Người dịch: Hà Hữu Nga
Giới thiệu
Các nhà khảo cổ học luôn quan tâm đến ý nghĩa quá khứ của sự vật. Các vấn đề nảy sinh khi người ta nhận ra rằng ý nghĩa của một đối tượng khảo cổ học trong hiện tại có thể rất khác với ý nghĩa trong quá khứ của nó. Điều đó đã dẫn đến nhiều cách xử lý các đối tượng khảo cổ học liên quan đến ý nghĩa. Có những người coi chúng là nguồn tri thức quan trọng về mặt lịch sử, trong khi những người khác lại chỉ thừa nhận tầm quan trọng của chúng trong xã hội đương đại và coi chúng như những đối tượng chỉ thuộc về hiện tại1. Ngoài ra, thuật ngữ ý nghĩa đã được quan niệm theo nhiều cách khác nhau trong khảo cổ học. Một số học giả, vẫn trung thành với truyền thống cấu trúc luận, đã coi ý nghĩa cố hữu có tính ngôn ngữ (Hodder 1986), trong khi những người khác lại coi nó như một khía cạnh vật chất hơn của sự vật (Dudley 2010).
Trong bài viết này, tôi đề cập đến các vấn đề liên quan trong nghiên cứu ý nghĩa của các đối tượng khảo cổ học, đó là, ý nghĩa nên được hiểu như thế nào và dựa trên cơ sở nào để nghiên cứu và tái tạo lại ý nghĩa quá khứ của sự vật2. Luận điểm chính của tôi trong bài viết này là ý nghĩa không phải là một phẩm chất vốn có của một đối tượng, cũng không phải là một kiến tạo xã hội hay lý tưởng về cơ bản có thể liên tục phải thương lượng, mà thực ra thì ý nghĩa luôn ngang bằng với thói quen hành động (EP 1: 131; Lele 2006; Bauer 2013). Theo nghĩa này, việc khái niệm hóa các đối tượng như một mạng thói quen hơn là một mạng quan hệ giúp chúng ta hiểu bản chất của ý nghĩa như một sự kiện lịch sử dài hạn (Lele 2006; Bauer 2013). Cuối cùng, điều đó dẫn đến quan điểm coi ý nghĩa như là quá trình thay vì đã đạt được, như là đang diễn ra hơn là đã được thực hiện, và được dự đoán thay vì được nhận thức. Điều này khác xa với định nghĩa bản chất luận hay duy tâm luận kinh điển về ý nghĩa như một cái gì đó lý tưởng, và bất biến (Johnson 1999: 85–92).
Nhà triết học và ký hiệu học người Mỹ Charles Peirce (1839–1914) vẫn là một nhân vật chủ chốt mà các văn bản về ý nghĩa, thói quen và sự tiến hóa của ông vẫn được trích dẫn thường xuyên, bất cứ khi nào các khái niệm đó được thảo luận (Waal 2001). Bài viết này cũng không ngoại lệ, vì nó rút tỉa được rất nhiều điều từ các bài viết của Peirce. Đồng thời, bài viết cũng đảm nhận một thách đố khá triết học về ý nghĩa, và do đó thiếu đi việc nghiên cứu trường hợp khảo cổ thông dụng và thường tẻ nhạt. Tuy nhiên, để phù hợp với các đặc tính của chủ nghĩa thực dụng, một ví dụ thực tế được rút ra từ lịch sử khảo cổ học. Trong bài viết gây tranh cãi năm 1954 Lý thuyết và Phương pháp Khảo cổ học: Một số Gợi ý từ Thế giới cũ”, nhà khảo cổ học Christopher Hawkes đã trình bày những gì có thể được mô tả như một thể thức suy luận khảo cổ học, một mô hình mà sau này được thăng lên thành “thang Hawkes”. Nguyên lý chính của nó là các nhà khảo cổ học nên bắt đầu bằng cách nghiên cứu các đối tượng được cho là có liên quan đến hoạt động công nghệ và chiến lược sinh tồn, vì chúng có thể ít thay đổi hơn so với các khía cạnh phi vật chất hơn của một văn hóa, như tôn giáo. Vậy là, cách tiếp cận của Hawkes vốn đã mang tính định hướng-sự vật. Ví dụ, có thể chế tác đá lửa theo nhiều cách khác nhau, nhưng nếu tính đến thực tế là ngày nay đá lửa có thể được xử lý giống như cách đây hàng nghìn năm, thì chúng ta khó mà có được những dữ liệu làm cơ sở nghiên cứu. Hơn nữa, vì khó xác định động cơ tôn giáo đằng sau hồ sơ khảo cổ học, vì vậy chỉ nên tiếp cận các câu hỏi liên quan đến chúng khi đã trả lời được các câu hỏi cơ bản hơn.
Ngày nay, cách tiếp cận như vậy có vẻ ngây thơ và mang tính quy giản luận. Quan điểm của Hawkes về suy luận khảo cổ học không khác với những gì điển hình của thời ấy. Cho đến những năm 1950, logic suy luận khảo cổ học có thể được coi là ngây thơ và đậm tính quy nạp (ví dụ, xem Wylie 2002; Lucas 2012; Marila 2013). Mục tiêu là để thu thập hồ sơ khảo cổ học trong tính toàn vẹn của nó. Sau khi mọi tài liệu được đưa ra ánh sáng, thì sự thật về quá khứ sẽ tự khải lộ. Đối với nhà khoa học ngày nay, các ý tưởng của Hawkes tự thể hiện mình là một thứ gì đó mang tính quy giản luận và nhị nguyên luận (Hodder 1989). Ngày nay khảo cổ học được coi là một nỗ lực kết-mở hơn là một quá trình quy nạp với những mục tiêu rõ ràng (Clarke 1973; Fogelin 2007). Hơn nữa, ngày nay các nhà khoa học luôn sẵn sàng, hoặc ít nhất họ cũng nên sẵn sàng thừa nhận rằng khoa học là có thể sai lầm và ngay cả những ý tưởng vững chắc nhất cũng có thể là giả tưởng. Cách tiếp cận của Hawkes đã bị chỉ trích khắp nơi (Hodder 1989; Graves 1994; Robb 1998; xem Evans 1998 để biết tóm tắt về bài phê phán Hawkes) vì sự ngây thơ của nó và thực sự không phù hợp với tư cách là một phương châm nhận thức ngày hôm nay. Tuy nhiên, tôi sử dụng thang Hawkesian làm ví dụ khi thảo luận về các khái niệm chủ chốt của bài viết này, đó là ý nghĩa và thói quen. Tôi cho rằng cho dù có những thiếu sót, nhưng ý tưởng cơ bản đằng sau mô hình Hawkesian không hoàn toàn sai lầm. Một khái niệm khác được triển khai là sự tiến hóa, mà tôi sử dụng để làm rõ hơn bản chất của ý nghĩa với tư cách thói quen. Tôi cho rằng thói quen và tiến hóa là trung tâm của việc hình thành khái niệm ý nghĩa với tư cách là một quá trình tiến hóa hơn là một mạng quan hệ tĩnh.
Ý nghĩa
Ý nghĩa trở thành một thuật ngữ mơ hồ khi vào những năm 1980, các nhà khảo cổ học nhận ra rằng tất cả các ý tưởng về ý nghĩa trong quá khứ đều là những kiến tạo hiện đại (Shanks & Tilley 1987). Vì vậy ý nghĩa chủ yếu được nghiên cứu theo quan điểm cá nhân luận. Ý nghĩa của một đối tượng khảo cổ học thường được coi là ý nghĩa của cá nhân trong quá khứ hoặc người diễn giải hồ sơ khảo cổ học. Không có liên tục tính thực sự nào giữa quá khứ và hiện tại được thừa nhận. Điều này đặc biệt đúng với trường hợp tiếp cận tường giải trong khảo cổ học (ví dụ Hodder 1986). Bất cứ khi nào một cách tiếp cận có hệ thống hơn được chấp nhận, thì ý nghĩa được coi là có tính cấu trúc (ví dụ như Gardin 1980; Hodder 1986; Shanks & Tilley 1987; Bapty & Yates 1990; Tilley 1990; 1991; Shanks 1992), một cách tiếp cận thường được tin là của Ferdinand de Saussure (1990).
Theo cách tiếp cận này, nghiên cứu ý nghĩa của một sự vật có nghĩa là nghiên cứu cái không phải là nó, tức là tất cả những gì là các thành phần khác của hệ thống khái niệm mà đối tượng nghiên cứu thuộc về chúng. Do đó, một đối tượng có được ý nghĩa của nó trong một hệ thống ý tưởng phức tạp (Preucel 2006: 30–31). Cách tiếp cận này dựa trên ý tưởng cho rằng tâm trí mang tính cấu trúc của con người chi phối mọi nhận thức và diễn giải, đồng thời chịu trách nhiệm cuối cùng về những ý nghĩa của sự vật. Bởi vì cấu trúc chi phối mọi suy nghĩ của con người được cho là không thay đổi, ngôn ngữ được sử dụng để diễn đạt ý tưởng cũng phải mang tính cấu trúc như nhau. Do đó, theo cách tiếp cận này, ý nghĩa quá khứ của một đối tượng (ý tưởng) có thể được biết bằng cách nghiên cứu ý nghĩa của đối tượng (ý tưởng) trong khoảng thời gian này. Cấu trúc đằng sau ngôn ngữ được lấy làm phương tiện kết nối giữa quá khứ và hiện tại. Khái niệm này dẫn đến ý tưởng cho rằng văn hóa vật chất trong quá khứ được tạo ra theo một ngữ pháp phổ biến và ngày nay có thể được đọc như bất kỳ văn bản nào (ví dụ: Hodder 1986). Điều này đã tạo ra một vấn đề trung tâm. Cũng giống như các chữ cái và từ ngữ, sự vật được coi là các biểu tượng cho những ý nghĩa và động cơ sâu xa hơn đằng sau quá trình sản xuất ra chúng. Các vấn đề mà ý tưởng này dẫn đến đã được đề cập đến ở nhiều công trình khác (ví dụ, xem Hodder 1989; Graves-Brown 1995; Preucel & Bauer 2001; Bauer 2002; Herva & Ikaheimo 2002; Preucel 2006). Phản ứng phổ biến chống lại khảo cổ học biểu tượng là ý nghĩa là một cái gì đó mang tính quá trình và quan hệ hơn là võ đoán và được tạo dựng.
Trong khoảng hai mươi năm gần đây, mô hình Saussurean đã được thay thế bằng một loại ký hiệu học khác trong khảo cổ học, đó là ký hiệu học Peircean thực dụng (ví dụ: Gardin 1992; Graves-Brown 1995; Preucel & Bauer 2001; Bauer 2002; Knappett 2005; Lele 2006; Preucel Năm 2006). Các nhà khảo cổ học chủ trương ký hiệu học Peirce thường đối chiếu ký hiệu học Saussurean với ký hiệu học Peircean bằng cách so sánh mô hình ký hiệu của họ, thường nhấn mạnh tính chất động của mô hình ba bên của Peirce trái ngược với mô hình hai bên cồng kềnh và tĩnh tại của Saussure (ví dụ: Preucel & Bauer 2001: 86; Preucel & Mrozowski 2010: 16). Việc chấp nhận mô hình của Peirce có nghĩa là thay vì coi các đối tượng chỉ đơn giản là các dấu hiệu tượng trưng, các nhà nhân học giờ đây còn sử dụng ký hiệu học bao gồm các dấu hiệu mang tính hình tượng (kết nối bằng tính tương đồng) và chỉ mục (kết nối theo nhu cầu vật chất). Có thể thấy một sự thay đổi thú vị trong cách mà các nhà khảo cổ học bắt đầu nghĩ khác về bằng chứng khảo cổ học với tư cách là các dấu hiệu. Vào những năm 1980 và 1990, các nhà khảo cổ học hậu-quá trình lập luận rằng tổ chức biểu trưng (xã hội) của một văn hóa khảo cổ học thường dễ nghiên cứu hơn các đặc điểm chức năng của sản xuất công nghệ (Hodder 1986: 31; Graves 1994: 167), trong khi các nhà khảo cổ học sau này lấy cảm hứng từ thực dụng luận Peircean lại chống báng quan điểm như vậy. Liebmann và cộng sự (2005: 48), chẳng hạn, cho rằng “văn hóa vật chất [---] chủ yếu chuyển tải ý nghĩa của nó thông qua các thuộc tính mang tính hình tượng và chỉ mục. Các cấp độ ý nghĩa này thường ít mơ hồ hơn các thuộc tính biểu trưng. Nhiều dấu hiệu không mang tính võ đoán bởi vì các yếu tố của chúng có quan hệ xác định với các chỉ vật của chúng. Mặc dù đúng là ý nghĩa của các dấu hiệu có thể thay đổi, nhưng các thành phần hình tượng và chỉ mục của các dấu hiệu lại cố định hơn so với các ý nghĩa biểu trưng.”
Một sự thật thú vị hơn mà các nhà khảo cổ học thường bỏ qua là ký hiệu học của Saussure và của Peirce nói chung dựa trên một loại triết học hoàn toàn khác. Cách tiếp cận cấu trúc luận đối với ý nghĩa là dựa trên triết học duy lý của Descartes (1996) đã trở nên lỗi thời vào cái ngày mà Darwin (1964) xuất bản cuốn Về Nguồn gốc Các loài vào năm 1859. Triết học của Descartes dựa trên ý tưởng cho rằng chủ thể duy lý là bất biến và cuối cùng vẫn không bị ảnh hưởng bởi lĩnh vực vật chất, đó là một ảo tưởng, như ông đã lập luận trong Meditationes de Prima Philosophia - Trầm tư về Đệ nhất Triết học năm 1641 (Descartes 1996). Thuyết tiến hóa chỉ ra rằng môi trường ảnh hưởng đến một cá nhân bao nhiêu thì các cá nhân cũng có thể ảnh hưởng đến môi trường của họ bấy nhiêu (Silva & Baert sắp xuất bản).
Thật thú vị khi thấy rằng cách tiếp cận duy lý đã có ảnh hưởng trong khảo cổ học cho đến cả thập kỷ gần đây. Trên thực tế, các lý thuyết tác tố (ví dụ như Dobres & Robb 2000), tiếp tục chính truyền thống cấu trúc luận này, mặc dù tác tố đã được triển khai theo kiểu thời thượng hậu-nhân văn như một thuật ngữ nhằm mục đích giải phóng các cá nhân khỏi các mô hình quyết định luận và cấu trúc luận của hành động người (Dornan 2002: 303–304) hoặc ý thức đối với vấn đề đó. Theo nghĩa này, câu hỏi về tác tố trong khảo cổ học tập trung vào loại tác tố của các tác nhân phi con người (Gosden 2005; Knappett & Malafouris 2008; Johannsen 2012; Silva & Baert sắp xuất bản). Đó là ý tưởng cơ bản đằng sau lý thuyết mạng tác tố (Knappett 2002) và lý thuyết sự vật (Brown 2001), cũng như khái niệm về đời sống xã hội của sự vật (Appadurai 1986). Điểm chung của tất cả các ý tưởng này là chúng là những hình thức phóng chiếu những thói quen về cơ bản của con người lên những thứ không phải con người3.
Tuy nhiên, gần đây, nhiều nhà khảo cổ học đã bắt đầu quan tâm đến việc nghiên cứu bản thân các sự vật, không phải là một phần của mạng4 hay lĩnh vực xã hội, mà là các sự vật trong bản thân chúng theo nghĩa chúng là những đối tượng có khả năng tự đứng vững, bất kể những gì mà bất kỳ con người nào có thể nghĩ gì về chúng (Gosden 2005; Normark 2010; Olsen 2010; Olsen et al. 2012). Trong triết học, nó bắt đầu nổi tiếng là phản-tương quan luận. Tương quan luận là một thuật ngữ được nhà triết học người Pháp Quentin Meillassoux (2008) sáng tạo ra. Nó đề cập đến ý tưởng tồn tại hàng thế kỷ cho rằng có một mối tương quan cần thiết và không thể tránh khỏi giữa hiện thực và tri thức của chúng ta về nó. Đối với bất kỳ nhà tương quan luận nào, thế giới chỉ có ý nghĩa khi nó liên quan đến suy nghĩ và cách nghĩ của chúng ta về nó. Các hình thức cực đoan của tương quan luận loại trừ sự tồn tại của thực tại với tư cách hoàn toàn độc lập với ý thức của chúng ta. Meillassoux coi hai truyền thống triết học thế kỷ 20 chịu trách nhiệm duy trì lập trường tương quan luận, đó là triết học phân tích và hiện tượng luận: triết học phân tích với mối bận tâm đặc biệt đến ngôn ngữ, còn hiện tượng luận là niềm đam mê với ý thức (Meillassoux 2008: 6).
Mới rồi, một nhánh suy lý đã xuất hiện trong triết học lục địa. Loại triết học được dán nhãn là hiện thực luận suy lý dựa trên ý tưởng cho rằng không hề có mối tương quan cơ bản nào, nhưng những gì là thực thì bao gồm vô số mối quan hệ giữa các đối tượng thực. Theo nghĩa này, cái kết nối các triết học khác nhau có thể được đặt trong thuật ngữ trùm ô hiện thực luận suy lý là phản-bản chất luận của chúng. Khi nói đến các đối tượng, các triết gia như Graham Harman (2005), Levi Bryant (2011), Ian Bogost (2012) và Timothy Morton (2010) khẳng định rằng những gì tồn tại suy cho cùng đều là đối tượng/ vật thể: bất cứ thứ gì từ nguyên tử, mèo con cho đến các đại học. Vấn đề là các mối quan hệ giữa các đối tượng làm phát sinh các đối tượng khác. Các quan hệ là các đối tượng. Theo nghĩa này, cái gọi là triết học hướng-đối tượng không chỉ đơn giản là tương đối luận theo nghĩa nó sẽ phủ nhận những phẩm chất thiết yếu của một đối tượng, mà nó định hướng-đối tượng theo định nghĩa. Quan điểm quan hệ của các đối tượng là trung tâm trong lý thuyết khảo cổ học gần đây, và điều cốt tử là phải hiểu ý nghĩa theo quan điểm phi-nhị nguyên luận (Gell 1998; Ingold 2006; 2007; Herva 2010; Herva et al. 2010; Hodder 2012).
Trong khi hiện thực luận suy lý đem đến một khởi điểm hữu thể luận hợp lệ cho việc nghiên cứu sự vật trong khảo cổ học, thì nó lại không cung cấp nhiều quỹ đạo khả thi cho việc nghiên cứu ý nghĩa. Trên thực tế, triết học lục địa hiện nay (hoặc ít nhất là nhánh định hướng-đối tượng của nó) dường như đang mắc phải một kiểu hỗn độn học thuật gây ra bởi hậu cấu trúc luận và quá nhiều ý nghĩa. Mặc dù cùng một loại phản-bản chất luận là trung tâm của chủ nghĩa thực dụng cổ điển, nhưng nó, với tư cách là một dự nghiệp ký hiệu học, có thể cung cấp điểm xuất phát triết học cho việc nghiên cứu các ý nghĩa trong quá khứ. Một nhà thực dụng luận có thể đồng ý với nhà hiện thực luận suy lý và khẳng định rằng các đối tượng tồn tại như một cái gì đó có thực và vật chất, nhưng kẻ ấy lại tiếp cận ý nghĩa của những đối tượng đó theo quan điểm hiện thực luận một cách bình đẳng5. Một điều khác kết nối hầu hết những người hiện thực luận suy lý và những người thực dụng luận là sự hoài nghi của họ đối với các phân loại theo thứ bậc (ví dụ: Webmoor 2013). Mặc dù chắc chắn tồn tại các khác biệt, nhưng vẫn có vô số mối liên hệ giữa các sự vật. Hơn nữa, sự khác biệt không loại trừ tính liên tục. Suy nghĩ theo khuôn khổ liên tục là sở trường của các nhà khảo cổ học, và đây là một điểm mà các nhà triết học lục địa thường có xu hướng bỏ qua. Ngoài vô số mối liên hệ giữa các sự vật, còn có vô số mối liên hệ chạy xuyên suốt lịch sử nữa.
Ngày nay, ngày càng có nhiều tác giả lấy cảm hứng từ thực dụng luận trong khảo cổ học, có lẽ nổi tiếng nhất trong số những tác giả gần đây là Robert Preucel (2006) và cú đánh cược thực dụng luận của ông về khảo cổ học xã hội. Tương tự như vậy, Timothy Webmoor và Christopher Witmore (2008) cũng đánh cược vào nghiên cứu khảo cổ học xã hội và mối quan hệ vật-người, kết hợp các yếu tố của triết học lục địa, hiện thực luận suy lý nói riêng và thực dụng luận kinh điển. Hơn nữa, Timothy Webmoor (ví dụ: 2007a) đã viết nhiều về thực dụng luận và khảo cổ học. Webmoor (2007a) bênh vực cho một nhận thức luận thực dụng (Jamesian) về khảo cổ học với hy vọng về một “khảo cổ học hòa giải”. Do đó, Webmoor xác định một cách láu lỉnh các khả tính của một cách tiếp cận thực dụng để khiến khảo cổ học trở thành một dự nghiệp thống nhất giữa các khoa học và nhân văn học, cũng như các nhà khảo cổ học và không-khảo cổ học. Christopher Witmore (2012) đưa ra một ví dụ về cách tiếp cận khá thực dụng luận với khái niệm thực dụng học (pragmatology) của khảo cổ học đối xứng, ý tưởng cho rằng các sự vật, sự kiện và hoàn cảnh là thật và có tác động thật đến nhau và theo đúng nghĩa, cung cấp điểm khởi đầu, cũng như căn cứ, để suy đoán về những hành động có thể xảy ra trong tiến trình, điều gì có thể xảy ra ở bất kỳ trường hợp cụ thể nào, hoặc sự liên quan khả thể nào mà một sự việc có với một sự vật khác. Tuy nhiên, ông không ám chỉ rõ ràng đến bất kỳ nhà triết học thực dụng cụ thể nào. Trên thực tế, khái niệm thực dụng học ra đời từ cuộc thảo luận xoay quanh khảo cổ học đối xứng. Tuy nhiên, ý tưởng về thực dụng học chấp nhận thái độ suy lý mang tính cốt tử đối với bất kỳ khảo cổ học hiện thực luận nào.6 Các ví dụ được đề cập trong chương này hoàn toàn không đại diện cho một danh sách đầy đủ các phương pháp tiếp cận thực dụng trong khảo cổ học, mà là tập hợp một số bài viết trong đó cách tiếp cận thực dụng đã được áp dụng liên quan đến việc nghiên cứu bản chất cũng như ý nghĩa của sự vật. Nếu có một xu hướng hoặc dòng suy nghĩ được nhìn nhận theo cách mà các nhà khảo cổ học đã thay đổi ý tưởng của họ về ý nghĩa, thì đó là xu hướng suy nghĩ theo các khuôn khổ năng động hơn. Dù lấy cảm hứng từ hiện thực luận lục địa hay chủ nghĩa thực dụng Mỹ, thì mục tiêu vẫn là từ bỏ quan điểm nhị nguyên luận và thừa nhận mức độ vướng víu (Hodder 2012) trong mọi thứ.
Thói quen Hành động như là Ý nghĩa
Các đối tượng khảo cổ học vật chất là nguồn tư liệu quan trọng nhất cho việc khảo sát khảo cổ học. Trên thực tế, sự vật là nhân chứng tốt nhất cho quá khứ của chúng7. Một trong những nhà khảo cổ học đầu tiên đề xuất điều gì đó theo hướng tiếp cận định hướng-đối tượng để giải mã các ý nghĩa trong quá khứ là Christopher Hawkes. Trong bài báo năm 1954 của mình, Hawkes viết rằng ông “thường bối rối trước sự cần thiết chính thức bắt đầu câu chuyện thời tiền sử ngay từ khởi đầu, nơi mà chúng ta biết ít nhất, và tiếp tục từ đó trở đi” (Hawkes 1954: 167). Sau đó, ông tiếp tục cho rằng “thay vì tiến từ cái chưa biết tới cái đã biết, người ta có thể tiến tới cái chưa biết từ cái đã biết” (Hawkes 1954: 167). Hawkes (1954: 161–162) đề xuất một hệ thống phân cấp suy luận bốn cấp mà sau này được gọi là “thang Hawkes”. Hawkes (1954: 161–162) viết rằng các nhà khảo cổ học trước hết nên bắt đầu bằng việc nghiên cứu công nghệ hoặc kỹ thuật sản xuất. Ông cho rằng lý luận về cấp độ này phải tương đối đơn giản. Mức độ dễ dàng nhất của cấp độ thứ hai liên quan đến các chiến lược sinh tồn trong quá khứ và cũng nên ít nhiều có thể sử dụng được. Cấp độ thứ ba liên quan đến việc suy ra các thể chế chính trị và xã hội trong quá khứ. Cấp độ khó khăn nhất của xã hội quá khứ có lẽ là các thể chế tôn giáo và đời sống tinh thần.8
Hawkes (1954: 156) đã phân biệt giữa khảo cổ học không văn bản và khảo cổ học có văn bản-hỗ trợ và chỉ ra rằng cái gọi là khảo cổ học không văn bản luôn quan tâm đến các tài liệu và lý thuyết tiến hóa. Theo nghĩa đó, khảo cổ học không có văn bản đã tập trung vào việc nghiên cứu các loại hình thể hiện một “mục đích nhất quán từ phía những người tạo ra nó” (Hawkes 1954: 157, nhấn mạnh của tác giả). Tuy nhiên, khảo cổ học có văn bản hỗ trợ luôn dựa trên sự kết nối giữa những gì có thể đọc được trong các văn bản lịch sử và những gì có thể biết được khi nghiên cứu các di tích khảo cổ học (Hawkes 1954: 158). Do đó, các ý nghĩa của một sự vật trong quá khứ có thể được biết khá rõ ràng bằng cách nghiên cứu bối cảnh mà nó được mô tả trong văn bản, hoặc như Hawkes (1954: 158) đã nói, các loại hình có thể được xác định bằng “các khẳng định bằng văn bản đảm bảo rằng đã có những loại hình như vậy, được tiêu chuẩn hóa và chỉ thay đổi về chi tiết” (tác giả nhấn mạnh). Với sự trợ giúp của các “trường hợp được đảm bảo” như vậy, người ta có thể tiến tới suy luận về các loại hình chưa được đảm bảo. Tôi phải kiềm chế bản thân để không sử dụng thuật ngữ đảm bảo của Hawkes, nhưng điều khiến tôi thú vị là cái cách mà loại hình thuật ngữ được sử dụng như một từ đồng nghĩa với phong cách và, như tôi sẽ đề xuất, là thói quen. Như Hawkes (1954: 158) đã viết, cái loại hình học bằng cách đảm bảo các tuyên bố văn bản tương tự loại hình học của các tác vật thành các loại hình dựa trên chất liệu của chúng và các đặc điểm chức năng khác trong khảo cổ học không có văn bản; cả hai đều dựa trên ý tưởng về các chuẩn mực (hoặc thói quen) của con người trong hoạt động có trách nhiệm. Có một sự tiếp nối được phát hiện thấy từ thời tiền sử đến lịch sử, hoặc từ lịch sử đến tiền sử theo nghĩa Hawkesian, và cả hai thời kỳ đều được thể hiện trong các sự vật9. Vì từ ngữ và sự vật có mối quan hệ với nhau bằng các quá trình hoạt động tương tự (từ ngữ là công cụ), nên có một mối quan hệ phải được thấy giữa các văn bản và sự vật được đề cập trong văn bản, và sự vật được đề cập trong văn bản và sự vật thời tiền sử. “Nhận thức về mối quan hệ đó nhất thiết phải đi vào nhận thức của chúng ta về chúng, và tạo điều kiện cho việc diễn giải khảo cổ học của chúng ta” (Hawkes 1954: 159).
Mặc dù hệ thống phân cấp suy luận của Hawkes đã bị chỉ trích vì những thiếu sót của nó10, nhưng tôi vẫn thấy nó rất thú vị khi được nhìn nhận từ quan điểm thực dụng. Cách tiếp cận của Hawkes phù hợp với ý tưởng tiến hóa của các khoa học lịch sử trong thời ông. Việc nghiên cứu về quá khứ dựa trên ý tưởng cho rằng tiến bộ văn hóa diễn ra theo một số quá trình phổ biến và tiến hóa nhất định hệt như tiến bộ diễn ra trong tự nhiên vậy. Cách tiếp cận này sau đó đã bị chỉ trích vì không ai có thể xác định được các quá trình cũng như phương pháp phân tích biến đổi văn hóa (Lyman & O´Brien 2001: 333). Vấn đề là các quá trình tiến hóa sinh học được cho là có thể áp dụng cho hành động của con người theo nghĩa văn hóa. Tất nhiên, điều này đúng ở một mức độ nhất định, nhưng càng xa sự thật khi cách tiếp cận gần đây đã phân biệt rõ ràng giữa tiến hóa văn hóa và tự nhiên (Kristiansen 2004: 82).
Ngày nay quan điểm có phần đơn giản của Hawkes về các cấp độ khảo sát khảo cổ học có thể có vẻ ngây thơ và theo đúng nghĩa là đáng lo ngại về tính nhân học, cũng như tính nhị nguyên, trong việc tạo ra sự phân biệt rõ ràng giữa lĩnh vực công nghệ và tinh thần (xem Hodder 1989; Graves 1994; Robb 1998).11 Ví dụ John Robb (1998: 330), đã chỉ ra rằng lý do phương pháp tiếp cận của Hawkes vẫn phổ biến trong khảo cổ học là ở chỗ định lý thang bậc là trực quan và thông thường. Trong cùng một đoạn văn, Robb lưu ý rằng quan điểm nhị nguyên luận của Hawkes về các lĩnh vực vật chất và tượng trưng với tư cách là các lĩnh vực đặc biệt lại không chính xác. Mối quan tâm của Robb là liệu các nhà khảo cổ có bao giờ phát hiện ra bất cứ thứ văn hóa nào không mang tính biểu trưng (Robb 1998: 331) hay không. Các cấp độ thang bậc của Hawkes theo đúng nghĩa có thể không tự thể hiện là nơi khởi đầu thích hợp cho khoa học khảo cổ học ngày nay, nhưng ý tưởng cơ bản, và đặc biệt là các cấp độ thang bậc của phép ẩn dụ suy luận, vẫn rất thú vị (Graves 1994: 167).
Một cách tiếp cận phù hợp hơn là coi hành động của con người như một thói quen theo nghĩa tiến hóa. Cũng giống như bất kỳ hành động theo thói quen nào, ví dụ, các quy luật tiến hóa và vật lý đều là thói quen hành động12. Như tôi đã đề cập trước đây, đối với Hawkes, việc nghiên cứu về loại hình và phong cách dựa trên ý tưởng về các chuẩn mực của con người trong hoạt động có trách nhiệm. Ý tưởng về sự tiến hóa và tính liên tục có thể thấy trong công thức của Hawkes và nó rất gần với ý tưởng của Charles Peirce về thói quen như một quá trình tiến hóa. Peirce cho rằng thói quen trở thành quy luật chung; mọi thói quen đều là quy luật chung (CP 2,148). Theo nghĩa này, sẽ không quá xa vời để liên kết các chuẩn mực hành động con người của Hawkes với thói quen của Peirce. Tương tự như vậy, giờ đây có thể đi đến kết luận (một quan điểm trọng tâm của tôi trong bài viết này) rằng tất cả con người và phi người đều có thói quen và tiến hóa theo nghĩa này. Một khi chúng ta từ bỏ thứ triết học duy lý, thì mọi thứ trở nên đơn giản hơn: Graham Harman (2010: 146–147) đã ghi nhận một cách sắc sảo rằng, vì thứ triết học truyền thống này coi con người và vạn vật về cơ bản là tách biệt, nên mối quan hệ giữa con người và vạn vật trở nên thú vị về mặt triết học hơn so với mối quan hệ giữa sự vật với nhau, hoặc chủ yếu là sự vật dường như tiếp xúc gần gũi; và những mối quan hệ đó thường được xử lý bởi các khoa học tự nhiên. Việc loại bỏ các nhị nguyên truyền thống này dẫn đến một ý tưởng hoàn toàn khác so với những nhị nguyên được cách tiếp cận cấu trúc luận về ý nghĩa đề cao.
Với cái gọi là bước ngoặt vật chất trong khảo cổ học, chúng ta phải đối mặt với khả tính biến mất hoàn toàn của diễn giải, tường thuật và ý nghĩa. Trong thế giới hậu nhân văn, cách hiểu mang tính cấu trúc luận về ý nghĩa nên được thay thế bằng một định nghĩa ít nhân trung tâm luận hơn. Ý nghĩa không phải là thứ mà con người ban tặng hoặc tạo ra (tạo ra ý nghĩa vẫn là một cụm từ phổ biến trong khảo cổ học và nhân học). Ý nghĩa là những gì diễn ra, nhưng đúng đắn hơn, là những gì trở thành trong thực tiễn vật chất, như Karen Barad (2007: 148) đưa ra trong Meeting the Universe Halfway - Gặp gỡ Vũ trụ Giữa đường. Bjornar Olsen (2012b: 22) đã ghi nhận một cách sâu sắc rằng trong những cuốn sách và bài viết gần đây về nghệ thuật trên đá của vùng Scandinavia, các sự vật (hình ảnh của sự vật) không bao giờ được coi là như nó vốn có, mà luôn được diễn giải là một thứ khác, “một con tuần lộc không bao giờ là một con tuần lộc; một dòng sông luôn là một dòng sông vũ trụ.” Olsen (2012b: 22) không xóa bỏ diễn giải ở dạng “khiêm tốn và quen thuộc” của nó, mà phản đối những diễn giải quá hào nhoáng, trong đó một số đặc điểm vật chất thường được cho là mang tính vũ trụ học, huyền bí, hoặc siêu việt. Trong công trình tinh túy Văn hóa Vật chất sau Văn bản: Tái ghi nhớ Sự vật - Material Culture after Text: Re-Membering Things nổi tiếng của mình, Olsen đã viết rằng “[N]ếu có một lịch sử chạy suốt từ Hẻm núi Olduwai đến Hậu hiện đại, thì nó phải là một lịch sử của tính vật chất ngày càng gia tăng – mà ngày càng nhiều nhiệm vụ được giao phó cho các tác nhân phi-người; ngày càng có nhiều hành động do sự vật điều hòa (Olsen 2003a: 88; xem thêm Olsen 2003b).
_____________________________________________
(Còn nữa…)
Nguồn: Marila M. (2012). Things in Action - Interpreting the Meanings of Things in Archaeology, In Book: Janne Ikäheimo, Anna-Kaisa Salmi & Tiina Äikäs (eds.): Sounds Like Theory. XII Nordic Theoretical Archaeology Group Meeting in Oulu 25. 8. 4. 2012. Monographs of the Archaeological Society of Finland 2, 9–20, Published by: The Archaeological Society of Finland.
Ghi chú
1. Để có một ví dụ gần đây về sự đối lập như vậy, hãy xem, ví dụ, cái gọi là cuộc tranh luận Holtorf-Kristiansen (Holtorf 2008; Kristiansen 2008). Kristiansen lo lắng về ý tưởng của Holtorf cho rằng đặc tính quá khứ được nhận thức của sự vật quan trọng hơn quá khứ thực của chúng (Kristiansen 2008: 489).
2. Ở đây, tôi sử dụng từ tái cấu trúc theo nghĩa tự do của nó. Do đó không nên chú ý đến sự mơ hồ của từ này. Tái cấu trúc có thể hiểu là một từ đồng nghĩa lỏng lẻo đối với việc diễn giải và quá trình hình thành giả thuyết. Các tái cấu trúc với tư cách là giả thuyết luôn là những suy luận bắt cóc, hoặc những suy luận nhằm đưa ra lời giải thích tốt nhất (Shelley 1996; Fogelin 2007). Theo nghĩa này, các tái cấu trúc nên được coi như một thứ gì đó phụ thuộc.
3. Có thể nói rằng việc phê phán những lý thuyết này vì việc chúng phóng chiếu quan niệm của con người lên sự vật là một hình thức của nhân trung tâm luận, một quan điểm mà ngày nay một số nhà khảo cổ học đang cố gắng hết sức tránh. Nhưng cũng có thể nói rằng bất kỳ nỗ lực nào để tránh nhân trung tâm luận đều tự nó là nhân trung tâm luận (Morton 2010: 76). Một số triết gia, đáng chú ý nhất là Graham Harman (2005) và Ian Bogost (2012) cho rằng bất kỳ nỗ lực nào để hiểu những thứ khác về bản chất đều mang tính ẩn dụ và dựa trên phép loại suy. Ví dụ, Bogost (2012: 66) viết rằng tất cả các phép ẩn dụ mà chúng ta triển khai nhằm nỗ lực hiểu sự vật nhất thiết phải được nhân hình hóa.
4. Đối với những phê phán gần đây về thuật ngữ “mạng”, hãy xem, ví dụ, Bogost (2012), Hodder (2012), Ingold (2008) và Morton (2010). Ý tưởng hàng đầu đằng sau phê phán này là các mạng ngụ ý cấu trúc quá cứng nhắc và không cho phép có chỗ cho các loại tình huống ngẫu nhiên, khác biệt và ‘lộn xộn’ chắc chắn tồn tại. Theo sự đồng thuận hiện nay, sự vật không được kết nối với nhau thông qua các cấu trúc hay sức mạnh giống như mạng phi vật chất, mà đúng hơn, có vô số mối quan hệ giữa các vật thể và bản thân những mối quan hệ đó cũng là vật thể. Các tác giả nói trên đã thay thế thuật ngữ mạng bằng các khái niệm như vướng víu (Hodder), lưới (Morton), hỗn độn (Bogost), và mạng lưới (Ingold).
5. Để có phần giới thiệu ngắn gọn về chủ nghĩa thực dụng, hãy xem Shook & Margolis 2006.
6. Để biết cách tiếp cận Peircean đối với tác tố vật chất, xem Watts (2008). Người đọc cũng quan tâm đến các bài báo được đưa ra tại buổi hội thảo TAG năm 2010 về chủ nghĩa thực dụng [http://proteus.brown.edu/tag2010/8045]
7. Hoặc như Lucas (2012: 24) viết, di vật không nói dối, vì ngay từ đầu chúng đã không định nói gì.
8. Người viết bài này không đồng ý với quan điểm cho rằng khảo cổ học ở bất kỳ cấp độ nào cũng sẽ là đơn giản. Quan điểm của Hawkes cũng nên được xem là phản ánh thái độ đặc trưng của chủ nghĩa kinh nghiệm ngây thơ điển hình trong thời Hawkes.
9. Theo Timothy Morton (2013: 112), “[m]ỗi vật thể đều là một hồ sơ khảo cổ học tuyệt vời về mọi thứ đã từng xảy ra với nó.”
10. Đối với những hiểu lầm về bài báo của Hawkes, xem Evans (1998).
11. Một số phê phán chống lại Hawkes vẫn thuần nhân trung tâm luận, ngây thơ và nhị nguyên luận. Ví dụ, Ian Hodder và Scott Hutson (2003: 138) cho rằng định lý suy luận của Hawkes dựa trên ý tưởng sai lầm rằng “có những nơi mà thời gian bắt đầu và từ đó xuất hiện những khởi đầu.” Đồng thời, Hodder và Hutson luận rằng thời gian là do con người tạo ra và không tồn tại độc lập với cuộc sống. Trừ khi Hodder và Hutson đang biện hộ cho một cách tiếp cận hoạt lực luận (mọi thứ đều sống động), thì triết học của họ vốn dĩ vẫn là tương quan luận.
References
Appadurai, A. 1986. Introduction: Commodities and the Politics of Value. In A. Appadurai (ed.), The Social Life of Things: Commodities in Cultural Perspectives, 3–63. Cambridge, Cambridge University Press.
Bapty, I. & Yates, T. (eds.), 1990. Archaeology after structuralism. Post-structuralism and the practice of archaeology. London, Routledge.
Barad, K. 2007. Meeting the Universe Halfway: Quantum Physics and the Entanglement of Matter and Meaning. Durham, Duke University Press.
Bauer, A. 2002. Is What You See All You Get? Recognizing Meaning in Archaeology. Journal of Social Archaeology 2, 37–52.
Bauer, A. 2013. Objects and Their Glassy Essence: Semiotics of Self in the Early Bronze Age Black Sea. Signs and Society 1, 1–31.
Bogost, I. 2012. Alien Phenomenology or What It’s Like to Be a Thing. Minneapolis, University of Minnesota Press.
Brown, B. 2001. Thing Theory. Critical Inquiry 28, 1–22.
Bryant, Levi. 2011. The Democracy of Objects. Ann Arbor, Open Humanities Press.
Clarke, D. 1973. Archaeology: the loss of innocence. Antiquity 47, 6–18.
CP followed by number of volume and paragraph refers to The Collected Papers of Charles Sanders Peirce. Volumes 1–6 edited by C. Hartshorne & P.Weiss (1931–1935), volumes 7–8 edited by A. Burks (1958). Cambridge, Harvard University Press.
Darwin, C. 1964 (1859). On the origin of species. Cambridge, Harvard University Press.
Davidson, D. 1980. Essays on Actions and Events. Oxford, Oxford University Press.
Descartes, R. 1996 (1641). Meditations on first philosophy. Edited by John Cottingham. Cambridge, Cambridge University Press.
Dewey, J. 1895. The Theory of Emotions. Psychological Review 2, 13–32.
Dobres, M.-A. & Robb, J. E. (eds.), 2000. Agency in archaeology. London, Routledge.
Dornan, J. L. 2002. Agency and Archaeology: Past, Present, and Future Directions. Journal of Archaeological Method and Theory 9, 303–329.
Dudley, S. H. (ed.), 2010. Museum Materialities: Objects, Engagements, Interpretations. London and New York, Routledge.
EP followed by number of volume and page number refers to The Essential Peirce. Selected Philosophical Writings. Volume 1 edited by N. Houser & C. Kloesel (1992), volume 2 edited by the Peirce Edition Project (1998). Bloomington, Indiana University Press.
Evans, C. 1998. Historicism, Chronology and Straw Men: Situating Hawkes’ ‘Ladder of Inference’. Antiquity 72, 398–404.
Fogelin, L. 2007. Inference to the best explanation: a common and effective form of archaeological reasoning. American Antiquity 72, 603–625.
Gardin, J.-C. 1980. Archaeological constructs. An aspect of theoretical archaeology. Cambridge, Cambridge University Press.
Gardin, J.-C. 1992. Semiotic trends in archaeology. In J.-C. Gardin & C. Peebles (eds.), Representations in Archaeology, 87–104. Bloomington, Indiana University Press.
Gell, A. 1998. Art and agency: an anthropological theory. Oxford, Clarendon Press.
Gosden, C. 2005. What Do Objects Want?. Journal of Archaeological Method and Theory 12, 193–211.
Graves, P. 1994. Flakes and ladders: What the archaeological record cannot tell us about the origins of language. World Archaeology 26, 158–171.
Graves-Brown, P. M. 1995. Fearful symmetry. World Archaeology 27, 88–99.
Harman, G. 2005. Guerrilla Metaphysics. Phenomenology and the Carpentry of Things. Chicago, Open Court.
Harman, G. 2010. Towards Speculative Realism: Essays and Lectures. Ropley, Zero Books.
Hawkes, C. 1954. Archaeological Theory and Method: Some Suggestions from the Old World. American Anthropologist 56, 155–168.
Herva, V.-P. 2010. Buildings as persons: relationality and the life of buildings in a northern periphery of early modern Sweden. Antiquity 84, 440–452.
Herva, V.-P. & Ikaheimo, J. 2002. Defusing Dualism: Mind, Materiality and Prehistoric Art. Norwegian Archaeological Review 35, 95–108.
Herva, V.-P., Nordqvist, K., Herva, A. & Ikaheimo, J. 2010. Daughters of magic: esoteric traditions, relational ontology and
the archaeology of the post-medieval past. World Archaeology 42, 609–621.
Hodder, I. 1986. Reading the past: current approaches to interpretation in archaeology. Cambridge, Cambridge University Press.
Hodder, I. 1989. This Is Not an Article About Material Culture as Text. Journal of Anthropological Archaeology 8, 250–269.
Hodder, I. 2012. Entangled: An Archaeology of the Relationships Between Humans and Things. Malden, Wiley-Blackwell.
Hodder, I. & Hutson, C. 2003. Reading the past. Current approaches to interpretation in archaeology. Cambridge, Cambridge University Press.
Holtorf, C. 2008. Academic critique and the need for an open mind (a response to Kristiansen). Antiquity 82, 490–492.
Holtorf, C. 2013. On pastness: a reconsideration of materiality in archaeological object authenticity. Anthropological Quarterly 86, 427–444.
Ingold, T. 2006. Rethinking the animate, reanimating thought. Ethnos 71, 9–20.
Ingold, T. 2007. Materials against materiality. Archaeological Dialogues 14, 1–16.
Ingold, T. 2008. When ANT Meets SPIDER: Social Theory for Anthropods. In C. Knappett & L. Malafouris (eds.), Material
Agency: Towards a Non-Anthropocentric Approach, 209–215. New York, Springer.
Ingold, T. 2013. Dreaming of dragons: on the imagination of real life. Journal of the Royal Anthropological Institute 19, 734–752.
Johannsen, N. 2012. Archaeology and the inanimate agency proposition: a critique and a suggestion. In N. Johannsen, M.
Jessen & H. J. Jensen (eds.), Excavating the mind: cross-sections through culture, cognition and materiality, 305–347. Aarhus, Aarhus University Press.
Johnson, M. 1999. Archaeological theory: an introduction. Malden, Blackwell Publishing.
Kauffman, S. 2012. From physics to semiotics. In S. Rattasepp & T. Bennett (eds.), Gatherings in Biosemiotics, 30–46. Tartu, University of Tartu Press.
Knappett, C. 2002. Photographs, skeuomorphs and marionettes: some thoughts on mind, agency and object. Journal of Material Culture 7, 97–117.
Knappett, C. 2005. Thinking Through Material Culture: An Interdisciplinary Perspective. Philadelphia, University of Pennsylvania Press.
Knappett, C. & Malafouris, L. (eds.), 2008. Material Agency: Towards a Non-Anthropocentric Approach. New York, Springer.
Kristiansen, K. 2004. Genes versus agents: A discussion of widening theoretical gaps in archaeology. Archaeological Dialogues 11, 77–132.
Kristiansen, K. 2008. Should archaeology be in the service of ‘popular culture’? A theoretical and political critique of Cornelius Holtorf ’s vision of archaeology. Antiquity 82, 488–490.
Lele, V. P. 2006. Material habits, identity, semeiotic. Journal of Social Archaeology 6, 48–70.
Liebmann, M., Ferguson, T. J. & Preucel, R. W. 2005. Pueblo settlement, architecture, and social change in the Pueblo Revolt Era, A.D. 1680 to 1696. Journal of Field Archaeology 30, 45–60.
Lucas, G. 2012. Understanding the Archaeological Record. Cambridge, Cambridge University Press.
Lyman, L. R. & O’Brien, M. J. 2001. The Direct Historical Approach, Analogical Reasoning, and Theory in Americanist Archaeology. Journal of Archaeological Method and Theory 8, 303–342.
Marila, M. 2013. Abduktiivinen paattely arkeologiassa: arkeologian epistemologiasta sen historian ja nykytilanteen valossa. Muinaistutkija 3, 45–63.
Meillassoux, Q. 2008. After Finitude. An Essay on the Necessity of Contingency. London, Continuum.
Morton, T. 2010. The Ecological Thought. Cambridge, Harvard University Press.
Morton, T. 2013. Realist Magic: Objects, Ontology, Causality. Ann Arbor, Open Humanities Press.
Normark, J. 2010. Involutions of materiality: Operationalizing a neo-materialist perspective through the causeways of Ichmul and Yo’okop, Mexico. Journal of Archaeological Method and Theory 17, 132–173.
Olsen, B. 2003a. Material culture after text: re-membering things. Norwegian Archaeological Review 36, 87–104.
Olsen B. 2003b. Fran ting till text: teoretiska perspektiv i arkeologisk forskning. Lund, Studentlitteratur.
Olsen, B. 2010. In defense of things. Lanhan, AltaMira Press.
Olsen, B. 2012a. Symmetrical Archaeology. In Ian Hodder (ed.), Archaeological Theory Today. 2nd edition, 208–228. Cambridge, Polity Press.
Olsen, B. 2012b. After Interpretation: Remembering Archaeology. Current Swedish Archaeology 20, 11–34.
Olsen, B., Shanks, M., Webmoor, T. & Witmore, C. 2012. Archaeology: The Discipline of Things. Berkeley, University of California Press.
Preucel, R. 2006. Archaeological Semiotics. Malden: Blackwell.
Preucel, R. & Bauer, A. 2001. Archaeological Pragmatics. Norwegian Archaeological Review 34, 85–96.
Preucel, R. W. & Mrozowski, S. A. (eds.), 2010. Contemporary archaeology in theory. The new pragmatism. Malden, Wiley-Blackwell.
Robb, J. 1998. The archaeology of symbols. Annual Review of Anthropology 27, 329–346.
Saussure, F. de. 1990. Course in general linguistics. London, Duckworth.
Shanks, M. 1992. Experiencing the past. On the character of archaeology. London, Routledge.
Shanks, M. & Tilley, C. 1987. Re-constructing archaeology. Theory and practice. Cambridge, Cambridge University Press.
Shelley, C. 1996. Visual abductive reasoning in archaeology. Philosophy of science 63, 278–301.
Shook, J. R. & Margolis, J. (eds.), 2006. A companion to pragmatism. Malden, Blackwell Publishing.
Silva, F. C. da & Baert, P. Forthcoming. Evolution, agency, and objects: Re-discovering classical pragmatism. In A. Gardner, M. Lake & U. Sommer (eds.), Oxford Handbook of Archaeological Theory. Oxford, Oxford University Press.
Tilley, C. (ed.), 1990. Reading material culture. Structuralism, hermeneutics and post-structuralism. Oxford, Basil Blackwell.
Tilley, C. 1991. Material culture and text: the art of ambiguity. London, Routledge.
Waal, C. de. 2001. On Peirce. Belmont, Wadsworth.
Watts, C. M. 2008. On Mediation and Material Agency in the Peircean Semeiotic. In C. Knappett & L. Malafouris (eds.), Material Agency: Towards a Non-Anthropocentric Approach, 187–207. New York, Springer.
Webmoor, T. 2007a. The Dilemma of Contact: Archaeology’s Ethics-Epistemology Crisis and the Recovery of the Pragmatic Sensibility. Stanford Journal of Archaeology 5, 224–246.
Webmoor, T. 2007b. What about ‘one more turn after the social’ in archaeological reasoning? Taking things seriously. World Archaeology 39, 563–378.
Webmoor, T. 2013. STS, symmetry, archaeology. In P. Graves-Brown, R. Harrison & A. Piccini (eds.), The Oxford Handbook of the Archaeology of the Contemporary World, 105–120. Oxford, Oxford University Press.
Webmoor, T. & Witmore, C. 2008. Things Are Us! A Commentary on Human/Things Relations Under the Banner of a ‘Social’ Archaeology. Norwegian Archaeological Review 41, 53–70.
Wenban-Smith, F. 1989. The use of canonical variates for determination of biface manufacturing technology at Boxgrove Lower Palaeolithic site and the behavioural implications of this technology. Journal of Archaeological Science 16, 17–26.
Whitehead, A. N. 1978. Process and Reality. New York, The Free Press.
Witmore, C. 2012. The Realities of the Past: Archaeology, Object- Orientations, Pragmatology. In B. Fortenberry & L. McAtackney (eds.), Modern Materials: The Proceedings of CHAT Oxford, 2009, 25–36. Oxford, Archaeopress.
Wylie, A. 2002. Thinking from things. Essays in the philosophy of archaeology. London, University of California Press.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét