả trong những trường hợp mà các nhóm bản địa và các nhóm DTTS hình thành nên các tổ chức dân chúng địa phương và liên kết với các mạng lưới tác nhân chủ trương xuyên quốc gia giống nhau. Bằng cách sử dụng “kiến trúc toàn cầu” bao gồm các khái niệm và ngôn ngữ của SD và FPIC, các nhóm này cho đến nay đã bị gạt ra ngoài lề về phương diện chính trị và bị tước quyền nhưng đã vẫn cố gắng “phóng đại” các nhu cầu của họ và sử dụng các vũ đài quốc tế để gây sức ép lên các chính phủ quốc gia [Keck E. Margarete and Kathryn Sikkink 2007; Kirsch S. 2007].

Một chiến lược hiệu quả như vậy thì thuộc loại bối cảnh tư tưởng và cấu trúc nào? Dưới đây chúng ta sẽ xem xét khung lý thuyết cho việc tìm hiểu xem các chuẩn mực quốc tế được truyền bá và tác động ảnh hưởng như thế nào đến các bối cảnh quốc nội. Sau đó tri thức lý thuyết này sẽ được sử dụng cho trường hợp Trung Quốc.

Tác động của các Chuẩn mực Quốc tế ở cấp Quốc nội

Chuẩn mực “truyền bá” là một quy trình nhờ đó các tư tưởng phổ biến ở cấp độ quốc tế được truyền đi và chuyển dịch vào các bối cảnh quốc nội [Checkel J.T. 1999]. Cortel và Davis đã xác định hai biến can thiệp quy định điều kiện tác động quốc nội là: cấu trúc chính trị quốc nội, và “điểm nổi bật” của các chuẩn mực quốc tế đối với các cử toạ quốc nội [Cortel A.P. and James W. Davis Jr. 2000].

Truyền bá từ dưới lên

Checkel đã phân biệt giữa các cơ chế truyền bá từ dưới lên tạo ra sức ép xã hội, và các cơ chế truyền bá từ trên xuống tạo ra việc học hỏi tinh hoa. Các quá trình từ dưới lên xuất hiện khi các tác nhân phi nhà nước – các tổ chức quần chúng địa phương và các NGOs quốc nội thống nhất với các mạng lưới chính sách quốc tế để gây sức ép lên chính phủ quốc gia nhằm thay đổi chính sách của nhà nước trong một lĩnh vực có liên quan nào đó. Trong nhiều trường hợp chính sách đó liên quan đến việc thực hiện các quyền con người quốc tế đặc biệt [Checkel J.T. 1999]. “Hiệu ứng boomerang” của Keck và Sikkink là một trong những ví dụ hợp lý nhất và thường được dẫn ra cho loại chiến lược này [Keck, Margaret E.  and Kathryn Sikkink 1998].

Những việc truyền bá từ dưới lên đòi hỏi một cấu trúc cơ hội chính trị cho phép hình thành các tổ chức quần chúng và các NGOs hoạt động trong lĩnh vực xã hội. Ở Trung Quốc cấu trúc chính trị này thực sự không tồn tại tối thiểu là đối với các nhóm định hướng sắc tộc. Một cái nhìn tóm tắt vào khuôn khổ pháp luật thông qua nó Đảng Cộng sản Trung Quốc cai quản các sự vụ liên quan đến sắc tộc đã minh hoạ cho quan điểm đó. Điều 4 trong Luật Tự trị Thiểu số của Hiến pháp năm 1982 đảm bảo “quyền bình đẳng của tất cả các dân tộc, dành quyền ưu tiên cho các dân tộc thiểu số đẩy nhanh phát triển văn hoá và kinh tế, người dân tộc thiểu số có quyền tự do sử dụng và phát triển ngôn ngữ riêng và giữ gìn hay cải tiến các “phong tục tập quán”, và tự trị vùng nơi mà các dân tộc thiểu số sinh sống thành các “cộng đồng tập trung” [Ghai Y. 2000]. Tuy nhiên các nhà quan sá cho rằng Điều 4 đã không hề tham khảo nguyên tắc về quyền tự quyết. Họ còn nhấn mạnh rằng Luật tự trị của Trung Quốc trong thực tế được ứng dụng cực kỳ hạn chế. Khái niệm tự trị như được định nghĩa khái quát hàm nghĩa “các quyền lực to lớn trong việc ra quyết định ở các cấp lập pháp và hành pháp, và các nguồn lực độc lập, đặc biệt là về tài chính và dịch vụ công để thực hiện”. Nhưng như Ghai đã chỉ rõ:

“Các chính sách và các hoạt động DTTS của Trung Quốc phải được thực hiện theo một khuôn khổ chung của luật pháp quốc gia (và không có sự biểu thị rằng “các quy chế tự trị” lại có thể mâu thuẫn với luật pháp nhà nước). Về cơ bản một khuôn khổ rộng lớn cho hệ thống vận hành lại khước từ sự lựa chọn thực sự về chính sách vì các tổ chức chính quyền tự quản bị chói buộc bởi các nguyên tắc chủ chốt của hệ thống nhà nước Trung Quốc: chủ nghĩa xã hội, độc tài và tập trung dân chủ, sự lệ thuộc vào thể chế cấp trên trong sự thống trị toàn diện của Đảng Cộng sản Trung Quốc (CCP). Hầu hết các qui chế và các chính sách này đều đòi hỏi sự nhất trí của các cơ quan nhà nước cấp trên...Cuối cùng chúng phải vận hành dưới sự lãnh đạo thống nhất của Hội đồng Nhà nước (điều 15 của bộ Luật). Các nguồn tài chính và các nguồn khác đều phụ thuộc vào sự trợ cấp của trung ương. Không có cơ chế để kháng cự lại các vi phạm hoặc lạm quyền của trung ương đối với quyền lực của họ. Bất cứ “quyền tự trị” nào được luật pháp cho phép cũng có thể bị phủ nhận bằng các chỉ thị hoặc tác động của Đảng Cộng sản - chẳng hạn các vị trí chủ chốt trong các khu tự trị đều được bao trùm bởi thuật danh pháp học (và đảng cũng không quy định rằng các bí thư Khu uỷ khu tự trị phải là người DTTS, và trong thực tế thì họ hầu hết là người Hán)” [Ghai Y. 2000].

Potter lặp lại tuyên bố này khi nói rằng Đảng Cộng sản Trung Quốc tự nó đã chỉ ra vai trò là người lính gác, người bảo vệ duy nhất cho các quyền và lợi ích của các DTTS, một thực tiễn trái ngược hoàn toàn với khái niệm quyền tự trị chân chính. Sự độc quyền của Đảng trong việc ra quyết định bao gồm cả quyền không thể bác bỏ về việc giải thích và viết lại Hiến pháp vì vậy mà nó có thể tước đoạt quyền tự trị DTTS kể cả từ các phương diện thủ tục lẫn thực chất [Potter 2005: 303]. Hơn nữa hệ thống luật pháp yếu kém của Trung Quốc lại làm cho nó gần như không thể che chở được quyền tự trị cho các thần dân - những người DTTS trong vịêc thực thi đầy đủ mọi chính sách liên quan [Wang 2004].   

Bất kỳ khả năng nào của nhà nước Trung Quốc nới lỏng các hạn chế đối với quyền tự trị đều bị cắt gọt một cách không thương tiếc bởi hai khuynh hướng xuất hiện vào cuối những năm 1980 đầu 1990. Khuynh hướng thứ nhất là sự bùng nổ của các phong trào ly khai sắc tộc trong đó nhiều phong trào đã thành công trong việc giành được độc lập ở Liên bang Xô viết cũ và ở Tây Âu. Cuộc xung đột ở Kosovo năm 1999 làm cho người ta tin tưởng một cách phổ biến là nó đã có tác động làm cho Đảng Cộng sản Trung Quốc thấy ớn lạnh. Khuynh hướng thứ hai, có tính trực tiếp hơn, đó là căng thẳng sắc tộc ngày càng tăng trong chính đất nước Trung Quốc. Bắt đầu vào cuối những năm 1980, Tây Tạng, Tân Cương và Nội Mông đã có những làn sóng ngầm ủng hộ tự trị và ly khai. Như một phản ứng đối với hoạt động chống đối này, Chiến dịch “Thẳng tay Trừng trị” đã diễn ra trong những năm 1990 để nhổ bật gốc rễ bất cứ một hành động nào dựa vào sắc tộc mà không được nhà nước phê chuẩn và kiểm soát [Dreyer 2005: 76].

Khả năng các nhóm DTTS Trung Quốc liên kết với các tác nhân chủ trương liên dân tộc để thách thức sự thống trị sắc tộc của nhà nước đều khó có thể thành công. Ngay cho dù chính phủ trung ương có cho phép một vài NGOs quốc tế định hướng phát triển và các cơ quan tài trợ hoạt động tại các vùng DTTS thì nó vẫn rất e ngại việc cho phép các ý tưởng nước ngoài “tiêm nhiễm” vào các giá trị Trung Hoa [Yuen, Renee, Jan Hsia and Lynne T. White III 2002]. Tuy nhiên cũng cần phải lưu ý rằng vẫn có mức tăng đáng kể số các NGOs quốc nội (từ xuất phát điểm bằng không) hoạt động trong các lĩnh vực liên quan đến môi trường [Economy E.C. 2004; Morton K. 2005]. Cũng có một số trường hợp các NGOs quốc nội đào tạo một cách công khai các đối tác và tìm kiếm sự hỗ trợ tài chính từ các NGOs nước ngoài. Tuy nhiên thực tế vẫn là chính phủ Trung Quốc vẫn coi quyền tự do và quyền tự trị của các nhóm ấy như là một thể diện được thể chế hoá của trật tự chính trị của họ [White, Gordon,  Jude Howell, and Hsiao-yuen Shang 1996: 25]. Thay vào đó nhà nước vẫn coi các tổ chức này là một “nhịp cầu” hoặc một “đới trung chuyển” cho các chính sách của nhà nước “chứ không phải là các tác nhân xã hội tự trị có thể giám sát chính phủ và đảm bảo rằng các nhóm chịu thiệt thòi không bị bỏ quên” [Hsia, Renee Yuen-Jan and Lynne T. White III. 1997: 331-332].

Truyền bá Từ trên xuống

Trong các chế độ “nhà nước - đứng trên - xã hội” như Trung Quốc thì các chuẩn mực quốc tế rất có khả năng tiếp cận sân khấu quốc nội thông qua cơ chế truyền bá từ trên xuống bằng con đường học tập xã hội của nhóm tinh hoa. Về cơ bản các nhóm tinh hoa được đặt vào tình huống của các tư tưởng và chuẩn mực quốc tế mới. Sau đó họ trở thành các tác nhân “dẫn đường” trong việc chấp nhận các tư tưởng và chuẩn mực này trong các diễn ngôn và thực tiễn quốc gia của họ [Hsia, Renee Yuen-Jan and Lynne T. White III. 1997: 331-332]. Chẳng hạn Checkel đã cho thấy rất rõ các tổ chức vùng của châu Âu như Hội đồng Châu Âu cũng như Tổ chức An ninh và Hợp tác Châu Âu đã tạo ra các môi trường bên trong cho các giới tinh hoa thể hiện các chuẩn mực của các thành viên khác về các nhu cầu quyền công dân như thế nào [Checkel J.T. 2001].

Về mặt lý thuyết, việc truyền bá từ trên xuống là một phương tiện khả dĩ thông qua đó các chuẩn mực quốc tế có thể tác động đến chính sách DTTS của Trung Quốc. Trong thực tế thì nhiều định đề lý thuyết gốc và các đặc điểm thể chế trong chính sách DTTS của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã được vay mượn trực tiếp từ các đối tác Xô Viết. Nhưng hiện nay có hai trở ngại làm cho loại học tập xã hội tinh hoa này không thể thành công. Trước hết đó là môi trường chính trị không thoả đáng đối với các chuẩn mực quốc tế được coi là xuất phát và truyền bá từ các chính phủ phương Tây. Checkel cho rằng việc áp đặt các chuẩn mực này có thể được coi là một loại chủ nghĩa đế quốc về văn hoá phương Tây. Và vì châu Á không có các tổ chức tương đương với các tổ chức vùng ở châu Âu nên các giới tinh hoa chịu trách nhiệm về chính sách DTTS dường như không được “xã hội hoá” về lĩnh vực này và vẫn khá biệt lập với các đối tác của họ tại các quốc gia khác. Thực ra thì nếu có bất kỳ chuẩn mực vùng nào của châu Á liên quan đến các mối liên hệ tộc thuộc thì đó là một vấn đề hạn chế trong phạm vi quốc nội, không liên quan đến các tác nhân bên ngoài.

Trở ngại thứ hai đối với việc học tập xã hội tinh hoa tại Trung Quốc là cái mà Cortell và Davis coi là sự “nổi bật” của các chuẩn mực quốc tế tại quốc nội [Cortell P.A. and James W. Davis Jr. 2000]. Nói cách khác, các chuẩn mực quốc tế thường được coi là có thể áp dụng và mang tính chính thống nếu có mức độ phù hợp cao giữa tư tưởng và niềm tin làm cơ sở cho chuẩn mực đó, và mặt khác nó rất phù hợp với các tư tưởng và niềm tin đã có sẵn trong diễn ngôn quốc nội.

Vị thế tại Quốc nội

Kể từ khi Liên bang Xô viết tan rã, Trung Quốc ngày càng nhìn hiện trạng DTTS là một vấn đề riêng sui generis đặc biệt. Một mặt điều đó tránh cho họ phải cam kết với các diễn ngôn nhân quyền quốc tế, mặt khác còn vì Trung Quốc chính thức coi tình thế hiện thời của DTTS Trung Quốc về cơ bản có nguồn gốc lịch sử khác với các quốc gia khác. Chẳng hạn chính phủ Trung Quốc đồng ý về nguyên tắc với các khái niệm “các quyền của người bản địa” và “quyền tự quyết”, nhưng lại khăng khăng cho rằng họ chỉ áp dụng được vào các trường hợp xâm lược và thực dân địa (chủ yếu bởi các cường quốc phương Tây). Về phương diện này, quyền tự quyết của Trung Quốc đã là một việc đã rồi – fait accompli, vì Đảng Cộng sản Trung Quốc đã “giải phóng” toàn bộ các nhóm DTTS Trung Quốc khỏi bọn xâm lược ngoại bang vào năm 1949 [Wang 2004: 175-179]. Tuy nhiên trong các diễn ngôn quan phương và hàn lâm về “dân tộc Trung Hoa” toàn bộ các nhóm DTTS về phương diện lịch sử đều được coi là đồng tồn trong ranh giới lãnh thổ của nhà nước Trung Quốc đương đại. Vì vậy không nhóm nào được coi là “bản địa” hoặc có các quyền riêng biệt hoặc các quyền lãnh thổ về phương diện lịch sử.

Việc tự khẳng định không đủ tư cách áp dụng các khái niệm về quyền tự quyết và các quyền bản địa đương nhiên bị thách thức bởi những người chống đối trong chính đất nước Trung Quốc, những người đã kết tội người Hán là “những kẻ xâm lược”, “những tên thực dân” trong các lãnh thổ lịch sử của họ. Các chính sách Đại Khai phá miền Tây cũng như quá trình “hợp lý hoá” ngôn ngữ và tái định cư người Hán đến các vùng DTTS đã như lửa đỏ thêm dầu vào các lập luận này. Vì Đảng Cộng sản Trung Quốc tự coi mình như là “người giải phóng” của tất cả những người bị áp bức ở Trung Quốc nên mức độ nhạy cảm đối với những lời buộc tội như vậy không thể là điều phóng đại. Chắc chắn có sự mâu thuẫn rõ ràng giữa tuyên bố của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong việc khẳng định đã giải phóng các DTTS với thực tiễn cưỡng ép họ theo các mô hình phát triển làm mất đi sự khác biệt tộc thuộc của họ. Lý lẽ chủ yếu bắc cầu cho hai mâu thuẫn này là khẳng định của nhà nước cho rằng “việc giải phóng” các DTTS này đòi hỏi phải “khai hoá văn minh” cho họ thông qua hiện đại hoá. Harrell đã coi đó là “sứ mệnh khai hóa”. Sứ mệnh này là: “một loại tương tác giữa các dân tộc trong đó một nhóm, trung tâm văn minh hoá, tương tác với các nhóm khác (những dân tộc ngoại vi) một cách đặc biệt bất bình đẳng. Trong tương tác này, mức độ bất bình đẳng giữa trung tâm văn minh và các dân tộc ngoại vi có cơ sở ý thức hệ ở quyền đòi hỏi của trung tâm về một mức độ văn minh hoá cao hơn so với cấp độ trung tâm, cùng với việc cam kết gây dựng văn minh cho các dân tộc thuộc vùng ngoại vi lên ngang bằng với cấp độ văn minh của trung tâm, hoặc chí ít cũng gần với cấp độ đó...trung tâm văn minh hoá gây dựng các luận lý của mình từ một niềm tin là quá trình thống trị là một trong những quá trình giúp cho người bị trị đạt tới được hoặc chí ít thì cũng tiến sát tới được các chất lượng văn hoá, đạo đức, tôn giáo cao cấp đặc trưng cho nhóm trung tâm” [Harrell, Stevan 1995: 4].

Những tuyên bố trung thực đến đáng kinh ngạc của các cán bộ cao cấp của Uỷ ban các vấn đề Dân tộc của Nhà nước Trung Quốc đã cho thấy rất rõ ràng rằng Chiến dịch Đại khai phá miền Tây chính là phiên bản đương đại của sứ mệnh khai hoá văn minh Đại Hán trung tâm của Nhà nước Trung Quốc. Chẳng hạn một quan chức đã công khai “nhấn mạnh tình trạng lạc hậu của các dân tộc thiểu số và nhu cầu của họ là cần phải học hỏi từ nền văn hoá tiên tiến của người Hán” [Goodman David S. G. 2004: 326-327; Li Dezhu 2000; Goodman, David S. G. 2002: 137]. Trong thực tế thì hố sâu ngăn cách sự áp đặt văn hoá khỏi các cố gắng rõ ràng là đầy thiện chí của nhà nước nhằm đưa các DTTS ra khỏi tình trạng lạc hậu về công nghệ và văn hoá đã trở thành một dấu vết khó gột rửa.

Còn một cách gián tiếp hơn, trong đó việc Trung Quốc không thừa nhận các quyền của người bản địa và các nguyên tắc tự quyết cần phải được xem xét tới. Chẳng hạn các DTTS ở Philippines, Indonesia, và Ấn Độ đã bắt đầu sử dụng ngôn ngữ và các khái niệm mang tính bản địa để tạo dựng khuôn khổ cho các quyền đặc biệt và các đòi hỏi của người bản địa đối với nhà nước. Trong tất cả các trường hợp này, chỉ có loại tình trạng “thực dân” mới mang tính chất nội tại. Như đã chỉ ra ở trên, khả năng là các tư tưởng và chuẩn mực có thể được truyền từ các giới tinh hoa trong các quốc gia này đến các giới tinh hoa Trung Quốc là không thể, vì nhà nước Trung Quốc đã thực hiện những chặng đường dài trong việc bảo vệ các chính sách DTTS của họ khỏi những tác động từ bên ngoài. Nhưng các chuẩn mực liên quan đến các quyền của người bản địa, đặc biệt là FPIC và các chuẩn mực liên quan lại có thể được truyền đi thông qua các kênh đã địa phương hoá và gián tiếp hơn. Đặc biệt với tư cách là các tác nhân quốc tế chẳng hạn như UN, WB, và các NGOs quốc tế càng ngày càng đưa các chuẩn mực này vào các thực tiễn hoạt động phát triển của các bối cảnh khác thì chắc chắn là các chuẩn mực này sẽ được thể chế hoá đến mức mà chính phủ Trung Quốc khó mà ngăn cản được việc đưa các chuẩn mực này vào bối cảnh Trung Quốc chừng nào nó còn tiếp tục cho phép chúng vận hành trong các vùng DTTS của chính Trung Quốc. Nhưng những câu thúc nhất định về tư tưởng và cấu trúc vừa phác ra ở trên có thể tác động như thế nào đối với các thực tiễn mang tính định chuẩn ở Trung Quốc?

Kết luận

Tồn tại hai khả năng cho việc truyền bá các chuẩn mực vào các vùng DTTS Trung Quốc. Theo các khung lý thuyết do Checkel, Cortell và Davis xây dựng thì chuẩn mực FPIC có một số cơ hội sống còn tại Trung Quốc. So với các loại chế độ chính trị khác thì chính sách DTTS Trung Quốc tồn tại trong một hệ thống không thân thiện về cả cấu trúc lẫn hệ tư tưởng đối với việc hấp thụ các tư tưởng mới, đặc biệt là các tư tưởng này lại mâu thuẫn với các thực tiễn và tư tưởng hiện tồn. Nhưng nếu chúng ta đặt vấn đề bằng một nhận thức dựa trên cơ sở quy nạp về sự thay đổi đã diễn ra như thế nào thì đôi khi bất ngờ - trong kỷ nguyên Trung Quốc cải cách lại nổi lên thêm hai khả năng.

Trước hết là các chuẩn mực quản trị sắc tộc mới có thể “lọt vào” theo chuẩn mực bảo vệ môi trường. Một trong những lý do mà FPIC kết hợp với các quyền của người bản địa tập trung vào các bối cảnh quốc gia khác là ở chỗ các dự án phát triển và đầu tư càng ngày càng xuất hiện nhiều tại các vùng sâu vùng xa là nơi cư trú của các cộng đồng bản địa bị gạt ra ngoài lề quá trình phát triển. Đây không chỉ là trường hợp của các quốc gia đang phát triển mà còn là cả các quốc gia đã phát triển chẳng hạn như Canada và Australia nơi mà những người bản địa sống tại các lãnh thổ có chứa các nguồn khoáng sản đáng thèm muốn. Tại các quốc gia đang phát triển khác chẳng hạn như Brazil và Peru riêng việc khai thác các nguồn tài nguyên gỗ và đồng cũng đã xảy ra tại các khu vực của người bản địa. Đây cũng là trường hợp của Trung Quốc là quốc gia đã trải qua sự bùng nổ của các hoạt động khai thác mỏ đa quốc gia tại Tây Tạng, sản xuất dầu lửa tại Tân Cương, và xây dựng các đập thuỷ điện lớn tại Vân Nam. Vì thực chất của các dự án này là huỷ hoại các nguồn môi trường bản địa địa phương nên FPIC đã rất chú ý đến việc bảo vệ môi trường. Vì vậy hai tập chuẩn mực này - bảo vệ môi trường và các quyền của người bản địa - đều có khuynh hướng cùng xuất hiện.

Mặc dù chính phủ Trung Quốc kiên quyết không thừa nhận áp dụng “các quyền bản địa” cho trường hợp Trung Quốc, nhưng nước này vẫn hăng hái bổ sung các chuẩn mực quốc tế liên quan đến môi trường và việc bảo vệ môi trường. Có lẽ những người thúc ép hiệu quả nhất về các tiêu chuẩn môi trường là các NGOs với lý lẽ là giám sát các dự án có quy mô lớn. Ở Trung Quốc các NGOs quốc nội tập trung vào môi trường với vai trò là người đi tiên phong trong số các tổ chức xã hội khác [Morton K. 2005: 522]. Nhiều NGOs quốc nội đã thành công trong việc kết nối với các NGOs nước ngoài, chẳng hạn như Greenpeace, The Nature Conservancy, và the World Wildlife Fund for Nature. Các đối tác quốc tế này không chỉ là một nguồn tài trợ quyết định cho các đối tác quốc nội của họ mà còn là người cung cấp các thực tiễn định chuẩn mới. Vì các NGOs nước ngoài này hoạt động trong phạm vi quốc tế nên chúng ta có thể hy vọng rằng họ đã kết hợp được các FPIC và các quyền DTTS vào các nguyên tắc hoạt động chung của họ.

Khả năng hiện thực thứ hai mà các chuẩn mực quốc tế có thể xâm nhập vào chính sách Trung Quốc là ở chỗ chúng có thể được các giới tinh hoa địa phương chấp nhận trên cơ sở trải nghiệm và chọn lọc cao như là một điều kiện để được tiếp nhận các khoản tài trợ phát triển quốc tế. Ngay cả khi các giới tinh hoa ở cấp địa phương này lúc đầu hoài nghi với mục đích của các chuẩn mực này thì các chuẩn mực đó vẫn có thể gây áp lực đối với các giới tinh hoa đó một cách toàn diện hơn nếu như các thực tiễn đi kèm chứng tỏ là thành công trong việc tối đa hoá một điều tốt đẹp đáng mong đợi nào đó. Trong trường hợp Trung Quốc thì điều tốt đẹp đó là tăng thêm tính bền vững về phương diện xã hội. Thực ra thì một số sáng kiến táo bạo nhất trong kỷ nguyên cải cách Trung Quốc bắt đầu với tư các là các kinh nghiệm rất đặc biệt của các lãnh đạo địa phương là những người cố gắng tìm cách giảm bớt đến tối thiểu tình trạng căng thẳng xã hội xuất hiện từ các cải cách. Quá trình thị trường hoá nông nghiệp nông thôn và thể chế bàu cử cấp thôn đã bắt đầu như vậy. Khi sự thành công của các kinh nghiệm này ngày càng trở nên rõ ràng thì các quan chức cấp cao hơn lưu ý và bổ sung các kinh nghiệm này vào các địa phương của họ. Mặc dù nhà nước Trung Quốc kể cả cấp địa phương và trung ương không nghi ngờ gì nữa, đều rất dị ứng với việc mời các tác nhân quốc tế vào để làm “công tác phát triển” trong các vùng DTTS, nhưng ở một mức độ nào đó nó vẫn muốn cho phép áp dụng các thực tiễn định chuẩn quốc tế chẳng hạn như FPIC nếu các cấp chính quyền này tin rằng nó có hiệu quả làm giảm thiểu nỗi bất bình về phương diện xã hội của các nhóm DTTS [Morton K. 2005: 527]. Sau cơn lũ phản kháng mang tính bạo lực tại các vùng Tây Tạng thuộc Trung Quốc, có thể nảy sinh một thiện chí nào đó nhằm thử các cách tiếp cận quản lý sắc tộc mới cho quá trình hiện đại hoá.

Chúng ta cũng không đơn giản nghĩ rằng các tác nhân phát triển quốc tế sẽ là những chất xúc tác cho sự thay đổi mang tính quyết định trong chính sách DTTS của Trung Quốc. Dựa vào những trường hợp thay đổi từ bên dưới ở chính Trung Quốc, các tư tưởng và thực tiễn mới vẫn phải kiên trì đấu tranh với cấu trúc chính trị rất nặng đầu có khuynh hướng kìm hãm tăng trưởng vượt khỏi một điểm nhất định. Điều cần suy nghĩ là các văn liệu lý thuyết có thể chỉ rõ chính sách DTTS không nhất thiết phải là một vật bất động.
_______________________________________

Nguồn: Erin Elizabeth Williams 2008. Ethnic Minorities and the State in China: Conflict, Assimilation, or a ‘Third Way’?. Canadian Political Science Association - CPSA.

Tài liệu tham khảo

Andrew P. Cortell and James W. Davis, Jr., 2000. Understanding the Domestic Impact of International Norms: A Research Agenda. In International Studies Review, Vol. 2, No. 1 (Spring 2000), 65-87.

Berlin, Brent and Elois Ann Berlin 2003. NGOs and the Process of Prior Informed Consent in Bioprospecting Research: the Maya ICBG Project in Chiapas, Mexico. In International Social Science Journal 55, Issue 178 (December 2003), 629-38.

Checkel, Jeffrey T. 1999. Norms, Institutions, and National Identity in Contemporary Europe. In International Studies Quarterly 43 (1999), 85.

Checkel, Jeffrey T. 2001. Why Comply? Social Learning and European Identity Change. In International Organization 55, No. 3 (Summer 2001).
Cortell P.A. and James W. Davis Jr. 2000. Understanding the Domestic Impact of International Norms: A Research Agenda. In International Studies Review, Vol.2, No.1. (Spring 2000).

Cowell, Sarah J. et al, 1999. Sustainability and the Primary Extraction Industries: Theories and Practice. In Resources Policy 25 (1999), 277.

Dreyer, June Teufel 1999. China, the Monocultural Paradigm. In Orbis 43, Issue 4 (Fall 1999), 591.

Dreyer June Teufel 2005. China’s Vulnerability to Minority Separatism, In Asian Affairs: An American Review 32, Issue 2 (Summer 2005);

Economy, Elizabeth C. 2004. The River Runs Black: The Environmental Challenge to China’s Future (Ithaca, NY: Cornell University Press, 2004).

Ghai, Yash 2000. Autonomy Regimes in China: Coping with Ethnic and Economic Diversity. In Autonomy and Ethnicity: Negotiating Competing Claims in Multi-ethnic States, ed. Ghai (Cambridge: Cambridge University Press, 2000), 83.

Gladney, Dru C. 1994. Representing Nationality in China: Refiguring Majority/Minority Identities. In Journal of Asian Studies 53, No. 1 (February 1994), 94, 96.

Gladney Dru [1995]. Economy and Ethnicity: The Revitalization of a Muslim Minority in Southeastern China, In The Waning of the Communist State: Economic Origins of Political Decline in China and Hungary, ed. Andrew Walder (Berkeley: University of California Press, 1995), 242-66.

Goodland Robert 2004. Free, Prior and Informed Consent and the World Bank Group. In Sustainable Development Law & Policy 66 (Summer 2004).

Goodman, David S. G. 2002. The Politics of the West: Equality, Nation-building, and Colonisation. In Provincial China 7, No. 2 (October 2002);

Goodman David S. G. 2004. The Campaign to ‘Open Up the West’: National, Provincial-level and Local Perspectives. In China Quarterly 178 (June 2004), 326-27.

Haarstad, Harvad  and Arnt Floysand 2007. Globalization and the Power of Rescaled Narratives: A Case of Opposition to Mining in Tambogrande, Peru. In Political Geography 26, No. 3 (March 2007), 289-308.

Harrell, Stevan 1995. Introduction. In Cultural Encounters on China’s Ethnic Frontiers, ed. Harrell (Seattle: University of Washington Press, 1995);

Hsia, Renee Yuen-Jan and Lynne T. White III. 2002. Working Amid Corporatism and Confusion. In Nonprofit and Voluntary Sector Quarterly 31, No. 3 (September 2002).

Hsia and White 1997. China: Social Groups Seek Independence in Regulatory Cage. New York, September 1997, cited in , “Working Amid Corporatism and Confusion: Foreign NGOs in China,” 331-32.

Keck, Margaret E.  and Kathryn Sikkink 1998. Activists Beyond Borders: Advocacy Networks in International Politics (Ithaca, NY: Cornell University Press, 1998).

Kirsch, Stuart 2007. Indigenous Movements and the Risks of Counterglobalization: Tracking the Campaign against Papua New Guinea’s Ok Tedi Mine. In American Ethnologist 34, No. 2 (2007), 303-321.

Lai Hongyi Harry 2002. China’s Western Development Program: Its Rationale, Implementation, and Prospects. In Modern China 28, No. 4 (October 2002).

Li Dezhu 2000. Large-scale development of western China and China’s nationality problems. In Qiushi (Seeking Truth), 1 June 2000, in FBIS, 15 June 2000;

MacKay, Fergus 2004. Indigenous Peoples’ Right to Free, Prior and Informed Consent and the World Bank’s Extractive Industries Review, Forest Peoples Programme, 28 June 2004, 6.

Mackerras Colin [1994]. China’s Minorities: Integration and Modernization in the Twentieth Century (Oxford: Oxford University Press, 1994);

Mehta, Lyla and Maria Stankovitch 2000. Operationalization of Free, Prior and Informed Consent. Prepared for Thematic Review 1.2: Dams, Indigenous People and vulnerable ethnic minorities, World Commission on Dams. Institute of Development Studies (UK).

Morton, Katherine 2005. The Emergence of NGOs in China and Their Transnational Linkages: Implications for Domestic Reform. In Australian Journal of International Affairs 59, No. 4 (December 2005), 521;

Potter, Pitman B. 2003. Belief in Control: Regulation of Religion in China, In China Quarterly 174 (June 2003), 317-337.

Potter, Pitman B.  2005. Governance of China’s Periphery: Balancing Local Autonomy and National Unity. In Columbia Journal of Asian Law 19, No. 1 (Fall 2005), especially 315.

Rosenthal, Joshua P. 2006. Politics, Culture, and Governance in the Development of Prior Informed Consent in Indigenous Communities. In Current Anthropology 47, No. 1 (February 2006).

Saich, Tony 2000. Negotiating the State: The Development of Social Organizations in China. In China Quarterly 161 (March 2000), 127.

Tamang Parshuram 2005. An Overview of the Principle of Free, Prior and Informed Consent and Indigenous Peoples in International and Domestic Law and Practices. Paper Presented at the Workshop on Free, Prior and Informed Consent and Indigenous Peoples, New York, 19 January 2005.

Wade Peter 1999. The Guardians of Power: Biodiversity and Multiculturality in Colombia. In The Anthropology of Power: Empowerment and Disempowerment in Changing Structures, ed. Angela Cheater (London: Routledge, 1999), 84;

Wang Shuping 2004. The People’s Republic of China on Minorities and International Approaches to Ethnic Groups: A Comparative Study. In International Journal on Minority and Group Rights 11 (2004), 167.

White, Gordon,  Jude Howell, and Hsiao-yuen Shang 1996. In Search of Civil Society: Market Reform and Social Change in Contemporary China, Oxford: Clarendon Press, 1996, 25.

Williams, Dee Mack 2002. Beyond Great Walls: Environment, Identity, and Development on the Chinese Grasslands of Inner Mongolia (Stanford, CA: Stanford University Press, 2002), especially Chapter 1.

Yuen, Renee, Jan Hsia and Lynne T. White III 2002. Working amid Corporatism and Confusion. In Nonprofit and Voluntary Sector Quarterly 31, No. 3 (September 2002).
_______________________________________

[1]. Đăc biệt có nhiều văn liệu nói về người Tây Tạng đang sống tại Khu Tự trị Tây Tạng (Tibet Autonomous Region TAR). Trong khi đó TAR có mật độ tập trung người Tây Tạng cao nhất (xấp xỉ 93%) nhưng vẫn còn nhiều người Tây Tạng khác sống tại các tỉnh Cam Túc, Thanh Hải, Tứ Xuyên và Vân Nam. Động loạn vẫn thường xảy ra tại các vùng này. Cũng có một số văn liệu đang ngày càng đầy đặn hơn về người Duy Ngô Nhĩ (Uyghyr), một trong số các nhóm sắc tộc lớn nhất tại Trung Quốc tập trung ở miền viễn Tây tỉnh Tân Cương.

[2]. Trung Quốc có 55 DTTS được chính thức công nhận với khoảng trên 100 triệu người. Vì vậy các nhóm này chiếm khoảng 8.4% toàn bộ dân số TQ. Số còn lại 91.6% là người đa số, người Hán. Quy mô của các nhóm DTTS đó rất khác nhau. Nhóm lớn nhất là người Choang (Zhuang), khoảng 20 triệu. Tiếp theo là người Hồi (Hui), người Duy Ngô Nhĩ (Uyghurs), người Tây Tạng (Tibetans) và người Mông Cổ (Mongolians). Ngược lại, các nhóm nhỏ nhất chỉ có vài nghìn người. Hầu hết các nhóm thiểu số cư trú tại các vùng rộng lớn ở phía Tây Nam, Tây Bắc, và phía Bắc. Mặc dù hầu hết các vùng đất này là núi non và sa mạc nhưng lại có các nguồn tài nguyên thiên nhiên có ý nghĩa to lớn về phương diện kinh tế và chiến lược chẳng hạn như gỗ, dầu lửa, khí đốt tự nhiên, than đá, và các khoáng sản.      

[3]. Liên minh các NGOs và Tổ chức Quyền của người Bản địa đã xem xét kỹ lưỡng nhóm Ngân hàng Thế giới và chủ trương ủng hộ cho 1) lập luận cho rằng nó sẽ không thực hiện quá trình này vì không có được đồng thuận quốc tế về ý nghĩa của nó, và 2) ủng hộ cho việc sử dụng loại chuẩn mực FPIC (free, prior, and informed consent) đã bị pha loãng đi. 



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét