Powered By Blogger

Thứ Ba, 7 tháng 12, 2021

Khái lược về Thủy lợi và Sinh kế vùng Đồng bằng Sông Cửu Long (I)

Hà Hữu Nga

“Thủy lợi là tổng hợp các giải pháp nhằm tích trữ, điều hòa, chuyển, phân phối, cấp, tưới, tiêu và thoát nước phục vụ sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, sản xuất muối; kết hợp cấp, tiêu, thoát nước cho sinh hoạt và các ngành kinh tế khác; góp phần phòng, chống thiên tai, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu và bảo đảm an ninh nguồn nước.” “Công trình thủy lợi là công trình hạ tầng kỹ thuật thủy lợi bao gồm đập, hồ chứa nước, cống, trạm bơm, hệ thống dẫn, chuyển nước, kè, bờ bao thủy lợi và công trình khác phục vụ quản lý, khai thác thủy lợi.” (Quốc hội 2017, Điều 2). [HHN chen ngang: Giá như có thể bổ sung vài chữ viết hoa để có định nghĩa:“Thủy lợi là tổng hợp CÁC CHIẾN LƯỢC TÌM KIẾM, KHAI THÁC, BẢO VỆ NGUỒN TÀI NGUYÊN NƯỚC và các giải pháp nhằm tích trữ, điều hòa, chuyển, phân phối, cấp, tưới, tiêu và thoát nước phục vụ sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, sản xuất muối; kết hợp cấp, tiêu, thoát nước cho sinh hoạt và các ngành kinh tế khác; góp phần phòng, chống thiên tai, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu và bảo đảm an ninh nguồn nước.”]

I. Các nghiên cứu ở nước ngoài

1.1. Khái niệm và khung phân tích sinh kế

1.1.1. Khái niệm sinh kế

Nói đến sinh kế là nói đến phương tiện sống của con người, đối tượng của các mô hình sinh kế trước hết là người nghèo, phụ nữ, các nhóm yếu thế, các nhóm thiểu số, và những người chịu thiệt thòi. Sinh kế theo nghĩa hẹp là phương tiện đảm bảo các nhu cầu thiết yếu và cơ bản về thức ăn, nước sinh hoạt, chỗ ở, quần áo và vật dụng cho cuộc sống của mỗi con người; sinh kế bao gồm vô số hoạt động cần thiết cho cuộc sống hàng ngày được tiến hành trong suốt cuộc đời của con người để thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của bản thân và hộ gia đình; về phương diện tinh thần, sinh kế ổn định mang lại phẩm giá cho cá nhân và hộ gia đình. Sau đó khái niệm sinh kế được mở rộng thành định nghĩa sinh kế bền vững, áp dụng phổ biến ở cấp hộ gia đình: “Sinh kế bao gồm các năng lực, tài sản (của cải dự trữ, các nguồn tài nguyên, các quyền, các khả năng tiếp cận) và các hoạt động cần thiết để có được phương tiện sống: một sinh kế bền vững có thể đối phó và phục hồi sau căng thẳng và các cú sốc, duy trì hoặc nâng cao năng lực và tài sản của cá nhân, hộ gia đình, đồng thời cung cấp các cơ hội sinh kế bền vững cho thế hệ tiếp theo; và đóng góp lợi ích ròng cho các sinh kế khác ở cấp độ địa phương và cấp độ toàn cầu cả trong ngắn hạn và dài hạn.” (Chambers, R. and G.R. Conway, 1991, tr 6)

1.1.2. Khung phân tích sinh kế

Khung phân tích sinh kế bền vững của Bộ Phát triển Quốc tế Anh (Department for International Development - DFID) được các học giả và các cơ quan phát triển ứng dụng rộng rãi trong phân tích về sinh kế và đói nghèo. Khung phân tích này bao gồm: i) Các ưu tiên sinh kế đối với cá nhân và hộ gia đình; ii) Các chiến lược được lựa chọn để theo đuổi các ưu tiên đó; iii) Các thể chế, chính sách và tổ chức quyết định đến quyền, năng lực tiếp cận của họ đối với các loại tài sản, nguồn lực, cơ hội và các kết quả mà họ thu được; iv) Các tiếp cận và năng lực sử dụng hiệu quả các loại vốn mà cá nhân và hộ gia đình có được; v) Bối cảnh sống của con người, bao gồm các xu hướng kinh tế, công nghệ, dân số, và các thách thức mà cá nhân và hộ gia đình phải đương đầu (Chambers, R. and G.R. Conway, 1991).

Khung phân tích sinh kế bền vững của DFID được xây dựng và thao tác trên cơ sở 5 loại tài sản vốn, hay hình thức vốn, bao gồm: i) Vốn vật chất là cơ sở hạ tầng và các loại hàng hóa mà người sản xuất cần để hậu thuẫn sinh kế; ii) Vốn tài chính được con người sử dụng để đạt được các mục tiêu sinh kế của mình; iii) Vốn xã hội là các nguồn lực xã hội mà con người sử dụng để theo đuổi các mục tiêu sinh kế của mình, bao gồm: quan hệ, mạng lưới, thành viên nhóm, niềm tin, sự phụ thuộc lẫn nhau và trao đổi cung cấp các mạng an ninh phi chính thống quan trọng; iv) Vốn con người đại diện cho các kỹ năng, tri thức, khả năng làm việc và sức khỏe tốt, giúp con người theo đuổi các chiến lược và đạt được các mục tiêu sinh kế; ở cấp độ hộ gia đình, vốn con người là số lượng và chất lượng lao động của hộ và loại vốn này tùy thuộc vào quy mô của hộ, trình độ giáo dục và kỹ năng nghề nghiệp, khả năng quản lý, tình trạng sức khỏe, tri thức về các cấu trúc sở hữu chính thống và phi chính thống (như các quyền, luật pháp, chuẩn mực, cấu trúc chính quyền, các thủ tục...); v) Vốn tự nhiên bao gồm toàn bộ các nguồn tài nguyên tự nhiên như đất, nước, rừng, đa dạng sinh học, khoáng sản. (DFID 1999)

1.2. Ứng dụng khung phân tích sinh kế trong thủy lợi

Cho đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu ứng dụng khung phân tích sinh kế bền vững vào lĩnh vực thủy lợi. Dưới đây chúng tôi sẽ giới thiệu một số công trình tiêu biểu vừa gần gũi vừa có giá trị tham khảo đối với vấn thủy lợi và sinh kế của ĐBSCL.

1.2.1. Các quá trình tác động của thủy lợi đến sinh kế ở khu vực Nam Á

Dự án Đóng góp của Thủy lợi để Duy trì Sinh kế Nông thôn” được thực hiện trên các hệ thống tưới tiêu điển hình ở Bangladesh và Nepal. Các khái niệm cốt lõi được áp dụng trong nghiên cứu này là khái niệm Tiếp cận Sinh kế Bền vững, được DFID (1999) ứng dụng phổ biến. Cách tiếp cận này lấy con người làm trung tâm, tổng thể và năng động trong việc tìm hiểu, học hỏi và xây dựng dựa trên những thay đổi do phát triển thủy lợi mang lại. Cách tiếp cận này được bắt đầu bằng việc phân tích tài sản, cơ hội và hạn chế của người dân, tìm cách xây dựng tiềm năng giảm nghèo hiện có và nhấn mạnh vấn đề bền vững. Khung phân tích gồm năm hình thức ‘vốn’: con người, vật chất, xã hội, tự nhiên và tài chính. Ngoài ra còn là mối liên hệ giữa các hoạt động ở cấp vĩ mô và vi mô, cũng như tầm quan trọng của môi trường thể chế và chính sách tác động đến các chiến lược và kết quả sinh kế; các xu hướng kinh tế và công nghệ; các cú sốc liên quan đến khí hậu hoặc thị trường; và các thực hành văn hóa, ảnh hưởng đến sinh kế. Cách tiếp cận Sinh kế Bền vững còn sử dụng các thước đo đói nghèo rộng rãi và đa dạng, bao gồm đánh giá mức độ dễ bị tổn thương / khả năng phục hồi, các nguồn tài sản, sự tham gia và trao quyền (Hasnip N., S. Mandal, J. Morrison, and P. Pradhan, 2001). Khung phân tích xác định bốn cơ chế liên quan đến nhau thông qua đó nông nghiệp được tưới tiêu có thể duy trì và phát triển sinh kế nông thôn, như dưới đây:

1.2.1.1. Cải thiện sinh kế thông qua năng suất, việc làm và thu nhập

Bằng chứng về mức độ cải thiện của năng suất, việc làm và thu nhập nhờ thủy lợi là phổ biến, và đều khẳng định rằng cây trồng có giá trị cao hơn, năng suất cao hơn và kỹ thuật thâm canh cao hơn dẫn đến mức tăng việc làm và thu nhập ở nông thôn cao hơn, ít rủi ro hơn và liên tục hơn, cho cả gia đình nông dân và lao động không có đất. Chủ sở hữu đất cũng được hưởng lợi từ việc gia tăng giá trị đất, thường xuyên tăng cường khả năng tiếp cận tín dụng, vị thế xã hội và trao quyền trong cộng đồng. Người lao động không có đất và các hộ gia đình nông thôn có diện tích đất nhỏ được hưởng lợi từ cơ hội lao động nông nghiệp tăng và dàn đều hơn, cải thiện tỷ lệ tiền lương, giảm di cư và cải thiện an ninh, xóa bỏ bần cùng hóa. Nâng cao thu nhập từ việc làm công ăn lương là rất quan trọng đối với việc xóa đói giảm nghèo, vì rất nhiều người nghèo chủ yếu là lao động nông nghiệp không có đất. Tất cả các hộ gia đình nông thôn, và đặc biệt là những người mua thực phẩm chủ yếu, cũng có thể được hưởng lợi từ giá lương thực thấp hơn và có khả năng dinh dưỡng tốt hơn. Nhờ đó họ tăng thêm khả năng dinh dưỡng và năng suất lao động, không chỉ cải thiện năng suất thể chất mà còn là khả năng học hỏi, đầu tư lao động và kiến ​​thức nhiều hơn (Dasgupta 1998).

1.2.1.2. Thủy lợi giúp cải thiện liên kết, tạo ra các hiệu ứng tích cực

Thủy lợi giúp thâm canh nông nghiệp và cải thiện năng suất có thể vừa là giảm nghèo vừa thúc đẩy tăng trưởng, và đã được chứng minh là có quan hệ nhân quả với tăng trưởng sản xuất và dịch vụ. Trong khi đó, tăng trưởng nông nghiệp là chìa khóa để xóa đói giảm nghèo bởi vì các vùng nông thôn phân tán về mặt địa lý, và thâm dụng lao động. Tăng trưởng nhu cầu đối với lĩnh vực này ban đầu có thể chỉ xuất phát từ việc tăng thu nhập của nông dân, sau đó kích thích kinh tế nông thôn thông qua liên kết sản xuất và tiêu thụ, và sự chuyển dịch liên quan đến việc giảm giá thực phẩm. Bên cạnh đó liên kết sản xuất kích thích cung cấp đầu vào và đầu ra của các ngành công nghiệp chế biến và phân phối gắn với nông nghiệp, trong khi các liên kết tiêu dùng thậm chí còn lớn hơn do liên kết tiêu thụ khi các hộ gia đình nông thôn mua nhiều hàng hóa và dịch vụ sản xuất tại địa phương hơn  (Delgado và Hopkins 1998), và đặc biệt là tiêu dùng văn hóa không ngừng tăng lên. Các can thiệp bổ sung như đầu tư vào vốn vật chất và nhân lực cũng có thể cần thiết để đạt được tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo trong các nền kinh tế nông nghiệp và phi nông nghiệp nông thôn (Thirtle et al. 2001). Ví dụ, mức độ phát triển của các mối liên kết ngược và xuôi (backward and forward linkages) đối với việc cung cấp đầu vào và dịch vụ của nông trại, và tiếp thị đầu ra dự kiến ​​sẽ lớn hơn trong những trường hợp có mật độ dân số cao hơn và phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, hoặc ở những nơi có nhu cầu chế biến nông sản tại chỗ.

1.2.1.3. Thủy lợi giúp đa dạng hóa sinh kế nông thôn

Việc mở rộng thị trường lao động phi nông nghiệp cũng tạo cơ hội đa dạng hóa sinh kế cho các hộ gia đình nông thôn (Reardon et al, 2000), và tổng thể có thể mang lại thu nhập cao hơn và ít biến động hơn. Điều này có thể hỗ trợ tăng trưởng nông nghiệp và / hoặc xóa đói giảm nghèo bằng cách giảm rủi ro, hỗ trợ tài chính cho việc sử dụng các yếu tố đầu vào, tạo điều kiện thúc đẩy thương mại hóa và chuyên môn hóa, hoặc tài trợ cho đầu tư vào bất kỳ hình thức ‘vốn’ nào, do đó tăng cường hơn nữa các cơ hội sinh kế. Đối với những hộ gia đình như vậy, những thay đổi về sản lượng nông nghiệp, giá cả, việc làm, tiền lương và tài nguyên thiên nhiên phát sinh từ việc phát triển thủy lợi có thể có những tác động đa dạng. Đa dạng hóa sinh kế tồn tại như một phương tiện, có tác dụng giảm nghèo, cải thiện bền vững mức sống thông qua việc khai thác các cơ hội mới do phát triển thủy lợi tạo ra. Cho dù kinh tế phi nông nghiệp ở nông thôn là một khu vực chỉ cung cấp các hoạt động mang tính ứng phó, nhưng nó cũng giúp bù đắp cho nguồn lao động thay thế từ khu vực nông hộ nhỏ không có đất hoặc khan hiếm đất đai. Hơn nữa nó giúp đa dạng hóa và năng động hóa nền kinh tế được kích thích bởi thủy lợi, tạo ra việc làm mới và tránh áp lực giảm thu nhập. Trong khi đó đa dạng hóa sinh kế trở thành chiến lược thích ứng tiến bộ và tích cực dẫn đến tăng tích lũy của các nhà sản xuất nông thôn (Start 2001). Ngoài ra, đa dạng hóa sinh kế cũng giúp thu hẹp dần khoảng cách người giàu và người nghèo nhờ các hoạt động phi nông nghiệp như một chiến lược sinh tồn và tích lũy.

1.2.1.4. Thủy lợi và thực tế đa dạng hóa sử dụng nước

Thủy lợi thường cung cấp nước để uống, giặt giũ, chăm sóc vườn cây và gia súc, bổ sung các tầng chứa nước (ảnh hưởng đến chất lượng và số lượng), cấp nước đô thị, công nghiệp nông thôn, đánh bắt và nuôi trồng thủy sản. Các mục đích sử dụng đa dạng như vậy có tầm quan trọng lớn đối với các chiến lược sinh kế của người dân, bao gồm: i) Sử dụng trong nhà: Thông thường các hệ thống bề mặt cung cấp nguồn cung cấp cho nước uống, rửa và chuẩn bị thực phẩm và rửa bát đĩa; ii) Giặt quần áo và tắm rửa cũng có thể đóng một vai trò trong các hoạt động tôn giáo hoặc là một khía cạnh của vốn xã hội, bên cạnh đó còn tạo cơ hội cho nam giới tiếp xúc với xã hội; giặt quần áo và đồ dùng thường xuyên là một trong những cơ hội chính để giao tiếp xã hội cho phụ nữ và trẻ em; iii) Chăm sóc vườn tược thường phổ biến trên các hệ thống quy mô nhỏ và hệ thống tưới nước ngầm, được sử dụng để trồng các sản phẩm cho gia đình hoặc để bán; iv) Xử lý nước thải đặc biệt là làm nhà tiêu trên kênh rạch phổ biến ở Indonesia, Ai Cập và Nepal; ở Trung Java, hệ thống thủy lợi được sử dụng cho việc đi vệ sinh, các giếng nước để uống, và các con sông và giếng để tắm giặt; và đây là một nguy cơ đối với sức khỏe vì đôi khi các kênh thủy lợi sẽ là nguồn nước duy nhất để uống và tắm; v) Chăm sóc vật nuôi: Hệ thống th ủy lợi là nguồn cung cấp nước uống quan trọng cho động vật; là môi trường thuận lợi để chăn vịt, nuôi cá lồng; các nguồn lợi thủy sản khác cũng đóng góp quan trọng vào phúc lợi hộ gia đình; vi) Phát điện: Các dòng chảy kênh thủy lợi ở các khu vực có mức chênh lệch độ cao có thể được sử dụng để phát điện (Hasnip N., S. Mandal, J. Morrison, and P. Pradhan, 2001); vii) Xay xát ngũ cốc bằng nước là một hoạt động đã có từ lâu đời và đặc biệt phổ biến ở các nước miền núi như Nepal, kênh thủy lợi được sử dụng để xay bột, xay gạo và ép dầu từ hạt, có thể góp phần quan trọng vào việc giảm gánh nặng lao động của phụ nữ trong chế biến thực phẩm; viii) Giao thông vận tải thuận lợi trên kênh hoặc dọc theo bờ kênh; các con đường dọc theo các con kênh thường thoát nước tốt trong mùa mưa và rất thuận tiện cho xe đạp, xe máy và đi bộ; các kênh tưới tiêu, đặc biệt là ở Đông Nam Á và Trung Quốc, thường được sử dụng để vận tải và di chuyển bằng thuyền; ix) Tôn giáo: Hệ thống tưới tiêu có thể được sử dụng cho nghi lễ tắm rửa và các nghi lễ tôn giáo khác; vườn, ao, hồ nhà chùa cũng có thể được cung cấp nước từ hệ thống thủy lợi; x) Chăm sóc cây cối trồng dọc theo các con kênh, chúng mang lại lợi ích về bóng mát, vẻ đẹp và lấy gỗ hoặc các sản phẩm khác (Hasnip N., S. Mandal, J. Morrison, and P. Pradhan, 2001); xi) Công nghiệp nông thôn và các doanh nghiệp siêu nhỏ thường sử dụng nước và các hệ thống tưới tiêu, ví dụ như sản xuất gạch, ngói (Barker và van Koppen 1999).

1.2.1.5. Tác động của thủy lợi và sinh kế đến công bằng xã hội

Mặc dù các tài liệu cung cấp bằng chứng rõ ràng rằng phát triển thủy lợi có thể giảm nghèo, mang lại lợi ích tuyệt đối cho người nghèo, nhưng liệu nó có xu hướng giảm công bằng hay không. Nói cách khác, thủy lợi có xu hướng mang lại lợi ích lớn hơn tương ứng cho người giàu, ngay cả khi nó cải thiện vị thế tuyệt đối của người nghèo; hoặc có những trường hợp phát triển thủy lợi thực sự có thể gây hại đến cơ hội sinh kế của người nghèo và dẫn đến gia tăng nghèo đói. Các nghiên cứu về tác động của cả phát triển thủy lợi và cách mạng xanh cho thấy kết quả mang lại lợi ích lớn hơn cho người giàu là phổ biến nhất, nhưng kết quả thứ hai: cải thiện vị thế tuyệt đối của người nghèo cũng là có thực. Các yếu tố như sai lệch trong phát triển và chuyển giao công nghệ, cung cấp cơ sở hạ tầng, thất bại của thị trường đầu vào - đầu ra, cung cấp tín dụng nông nghiệp, hoặc sự tham gia hạn chế của các hộ nghèo có thể ảnh hưởng đến việc phân bổ lợi nhuận liên quan đến thủy lợi. Tất cả bốn cơ chế mà phát triển thủy lợi có thể cải thiện sinh kế có khả năng kém hiệu quả hơn trong việc xóa đói giảm nghèo khi phân bổ thu nhập, quyền về đất và / hoặc nước trước đây bị chênh lệch nhiều hoặc khi thủy lợi củng cố quá trình cố kết đất đai trong đó một số nhóm mất quyền tiếp cận hoặc quyền canh tác trên đất hoặc quyền đối với nước. Mức độ mà người nghèo nông thôn có thể hưởng lợi từ các cơ hội mở rộng trong việc làm phi nông nghiệp và doanh nghiệp nhỏ cũng có thể bị hạn chế bởi các rào cản tham gia, xuất phát từ dân tộc hoặc đẳng cấp, giới tính, kỹ năng, trình độ học vấn, sự tiếp cận thông tin, khả năng di chuyển, chi phí giao dịch và các rủi ro (Reardon et all, 2000).

1.2.1.6. Giới, thủy lợi và sinh kế bền vững

Ở các nước Nam Á, mặc dù phụ nữ ít nhất cũng làm việc chăm chỉ như nam giới, nhưng so với nam giới, họ thường ít được tiếp cận với các nguồn lực sản xuất như đất, nước, tín dụng, đào tạo, phân bón và các kênh tiếp thị (Agarwal 1994). Các chính sách thủy lợi luôn được áp dụng cho nam giới, ít hoặc không quan tâm đến nhu cầu của phụ nữ. Trong khi đó, việc không hỗ trợ phụ nữ làm nông nghiệp có thể ảnh hưởng xấu đến năng suất. Ở những nơi phụ nữ trồng các loại cây khác nhau, họ cần nước vào những thời điểm khác nhau và với số lượng khác nhau. Ở Nepal, nam giới muốn có nước trong giai đoạn đầu của quá trình làm lúa vì họ chịu trách nhiệm chuẩn bị đất. Tuy nhiên, phụ nữ muốn có nước trong mùa sinh trưởng vì họ chịu trách nhiệm làm cỏ và độ sâu của nước lớn hơn làm giảm sự phát triển của cỏ dại. Cũng thường có xu hướng phân chia chủ yếu giữa nước cho sinh hoạt như uống, tắm, nấu ăn, giặt giũ chủ yếu thuộc phụ nữ, còn nước cho mục đích sản xuất, tưới tiêu, công nghiệp nông thôn, thuộc nam giới (Ahmed và Krishna 1998). Tuy nhiên, phụ nữ lại có thể sử dụng “nước sinh hoạt” để tạo thu nhập, chẳng hạn như trong chế biến thực phẩm, từ đó giúp xóa đói giảm nghèo cho hộ gia đình của họ. Phụ nữ thường không được phép trở thành thành viên của các Hiệp hội Sử dụng nước vì họ thường không có đất. Các quyết định của Hiệp hội Sử dụng nước liên quan đến phân bổ nước cần tính đến quyền của phụ nữ đối với nước và dành ưu tiên thích hợp cho nhu cầu và mục đích sử dụng của họ. Nếu không có điều này, nhiều khả năng phụ nữ sử dụng nước không theo lịch trình có thể mâu thuẫn với các mục tiêu ưu tiên và bảo tồn nước của địa phương. Ngoài ra, việc phụ nữ không được tiếp cận kịp thời với nước cho cây trồng hoặc các mục đích sử dụng khác có thể làm suy yếu mục tiêu chung là đạt được sinh kế bền vững. Để thực hiện các chính sách thủy lợi có hiệu quả, những đóng góp của phụ nữ vào kinh tế hộ gia đình cần được ghi nhận và những mối quan tâm của họ phải được lắng nghe. Do đó, cần phải đưa giới vào quy hoạch và quản lý thủy lợi (Hasnip N., et al, 2001).

1.2.1.7. Tác động đến môi trường

Hầu hết các tài liệu liên quan đến tác động môi trường của thủy lợi được chia thành hai loại. Thứ nhất là các hướng dẫn xác định và đánh giá tác động ở giai đoạn thiết kế. Người ta thường có xu hướng nhấn mạnh các tác động tiêu cực trực tiếp, nhưng lại không gắn các tác động này với các chỉ số về giảm năng suất hoặc với các tác động đến sinh kế nông thôn. Thứ hai, một tập hợp các tác động của ngập úng và mặn hóa đối với năng suất nông nghiệp, trong đó nêu ra kết quả là nguồn vốn tự nhiên cạn kiệt, hoặc đánh giá tác động đến sức khỏe cộng đồng, tức là vốn con người. Mặc dù cung cấp các mối quan hệ hữu hình hơn giữa việc sử dụng thủy lợi và năng suất, nhưng các nghiên cứu thường dựa trên bối cảnh cụ thể và hiếm khi đánh giá hậu quả đối với các chiến lược sinh kế của người nghèo nông thôn. Vì tăng sản lượng nông nghiệp là trọng tâm để cải thiện đời sống của người nghèo nông thôn, nên phát triển thủy lợi chỉ là một trong số các chiến lược thâm canh (hoặc mở rộng) nông nghiệp sẽ được thực hiện. Mỗi yếu tố này cũng có thể có tác động đến vốn tự nhiên, và do đó tác động tiêu cực đến môi trường nên được coi là sự quản lý yếu kém của quá trình hiện đại hóa nông nghiệp (Pinstrup A. and P. Lorch 1994), thay vì được quy cho một chiến lược cụ thể. Do đó, cần có một cái nhìn cân bằng hơn về đóng góp ròng của các hoạt động liên quan đến thủy lợi đối với những thay đổi về hiện trạng môi trường, cả trong khu vực tưới tiêu và ở cấp độ khu vực / lưu vực rộng hơn (Hasnip N., et al, 2001).

1.2.2. Các tác động của thủy lợi đến sinh kế ở khu vực Châu Phi

1.2.2.1. Các lý do dẫn đến đầu tư thủy lợi thấp ở Châu Phi 

Châu Phi đầu tư vào lĩnh vực thủy lợi thấp, trong gần 50 năm diện tích tưới tiêu chỉ tăng gấp đôi, từ 7,4 triệu ha năm 1961 lên 13,6 triệu ha năm 2006, tương ứng với 4,4% đến 5,4% diện tích canh tác. Dưới đây là 10 nguyên do chính cho việc đầu tư vào thủy lợi thấp trong những thập kỷ qua ở Châu Phi: i) Hệ thống thủy lợi cho nông nghiệp không được các chính phủ châu Phi hoặc các đối tác phát triển của họ chú ý, mà hầu hết chỉ ưu tiên phát triển nước sạch và vệ sinh đô thị; ii) Chi phí đầu tư thủy lợi cao, tổng chi phí trung bình cho chương trình tưới tiêu cho một ha ở Châu Phi cận Sahara là 8.374 đô la Mỹ theo giá năm 2000 (Inocencio A., và al, 2005); iii) Thủy lợi đòi hỏi lượng nước lớn, nhu cầu nước tưới cho 1000 ha trong thời kỳ cao điểm gần như tương đương hoặc cao hơn nhu cầu nước sinh hoạt cho 2 hoặc 3 triệu người tùy theo mức tiêu thụ hàng ngày của họ; iv) Năng lực của các tổ chức chuyên môn trong việc thực hiện các sáng kiến ​​về cơ sở hạ tầng cấp nước yếu kém nên khó thuyết phục về lợi ích tiềm năng của các khoản đầu tư khổng lồ được đề xuất cho thủy lợi; v) Hiệu quả thấp kém của các khoản đầu tư thủy lợi, đặc biệt là ở quy mô lớn một phần do lỗi thiết kế, tiếp theo là thể chế kém hiệu quả, nguồn cung cấp nước không đáng tin cậy, khó tiếp cận và mua các đầu vào, trong khi chi phí năng lượng lại cao; vi) Tình trạng cơ sở hạ tầng nông thôn quá kém nên mật độ đường ở châu Phi ít hơn 2,5 lần so với châu Mỹ Latinh và ít hơn 6 lần so với châu Á; vii) Châu Phi giao dịch với phần còn lại của thế giới nhiều hơn là với chính nó, vì vậy họ thường trồng nhiều cây công nghiệp hơn để đáp ứng thị trường nước ngoài nên đối với người nông dân, việc phát triển sinh kế dựa trên ngũ cốc không mang lại hiệu quả; viii) Các nhà chính trị và hoạch định chính sách không nhìn nhận các lợi nhuận phù hợp với lợi ích của họ để bố trí các khoản đầu tư công lớn cho thủy lợi so với đầu tư vào các lĩnh vực khác (AU/DREA, 2014); ix) Tình trạng thiếu ổn định chính trị, hơn nữa, các nhà hoạch định chính sách thủy lợi Châu Phi chỉ có kinh nghiệm về thủy lợi quy mô lớn được phát triển từ thời kỳ thuộc địa cho các sản phẩm xuất khẩu, ít có kinh nghiệm thủy lợi bền vững vì sinh kế của người dân; x) Phát triển thủy lợi ở Châu Phi bị tách rời khỏi môi trường văn hóa phổ biến với các trang trại quy mô nhỏ, lãng quên lợi ích xã hội, lãng quên tính bền vững của các công trình thủy lợi và tài nguyên nước dựa trên di sản văn hóa của họ (Lebdi, Fethi, 2016).

1.2.2.2. Thủy lợi nhỏ thích ứng với vốn văn hóa Châu Phi 

Một nghiên cứu về Nam Phi cho thấy hầu hết thủy lợi quy mô nhỏ bắt nguồn từ quan điểm an ninh lương thực và có thể phân biệt hai loại kế hoạch: i) các dự án trước đây của Bantustan, hiện chiếm 46.000 đến 47.500 ha và ii) các dự án cộng đồng hoặc kế hoạch làm vườn khoảng 50.000 ha (Backeberg, 2006). Quy mô của các chương trình này rất khác nhau, dao động từ 30 đến 2000 ha, với quy mô trung bình khoảng 200 ha và quy mô trang trại nhỏ cố định cho mỗi người hưởng lợi là khoảng 1,5 ha - loại trang trại này chủ yếu gắn liền với sinh kế của người nghèo (Balarane A.  & O. I. Oladele, 2014).

Sinh kế đối với các nghiên cứu về Châu Phi bao gồm các khả năng, tài sản (các khoản dự trữ, tài nguyên, yêu cầu, quyền tiếp cận) và các hoạt động cần thiết để kiếm sống. Các hộ gia đình cố gắng đa dạng hóa các chiến lược sinh kế của họ bằng cách tối ưu hóa việc sử dụng các khả năng và tài sản của họ; các hộ có tài sản đa dạng và các chiến lược sinh kế có thể đối phó tốt hơn những hộ gia đình có cơ sở tài sản hạn chế hơn và ít nguồn lực sinh kế (Satgé De, 2002) do đó tạo ra một mạng lưới an toàn thực sự cho các hộ gia đình này. Các nguồn đa dạng có thể bao gồm sự kết hợp của tiền lương hoặc tiền công thu được từ việc làm, kiều hối, trợ cấp xã hội và thậm chí thu nhập hoặc có thể là lương thực được tạo ra từ hoạt động nông nghiệp. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng nhiều nông dân duy trì sinh kế của họ thông qua các hoạt động kinh doanh khác nhau dựa vào canh tác thủy lợi. Mong muốn sinh kế của họ cũng phụ thuộc vào tính bền vững của các kinh doanh này. Nông dân Nam Phi được tiếp cận đầy đủ với các tài sản sinh kế như vốn vật chất, vốn nhân lực, vốn tự nhiên và đào tạo kỹ năng nhưng khả năng tiếp cận với nguồn vốn tài chính, bao gồm tín dụng từ ngân hàng, hợp tác xã và trợ cấp của chính phủ, không đầy đủ (Balarane A.  & O. I. Oladele, 2014). Các yếu tố quyết định chiến lược sinh kế của nông dân liên quan chặt chẽ với các khía cạnh văn hóa xã hội, đặc biệt là tình trạng hôn nhân, quy mô hộ gia đình, các hoạt động phi nông nghiệp, kể cả du lịch nông nghiệp, du lịch sinh thái (Charlien van Z.Ch. and P. van der Merwe, 2021).

1.2.3. Các tác động của thủy lợi đến sinh kế ở Trung Quốc

Ở Trung Quốc, thủy lợi không chỉ là tưới tiêu cho nông nghiệp, mà chủ yếu là chiến lược quản lý tài nguyên nước. Chiến lược này tập hợp những kinh nghiệm và bài học kinh nghiệm trong quá khứ và tham khảo những cách làm tốt được áp dụng trong các ngành khác, chẳng hạn như sở quản lý đất đai. Chiến lược này xác định tài nguyên nước phải là trọng tâm của sự phát triển kinh tế và xã hội bền vững nên phải phục vụ cho cả nước và được quản lý bằng cách sử dụng quá trình ra quyết định khoa học, dựa trên bằng chứng. Nó phải cải thiện sinh kế và phúc lợi của người dân, bằng cách nhấn mạnh việc phân bổ, bảo tồn và bảo vệ nguồn nước, đồng thời tính đến đầy đủ các biện pháp để kiểm soát cả số lượng và chất lượng nước. Chiến lược này bao gồm các lĩnh vực sau: i) Cấp phép sử dụng nước; ii) Trả phí tài nguyên nước; iii) Kiểm soát chất thải hoặc làm ô nhiễm vào các vùng nước; iv) Tổ chức thẩm định và phê duyệt phương án đầu tư xây dựng các công trình cấp nước; v) Sử dụng các phương thức đổi mới và cải cách làm động lực quản lý tài nguyên nước; vi) Xây dựng năng lực làm cơ sở để thực hiện các hệ thống quản lý tài nguyên nước nghiêm ngặt (Global Water Partnership, 2015).

Kể từ khi thực hiện chính sách Mở cửa vào năm 1978, Trung Quốc đã khởi xướng nhiều cải cách chính sách, trong đó Cải cách ruộng đất ở nông thôn năm 1979 để đối phó với các cuộc khủng hoảng thiếu lương thực. Chính sách canh tác tập thể được thay thế bằng Hệ thống Trách nhiệm Hợp đồng chuyển đổi sang sản xuất nông nghiệp phi tập trung cho phép các hộ gia đình nhận khoán đất, máy móc và các phương tiện khác từ các tổ chức tập thể. Tuy nhiên, đất đai và sản xuất nông nghiệp phi tập trung gây ra sự chênh lệch giữa lợi ích mà nông dân thu được từ hoạt động và nghĩa vụ của họ trong việc duy trì cơ sở hạ tầng thủy lợi chung. Thứ nhất, các hệ thống thủy lợi được xây dựng theo chính sách canh tác tập thể trong các giai đoạn trước đây được coi là công trình công cộng mà tất cả nông dân có thể sử dụng, nhưng họ không chi trả ở mức tương xứng cần phải trả cho việc quản lý cơ sở công cộng này. Thứ hai, đất được giao lại cho từng hộ gia đình tương đối nhỏ, diện tích đất trồng trọt bình quân của một hộ gia đình trong những năm gần đây là khoảng 0,5 ha. Do đó, nông dân ít có khả năng trả thêm tiền để duy trì cơ sở hạ tầng thủy lợi chung.

Để nông dân có động lực quay trở lại tham gia vào các dự án bảo vệ nguồn tài nguyên nước và thủy lợi, được gọi là các công trình thủy lợi nông nghiệp (农田水利工程 Nông điền Thủy lợi Công trình) thì cách quản lý tập trung đã được coi là không phù hợp với sự tham gia của người dùng (Berkes F., 2009). Lập kế hoạch và quản lý có sự tham gia đã trở thành cốt lõi để các bên liên quan và cộng đồng tham gia vào quá trình ra quyết định. Mặc dù các phương pháp tiếp cận có sự tham gia cũng đã được đưa vào nghiên cứu và thực tiễn phát triển của Trung Quốc trong những năm gần đây, nhưng kỹ thuật lập kế hoạch vẫn còn yếu kém, đặc biệt là ở các vùng nông nghiệp và nông thôn, đối với các vấn đề và xung đột liên quan đến nông nghiệp và nông dân. Cốt lõi của đồng quản lý giữa chính quyền và nông dân địa phương là chia sẻ quyền lực, đòi hỏi sự chia sẻ quyền lực và trách nhiệm giữa các cơ quan chính phủ và nông dân địa phương (Plummer, J.; Taylor, J.G., 2013). Việc đồng quản lý này thường cần được đảm bảo bằng các quan hệ đối tác đáng tin cậy, trong đó niềm tin xã hội đã được xây dựng giữa các cơ quan chính phủ, cộng đồng địa phương và các bên liên quan. Ở Trung Quốc, niềm tin xã hội như vậy hiếm khi được thiết lập. Để cải thiện các mối quan hệ gắn kết nhằm thực hiện đồng quản lý hiệu quả, các tổ chức cầu nối như các nhóm xã hội phi chính phủ và phi lợi nhuận sẽ đóng một vai trò quan trọng. Đối với các dự án bảo vệ nguồn tài nguyên nước và thủy lợi của Trung Quốc, các thực hành đồng quản lý phải được thiết lập để bao gồm và kết nối các tổ chức, chẳng hạn như các nhóm phi lợi nhuận địa phương như Hiệp hội Người sử dụng nước  (Li, Z.C., 2010). Mặc dù quản lý thủy lợi có sự tham gia đã được đưa vào Trung Quốc từ những năm 1990, thông qua việc thành lập các Hiệp hội sử dụng nước, vai trò của các tổ chức này trong việc xây dựng và quản lý các công trình thủy lợi nông nghiệp cần được thừa nhận và tăng cường hơn nữa thông qua hỗ trợ đầy đủ về tài chính và chính sách. Đặc biệt là chính quyền trung ương có thể ban hành các chính sách hỗ trợ và cung cấp các khoản hỗ trợ tài chính cho các tổ chức phi lợi nhuận ở địa phương để tổ chức nông dân làm việc trong việc quản lý các công trình thủy lợi nông nghiệp và các hoạt động canh tác (Lijuan Du, Li Xu et al, 2019).

Mới đây Trung Quốc ban hành Điều lệ Thủy lợi Nông nghiệp với 7 chương, 44 điều, bao gồm: i) Chương 1: Quy định chung (Điều 1-5); ii) Chương 2: Lập kế hoạch (Điều 6-11); iii) Chương 3: Xây dựng Dự án (Điều 12-17); iv) Chương 4: Vận hành và Bảo trì Dự án (Điều 18-25); v) Chương 5: Quản lý Tưới & Tiêu (Điều 26-34); vi) Chương 6: Đảm bảo và Hỗ trợ (Điều 35-40); vii) Chương 7: Trách nhiệm pháp lý (Điều 41-44). Trong đó quy định rất rõ trách nhiệm của hệ thống Nhà nước, Chính quyền, Quốc vụ viện (Quốc hội, Hội đồng Nhân dân), từ Trung ương đến cơ sở, và trách nhiệm của người dân trong việc khuyến khích, hướng dẫn các tổ chức kinh tế tập thể nông thôn, tổ chức hợp tác dùng nước, nông dân và các lực lượng xã hội khác xây dựng, vận hành, duy trì các công trình thủy lợi, bảo vệ công trình thủy lợi, tiết kiệm nước và bảo vệ môi trường sinh thái (Trung hoa Nhân dân Cộng hòa quốc Quốc vụ viện, 2016). Chẳng hạn: Chương 4 Vận hành và Bảo trì Dự án, Điều 18: Cơ quan chính của việc vận hành và bảo trì các công trình thuỷ lợi đất nông nghiệp được xác định theo các quy định sau: (1) Các dự án thủy lợi cho đất nông nghiệp quy mô lớn và vừa do chính phủ đầu tư và xây dựng sẽ được vận hành và bảo trì bởi một đơn vị do chính quyền nhân dân cấp quận hoặc huyện xác định phù hợp với cơ quan quản lý dự án và khuyến khích các lực lượng xã hội tham gia vận hành và bảo trì thông qua mua sắm dịch vụ của chính phủ, v.v ...; (2) Các công trình thủy lợi quy mô nhỏ do Nhà nước đầu tư, hỗ trợ kinh phí được giao cho các tổ chức kinh tế tập thể nông thôn thụ hưởng, tổ chức hợp tác cấp nước nông dân, ... sử dụng và quản lý theo quy định và người thụ hưởng hoặc đơn vị, cá nhân được mình ủy thác có trách nhiệm duy trì hoạt động; (3) Tổ chức kinh tế tập thể nông thôn hoặc đơn vị, cá nhân được tổ chức kinh tế tập thể nông thôn ủy thác chịu trách nhiệm vận hành, bảo trì các công trình thủy lợi do tổ chức kinh tế tập thể nông thôn đầu tư xây dựng; (4) Việc vận hành, bảo trì các công trình thủy lợi do nông dân hoặc các lực lượng xã hội khác đầu tư, xây dựng do chủ đầu tư hoặc đơn vị, cá nhân được họ ủy thác vận hành, bảo trì; (5) Đối với các công trình thủy lợi nội đồng do Chính phủ và các lực lượng xã hội cùng đầu tư xây dựng, chủ đầu tư xác định đầu mối vận hành và bảo trì phù hợp với thỏa thuận. Trường hợp quyền nhận khoán quản lý đất ở nông thôn được chuyển giao theo quy định của pháp luật thì đồng thời làm rõ cơ quan quản lý vận hành và bảo trì công trình thuỷ nông trên đất. (Trung hoa Nhân dân Cộng hòa quốc Quốc vụ viện, 2016)

Cũng tại Chương 4 Vận hành và Bảo trì Dự án, Điều 23 quy định: Nghiêm cấm các hành vi sau đây gây nguy hiểm cho các công trình kỹ thuật cấp nước nông nghiệp: (1) Chiếm dụng hoặc làm hư hỏng các cơ sở kỹ thuật bảo tồn nước của đất nông nghiệp; (2) Các hoạt động như nổ mìn, khoan giếng, khai thác đá, và tác động đến đất gây nguy hiểm cho sự an toàn của các cơ sở kỹ thuật bảo tồn nước nông nghiệp; (3) Xếp, chồng các vật cản trở việc chứa nước, dẫn nước và thoát nước; (4) Xây dựng các tòa nhà và công trình cản trở việc trữ nước, dẫn nước và thoát nước; (5) Xả nước thải, đổ rác và các chất thải khác xuống ao hồ, đập, mương. (Trung hoa Nhân dân Cộng hòa quốc Quốc vụ viện, 2016)

1.2.4. Thủy lợi và sinh kế ở Hạ lưu sông Mê Kông của Đông Nam Á

Lưu vực sông Mê Kông và các phụ lưu của nó là một phần của sáu quốc gia, đó là Trung Quốc,  Myanmar, Lào, Thái Lan, Campuchia và Việt Nam. Phần lưu vực sông Mê Kông bên trong Trung Quốc và phần cuối phía đông của Myanmar được gọi là Thượng lưu vực sông. Phần Hạ lưu vực sông bao phủ khoảng 70% diện tích lưu vực và là khu vực quan trọng nhất cả về kinh tế và môi trường. Trong tổng diện tích lưu vực 795.000 km2, khoảng 25% nằm ở CHDCND Lào, 23% ở Thái Lan, 21% ở Vân Nam (Trung Quốc), 20% ở Campuchia, 8% ở Việt Nam và chỉ 3% là của Myanmar. Sông Mê Kông dài khoảng 4200km. (Eastham et al, 2008). Dân số lưu vực sông khoảng 70 triệu người và dự kiến ​​sẽ tăng lên 130 triệu người vào năm 2030. Phần lớn người dân sống ở vùng Hạ lưu vực. Dân số dự kiến ​​sẽ tăng ở tất cả các lưu vực nhưng ở thành thị nhiều hơn dân số ở nông thôn. Đồng bằng sông Cửu Long là phần có năng suất cao nhất và đông dân cư nhất của Lưu vực. Khu vực này dễ bị ngập lụt vào mùa mưa và xâm thực của nước biển trong các tháng mùa khô khi lưu lượng thấp. Khí hậu thay đổi dọc theo sông, lượng mưa ở vùng núi nhiều hơn ở Lào và ít hơn ở Thái Lan (Eastham et al, 2008). Sự khác biệt giữa mùa mưa và mùa khô là rất lớn. Trung bình, khoảng 75% dòng chảy hàng năm chỉ xảy ra trong 4 tháng, khoảng từ tháng 7 đến tháng 10 (MRC, 2015).

Ở các quốc gia vùng Hạ lưu vực Mê Kông, việc phát triển thủy lợi, đặc biệt là các hệ thống thủy lợi truyền thống ở các vùng cao nguyên, đã bắt đầu từ nhiều thế kỷ trước. Ví dụ, ở Campuchia, lịch sử phát triển thủy lợi bắt đầu từ thế kỷ thứ 3 sau Công nguyên, và tiếp tục phát triển trong thời kỳ Angkorian từ thế kỷ thứ 10 đến 13 (Higham, 2001). Ở Thái Lan, các hệ thống tưới tiêu truyền thống do nông dân quản lý, hầu hết được tìm thấy ở miền bắc của đất nước, đã được thiết lập cách đây 700 năm dưới thời Vua Mengrai (Surarerks và Chulasai, 1982). Phát triển thủy lợi quy mô lớn do người Pháp khởi xướng ở đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long ở Việt Nam, và ở đồng bằng sông Chao Phraya, Thái Lan vào cuối thế kỷ 19. Trong Chiến tranh Lạnh (1946-1989), hệ thống thủy lợi quy mô lớn do nhà nước xây dựng được coi là biện pháp đáp ứng những lo ngại về an ninh lương thực và xóa đói giảm nghèo đồng thời phục vụ lợi ích địa chính trị của Hoa Kỳ (Barker và Molle, 2004). Do các cuộc chiến tranh ở Đông Dương, Thái Lan là quốc gia duy nhất trong khu vực có thể tiếp tục phát triển đáng kể cơ sở hạ tầng thủy lợi vào thời điểm đó. Thủy lợi nói chung được coi là một phần cốt lõi của phát triển nông thôn, với vai trò quan trọng trong việc xóa đói giảm nghèo và an ninh lương thực ở các nước vùng Hạ lưu vực Mê Kông (Chu Thái Hoành, Thierry Facon et al, 2009). Ở Thái Lan và Việt Nam, tập trung nhiều hơn vào việc tăng cường tưới tiêu cho cây trồng. Ngoài ra còn có động thái đa dạng hóa và chuyển sang các lựa chọn thay thế có lợi tức cao hơn như nuôi trồng thủy sản hoặc cây màu. Tuy nhiên, các hệ thống thủy lợi có xu hướng được thiết kế đặc biệt để phù hợp với sản xuất lúa gạo, điều này khiến nông dân rất khó đa dạng hóa sang các loại cây trồng ngoài lúa (MRC, 2003a).

Khoảng 85% dân số vùng hạ Mê Kông làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, ngư nghiệp và lâm nghiệp (MRC, 2003). Điều đó có nghĩa là sinh kế của họ phụ thuộc nhiều vào tài nguyên thiên nhiên, bao gồm cá và thủy sinh thuộc ngành thủy sản, rừng thuộc ngành lâm nghiệp, nước và đất thuộc ngành nông nghiệp, và sẽ được xem xét dưới đây.

1.2.4.1. Sinh kế phụ thuộc vào cá và thủy sinh

Cá và các sinh vật thủy sinh khác là một trong những nguồn tài nguyên môi trường quan trọng nhất ở lưu vực sông Mê Kông. Có tới 80% người dân sống dựa vào hệ thống sông và sinh kế sông nước để kiếm ăn (Orr et. al, 2012). Ở vùng Hạ lưu sông Mê Kông, hơn 50% protein được người dân tiêu thụ là cá và các loại thủy sinh vật khác, người dân ở Lào tiêu thụ 50% ở Thái Lan 60% và 80% ở Việt Nam và Campuchia (MRC, 2015). Tổng sản lượng thủy sản cho năm 2012 được biết gần đây nhất là 4,4 triệu tấn có nghĩa là đánh bắt thủy sản trị giá 17 tỷ đô la ở vùng Hạ lưu sông Mê Kông. Thủy sản chiếm 18% GDP của Campuchia, 12,8% của Lào, 3,1% của Việt Nam và 1,8% của Thái Lan (MRC, 2015). Ở Campuchia và Lào sự phụ thuộc vào thủy sản lớn hơn bởi vì các quốc gia này nằm ở vùng Hạ lưu sông Mê Kông, và GDP của họ, trên danh nghĩa và bình quân đầu người nhỏ hơn so với các nước khác, có nghĩa là họ thậm chí còn phụ thuộc nhiều hơn vào thủy sản, đặc biệt là người dân ở các vùng nông thôn. Có tới hơn 5 triệu người trực tiếp làm nghề cá, hơn 1 triệu người ở mỗi quốc gia, hầu hết trong số họ là ngư dân hoặc nông dân nuôi cá hoặc làm việc trong ngành công nghiệp chế biến thủy sản (MRC, 2015). Rõ ràng cá là nguồn tài nguyên môi trường quan trọng cho sinh kế ở vùng Hạ lưu sông Mê Kông, chủ yếu là các hộ nghèo ở các làng quê nông thôn, đặc biệt là ở Lào và Campuchia. Họ phụ thuộc vào nghề cá với tư cách là công việc thời vụ, tạo thu nhập hoặc nguồn thức ăn. Theo ước tính, 40-50 triệu người ở vùng Hạ lưu sông Mê Kông phụ thuộc vào nghề cá và các ngành liên quan (MRC, 2015).

1.2.4.2. Sinh kế phụ thuộc vào tài nguyên rừng

Rừng cũng là tài nguyên môi trường quan trọng của lưu vực sông Mê Kông, là nguồn sinh kế chính của nhiều cư dân nơi đây, và nạn phá rừng khiến người dân khó đảm bảo sinh kế bằng các nguồn khác. Ở lưu vực sông Mê Kông, hơn một nửa triệu người làm nghề rừng, đóng góp 6,4 triệu USD vào GDP năm 2011. Phần lớn thu nhập này được tạo ra ở Việt Nam và Thái Lan, nhưng tỷ lệ phần trăm GDP cao nhất là ở Lào 3,2% và Campuchia 2,1% (FAO, 2011). Phần lớn dân số lưu vực sông Mê Kông cũng sử dụng rừng và gỗ làm nguồn nhiên liệu chính. Có rất nhiều người tham gia vào buôn bán gỗ trái phép, số lượng cao nhất ở Campuchia, nơi mà việc thực thi pháp luật về rừng kém hiệu quả (Castrén T. 2000). Hầu hết gỗ từ Lào và Campuchia được cung cấp cho Việt Nam với lượng tiêu thụ gỗ lớn hơn để chế biến thành các sản phẩm đồ gỗ. Luật pháp ở các quốc gia bảo vệ rừng khỏi bị khai thác, nhưng cũng ảnh hưởng đến sinh kế của người dân. Ở Việt Nam tài sản rừng đóng một vai trò quan trọng trong sinh kế của các cộng đồng phụ thuộc vào rừng và quản lý rừng (Lambini, C. K., Nguyen Trung Thanh, 2014). Giống như ở cá và thủy sinh, phá rừng là kết quả của sự gia tăng dân số, thi hành luật pháp không hiệu quả, nhu cầu thị trường ngày càng tăng, buôn bán bất hợp pháp, vv. Đất rừng dịch chuyển mạnh sang mục đích nông nghiệp nhờ cải thiện thủy lợi . Việc thiết lập đồn điền và nông nghiệp có tác động lớn hơn đến việc mất rừng so với việc khai thác gỗ (FAO, 2010), và việc phá rừng trong ngắn hạn để phát triển các loại cây trồng vật nuôi khác. Ví dụ, rừng ngập mặn bị loại bỏ để tạo sinh kế cho người nuôi tôm, vì thu nhập từ tôm cao hơn rừng ngập mặn. Mất rừng cũng ảnh hưởng đến các tài nguyên môi trường khác, như đất, do mức độ xói mòn ngày càng cao hơn (Tran Thi Thu Ha et al, 2012).

1.2.4.3. Sinh kế phụ thuộc vào thủy lợi, tài nguyên nước và đất đai

Nước và đất là những tài nguyên môi trường quan trọng nhất của lưu vực sông Mê Kông. Cả hai đều cần thiết cho 70% dân số lưu vực tiếp sức cho nông nghiệp. Nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn trong GDP (Tổng sản phẩm quốc nội) ở tất cả các nước trong lưu vực, là 36% đối với Campuchia và Myanmar, 30,8% ở Lào, 20,5% ở Việt Nam, và 13% ở Thái Lan (Greater Mekong Subregion Atlas, 2010). Hơn 10 triệu ha đất là để sản xuất lúa, còn ở vùng cao, người dân trồng ngô, cà phê và các loại cây thương mại khác. Lưu vực sông Mê Kông, đặc biệt là đồng bằng sông Cửu Long được biết đến là một trong những vùng sản xuất nông nghiệp nhiều nhất, chỉ riêng Việt Nam 16 triệu tấn gạo được sản xuất hàng năm. Nông nghiệp có tưới tiêu đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao tiêu chuẩn và sinh kế cũng như ngăn ngừa đói nghèo cho hàng triệu người trong lưu vực. Nền nông nghiệp tập trung nhiều nhất ở Thái Lan và Việt Nam, và hiện còn ít phát triển hơn ở Campuchia và Lào. Nói chung, nông nghiệp là sự kết hợp giữa tự cung tự cấp và thương mại. Thông thường, trước hết nông dân tập trung sản xuất cho hộ gia đình và sau đó họ bán phần thặng dư ra thị trường để cải thiện sinh kế (MRC, 2010).

Nước và thủy lợi là cực kỳ quan trọng đối với nông nghiệp, mỗi năm lũ lụt mang lại đất đai màu mỡ và nước cho sản xuất cây trồng. Người dân ở đồng bằng sông Mê Kông xây dựng các kênh để sử dụng và kiểm soát nước từ hàng trăm năm trước. Hệ thống thủy lợi đã được sử dụng trong quá khứ và ngày càng lớn hơn mỗi năm. Việc sản xuất cây trồng gần như không thể thực hiện được nếu không có thủy lợi, cũng chính thủy lợi giúp mở rộng diện tích cây trồng trong mùa khô và giảm nguy cơ thiệt hại cây trồng trong mùa mưa. Tất cả đều phụ thuộc rất nhiều vào thủy lợi và thậm chí sẽ còn phụ thuộc nhiều hơn nữa với sản lượng cây trồng ước tính tăng 30-50% trong 20 năm tới. Thủy lợi là đối tượng sử dụng nước lớn hơn của sông trong lưu vực sông Mê Kông, mỗi năm 12% lưu lượng sông được sử dụng để tưới tiêu. Ruộng được tưới tiêu nhờ hệ thống thủy lợi cho năng suất cao hơn so với ruộng chờ mưa. Thủy lợi đã mang lại an ninh lương thực cao hơn cho nhiều người và giúp giảm tỷ lệ nghèo của  13% đến 28% số hộ gia đình từ vẫn sống dưới 1,15 đô la một ngày (MRC, 2014).

Tuy nhiên vẫn tồn tại nhiều vấn đề liên quan đến hệ thống thủy lợi khi sử dụng lượng nước lớn hơn, có thể dẫn đến thiếu nước của một số tiểu lưu vực và phụ lưu. Một số vấn đề khác liên quan đến chất lượng nước do ô nhiễm chất thải công nghiệp, đe dọa sinh kế của nghề cá, những người dựa vào đánh bắt, sản lượng đánh bắt giảm sút do ô nhiễm nguồn nước. Bên cạnh đó xói mòn đất đang cản trở sinh kế của nhiều người, các hoạt động của con người, trong đó có thủy lợi đã làm gia tăng xói mòn đất, làm mất rừng. Vấn đề đặc biệt nghiêm trọng ở những vùng đất dốc hơn thuộc lưu vực sông Mê Kông, năng suất có thể giảm tới 33-60% phần trăm do xói mòn. Ở vùng Hạ lưu sông Mê Kông, nhiều người sống phụ thuộc vào đất màu mỡ do lũ lụt mang lại, vì vậy cần đặc biệt quan tâm đến các vấn đề xói mòn để tránh cho người dân mất kế sinh nhai (Seljak A., 2016).

__________________________________________

(Còn nữa…)

Tài liệu dẫn

Ahmed, S. and N. H. Krishna (1998). Changing Gender Roles in Irrigation Management: the Case of Sadguru Life-Irrigation Co-operatives. Anand, Gujurat, Institute of Rural Management: 39.

AU/DREA - African Union Commission and Department of Rural Economy and Agriculture (2014). Fostering the African Agenda on Agricultural Growth and Transformation and Sound Environmental Management. Strategic and Operational Plan, 2014-2017

Backeberg, G. (2006). Reform of user charges, market pricing and management of water: problem or opportunity for irrigated agriculture? In Irrigation and Drainage, 55, pp. 1-12, 2006.

Balarane A.  & O. I. Oladele (2014). The impact of irrigation farming on livelihood strategies among smallholder farmers in the North West Province, South Africa, WIT Transactions on Ecology and Environment  Vol. 185, 2014, WIT Press

Barker, R. and Molle, F. (2004). Evolution of Irrigation in South and Southeast Asia, Comprehensive Assessment Research Report 5, Comprehensive Assessment Secretariat, Colombo, Sri Lanka.

Berkes, F. (2009). Evolution of co-management: Role of knowledge generation, bridging organizations and social learning. J. Environ. Manag. 2009, 90, 1692–1702.

Bourdieu, P., J.-C. Passeron (1970): La réproduction. Eléments pour une théorie du système d’enseignement, Paris, Minuit.

Bourdieu, Pierre (1986). The Forms of Capital. in Handbook of Theory and Research for the Sociology of Education, edited by J. G. Richardson. New York: Greenwood Press, Pp. 241-258.

Brown, L., H. Feldstein, et al. (1995). Generating Food Security in the Year 2020: Women as Producers, Gatekeepers and Shock Absorbers. Washington, D.C., IFPRI.

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2015). Quyết định số 194/QĐ-BVHTTDL về việc phê duyệt Đề án ''Xây dựng sản phẩm du lịch đặc thù vùng Đồng bằng sông Cửu Long''. Hà Nội ngày 23/01/2015.

Bùi Quang Ninh (2021) Biến đổi sinh kế của cộng đồng dân cư địa phương sinh sống trong vùng di sản quần thể danh thắng Tràng An trong bối cảnh phát triển du lịch. http://dulichninhbinh.com.vn/item/1441

 

Bùi Văn Mạnh (2020). Biến đổi văn hóa sinh kế của cư dân tại quần thể danh thắng Tràng An trước tác động của du lịch. Luận án Tiến sĩ ngành Văn hóa học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội 2020.

Castrén, Tuukka (2000). Timber and wood flow-study, 2000, In Regional Environmental Technical Assistance, Obtained 7.1.2016 from http://www.mekonginfo.org/

Chambers, R. and G.R. Conway (1991). Sustainable Rural Livelihoods: Practical Concepts for the 21st Century. Institute of Development Studies DP 296, 1991. University of Sussex: Brighton.

Charlien van Zyl, Christelle and Peet van der Merwe (2021). The motives of South African farmers for offering agri-tourism, In Journal Open Agriculture, published by De Gruyter Open Access, September 4, 2021.

Chu Thái Hoành, Thierry Facon, Try Thuon, Ram C. Bastakoti, François Molle and Fongsamuth Phengphaengsy (2009). In book Irrigation in the Lower Mekong Basin Countries: The Beginning of a New Era?In Contested Waterscapes in the Mekong Region: Hydropower, Livelihoods and Governance, Edited by François Molle, Tira Foran and Mira Käkönen, Earthscan in the UK and USA in 2009.

Dasgupta, P. (1998). The Economics of Poverty in Poor Countries. In Scandinavian Journal of Economics 100 (1): 41-68.

Delgado, C. and J. Hopkins (1998). Agricultural Growth Linkages in Sub-Saharan Africa. Washington, D.C., International Food Policy Research Institute, 139.

DFID (1999). Sustainable livelihoods guidance sheets, https://www.ennonline.net.

Đặng Minh Tuyến (2019). Mô hình quản lý tưới hiệu quả cho vùng Đồng bằng sông Cửu Long ĐBSCL. https://pim.vn/mo-hinh-quan-ly-tuoi-hieu-qua-cho-vung-dong-bang-song-cuu-long/

Đặng Ngọc Hạnh (2014). Nghiên cứu đề xuất mô hình tổ chức quản lý khai thác công trình thủy lợi vùng ĐBSCL. Tạp chí Khoa học và Công nghệ Thủy lợi, số 24-2014.

Eastham, J., F. Mpelasoka, M. Mainuddin, C.Ticehurst, P. Dyce, G. Hodgson, R. Ali and M. Kirby, 2008. Mekong River Basin Water Resources Assessment: Impacts of Climate Change. CSIRO: Water for a Healthy Country National Research Flagship, mekongwaterresources.pdf?

FAO (2011). Greater Mekong Subregion report, 014/i2093e/i2093e00.pdf

Global Water Partnership (2015). China's water resources management challenge: The 'three red lines. Printed by Elanders, Sweden.

Greater Mekong Subregion Atlas (2010). Development in greater Mekong Subregion Programme, Greater Mekong Subregion Atlas of the environment, 2010, http://www.gms-eoc.org/uploads/resources/149/.Development-in-the-Greater-Mekong-Subregion.pdf

GTZ/AusAID (2010). Climate Change and Coastal Ecosystems Programme. Gender Analysis. UEA International Development.

Hasnip N., S. Mandal, J. Morrison, and P. Pradhan (2001). Contribution of Irrigation to Sustaining Rural Livelihoods. KAR Project R 7879, Literature Review (L. Smith Report OD/TN 109, September 2001).

Higham, C. (2001). The Civilization of Angkor, Phoenix, London, UK.

Hoggett, P. (1997). Contested communities, in P. Hoggett (ed.) Contested Communities. Experiences, struggles, policies, Bristol: Policy Press.

Inocencio A., and al. (2005) Lessons from irrigation investment experiences in Sub Saharan Africa. IWMI, 2005.

Lambini, C. K., Nguyen Trung Thanh (2014). A comparative analysis of the effects of institutional property rights on forest livelihoods and forest conditions: Evidence from Ghana and  Vietnam, In Forest Policy and Economics, Volume 38, January 2014, Pages 178-190,

Lebdi, Fethi (2016). Irrigation for Agricultural Transformation, In African Transformation Report 2016: Transforming Africa’s Agriculture, joint research between: African Center for Economic Transformation (ACET) and Japan International Cooperation Agency Research institute (JICA-RI)

Lê Ngọc Thắng et al. (2006). Final Report: Living Standard Analysis for Socioeconomic Development Of The Ethnic Khmer in the Mekong Delta 2006–2010. Hanoi: Institute for Ethnic Minority Affairs and the World Bank.

Li, Z.C. (2010). Participatory Irrigation Management by Farmers-Local Incentives for Self-Financing Irrigation and Drainage Districts in China. World Bank Working Paper. 2010.

Lijuan Du, Li Xu, Yanping Li, Changshun Liu, Zhenhua Li, Jeerson S. Wong and Bo Lei (2019). China’s Agricultural Irrigation andWater Conservancy Projects: A Policy Synthesis and Discussion of Emerging Issues. Published in Sustainability 2019, 11, 7027. 

Lưu Phước Vẹn, Trần Công Dũ (2019). Du lịch sinh thái thúc đẩy phát triển kinh tế nông thôn vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Tạp chí Tài chính kỳ 1 tháng 8/2019.

MRC (Mekong River Commission) (2003a). State of the Basin Report: 2003, Executive Summary, Mekong River Commission, Phnom Penh.

MRC (2014). Irrigation for Food Security, Poverty Alleviation and Rural Development in the LM, Obtained 11.1.2016 from http://www.mrcmekong.org/assets/Publications/basin-reports/AIP211- DFV1907CEdNSTLpj260914.pdf

MRC (2015). Catch & Culture, Vol. 21, No. 3, December 2016, Obtained 7.1.2016 from http://www.mrcmekong.org/assets/Publications/Catch-and-Culture/CatchCultureVol-21.3.pdf

Nguyễn Duy Cần (2005). Đánh giá thực trạng và phân tích các hệ thống canh tác trong vùng chuyển đổi cơ cấu sản xuất tỉnh Cà Mau: Phân tích khung sinh kế bền vững. Trong Tạp chí Nghiên cứu Khoa học 2005:4 173-182, Đại học Cần Thơ.

Orr S., Jamie Pittock, Ashok Chapagain, David Dumaresq (2012). Dams on the Mekong River: Lost fish protein and the implications for land and water resources, Global Environmental Change,  Volume 22, Issue 4, October 2012, Pages 925-932.

Pinstrup-Andersen, P. and R. Pandya-Lorch (1994). Alleviating Poverty, Intensifying Agriculture and Effectively Managing Natural Resources. Washington, D.C., IFPRI.

Reardon, T., J. E. Taylor, et al. (2000). Effects of Nonfarm Employment on Rural Income Inequality in Developing Countries: An Investment Perspective. Journal of Agricultural Economics 51(2): 266-288.

Plummer, J.; Taylor, J.G. (2013). Community Participation in China: Issues and Processes for Capacity Building, Routledge: Abingdon, UK, 2013.

Quốc hội (2017). Luật Thủy lợi, Luật số: 08/2017/QH14, Hà Nội, ngày 19 tháng 6 năm 2017.

Rossing T. et al (2015). Nghiên cứu kỹ thuật loại hình sinh kế thích ứng biến đổi khí hậu dành cho Người nghèo, Ít đất & Không đất. Bản tiếng Việt dịch từ Action Research on Climate-resilient Livelihoods for Land-poor and Land-less people. CARE International in Vietnam.

Satgé De R. (2002). Learning about livelihoods: Insights from Southern Africa. Cape Town: Periperi, 2002.

Seljak, Anže (2016). Environmental resources and livelihoods in Mekong river basin, Seminar Asian Economies, Hannover, Germany.

Start, D. (2001). Rural Diversification: What Hope for the Poor? ODI Meeting on Rural Development Food Security: Towards a New Agenda, 16 May 2001, London, ODI.

Surarerks, V. and Chulasai, L. (1982) Water Management and Development in Northern Thai Irrigation Systems, Chiang Mai University, Chiang Mai.

Thirtle, C., I. Xavier, et al. (2001). Relationship Between Changes in Agricultural Productivity and the Incidence of Poverty in Developing Countries. London, DFID.

Thủ tướng Chính phủ (2012). Quyết định số 1397QĐTTg. Phê duyệt Quy hoạch thủy lợi đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2012 - 2020 và định hướng đến năm 2050 trong điều kiện biến đổi khí hậu, nước biển dâng. Hà Nội 25/9/2012.

 

Trần Bá Uẩn, Nguyễn Văn Song (2020). Ảnh hưởng của phát triển du lịch đến sinh kế hộ nông dân: Lý luận và Bài học cho Việt Nam. Tạp chí Khoa học Nông nghiệp Việt Nam 2020, 18(8): tr. 659-667.

Tran Thi Thu Ha, Han van Dijk, Simon R. Bush (2012). Mangrove conservation or shrimp farmer's livelihood? The devolution of forest management and benefit sharing in the Mekong Delta, In Vietnam, Ocean & Coastal Management, Volume 69, Dec., 2012, Pages 185-193,

Trung hoa Nhân dân Cộng hòa quốc Quốc vụ viện (2016). Nông điền thủy lợi điều lệ. Lệnh đệ 669 hào công bố tự 2016 niên 7 nguyệt 1 nhật khởi thi hành. (中华人民共和国国务 (2016). 农田水利条例. 令第669号公布 自201671日起施行.)

USAID/ICEM (2013). Mekong Adaptation and Resilience to Climate Change (Mekong ARCC). Synthesis Report.

World Bank (2017). Toward Integrated Disaster Risk Management in Vietnam: Recommendations Based on the Drought and Saltwater Intrusion Crisis and the Case for Investing in Longer-Term Resilience, Washington DC.

World Wide Fund for Nature et al. (2018). Tăng cường sự tham gia của các tổ chức xã hội trong quản trị tài nguyên nước ở ĐBSCL. Chương trình Nước và Biến đổi Khí hậu. 

 

 

 

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét