Dermot Moran
Người dịch: Hà Hữu Nga
Tóm tắt
[Tr.401] Trong suốt sự nghiệp của mình, Husserl xác định chủ nghĩa tự nhiên là mối đe dọa lớn nhất đối với cả khoa học và triết học. Trong bài viết này, tôi giải thích chẩn đoán và phê phán tổng thể của Husserl đối với chủ nghĩa tự nhiên và sau đó xem xét khía cạnh siêu việt cụ thể trong phê phán của ông. Husserl đồng ý với những người Tân Kantians khi bác bỏ chủ nghĩa tự nhiên. Ông có ba phê phán chính về chủ nghĩa tự nhiên: Thứ nhất, chủ nghĩa này (giống như chủ nghĩa tâm lý học và vì những lý do tương tự) là widersinnig ‘phản-nghĩa’ ở chỗ nó phủ nhận chính những quy luật lý tưởng mà nó cần để biện minh cho chính nó. Thứ hai, chủ nghĩa tự nhiên về cơ bản hiểu sai ý thức bằng cách coi ý thức là một phần của thế giới. Thứ ba, chủ nghĩa tự nhiên là hệ quả tất yếu của sự cứng nhắc hóa nhất định của ‘thái độ tự nhiên’ thành cái mà Husserl gọi là ‘thái độ tự nhiên luận’. Thái độ tự nhiên luận này ‘cụ thể hóa’ và ‘tuyệt đối hóa’ thế giới theo cách mà nó được coi là đương nhiên và ‘hiển nhiên’. Tuy nhiên, phân tích hiện tượng học siêu việt của Husserl bộc lộ rằng thái độ tự nhiên, mặc dù hiện diện khắp nơi trong cuộc sống hàng ngày, dù không phải là chính yếu, nhưng thực tế lại mang tính tương đối với thái độ siêu việt ‘tuyệt đối’. Do đó, phê phán chủ nghĩa tự nhiên của Husserl chín muồi dựa trên sự chấp nhận của ông về tính ưu tiên tuyệt đối của thái độ siêu việt. Nghịch lý vẫn là ở chỗ chúng ta phải bắt đầu từ và, theo một nghĩa nào đó, quay trở lại với thái độ tự nhiên, trong khi đồng thời, hạn chế thái độ này thông qua sự thận trọng siêu việt đang diễn ra của tình trạng treo lại/bỏ trong ngoặc phổ quát.
1. Gắn bó Trọn đời của Husserl với Chủ nghĩa tự nhiên
[P.402] Trong suốt sự nghiệp của mình, từ Khảo sát Logic Logical Investigations (1900/1901 – từ đây gọi là LU), trong đó mục tiêu cụ thể của ông được gọi là ‘chủ nghĩa tâm lý học’)1 đến Khủng hoảng Khoa học Châu Âu Crisis of European Sciences (2 phần đầu trước tiên được xuất bản trên Philosophia năm 1936, từ đây gọi là ‘Crisis’),2 Husserl liên tục xác định chủ nghĩa tự nhiên là mối đe dọa lớn nhất đối với khả tính của một nền khoa học thực sự có cơ sở và triết học chân chính. Thật vậy, ông tin rằng chủ nghĩa tự nhiên không chỉ là một sai lầm về mặt triết học mà thậm chí còn đe dọa đến việc bảo tồn các giá trị nhân văn thực thụ và khả tính sống một cuộc sống cộng đồng hoàn toàn hợp lý. Trong bài viết này, tôi sẽ phác thảo chẩn đoán chung của Husserl về chủ nghĩa tự nhiên và đặc biệt tập trung vào khía cạnh siêu việt trong phê bình của Husserl.3 Phê bình này có ba giai đoạn. Đầu tiên, Husserl lập luận rằng chủ nghĩa tự nhiên (giống như chủ nghĩa tâm lý và vì những lý do tương tự) là ‘phản lý’ (widersinnig), tức là nó liên quan đến tình trạng tự mâu thuẫn mang tính trình diễn khi nó phủ nhận rõ ràng các quy luật lý tưởng mà nó đòi hỏi cho sự diễn đạt và biện minh của chính nó. Tương tự như vậy, chủ nghĩa tự nhiên chắc chắn thất bại trong nỗ lực quy giản hữu hiệu tính [Gültigkeit] thành thực tính [Faktizität]. Thứ hai, Husserl cho rằng chủ nghĩa tự nhiên về cơ bản đã hiểu sai và mô tả sai bản chất bất khả quy giản mang tính ý hướng của ý thức. Dự án về chủ thể luận tự nhiên luận (xem Crisis § 14) và quá trình ‘tự nhiên hóa ý thức’ (Naturalisierung des Bewusstseins, xem ‘Triết học như một Khoa học nghiêm ngặt’, sau đây gọi là ‘PRS’)4 hiểu sai ý thức bản ngã bằng cách coi nó như một hạng mục còn sót lại hoặc ‘tag-end’/đuôi thẹo (Endchen der Welt, Cartesian Meditations § 10)5 trong thế giới, thay vì thừa nhận chủ thể tính là một điều kiện siêu việt cho khả tính của khách thể tính và địa vị-thế giới theo đúng nghĩa đó. Như Husserl viết trong Crisis:
Chỉ có một công cuộc khảo sát triệt để trở lại chủ thể tính - và cụ thể là chủ thể tính cuối cùng mang lại mọi giá trị-thế giới [world-validity], với nội dung của nó và trong mọi phương thức khoa học và tiền khoa học của nó, và vào “cái gì” và “như thế nào” của các thành tựu hợp lý - mới có thể làm cho chân lý khách quan trở nên dễ hiểu và [tr.403] đạt được Seinssinn Ý nghĩa hữu thể tối hậu của thế giới. Do đó, không phải hiện hữu của thế giới là không thể nghi ngờ, được coi là hiển nhiên, là hiện hữu chính trong bản thân nó; … đúng hơn, hiện hữu chính trong bản thân nó là chủ thể tính, được hiểu là thứ ban trước cho hiện hữu của thế giới một cách ngây thơ và sau đó hợp lý hóa hoặc (cũng là cùng một thứ) khách thể hóa nó. (Crisis § 14, tr. 69; VI 70) Chiến lược thứ ba của Husserl bao gồm một động thái siêu việt thậm chí còn rõ ràng hơn vốn chỉ có thể được hiểu trong bối cảnh ông áp dụng rõ ràng chủ nghĩa duy tâm siêu việt vào khoảng năm 1907/1908. Theo quan điểm này, chủ nghĩa tự nhiên được mô tả như một hệ quả tất yếu của sự cứng nhắc hóa nhất định của ‘thái độ tự nhiên’ (die natürliche Einstellung, Ideas I § 27) thành cái mà ông gọi là ‘thái độ duy vật’ (xem ví dụ Ideas II § 49). Ngay trong PRS, Husserl thừa nhận sự kìm kẹp của chủ nghĩa tự nhiên đối với trực giác của chúng ta: Chúng ta không dễ dàng vượt qua thói quen nguyên thủy là sống và suy nghĩ theo thái độ tự nhiên chủ nghĩa và do đó là làm sai lệch bản chất tâm lý theo chủ nghĩa tự nhiên. (PRS, tr. 271; 314)
‘Thứ bùa mê của thái độ tự nhiên chủ nghĩa’ và ‘chủ nghĩa tự nhiên nguyên thủy’ ngăn cản chúng ta nắm bắt bản chất tâm lý theo đúng nghĩa và thực sự, nói chung, ngăn cản chúng ta nhìn thấy các bản chất. Quan điểm của Husserl là bản thân ‘tự nhiên’ chứ không phải là một thứ thô sơ được đưa ra, mà phải được hiểu chính nó là tương quan của một thái độ cụ thể - thái độ tự nhiên. Thái độ tự nhiên (được gọi là ‘thái độ kinh nghiệm’ hoặc ‘thái độ trải nghiệm’ trong tác phẩm Vấn đề Cơ bản của Hiện tượng học năm 1910/1911 của ông, xem §§ 7, 9 6 ), mặc dù không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày của con người, về cơ bản là ‘một chiều’ và ‘khép kín’ (Crisis, tr. 205; VI 209) vì nó không nhận ra bản thân tự nhiên chính là một thái độ (Einstellung) hơn cả một trạng thái tâm lý trong số những trạng thái khác. Trên thực tế, như phân tích hiện tượng học siêu việt của Husserl muốn bộc lộ, bản thân thái độ tự nhiên, mặc dù có mặt ở khắp mọi nơi và mang tính hàng ngày, nhưng vẫn liên quan đến thái độ siêu việt ‘tuyệt đối’. Do đó, sự phê phán chủ nghĩa tự nhiên của Husserl trưởng thành dựa trên sự chấp nhận của ông về mức độ ưu tiên tuyệt đối của thái độ siêu việt. Điều này dẫn Husserl đến một số nghịch lý được chủ đề hóa rõ ràng, cụ thể là: ý thức con người vừa ‘ở trong thế giới’ vừa ‘cho thế giới’ như ông nói trong Crisis § 53.
Một đặc điểm dai dẳng của triết học Lục địa thế kỷ XX là thứ phản-tự nhiên chủ nghĩa kiên quyết của nó. Về mặt này, Husserl phải được ghi nhận là có tầm nhìn xa trông rộng vì đã - rất sớm - chẩn đoán chủ nghĩa tự nhiên là lập trường triết học thống trị của thế kỷ XX, một lập trường đòi hỏi sự chú ý mô tả cẩn thận lẫn cả ‘phê phán cấp tiến’ (PRS, trang 253, 293), mà ông diễn giải (như Heidegger cũng sẽ làm trong Hữu thể và Thời gian) là ‘phê phán thực chứng về mặt nền tảng và phương pháp’. Khi Husserl nói về chủ nghĩa tự nhiên, ông đặc biệt nghĩ đến các phiên bản vào cuối thế kỷ XIX, chẳng hạn như được Auguste Comte và Ernst Mach chủ trương, nhưng ông cũng truy nguyên chủ nghĩa tự nhiên trở lại thời kỳ đầu của [tr.404] triết học hiện đại, đặc biệt là Hobbes, Locke, Hume (hơi mơ hồ vì Hume, đối với Husserl, cũng là một nguyên-triết gia siêu việt),7 ‘và một Kant tự nhiên hóa’. Dần dần ông mở rộng thuật ngữ ‘chủ nghĩa tự nhiên’ để bao hàm mọi ‘triết học khách quan luận’ (Crisis, § 56, tr. 194; VI 197) đã nảy sinh để đáp lại sự tiến bộ phi thường trong khoa học tự nhiên. Đến năm 1912–1913, Husserl đã dứt khoát chỉ trích chủ nghĩa tự nhiên từ một quan điểm ‘triết học’ và thực sự là quan điểm ‘siêu việt’, theo đó nó bị quyến rũ bởi tinh thần chấp nhận thế giới một cách vô điều kiện (‘ngây thơ’) thấm nhuần thái độ tự nhiên, dẫn đến ‘sự vật hóa’ (Verdinglichung) thế giới, và tính ‘tuyệt đối hóa triết học’ của nó (Verabsolutierung, Ideas I, § 55, tr. 129; Hua III/1 107).8 Chủ nghĩa tự nhiên (và ‘khách quan luận’) bắt đầu từ giả định về một ‘thế giới cho sẵn’ nhất định đối lập với siêu việt luận mà Husserl mô tả như sau: “Mặt khác, siêu việt luận nói rằng: ý nghĩa hiện hữu (der Seinssinn) của thế giới-sống được cho trước là một cấu trúc chủ quan (subjektives Gebilde), đó là thành tựu (Leistung) của trải nghiệm cuộc sống tiền khoa học. (Crisis § 14, tr. 69; VI 70) [Khái niệm “cuộc sống tiền khoa học” của Husserl ám chỉ đến trải nghiệm sống, “thế giới sống” (Lebenswelt), tồn tại trước và là nền tảng cho nghiên cứu khoa học. “Cuộc sống tiền khoa học” này được đặc trưng bởi sự gặp gỡ trực tiếp, không qua trung gian với thế giới, nơi các đối tượng và sự kiện được trải nghiệm trong bối cảnh sống của chúng, trước khi chúng được đưa vào phân tích hoặc phân loại khoa học. Đó là một thế giới có ý nghĩa, nơi các trải nghiệm của chúng ta được định hình bởi tính chủ quan, bối cảnh văn hóa và lịch sử cá nhân của chúng ta. HHNG]
Đối với Husserl, chủ nghĩa tự nhiên ra đời là do sự thành công của khoa học hiện đại. Nó bao hàm quan điểm cho rằng các phương pháp của khoa học tự nhiên cung cấp con đường duy nhất dẫn đến chân lý; như Husserl nói: ‘Kẻ theo chủ nghĩa tự nhiên…không nhìn thấy gì ngoài tự nhiên và trước hết là tự nhiên vật lý’ (PRS, tr. 253; 294). Thật thú vị, ở Đức vào thời của Husserl, cuộc tranh luận về chủ nghĩa tự nhiên cũng liên quan đến vấn đề liệu các phương pháp của khoa học tự nhiên có đủ hay không hoặc liệu chúng có cần được bổ sung bằng các phương pháp riêng biệt của khoa học văn hóa hay Geisteswissenschaften nhân văn không (Dilthey, Rickert).9 Thật vậy, Husserl, trong bài viết ‘Triết học như một khoa học nghiêm ngặt’ (1910/1911) của mình, không chỉ hài lòng khi chỉ trích chủ nghĩa tự nhiên để ủng hộ cách tiếp cận các khoa học văn hóa. Trên thực tế, ông cũng mạnh mẽ chỉ trích chủ nghĩa lịch sử (Dilthey—mà không nêu tên ông) vì bản thân nó bị mắc vào cùng một cái bẫy như chủ nghĩa tự nhiên, và cũng dẫn đến chủ nghĩa tương đối hoài nghi. 10 [Đối với Husserl, Khoa học văn hóa Kulturwissenschaften của Đức bao gồm việc nghiên cứu văn hóa, lịch sử và hiện tượng xã hội của con người, khác với khoa học tự nhiên; nó nhấn mạnh đến việc hiểu ‘thế giới sự sống’ và cách con người định hình và được định hình bởi môi trường văn hóa và xã hội của họ. HHN]. [P.405] Ngay trong Khảo sát Logic Logische Untersuchungen, Husserl đã là một nhà phê phán chủ nghĩa tự nhiên (dưới vỏ bọc của chủ nghĩa tâm lý) mà không thực sự gọi tên nó, nhưng khi chuyển từ Gottingen đến Freiburg - quê hương của chủ nghĩa Tân Kantianism Tây Nam - ông đã hợp lực với những người Kantians để tấn công kẻ thù chung. Vì vậy, chẳng hạn, trong một lá thư ngày 20 tháng 12 năm 1915, gửi cho Heinrich Rickert, người theo chủ nghĩa Tân Kantian hàng đầu, Husserl đã bình luận rằng ông thấy mình liên minh với chủ nghĩa duy tâm Đức chống lại ‘kẻ thù chung của chúng ta’ - als unseren gemeinsamen Feind – ‘chủ nghĩa tự nhiên của thời đại chúng ta’.11 Tương tự như vậy, và sớm hơn một chút, Jonas Cohn theo chủ nghĩa Tân Kantian đã viết thư cho Husserl vào năm 1911, sau khi bài báo Logos của ông xuất hiện, để nhấn mạnh sự đồng thuận rộng rãi của họ liên quan đến ‘lập trường chiến đấu (Kampfstellung) của họ chống lại chủ nghĩa tự nhiên và chủ nghĩa lịch sử’. 12
Phê phán mạnh mẽ nhất của Husserl về chủ nghĩa tự nhiên được phát triển bằng một cách tiếp cận duy tâm siêu việt dứt khoát. Do đó, trong Crisis, mặc dù trước đây ông có ác cảm với chủ nghĩa duy tâm Đức theo kiểu suy đoán, Husserl vẫn thừa nhận rằng chủ nghĩa duy tâm siêu việt là thứ triết học duy nhất đã thành công trong việc chống lại sự cám dỗ của chủ nghĩa tự nhiên (Crisis, tr. 337; VI 271). Hiện tượng học thực sự phải trở thành một khoa học về chủ thể tính ‘thuần túy’ hoặc ‘siêu việt’ (các thuật ngữ tương đương trong Ideas I) chống lại chủ nghĩa tự nhiên một cách kiên quyết, bằng cách tập trung vào bản chất cốt lõi của những thành tựu nhận thức luận, tránh mô tả sai lệch chủ thể tính này bằng các khuôn khổ ‘trần thế’ hoặc ‘thế tục’. Husserl nhấn mạnh trong Trầm tư Descartes Thứ tư: ‘hiện tượng học eo ipso do đó là “chủ nghĩa duy tâm siêu việt”, mặc dù theo một nghĩa cơ bản và cốt lõi mới’ (CM § 41, tr. 86; Hua I 118). Và ông tiếp tục: “Bằng chứng của chủ nghĩa duy tâm này do đó chính là hiện tượng học. Chỉ những ai hiểu sai ý nghĩa sâu xa nhất của phương pháp mang tính ý hướng, hay ý nghĩa của phép quy giản siêu việt, hoặc có lẽ là cả hai, mới có thể nỗ lực tách biệt hiện tượng học khỏi chủ nghĩa duy tâm siêu việt. (CM § 41, tr. 86; Hua I 119) Nỗ lực nghiêm ngặt nhằm đưa chủ nghĩa tự nhiên vào trong chủ nghĩa duy tâm siêu việt ấy đã dẫn Husserl giai đoạn muộn đến một số nghịch lý mà chúng ta sẽ khám phá vào cuối bài viết này.
2. Chủ nghĩa Tự nhiên trong ‘Triết học như một Khoa học Nghiêm ngặt’ của Husserl
Mặc dù ông đề cập đến chủ đề này trong các bài giảng năm 1906/1907 có tựa đề Giới thiệu về Logic và Lý thuyết Tri thức (Husserliana XXIV), nhưng cách giải quyết sâu rộng nhất của Husserl về chủ nghĩa tự nhiên - cho đến nay là chỉ trích mạnh mẽ nhất về nó trong nửa đầu thế kỷ XX - có thể được tìm thấy trong bài tiểu luận ‘Triết học như một Khoa học Nghiêm ngặt’ của ông, được ủy quyền bởi Heinrich Rickert theo chủ nghĩa Tân Kantian của phái Freiburg, gửi cho tạp chí mới Logos của ông. Về mặt thực chứng, Husserl thừa nhận khát vọng của chủ nghĩa tự nhiên là thiết lập triết học như một khoa học thực sự nghiêm ngặt: [tr.406] “Ngay từ đầu, chủ nghĩa tự nhiên đã kiên quyết theo đuổi ý tưởng về một cuộc cải cách triết học khoa học nghiêm ngặt và thậm chí tin rằng tại bất kỳ thời điểm nào, cả ở dạng ban đầu và dạng hiện đại, nó đã hiện thực hóa ý tưởng này.” (PRS, tr. 253; 293) Do đó, theo quan điểm của Husserl, chủ nghĩa tự nhiên sẽ luôn là sự cám dỗ dai dẳng nhất đối với các nhà khoa học. Trong bài luận này, mở rộng sự chỉ trích của ông đối với chủ nghĩa tâm lý, Husserl cũng chẩn đoán chủ nghĩa tự nhiên chứa đựng trong đó một ‘phản nghĩa’ (Widersinn, PRS, tr. 254; 295), hoặc một ‘vòng tròn phản nghĩa’ (PRS, tr. 259; 300). Ông lặp lại đánh giá này trong Crisis: chủ nghĩa tự nhiên là một ein broadersinniger Zirkel ‘vòng tròn phản nghĩa’ (Crisis, tr. 204; VI 208), giả định những gì nó đặt ra để chứng minh. ‘Phản nghĩa’ là một khái niệm kỹ thuật cụ thể của Husserl (được phân biệt cẩn thận với Unsinn - vô nghĩa, trong LU I § 15), được định nghĩa là ‘tính mâu thuẫn rõ ràng’ (PRS, tr. 254; 295).13 Do đó, chủ nghĩa tự nhiên về cơ bản có cùng một lỗi mà trước đó (trong LU) ông đã chẩn đoán trong tâm lý học, sau đó là quan điểm ‘thống trị’ ở Đức (LU XVIII 261) ‘trong thời đại ám ảnh tâm lý của chúng ta’ (LU, Prol. § 28).
Trên thực tế, trong bài luận năm 1910/1911 của mình, Husserl đã nhắc lại một cách rõ rang cho tập đầu tiên của LU, Prolegomena to Pure Logic- Dẫn luận Logic Thuần túy (1900), đặc biệt là phần §§ 25–29, và thực sự sau đó ông đã trích dẫn những phần này như một sự bác bỏ triết học hiệu quả đối với chủ nghĩa tự nhiên và thực chứng luận.14 Trong những phần này của Prolegomena Dẫn luận, Husserl đưa ra lời bảo vệ cho lý tưởng tính tiên nghiệm của Prinzip des Widerspruchs Nguyên lý Phi-Mâu thuẫn (PNC - Principle of Non-Contradiction) (‘bất khả tính về chân lý chung của các mệnh đề mâu thuẫn’, LU Prol. § 25) chống lại ‘chủ nghĩa kinh nghiệm tâm lý học’ (‘à la Mill’, Hua XX/1 286), vốn coi nguyên lý này là tuyên bố cho rằng hai trạng thái tinh thần loại trừ nhau, hoặc cho rằng ai đó không thể nghĩ cả hai mệnh đề cùng một lúc. Đối với Husserl, PNC không phải là một khái quát từ kinh nghiệm thực tại, cũng không phải là một quy luật tự nhiên, thậm chí không phải là một chuẩn tư duy, mà là một chân lý lý tưởng thuần túy, tiên nghiệm. Việc nghĩ khác đi là phản bội chính bản chất của khoa học bằng cách giải thích các hành vi tri thức theo các sự kiện thời gian xảy ra tự nhiên trên thế giới (Prol. § 26). Năng lực hình thành ý tưởng về các khái niệm phổ quát trong các khái niệm đơn lẻ, nắm bắt ‘bằng mắt’ được một khái niệm trong một trình bày theo kinh nghiệm và chắc chắn về tính đồng nhất của các ý hướng khái niệm của chúng ta trong trình bày lặp đi lặp lại, được giả định bởi khả tính tri thức. (LU, Prol. § 29, I, tr. 69; XVIII 109)
Một thứ chủ nghĩa kinh nghiệm phủ nhận điều này chỉ đơn giản là nhầm lẫn. Thật vậy, ‘chỉ có tính không nhất quán mới là thứ nuôi sống được chủ nghĩa tâm lý học: suy nghĩ đến cùng tức là đã từ bỏ nó...’ (LU Prol. § 25, I, tr. 56; Hua XVIII 88). Chủ nghĩa kinh nghiệm không đưa ra được lời giải thích thỏa đáng về kinh nghiệm và chủ yếu là kinh nghiệm trực quan của chúng ta về lý tưởng [tr.407] (ví dụ như các phạm trù phổ quát, các thực thể toán học, bản chất, tính khách quan phạm trù, v.v.). Chủ nghĩa kinh nghiệm không giải thích thỏa đáng về các phạm trù phổ quát và các thực thể lý tưởng mà nó nhất thiết phải ứng dụng. Mọi hình thức của chủ nghĩa tự nhiên (hay ‘chủ nghĩa khách quan tự nhiên luận’) đều chứa đựng một ‘phản nghĩa’ cố hữu (Widersinn): Những gì đặc trưng cho mọi hình thức chủ nghĩa tự nhiên cực đoan và nhất quán, từ chủ nghĩa duy vật phổ biến cho đến chủ nghĩa nhất nguyên-cảm giác và chủ nghĩa năng lượng mới nhất, một mặt là quá trình tự nhiên hóa ý thức bao gồm tất cả các yếu tố đã cho mang tính nội tại có ý hướng của ý thức, và mặt khác là sự tự nhiên hóa các ý tưởng, và do đó là tất cả các lý tưởng và chuẩn mực tuyệt đối. (PRS, tr. 254; 294–295)15
[P.408] Trên thực tế, chỉ có một lĩnh vực cụ thể mà Husserl thừa nhận chủ nghĩa tự nhiên đã đúng, cụ thể là, trong việc thừa nhận rằng thể xác và linh hồn tạo thành một nhất tính kinh nghiệm (xem Ideas II § 46, tr. 176; Hua IV 168).16 Điều đáng chú ý là, trong bài luận ‘Triết học như một Khoa học Nghiêm ngặt’ (cũng như thường thấy ở những công trình khác), Husserl đã trượt dài, mà không báo hiệu, từ việc nói về thái độ tự nhiên sang thái độ tự nhiên luận, điều mà ông cũng làm trong Ideas II § 49, được viết dưới dạng bản thảo vào năm sau (1912). Trên thực tế, Husserl dường như có một quan điểm khá phức tạp về mối quan hệ giữa ‘thái độ tự nhiên’, ‘thái độ tự nhiên luận’ và thực sự là tất cả những gì mà ông thỉnh thoảng gọi là die naturale Einstellung ‘thái độ tự nhiên’, một điều mà chúng ta cần giải quyết ở phần sau của bài viết này. Tuy nhiên, trong Ideas II, có vẻ như ‘thái độ tự nhiên’ (Hua IV 179) chính xác là thái độ tương quan với những thứ được hiểu là thuộc về mối liên hệ nhân quả của ‘tự nhiên’.
3. Phê phán Siêu việt về Chủ nghĩa Tự nhiên
Vậy là, trong khi Husserl đã thiết lập các động thái trung tâm trong lời phê phán của ông về một nhóm các khái niệm liên quan sau đó được dán nhãn là ‘chủ nghĩa tâm lý’, ‘chủ nghĩa kinh nghiệm cực đoan’, ‘phê phán kinh nghiệm’ và ‘chủ nghĩa thực chứng’ trong LU, thì phải mất nửa thập kỷ nữa ông mới mở rộng phê phán của mình sang chủ nghĩa tự nhiên. Đáng chú ý hơn, phần phê phán trưởng thành này về chủ nghĩa tự nhiên song hành với việc ông dứt khoát áp dụng chủ nghĩa duy tâm siêu việt (từ khoảng năm 1908). Phân tích sâu sắc hơn về chủ nghĩa tự nhiên này hiện coi nó gần như là hệ quả tất yếu của lối sống tự nhiên của chúng ta trên thế giới. Dưới ảnh hưởng của Richard Avenarius (xem Vấn đề Cơ bản của Hiện tượng học § 10), giờ đây ông trình bày chủ nghĩa tự nhiên như một quá trình sự vật hóa triết học về trải nghiệm thế giới ‘bằng thái độ tự nhiên’.17 Trên thực tế, thế giới sống tự nhiên là kết quả tương quan hoặc được khách thể hóa của ‘thái độ tự nhiên’ và chủ nghĩa tự nhiên là kết quả của ‘thái độ tự nhiên luận’ (được đề cập trong PRS, Ý tưởng II § 49 và trong FTL § 100, tr. 262). Thái độ tự nhiên có xu hướng coi mọi thứ là ‘được cho sẵn’ và do đó là ‘có thật’ theo cùng một cách; do đó, nó coi ý thức là một sự thật của tự nhiên, là một phần của thế giới: Một sự xác định đơn nghĩa về tinh thần thông qua các tùy thuộc tính thuần túy tự nhiên là điều bất khả tưởng, tức là như phép quy giản thành một thứ gì đó giống như bản chất vật lý...Các chủ thể không thể bị hòa tan vào tự nhiên, vì trong trường hợp đó, điều mang lại ý nghĩa cho tự nhiên sẽ biến mất. (Ý tưởng II § 64, tr. 311; Hua IV 297) Husserl chắc chắn cho rằng sự sụp đổ này của việc cấu thành chủ thể tính trở nên một sự kiện đơn thuần của tự nhiên bao gồm cả một ‘phản nghĩa’.
4. Khẳng định của Husserl và Kant về Ưu tiên tính của Ý thức
[P.409] Lời xác quyết cho rằng ý thức không thể chỉ được coi là một phần của thế giới khách quan được cấu thành mà còn là một điều kiện cần thiết cho khả tính của tri thức khách quan, tất nhiên có cả một vòng tròn Kantian rõ ràng. Tuy nhiên, ngay từ phần Prolegomena Dẫn luận (1900) gửi cho LU, Husserl đã chỉ trích Kant và (chí ít là một số thuộc về) những người theo chủ nghĩa Tân Kantians - cụ thể là Cristoph Sigwart (1830–1904), giáo sư tại Tübingen, và Benno Erdmann (1851–1922), giáo sư tại Berlin - vì đã diễn giải ‘các điều kiện cho khả tính của tri thức’ nằm trong bản chất của ý thức con người: [Sigwart] luôn nói về tư duy của chúng ta và các chức năng của nó khi ông cố gắng mô tả tính tất yếu hợp lý. (LU Prol. § 39 I, tr. 84; XVIII 133) Bản thân Husserl cũng phân biệt giữa các điều kiện chủ quan là ‘các điều kiện thực tế (reale Bedingungen) bắt nguồn từ chủ thể phán đoán cá nhân, hoặc trong các loài khác nhau của hiện hữu phán đoán’ với ‘các điều kiện lý tưởng nằm trong hình thức của chủ thể tính theo đúng nghĩa’, mà ông thích gọi là ‘các điều kiện noetic’ (LU Prol. § 32, I tr. 75–76; Hua XVIII 119) [Noetic đề cập đến những trải nghiệm được đặc trưng bởi ý nghĩa nhận biết sâu sắc hoặc sự hiểu biết, thường liên quan đến trực giác, sự hiểu biết trực tiếp hoặc cảm giác hấp dẫn về chân lý; những trải nghiệm này thường được mô tả là không thể diễn tả và có thể xảy ra trong nhiều bối cảnh khác nhau, bao gồm các trải nghiệm tôn giáo, tâm linh và huyền bí. HHN]. Theo một nghĩa nào đó, cả trong LU và sau này, Husserl thừa nhận rằng việc nhấn mạnh rằng tri thức bao gồm mối quan hệ với người biết là một chân lý hiển nhiên (xem Erste Philosophie II, Hua VIII 38). Mặt khác, tuyên bố này che giấu một loạt các nhầm lẫn siêu việt.
Có một nhầm lẫn được gọi là ‘tương đối luận cụ thể’ hoặc Anthropologismus Nhân học luận. Husserl cho rằng việc coi các quy luật logic là mô tả các quá trình tư duy của con người là một loại ‘tương đối luận giống loài’ (der spezifische Relativismus) hoặc ‘nhân học luận’ (Anthropologismus, LU Prol. § 36). Nhân học luận cho rằng chân lý là tương đối với loài người và do đó, nếu không có con người, sẽ không có chân lý: Theo quan điểm của Sigwart, sẽ là hư cấu khi nói về những chân lý tự chúng chứa đựng những điều mà không ai biết đến, ví dụ như những chân lý vượt quá khả năng hiểu biết của con người. (LU Prol. § 39 I, tr. 85; Hua XVIII 134) Với quan điểm phản hiện thực luận về chân lý như vậy, Husserl nói, định luật vạn vật hấp dẫn của Newton sẽ không phải là ‘chân’ trước Newton (Prol. § 39 I, tr. 85; XVIII 134), nhưng Husserl coi điều này là unsinnig phản nghĩa vì hàm ý trong khẳng định về định luật của Newton là cái mà ông gọi là die unbedingte Geltung fur alle Zeit ‘giá trị hiệu lực không hạn chế cho mọi thời đại’ (Hua XVIII 134). Tại thời điểm này, Husserl cho rằng lý thuyết về tri thức của Kant là tội lỗi của loại nhân học luận này, vì nó suy ra các quy luật…theo cách thức ít nhiều mang tính huyền thoại, từ một số ‘hình thức cội nguồn’ hoặc ‘phương thức vận hành’ nhận thức (của con người), từ ý thức theo đúng nghĩa, được coi là lý trí chung của con người, từ cấu thành tâm-vật lý của con người…(LU Prol. § 38 I, tr. 83; Hua XVIII 130) Husserl cáo buộc Kant (và ít nhất là những người theo chủ nghĩa Tân Kantians thế hệ hiện tại của ông) hiểu sai phạm vi chủ quan cứ như thể nó là thứ gì đó tự nhiên hoặc ‘thật’, và do đó diễn giải a priori một cách tiên nghiệm như thể nó là một phần thiết yếu của loài người vậy (LU Prol. § 38). Điều này vẫn vô lý nếu người ta cố gắng suy ra sự cần thiết về mặt logic và hình thức từ một số sự kiện nhất định về trải nghiệm của con người. Trong những năm sau này, Husserl tiếp tục lặp lại lời chỉ trích này đối với Kant, người mà ông cho là đã quá phụ thuộc [tr. 410] vào tâm lý học tự nhiên luận của Locke (xem FTL § 100, tr. 257; Hua XVII 264; và Crisis § 58).
Ngược lại, ít nhất là trong LU, Husserl vẫn duy trì quan điểm hiện thực luận mạnh mẽ về chân lý: Điều gì chân thì hoàn toàn là chân, về bản chất: chân lý là duy nhất, bất kể con người hay không phải con người, thiên sứ hay các vị thần linh nắm bắt và phán đoán nó. (LU Prol. § 36, I, tr. 79; Hua XVIII 125) Đối với Husserl, ngay cả ở giai đoạn này, việc một số sự kiện là chân mà không phụ thuộc vào ý thức của con người về chúng, vẫn không loại trừ khả năng một số điều kiện ‘noetic’ nhất định vẫn phải được thừa nhận trong quá trình cấu thành khách thể tính. Nhưng chắc chắn có một sự căng thẳng cần cảm nhận trong những công thức này ở công trình Prolegomena Dẫn luận. Trong các công thức sau này, Husserl phân biệt giữa khả tính thực và khả tính lý tưởng; giữa các chân lý chỉ tương quan với một tâm trí khả thể suy tư về chúng và những chân lý có tương quan với các tâm trí thực tại. Trong LU, Husserl bảo vệ quan điểm hiện thực luận điển hình của Plato về chân lý và về bản chất của lý tưởng, của các thực thể logic dưới ảnh hưởng của Hermann Lotze.18 Việc Lotze hiểu Bolzano đã truyền cảm hứng cho Husserl chấp nhận khách thể tính vượt thời gian và duy nhất của các hình thái lý tưởng chống lại truyền thống duy nghiệm (‘mù quáng trước khách thể tính đặc biệt của tất cả các hình thái lý tưởng’, xem Formale und Transzendentale Logik - Logic Hình thức và Siêu việt § 56, tr. 151; Hua XVII 159). Thật vậy, trong Entwurf des Vorworts Bản thảo Lời tựa cho bản sửa đổi năm 1913 của LU, ông coi các chân lý của Bolzano tự thân chúng là ‘những điều phi lý siêu hình’ cho đến khi ông đọc Lotze.19 Cách diễn giải của Lotze về Ý tưởng của Plato đã giúp ông hiểu rõ Satze an sich ‘các mệnh đề tự thân’ của Bolzano là ‘ý nghĩa của các khẳng định’ (Hua XXII 156) 20 chứ không phải là những loại sự vật bí ẩn, chiếm chỗ topos ouranios - ở chốn thiên đường nào đó.21
_________________________________
(Còn nữa…)
Nguồn: Moran Dermot (2008). Husserl’s transcendental philosophy and the critique of naturalism. In Continental Philosophy Review· December 2008, Review 41(4):401-425.
Notes
1 Husserl (1975b §§ 17–51). Tập thứ hai được xuất bản thành hai tập với tên Husserliana XIX/1 và XIX/2, biên tập của Ursula Panzer (1984), John Findlay (2001) dịch. Sau đây là ‘LU’ theo sau là số khảo sát, số đoạn văn và số trang của bản dịch tiếng Anh (tập 1 = I; tập 2 = II), theo sau là tập Husserliana và số trang.
2 Phiên bản phê bình của Crisis được xuất bản với tên Husserl (1954), David Carr dịch (1970). Sau đây là ‘Crisis’ theo sau là số trang tiếng Anh và tập Husserliana (từ đây gọi là ‘Hua’) và số trang.
3 Các phiên bản trước đó của bài báo đã được trình bày tại Hội thảo Triết học tại Đại học Northwestern (ngày 27 tháng 1 năm 06), Trường Nghiên cứu Xã hội Mới (ngày 23 tháng 2 năm 06), Đại học King's College London (ngày 15 tháng 3 năm 06) và Cuộc họp lần thứ 36 của Nhóm Husserl, Cao đẳng Wellesley (ngày 22 tháng 6 năm 06). Xin cảm ơn các nhà bình luận đã đóng góp ý kiến, bao gồm Cristina Lafont, Tom McCarthy, Steve Crowell và Tom Nenon.
4 Husserl (2002a, trang 249–295); ban đầu là Logos. Internationale Zeitschrift für Philosophie und Kultur 1 (1910–1911), trang 289–341 (tái bản trong Husserliana tập XXV). Sau đây gọi là ‘PRS’ với cách phân trang Brainard, tiếp theo là cách phân trang tiếng Đức của bản gốc.
5 Husserl (1931). Bản tiếng Đức không được xuất bản cho đến năm 1950 với tên gọi Cartesianische Meditationen und Pariser Vorträge, hrsg. Stephan Strasser, Husserliana I (1950), bản dịch D. Cairns as Cartesian Meditations. An Introduction to Phenomenology (1960). Sau đây là ‘CM’ theo sau là số trang của bản dịch tiếng Anh, và tập Husserliana và số trang.
6 Xem Husserl (2006).
7 Husserl nói về ‘chủ nghĩa duy cảm tự nhiên hóa của Hume, chỉ có thể thấy một tập hợp dữ liệu trôi nổi trong một khoảng trống không có thực’ trong Formal and Transcendental Logic § 100; xem Husserl (1974a, tr. 227); bản dịch D. Cairns as Formal and Transcendental Logic (1969, tr. 257). Sau đây là ‘FTL’ theo sau là số trang của bản dịch tiếng Anh và số tập và số trang của ấn bản Husserliana. Husserl cũng coi Hume là một nhà tư tưởng siêu việt (Erste Philosophie I, Husserl (1965), Hua VII 176) và thậm chí nghĩ rằng mô típ siêu việt vẫn được duy trì theo một cách kỳ lạ ngay cả trong Mill, và đặc biệt là trong Avenarius (Crisis, tr. 195; VI 198).
8 Xem sau Hua XXXIV 258, trong đó Husserl (2002b) cáo buộc nhân học là ‘tuyệt đối hóa một thế giới thực chứng một cách sai lầm’.
9 Để biết tổng quan về chủ nghĩa tự nhiên trong thế kỷ XX, hãy xem Keil (2008).
10 Kỹ thuật chẩn đoán một thất bại chung trong các hệ thống trí tuệ đối lập này thường xuyên được Hilary Putnam khai thác - bản thân ông cũng là một người rất ngưỡng mộ Husserl về mặt này. Putnam là một trong những nhà phê bình không ngừng nghỉ của chủ nghĩa tự nhiên quy giản, một lập trường mà trước đây ông đã ủng hộ (dưới ảnh hưởng của Quine cùng những người khác). Đối với Putnam, dự án về một siêu hình học khoa học tự nhiên luận là một thảm họa, bởi vì về bản chất, nó là một chủ nghĩa tự nhiên quy giản, ‘một trong những khuynh hướng đương đại nguy hiểm nhất’, cuối cùng dẫn đến chủ nghĩa hoài nghi và sự hủy diệt quan điểm của con người. Đây gần như là sự lặp lại chính xác quan điểm của Husserl trong Crisis và Putnam giống như Husserl chỉ ra khoa học Galilean là thủ phạm chính. Xem Putnam (1983, tr. 211). Galilean science as a major culprit. See Putnam (1983, p. 211).
11 E. Husserl, thư gửi Rickert, tháng 12 năm 1915, trong Briefwechsel, do K. Schuhmann hợp tác với E. Schuhmann biên tập. Husserliana Dokumente, 10 tập (1994a), tập 5, tr. 178. Xem thêm Kern (1964, tr. 35).
12 Xem lá thư của Jonas Cohn ngày 31 tháng 3 năm 1911 gửi Husserl, trong Husserl, Briefwechsel, do K. Schuhmann và Schuhmann biên tập, Tập 5, trang 17.
13 Hilary Putnam giải thích chủ nghĩa hiện thực nội tại, thực dụng hoặc theo lẽ thường của ông ‘với khuôn mặt con người’ trong khuôn khổ trái ngược với nó, cụ thể là chủ nghĩa hiện thực siêu hình hoặc khoa học, một mặt, và các hình thức khác nhau của tương đối luận khái niệm liên quan đến sự biến mất của thế giới, mặt khác. Putnam nhấn mạnh vào việc bảo vệ trực giác theo lẽ thường của chúng ta về thế giới, đồng thời chống lại bất kỳ động thái nào hướng tới siêu hình học tuyệt đối, và đồng thời bác bỏ mọi hình thức nhị nguyên luận, đặc biệt là nhị nguyên luận về thế giới tự thân và thế giới như nó xuất hiện, và nhị nguyên luận về các sự kiện và giá trị. Ông thực hiện điều này bằng cách chỉ ra rằng mỗi mặt của cặp đối lập của ông đều bị mắc kẹt trong một tập hợp các tuyên bố phản nghĩa, xem Moran (2000, trang 65–104).
14 Husserl nhắc đến LU trong PRS, trang 254, 295, và một lần nữa trong Ideas I, § 20, trang 37–38; Hua III/I 37–38.
15 Nhân tiện, ‘chủ nghĩa nhất nguyên cảm giác’ ở đây là một tham chiếu đến lý thuyết hiện tượng của Mach trong cuốn Phân tích cảm giác (Mach, 1914, sửa đổi và mở rộng năm 1913). Sau này, Bertrand Russell thừa nhận trong cuốn Phát triển Triết học của tôi (1995, trang 134) rằng ‘chủ nghĩa nhất nguyên trung lập’ của ông được truyền cảm hứng từ cuốn sách của Mach và quan điểm do William James (2003) phát triển trong cuốn Các bài luận về Chủ nghĩa Kinh nghiệm Cấp tiến của ông. Chủ nghĩa duy cảm của Mach được tóm tắt trong đoạn văn sau đây trong cuốn Phân tích cảm giác của ông:
Chúng ta thấy một vật có một điểm S. Nếu chúng ta chạm vào S, tức là đưa nó vào kết nối với cơ thể của chúng ta, chúng ta sẽ nhận được một cú chích. Chúng ta có thể nhìn thấy S mà không cảm thấy cú chích. Nhưng ngay khi chúng ta cảm thấy cú chích, chúng ta thấy S trên da. Do đó, điểm nhìn thấy được là một hạt nhân vĩnh cửu, mà cú chích được gắn vào, tùy theo hoàn cảnh, như một thứ gì đó ngẫu nhiên. Từ tần suất của những sự kiện tương tự, cuối cùng chúng ta quen với việc coi mọi đặc tính của cơ thể là 'hiệu ứng' xuất phát từ các hạt nhân vĩnh cửu và truyền đến bản ngã thông qua phương tiện của cơ thể; những hiệu ứng mà chúng ta gọi là cảm giác. Tuy nhiên, thông qua hoạt động này, các hạt nhân này bị tước bỏ toàn bộ nội dung cảm giác của chúng và chuyển thành các biểu tượng tinh thần đơn thuần. Do đó, khẳng định rằng thế giới chỉ bao gồm các cảm giác của chúng ta là đúng. Trong trường hợp đó, chúng ta chỉ có kiến thức về các cảm giác và giả định về các hạt nhân được đề cập đến hoặc về hành động qua lại giữa chúng, từ đó các cảm giác xuất phát, hóa ra là khá vô ích và thừa thãi. Quan điểm như vậy chỉ phù hợp với chủ nghĩa hiện thực nửa vời hoặc một sự chỉ trích triết học nửa vời.
Mach đang ủng hộ một loại chủ nghĩa nhất nguyên trung lập về các cảm giác. Mach chịu trách nhiệm cho thuật ngữ 'các phức hợp cảm giác' xuất hiện trong Husserl. Mach viết trong Phân tích các cảm giác:
Trước tiên, chúng ta hãy xem xét các mối quan hệ qua lại của các yếu tố của phức hợp A B C…, mà không liên quan đến K L M … (cơ thể của chúng ta). Tất cả các cuộc điều tra vật lý đều thuộc loại này. Một quả bóng trắng rơi vào một chiếc chuông; một âm thanh được nghe thấy. Quả bóng chuyển sang màu vàng trước một ngọn đèn natri, màu đỏ trước một ngọn đèn lithium. Ở đây, các nguyên tố (A B C…) dường như chỉ được kết nối với nhau và độc lập với cơ thể chúng ta (K L M…). Nhưng nếu chúng ta dùng santonin, quả bóng lại chuyển sang màu vàng. Nếu chúng ta ấn một mắt sang một bên, chúng ta sẽ thấy hai quả bóng. Nếu chúng ta nhắm mắt hoàn toàn, sẽ không có quả bóng nào ở đó cả. Nếu chúng ta cắt đứt dây thần kinh thính giác, sẽ không có âm thanh nào được nghe thấy. Các nguyên tố = A B C…, do đó, không chỉ được kết nối với nhau mà còn với K L M; Ở mức độ này, và chỉ ở mức độ này, chúng ta gọi A B C… là cảm giác, và coi A B C là thuộc về bản ngã. Trong phần sau, bất cứ khi nào người đọc tìm thấy các thuật ngữ “Cảm giác”, “Phức hợp cảm giác”, được sử dụng cùng với hoặc thay thế cho các biểu thức “yếu tố”, “phức hợp các yếu tố”, thì phải ghi nhớ rằng chỉ trong mối liên hệ và mối quan hệ đang được đề cập, chỉ trong sự phụ thuộc chức năng của chúng, thì các yếu tố mới là cảm giác. Trong một mối quan hệ chức năng khác, chúng đồng thời là các đối tượng vật lý. Chúng tôi chỉ sử dụng thuật ngữ bổ sung “cảm giác” để mô tả các yếu tố, bởi vì hầu hết mọi người quen thuộc hơn nhiều với các yếu tố đang được đề cập dưới dạng cảm giác (màu sắc, âm thanh, áp suất, không gian, thời gian, v.v.), trong khi theo quan niệm phổ biến, các hạt khối lượng được coi là các yếu tố vật lý, mà các yếu tố, theo nghĩa được sử dụng ở đây, được gắn vào dưới dạng “thuộc tính” hoặc “hiệu ứng”. Mach kết luận: Do đó, khoảng cách lớn giữa nghiên cứu vật lý và nghiên cứu tâm lý chỉ tồn tại khi chúng ta chấp nhận các quan niệm rập khuôn theo thói quen của mình. Màu sắc là một vật thể vật lý ngay khi chúng ta xem xét sự phụ thuộc của nó, ví dụ, vào nguồn sáng của nó, vào các màu khác, vào nhiệt độ, vào không gian, v.v. Tuy nhiên, khi chúng ta xem xét sự phụ thuộc của nó vào võng mạc (các yếu tố K L M …), thì đó là một vật thể tâm lý, một cảm giác. Không phải chủ đề, mà là hướng điều tra của chúng ta, khác nhau trong hai phạm vi. (Mach, 1914, xem thêm Chương II., tr. 43, 44). 16 Xem Husserl (1952a); dịch. R. Rojcewicz và A. Schuwer như những Ý tưởng liên quan đến một Hiện tượng học Thuần túy và đến một Triết học Hiện tượng học, Sách thứ hai, Husserl Collected Works III (1989). Sau đây gọi là ‘Ý tưởng II’.
17 Để thảo luận về mối quan hệ của Husserl với Avenarius và những người theo chủ nghĩa thực chứng khác, hãy xem Summer (1985).
18 Trong bức thư gửi Rickert vào tháng 12 năm 1915, Husserl nói rằng ngay cả ‘khi bắt đầu theo chủ nghĩa tự nhiên’, tâm hồn ông ‘đã tràn ngập nỗi nhớ thầm kín (Sehnsucht) về vùng đất Lãng mạn cũ của Chủ nghĩa duy tâm Đức’ (Briefwechsel, tập 5, trang 178, bản dịch của tôi). Rickert đã truyền cảm hứng cho nỗi nhớ này trong khi Windelband, ‘không phải là một nhà tư tưởng sáng tạo thực sự’ (ibid., trang 177) không làm được. Husserl cũng nói về hiện tượng học như nỗi nhớ thầm kín của triết học hiện đại trong Ideas I § 62, trang 142; Hua III/1 118.
19 Husserl cũng nghĩ rằng có một ‘chủ nghĩa kinh nghiệm cực đoan chưa được giải quyết ở Bolzano’ mà ông chỉ trích trong Bản thảo Lời tựa cho Bản sửa đổi năm 1913 của LU. Xem Husserl (1975a). Xem thêm Von Duhn (2003, trang 21–33).
20 Mark Textor đã chỉ ra với tôi rằng đó thực sự là một sự trình bày sai lệch về các mệnh đề của Bolzano trong chính chúng vì một số trong số chúng không bao giờ có thể được thể hiện hoặc suy nghĩ và do đó không thể hoàn toàn tương đương với các giác quan. Theo Bolzanos Propositionalismus (1996) của Textor, Husserl đã hiểu sai Bolzano về điểm này. Husserl biến Sa¨tze an sich của Bolzano thành các loài hoặc kiểu nội dung khẳng định hoặc phán đoán. Đây có thể là một ý tưởng hay, nhưng không phải là điều Bolzano muốn. Đối với Bolzano, Satz an sich là một trong những khái niệm cơ bản của ông, không thể quy giản thành bất cứ thứ gì giống như một 'kiểu' hoặc 'loài' nội dung khẳng định, mà đúng hơn là Satz xuất hiện trong các phân tích về nhiều (nếu không muốn nói là tất cả) các khái niệm. Ví dụ, Bolzano sẽ lập luận rằng Satz an sich không thể là nội dung phán đoán, đối với một số Sa¨tze an sich không thể bị phán đoán. Không ai có thể phán đoán 1 = 2, điều này rõ ràng là không mạch lạc. Có lẽ người ta có thể nói rằng Satz an sich có thể là nội dung của một phán đoán hoặc sự phủ định của nó có thể bị phán đoán. Nhưng sau đó có thể có những nội dung không thể bị phán đoán: sẽ không bao giờ có bằng chứng nào có thể xác định được phán đoán của chúng ta. Đây không phải là lập luận kết luận chống lại Husserl, nhưng làm rõ những khó khăn trong việc quy Satz an sich thành thứ gì đó mà chúng ta đã biết và chấp nhận.
21 Tuy nhiên, Husserl không hài lòng với một số 'tâm lý hóa của cái phổ quát' mà ông phát hiện trong Lotze (1888) Logic (1874) § 316. Xem Husserl (1994b, tr. 1); Hua XXII 156. Để biết lời phê bình của ông đối với Lotze, hãy xem LU II §10 I 322, Số 5; Hua XIX/1 138.
References
Avenarius, Richard. 1891. Der menschliche Weltbegriff. Leipzig: O. R. Reisland. Reprinted Elibron Classics, 2005.
Bermes, Christian. 2004. Welt als Thema der Philosophie: Vom metaphysischen zum natürlichenWeltbegriff. Frankfurt: Meiner Verlag.
Bruzina, Ronald. 2004. Edmund Husserl and Eugen Fink. Beginnings and Ends in Phenomenology 1928–1938. New Haven & London: Yale University Press.
Fink, Eugen. 1966a. Studien zur Phänomenologie 1930–1939 (ed. Van Breda, L.). The Hague: Nijhoff.
Fink, Eugen. 1966b. Was Will die Pha¨nomenologie Edmund Husserls? In Studien zur Phänomenologie 1930–1939, ed. E. Fink, and L. Van Breda, 157–178. The Hague: Nijhoff.
Fink, Eugen. 1966c. Vergegenwa¨rtigung und Bild I. In Studien zur Pha¨nomenologie 1930–1939, ed. L. Van Breda, 157–178. The Hague: Nijhoff.
Fink, Eugen. 1972. What does the phenomenology of Edmund Husserl want to accomplish? (trans: Arthur Grugan). Research in Phenomenology 2: 5–28.
Husserl, Edmund. 1913. Entwurf einer ‘Vorrede’ zu den Logischen Untersuchungen. Hrsg. Eugen Fink, Tijdschrift voor Filosofie, Vol. 1 No. 1 (February 1939), pp. 107–133 and No. 2 (May 1939), pp. 319–339.
Husserl, Edmund. 1931. Méditations carte´siennes: introduction à la phénoménologie. Trans. G. Peiffer and E. Levinas. Paris: Almand Colin.
Husserl, Edmund. 1938. Erfahrung und Urteil. Untersuchungen zur Genealogie der Logik. Redigiert und hrsg. Ludwig Landgrebe. Prague: Academia-Verlag. 7. Aufl. Hamburg: Felix Meiner, 1999.
Husserl, Edmund. 1950. Cartesianische Meditationen und Pariser Vorträge. Hrsg. Stephan Strasser. Husserliana Volume I. The Hague: Nijhoff. Reprinted 1991.
Husserl, Edmund. 1952a. Ideen zu einer reinen Phänomenologie und phänomenologischen Philosophie.
Zweites Buch: Phänomenologische Untersuchungen zur Konstitution. Hrsg. Marly Biemel.
Husserliana Volume IV. The Hague: Nijhoff. Reprinted 1991.
Husserl, Edmund. 1952b. Ideen zu einer reinen Phänomenologie und phänomenologischen Philosophie. Drittes Buch: Die Phänomenologie und die Fundamente der Wissenschaften. Hrsg. Marly Biemel. Husserliana Volume V. The Hague: Nijhoff.
Husserl, Edmund. 1954. Die Krisis der europäischen Wissenschaften und die transzendentale Phänomenologie. Eine Einleitung in die pha¨nomenologische Philosophie. Hrsg. W. Biemel. Husserliana Volume VI. The Hague: Nijhoff. Reprinted 1976.
Husserl, Edmund. 1960. Cartesian Meditations. An Introduction to Phenomenology. Trans. D. Cairns. The Hague: Nijhoff.
Husserl, Edmund. 1965. Erste Philosophie (1923/24). Erster Teil: Kritische Ideengeschichte. Hrsg. R. Boehm. Husserliana Volume VII. The Hague: Nijhoff.
Husserl, Edmund. 1966. Zur Phänomenologie des inneren Zeitbewusstseins (1893–1917). Hrsg. R. Boehm. Husserliana Volume X. The Hague: Nijhoff. Second Edition 1969.
Husserl, Edmund. 1968. Pha¨nomenologische Psychologie. Vorlesungen Sommersemester 1925. Hrsg. W. Biemel. Husserliana Volume IX. The Hague: Nijhoff.
Husserl, Edmund. 1969. Formal and Transcendental Logic. Trans. Dorion Cairns. The Hague: Nijhoff.
Husserl, Edmund. 1970. The Crisis of European Sciences and Transcendental Phenomenology. An Introduction to Phenomenological Philosophy. Trans. David Carr. Evanston: Northwestern U. P.
Husserl, Edmund. 1973a. Zur Phänomenologie der Intersubjektivität. Texte aus dem Nachlass. Erster Teil. 1905–1920. Hrsg. I. Kern. Husserliana Volume XIII. The Hague: Nijhoff.
Husserl, Edmund. 1973b. Experience and Judgment: Investigations in a Genealogy of Logic. Revised and edited by L. Landgrebe. Trans. J.S. Churchill and K. Ameriks. London: Routledge and Kegan Paul.
Husserl, Edmund. 1974a. Formale und transzendentale Logik. Versuch einer Kritik der logischen Vernunft. Mit ergänzenden Texten. Hrsg. Paul Janssen. Husserliana Volume XVII. The Hague: Nijhoff.
Husserl, Edmund. 1974b. ‘Kant and the Idea of Transcendental Philosophy’, trans. Ted E. Klein and William E. Pohl. Southwestern Journal of Philosophy 5(Fall):9–56.
Husserl, Edmund. 1975a. Introduction to the Logical Investigations. Draft of a Preface to the Logical Investigations. Ed. Eugen Fink. Trans. P.J. Bossert and C.H. Peters. The Hague: Nijhoff.
Husserl, Edmund. 1975b. Logische Untersuchungen. Erster Band: Prolegomena zur reinen Logik. Text der 1. und der 2. Auflage. Hrsg. E. Holenstein. Husserliana Volume XVIII. The Hague: Nijhoff.
Husserl, Edmund. 1977a. Ideen zu einer reinen Phänomenologie und phänomenologischen Philosophie. Erstes Buch: Allgemeine Einführung in die reine Phänomenologie 1. Halbband: Text der 1–3. Auflage. Hrsg. K. Schuhmann. Husserliana Volume III/1. The Hague: Nijhoff.
Husserl, Edmund. 1977b. Phenomenological Psychology. Lectures, Summer Semester 1925. Trans. John Scanlon. The Hague: Nijhoff.
Husserl, Edmund. 1983. Ideas pertaining to a Pure Phenomenology and to a Phenomenological Philosophy, First Book. Trans. F. Kersten. Husserl Collected Works I. Dordrecht: Kluwer.
Husserl, Edmund. 1984. Logische Untersuchungen. Zweiter Band: Untersuchungen zur Pha¨nomenologie und Theorie der Erkenntnis. In zwei Bänden. Hrsg. Ursula Panzer. Husserliana Volume XIX. Dordrecht: Kluwer.
Husserl, Edmund. 1985. Einleitung in die Logik und Erkenntnistheorie. Vorlesungen 1906/07. Hrsg. Ullrich Melle. Husserliana Volume XXIV. Dordrecht: Kluwer.
Husserl, Edmund. 1986. Aufsätze und Vorträge 1911–1921. Hrsg. H.R. Sepp und Thomas Nenon, Husserliana Volume XXV. Dordrecht: Kluwer.
Husserl, Edmund. 1989. Ideas pertaining to a Pure Phenomenology and to a Phenomenological Philosophy, Second Book. Trans. R. Rojcewicz and A. Schuwer. Husserl Collected Works III. Dordrecht: Kluwer.
Husserl, Edmund. 1994a. Briefwechsel. Ed. Karl Schuhmann in collaboration with Elizabeth Schuhmann. Husserliana Dokumente. 10 Volumes. Dordrecht: Kluwer.
Husserl, Edmund. 1994b. Early Writings in the Philosophy of Logic and Mathematics. Trans. Dallas Willard. Husserl Collected Works V. Dordrecht: Kluwer.
Husserl, Edmund. 1997. Psychological and Transcendental Phenomenology and the Confrontation with Heidegger (1927–31), The Encyclopaedia Britannica Article, The Amsterdam Lectures ‘‘Phenomenology and Anthropology’’ and Husserl’s Marginal Note in Being and Time, and Kant on the Problem of Metaphysics. Trans. Thomas Sheehan and R.E. Palmer. Husserl Collected Works VI. Dordrecht: Kluwer.
Husserl, Edmund. 2001. Logical Investigations. Trans. John Findlay. Ed. with a New Introduction by Dermot Moran and New Preface by Michael Dummett. 2 Volumes. London & New York: Routledge.
Husserl, Edmund. 2002a. ‘Philosophy as a Rigorous Science,’ trans. M. Brainard, New Yearbook for Phenomenology and Phenomenological Philosophy II: 249–295.
Husserl, Edmund. 2002b. Zur Phänomenologischen Reduktionen. Texte aus dem Nachlass (1926–1935). Hrsg. Sebastian Luft. Husserliana XXXIV. Dordrecht: Kluwer.
Husserl, Edmund. 2003. Transzendentaler Idealismus. Texte aus dem Nachlass (1908–1921). Hrsg. Robin Rollinger & Rochus Sowa. Husserliana Volume XXXVI. Dordrecht: Kluwer.
Husserl, Edmund. 2006. The Basic Problems of Phenomenology. From the Lectures, Winter Semester, 1910–1911. Trans. James J. Hart. Husserl Collected Works Volume XII. Dordrecht: Springer.
Husserl, Edmund. 2008. Introduction to Logic and Theory of Knowledge. Lectures 1906/07. Trans. Claire Ortiz Hill. Husserl Collected Works XIII. Dordrecht: Springer.
James, William. 2003. Essays in Radical Empiricism. New York: Courier Dover Publications. reprinted.
Kaufmann, Felix. 1940. Phenomenology and logical empiricism. In Philosophical Essays in Memory of Edmund Husserl, ed. Farber Marvin, 124–142. Harvard U.P.: Cambridge.
Keil, Geert. 2008. Naturalism. In The Routledge Companion to Twentieth Century Philosophy, ed. Dermot Moran, 254–307. London & NY: Routledge.
Kern, Iso. 1964. Husserl und Kant. Eine Untersuchung u¨ber Husserls Verha¨ltnis zu Kant und zum Neukantianismus. The Hague: Nijhoff.
Lotze, Hermann. 1874. Logic of Thought, of Investigation and of Knowledge in Three Books. Trans. Bernard Bosanquet, 2nd edition, 2 vols. Oxford: Clarendon, Press, 1888.
Luft, Sebastian. 1998. Husserl’s Phenomenological Discovery of the Natural Attitude. Continental Philosophy Review (formerly Man and World) 31:153–170.
Luft, Sebastian. 2002a. Husserl’s Notion of the Natural Attitude and the Shift to Transcendental Phenomenology’. Analecta Husserliana LXXX: 114–119.
Luft, Sebastian. 2002b. ‘‘Phänomenologie der Pha¨nomenologie’’. Systematik und Methodologie der Phänomenologie in der Auseinandersetzung zwischen Husserl und Fink. Phaenomenologica166. Dordrecht: Kluwer.
Mach, Ernst. 1903. Die Analyse der Empfindungen und das Verhaltniss des Physischen zum Psychischen. Jena: Verlag von Gustav Fischer, 1922, 9nd edition.
Mach, Ernst. 1914. The Analysis of Sensations and the Relation of the Physical to the Psychical. Trans. C.M. Williams and S. Waterlow. Chicago and London: The Open Court Publishing Company.
Merleau-Ponty, Maurice. 1945. Phénoménologie de la perception. Paris: Gallimard.
Merleau-Ponty, Maurice. 1962. Phenomenology of Perception. Trans. C. Smith. London: Routledge & Kegan Paul.
Merleau-Ponty, Maurice. 1964. Sense and Nonsense. Evanston: Northwestern U.P.
Merleau-Ponty, Maurice. 1966. Sens et non-sens. Paris: Nagel.
Moran, Dermot. 2000. Kant and Putnam: Two ‘Internal Realists’? Synthese 123(1): 65–104.
Natorp, Paul. 1903. Platos Ideenlehre. Leipzig: Meiner Verlag. Revised edition, 1922.
Natorp, Paul. 2004. Plato’s Theory of Ideas. An Introduction to Idealism. Trans. Vasilis Politis. International Plato Studies, vol. 18. St. Augustin: Academia Verlag.
Politis, Vasilis. 2001. Anti-Realist Interpretations of Plato: Paul Natorp. International Journal of Philosophical Studies 9(1): 47–62.
Putnam, Hilary. 1983. Realism and Reason. Philosophical Papers, vol. 3. Cambridge: Cambridge U.P.
Ritter, Joachim, et al. eds. 1971. Historisches Wo¨rterbuch der Philosophie. 10 vols. Basel, Stuttgart: Schwabe.
Russell, Bertrand. 1995. My Philosophical Development. Ed. Thomas Baldwin. London & New York: Routledge.
Summer, Manfred. 1985. Husserl und der fru¨he Positivismus. Frankfurt: Klostermann.
Textor, Mark. 1996. Bolzanos Propositionalismus. Berlin/New York: De Gruyter.
Von Duhn, Anita. 2003. Bolzano’s Account of Justification. In The Vienna Circle and Logical
Empiricism. Re-evaluation and Future Perspectives, ed. Friedrich Stadler, 21–33. Vienna Circle Institute Yearbook 10. Dordrecht: Kluwer.
Zahavi, Dan. 2001. Husserl and Transcendental Intersubjectivity. Trans. Elizabeth A. Behnke. Athens, Ohio: Ohio University Press.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét