Manas Roy
Người dịch: Hà Hữu Nga
4. ‘Sự bất đồng quan điểm’ của Derrida với Husserl
Sự bất đồng quan điểm của Derrida với Husserl, trong Speech and Phenomena – Diễn ngôn và các Hiện tượng và Introduction to Origin of Geometry – Giới thiệu Nguồn gốc Hình học, diễn ra dưới dạng một sự thay thế không-đồng nghĩa. Các thay thế không-đồng nghĩa đối với Derrida trong bài luận Différance là các thuật ngữ như pharmakon, supplement, arche-writing, trace, protowriting, reserve, những thứ có nghĩa khác nhau trong các bối cảnh khác nhau nhưng thực hiện cùng một chức năng trong tác phẩm của Derrida là đặt tên cho aporia [Trong triết học, aporia ᾰ̓πορῐ́ᾱ, nghĩa đen là “bí lối”, cũng có nghĩa là “bế tắc”, “khó đi qua”, “bối rối”, là một câu đố hoặc trạng thái khó xử. Trong phép tu từ, đây là một tuyên bố nghi ngờ, được đưa ra vì mục đích tu từ và thường là giả vờ. Khái niệm aporia chủ yếu thấy trong triết học Hy Lạp cổ đại, nhưng nó cũng có vai trò trong triết học hậu cấu trúc hiện đại, như trong các tác phẩm của Jacques Derrida và Luce Irigaray, và nó cũng đóng vai trò là một công cụ khảo sát trong triết học phân tích. HHNG] diễn ra trong các bối cảnh khác nhau, nơi có sự ám ảnh không thể tránh khỏi về sự hiện diện bởi không-hiện diện và cái cấu trúc lớn hơn thuộc về các thuật ngữ.
Trong tác phẩm của Derrida, các aporia hay sự dịch chuyển này được tạo ra như một ‘chuỗi’ ‘những thay thế không-đồng nghĩa’ trong đó sự khác biệt làm trì hoãn và phân biệt chính nó theo những cách khác nhau phù hợp với [tình huống ngữ cảnh trong đó đòi hỏi phải có chuyển động của nó: khi đọc Plato, chẳng hạn, Derrida tìm thấy dấu vết của sự khác biệt được ghi trong tư tưởng về chữ viết pharmakon - có nghĩa vừa là ‘thuốc độc’ vừa là ‘phương thuốc chữa bệnh’]; trong Rosseau, nó xuất hiện như ‘phần bổ sung’ (có nghĩa vừa là ‘phần bị thiếu vừa là phần thừa’); trong Mallarme, như ‘màng trinh’ [chỉ cả ‘bên trong và bên ngoài’, ‘trinh nguyên và viên mãn’]; và thậm chí khi ông giải thích différance dưới dạng ‘tên riêng’ của nó, thì cách giải thích này [tr.141] chỉ được thực hiện thông qua việc ngụy trang thành những tên gọi khác [‘dự trữ’, ‘dấu vết’, ‘cổ-dấu vết’ và ‘cổ-tác/cổ-văn tự’, v.v.], mỗi tên gọi có thể đại diện cho chuyển động này trong một ngữ cảnh nhất định, nhưng không có cái nào trong số đó - kể cả ‘différance’ - có thể khẳng định thẩm quyền đối với hệ thống mở mà nó hoạt động và thông qua đó các hiệu ứng của nó được tạo ra và phát tán. Cách đọc của Derrida khẳng định rằng chính différance và sự lặp lại cấu thành nên cái Tuyệt đối chứ không phải là cái siêu việt/tiên nghiệm [the transcendental]. Cách đọc như vậy giải thích cho sự tồn tại vĩnh cửu của cái Tuyệt đối qua thời gian và lịch sử, vì cái Tuyệt đối phải được tái-kích hoạt thông qua sự lặp lại của nó trong hiện tại và tương lai để duy trì chính nó qua không gian và thời gian. Tình trạng trì hoãn và chậm lại này qua không gian và thời gian là sự chuyển tiếp của différance mà cái Tuyệt đối, hay huyền thoại của nó, phải trải qua để được truyền đạt từ thể chế của nó trong quá khứ đến hiện tại và tương lai. Nguồn gốc tuyệt đối này chỉ được tạo ra theo cách hồi tưởng thông qua chuyển động phân biệt của sự khác biệt và dấu vết. Cách đọc của Derrida phát triển và khẳng định theo khuôn khổ Hegelian chứ không phải là một mâu thuẫn hay bất đồng. Mâu thuẫn và bất đồng, theo khuôn khổ Hegelian, nên được thay thế bằng các cụm từ như quá trình & tiến hóa hay quá trình.
5. Cách hiểu bắt nguồn từ Hegel
Quan điểm càng đương đại thì càng coi sự đối lập giữa chân và giả là cứng nhắc, càng mong đợi rằng mọi hệ thống triết học nhất định phải được xác nhận hoặc phản đối, thì càng coi mọi lời giải thích về hệ thống như vậy chỉ là chân hoặc giả. Quan điểm này không coi tính đa dạng của các hệ thống triết học là sự phát triển tiến bộ của chân lý; nó chỉ thấy mâu thuẫn trong tính đa dạng đó. Nụ biến mất khi hoa nở, vì vậy người ta có thể nói rằng hoa mâu thuẫn với nụ. Tương tự như vậy, quả tuyên bố hoa là sự tồn tại giả tạo của cây và bước lên thay thế nó như là chân lý của cây vậy. Những hình thức này không chỉ riêng biệt; chúng bác bỏ nhau theo cung cách loại trừ nhau. Đồng thời, bản chất lưu động của chúng biến chúng thành những khoảnh khắc của một nhất tính hữu cơ, trong đó chúng không chỉ không đấu tranh với nhau mà còn cần thiết như nhau; và chỉ có sự cần thiết ngang bằng này mới cấu thành nên sự sống của cái toàn thể. Quan điểm phổ biến về triết học cho rằng hai tuyên bố mâu thuẫn, hoặc các học thuyết triết học loại trừ lẫn nhau. Chỉ một trong số đó có thể chân, trong khi cái kia là giả. Hegel đề xuất một quan điểm khác theo đó các học thuyết triết học xung đột đều là những thành phần động hoặc ‘khoảnh khắc’ của Chân lý, mỗi khoảnh khắc nhấn mạnh một khía cạnh duy nhất, một phần của toàn bộ chân lý. Do đó, Chân lý là hữu cơ và tiến hóa; mỗi ‘khoảnh khắc’ của chân lý là sự phát triển tiến bộ hướng tới toàn bộ Chân lý hoặc Tuyệt đối. Do đó, mỗi ‘khoảnh khắc’ của chân lý đại diện cho một chân lý cấu thành trên con đường trưởng thành và phát triển của cái Tuyệt đối. Mâu thuẫn và bất đồng với tư cách là mối quan hệ giữa các nhà triết học cần được [tr.142] tái định hình thành sự phát triển hướng tới sự tổng hợp của chân lý tiến bộ vì đây là mô tả chính xác hơn về những gì thực sự diễn ra khi một nhà triết học ‘bất đồng’ với một nhà triết học khác, về cơ bản các nhà triết học không bác bỏ lý thuyết hoặc hệ thống của nhau vì các phẩm chất hình thức của sự biểu hiện cái Tuyệt đối luôn được duy trì. Cái Tuyệt đối chỉ mang những hình thức khác nhau khi mỗi nhà triết học phát triển mối quan hệ giữa cái siêu việt/tiên nghiệm và kinh nghiệm thành mỗi hình dạng khác nhau nhưng về cơ bản đây là sự lặp lại của cùng một tiên đề và chân lý cơ bản. Liệu công thức hiện tại của sự bất đồng có nắm bắt chính xác những gì đang bị đe dọa khi cái gọi là sự bất đồng nảy sinh giữa các nhà triết học không?
Theo Hegel, sự bất đồng chỉ diễn giải một nửa câu chuyện, vì các phẩm chất hình thức của các triết học thay thế đã phát triển, chẳng hạn như sự khác biệt kinh nghiệm siêu việt/tiên nghiệm vẫn giữ nguyên thay vì chia tách. Hơn nữa, mỗi nhà triết học phát triển và thúc đẩy dần dần khái niệm về mối quan hệ giữa cái siêu việt/tiên nghiệm và kinh nghiệm bằng cách cung cấp cho chúng một hình dạng, hình thái mới và phát triển nó thành các hệ thống mới về cơ bản có chung một nguyên tắc với cái Tuyệt đối. Liệu có thực sự có sự bất đồng giữa các nhà triết học khi các phẩm chất hình thức trong công thức của họ vẫn giữ nguyên, dưới dạng sự khác biệt kinh nghiệm siêu việt/tiên nghiệm? Sự khác biệt hoặc bất đồng giữa các nhà triết học nằm ở cấp độ hình thức và vẻ bề ngoài hơn là bản chất. Nguyên tắc cơ bản của cái Tuyệt đối vẫn giữ nguyên. Không có sự khác biệt nào tồn tại giữa các nhà triết học khi họ là sự lặp lại nguyên tắc của cái Tuyệt đối. Do đó, không có sự bất đồng hoặc mâu thuẫn nào nảy sinh giữa các nhà triết học. Vì vậy, việc Derrida tái công thức hóa khác biệt kinh nghiệm/tiên nghiệm-siêu việt trong các khái niệm différance và dấu vết của ông có gây mâu thuẫn hay tiếp tục phát triển các nhà triết học trước đó không? Theo nhiều nghĩa, Derrida khẳng định và phát triển triết học bằng cách khám phá ra rằng mối quan hệ cơ bản giữa cái siêu việt/tiên nghiệm và kinh nghiệm là mối quan hệ lặp lại với sự khác biệt vì sự khác biệt tiên nghiệm tạo ra sự phân biệt ảo tưởng giữa cái siêu việt/tiên nghiệm và kinh nghiệm trong sản xuất mang tính sân khấu thông qua chuyển động phân biệt của différance và dấu vết. Derrida cũng khám phá ra rằng sự khác biệt vốn phân biệt giữa siêu nghiệm/tiên nghiệm và kinh nghiệm là một sự khác biệt hư không.
Công thức này của siêu việt và kinh nghiệm không mâu thuẫn hay không bất đồng với các lập luận trước đó của các nhà triết học mà phát triển và khẳng định nó bằng cách khám phá ra các điều kiện khả tính của nó—différance và dấu vết là các điều kiện khả tính cho việc công thức hóa cái siêu việt/tiên nghiệm và kinh nghiệm. Những cái siêu việt và kinh nghiệm này không phải là các thực thể tách biệt và được vật thể hóa về mặt hữu thể luận mà là những lặp lại với một sự khác biệt hoặc các dấu vết. Sự khác biệt hư không được giả định bởi hiện tượng học ngay từ đầu ở chỗ hiện hữu của nó là điều kiện khả tính cho phép quy giản hiện tượng học. Derrida khám phá ra rằng điều kiện khả tính cho sự khác biệt tiên nghiệm là ở chỗ đó là một khác biệt được dịch thành hư không vì nó phân biệt hư không và tách biệt khỏi hư không. Do đó, cái chết nằm ở trung tâm của sự sống và Hiện tại Sống động, cấu thành nó, tạo ra nó thông qua dấu vết phân biệt mà từ đó hiện diện và vắng mặt, hiện hữu và không hiện hữu phát sinh. Đây là cái aporia – bí lối của hiện tượng học—cái chết cấu thành sự sống. Derrida cũng xem xét cái aporia cho thấy sự phân biệt siêu việt/tiên nghiệm-kinh nghiệm [tr.143] đơn giản là không cho phép quy giản hiện tượng học diễn ra, và giải quyết những mâu thuẫn này trong hiện tượng học của Husserl thông qua việc ông đặt định cái cận-siêu việt/tiên nghiệm [the quasi-transcendental], hay cái kinh tế và sự lặp lại của cái cận-siêu việt/tiên nghiệm trong kinh nghiệm. Những người chỉ trích Derrida đã nhầm lẫn khi phân loại Derrida là một người kinh nghiệm luận và một kẻ hư vô luận. Differance và dấu vết không phải là những khái niệm kinh nghiệm. Differance và dấu vết là một sự khác biệt tiên nghiệm mà từ đó nảy sinh ra những khác biệt và các xác định tiếp theo của cái ảo tưởng về sự khác biệt kinh nghiệm siêu việt. Hậu-hiện tượng học của Derrida giải quyết các vấn đề cơ bản của hiện tượng luận [phenomenalism] và duy ngã luận mà một lý giải siêu việt/tiên nghiệm duy nhất về genesis nguồn cội/sáng thế đã đưa dẫn hiện tượng học đến đó. Cái siêu việt/tiên nghiệm và kinh nghiệm chỉ khác nhau về tên gọi và được tạo ra theo cách thức sân khấu vì khác biệt thông qua sự chuyển động của différance và dấu vết.
Cái siêu việt/tiên nghiệm và kinh nghiệm, cùng với ảo tưởng rằng chúng là riêng biệt, nảy sinh từ chuyển động của khả tính lặp lại, vốn tái kích hoạt noema và duy trì nó qua thời gian và lịch sử. Các lập luận của Derrida là sự phát triển hướng tới cái Tuyệt đối bằng cách khám phá ra các điều kiện tiên nghiệm về khả tính cho sự phân biệt cái siêu việt/tiên nghiệm kinh nghiệm như là sự lặp lại với sự khác biệt và sự khác biệt tiên nghiệm, hay différance, như một sự khác biệt được dịch thành hư không. Do đó, Derrida mâu thuẫn hay khẳng định và phát triển triết học? Tôi thiên về quan điểm sau vì Derrida xem xét các điều kiện khả tính cho sự [tái] sản xuất cái Tuyệt đối, được hình thành theo cách thức hồi tưởng thông qua hành động lặp lại, báo hiệu về một nguồn gốc hẳn đã tồn tại nhưng chưa bao giờ hiện hữu ở đó, thông qua chuyển động của khả tính lặp lại và sự khác biệt. Sự thay thế không-đồng nghĩa của Derrida đối với tư tưởng của Husserl không mâu thuẫn mà phát triển hiện tượng học của ông bằng cách xem xét chính các điều kiện khả tính cho chủ nghĩa duy tâm siêu việt/tiên nghiệm của Husserl, đặt định các điều kiện này với tư cách là khác biệt và khả tính lặp lại. Thông qua sự thay thế không đồng nghĩa của mình đối với différance, Derrida khám phá ra rằng sự khác biệt tiên nghiệm, hay sự khác biệt được dịch thành hư không, vốn chia tách cái siêu việt/tiên nghiệm và kinh nghiệm, chính là điều kiện khả tính cho hiện tượng học. Do đó, rất nghịch lý là, sự bất đồng của Derrida với Husserl không phá hủy mà lại khẳng định và là một cuộc khảo sát siêu-hiện tượng học về các điều kiện khả tính cho dự án của Husserl. Husserl đặt định các điều kiện khả tính cho tri thức nhận thức là cái tiên nghiệm, hay cái siêu việt và cái noema cấu thành cái hiện thực bằng cách cấu trúc nhận thức thành các thể thống nhất mạch lạc, ví dụ như cung cấp cho các ấn tượng rời rạc các thuộc tính của không gian và thời gian. Tuy nhiên, lý giải về cấu trúc siêu việt này không nói gì về phương pháp mà siêu hình học được duy trì và tự duy trì thông qua sự trôi chảy của thời gian và lịch sử. Vậy thì điều kiện của khả tính cho cấu thành siêu việt phải là gì? Derrida truy vết nguồn gốc của cái siêu việt đến cái dấu vết, hay cái hư không phân tách cái siêu việt và kinh nghiệm, từ đó phát sinh thêm các dấu vết phân biệt. Cái dấu vết, hay différance, cái hư không nằm giữa cái siêu việt và cái kinh nghiệm, từ đó sự phân biệt tạo ra hiện diện và vắng mặt, hiện hữu và hư không phát sinh, chính là sự khác biệt và điều kiện tiên nghiệm duy trì siêu hình học chứ không chỉ duy nhất là cái siêu việt/tiên nghiệm.
Một lý giải siêu việt/tiên nghiệm về cấu thành không nói gì về genesis tạo sinh/sáng thế cùng việc sản xuất và duy trì siêu hình học. Làm thế nào mà cái Tuyệt đối [tr.144] được lưu truyền qua lịch sử? Cái Noema siêu việt/tiên nghiệm phải được lặp lại và truyền tải thông qua différance để có thể được truyền đạt. Sự khác biệt tiên nghiệm, hay différance, là điều kiện khả tính cho tạo sinh/sáng thế siêu việt/tiên nghiệm và sản xuất siêu hình học. Cái siêu việt/tiên nghiệm được tạo ra theo cung cách sân khấu khi tách biệt khỏi kinh nghiệm thông qua chuyển động phân biệt của différance và cái dấu vết. Tuy nhiên, sự khác biệt a priori tiên nghiệm này, hay différance, là một sự khác biệt hư không và phân biệt hư không vì siêu việt và kinh nghiệm chỉ là những cái tên lịch sử bắt nguồn từ siêu hình học. Cái siêu việt/tiên nghiệm và kinh nghiệm là những sự phân biệt ảo tưởng và là các sản phẩm sân khấu của siêu hình học, chỉ khác nhau về tên gọi là sự lặp lại với một sự khác biệt, nhưng mỗi sự lặp lại đều khác biệt và tách biệt khỏi dấu hiệu ban đầu, được tạo ra như cái dấu vết. Derrida đặt câu hỏi về ý tưởng cho rằng sự cô lập của siêu việt/tiên nghiệm thông qua hành động quy giản hiện tượng học dẫn đến việc giải thích các điều kiện khả tính cho tri thức như là cái tuyệt đối a priori tiên nghiệm. Phép quy giản này phủ nhận chuyển động của khả tính lặp lại, hoặc lặp lại với một sự khác biệt so với dấu hiệu ban đầu, vốn là phương thức sản xuất đối với siêu hình học. Cái siêu việt/tiên nghiệm chỉ được phân biệt với cái kinh nghiệm như một ảo ảnh thông qua chuyển động tái tạo của cái dấu vết, và do đó phép quy giản vô hiệu hóa chuyển động lặp lại và khác biệt này, hay différance, vốn là điều kiện khả tính đối với siêu hình học. Phép quy giản hiện tượng học phủ nhận sự khác biệt tiên nghiệm, hay différance, vốn cần thiết để giải thích cái cách thức mà siêu hình học duy trì chính nó.
Cái siêu việt/tiên nghiệm chỉ được tạo ra tách biệt với kinh nghiệm bằng ảo tưởng về sự khác biệt xảy ra thông qua chuyển động của différance, do đó, biểu hiện không có chỉ định, được biểu đạt mà không có cái biểu đạt, lý tưởng mà không có hiện thực trở thành một tiên đề không mạch lạc. Derrida không tranh cãi về tính thiết yếu của phép quy giản hiện tượng học để đạt đến các điều kiện chân của tri thức, nhưng lập luận rằng nó đảo ngược hoặc hủy bỏ chuyển động của khả tính lặp lại. Khả tính lặp lại là sự lặp lại tạo nên tính lý tưởng và cho phép nó trở thành hiện hữu. Chính khả tính lặp lại và sự lặp lại tạo nên tính lý tưởng chứ không phải là cái siêu việt/tiên nghiệm vì cái lý tưởng phải khác với chính nó thông qua sự lặp lại để trở nên hiện hữu. Như Derrida lập luận, phép quy giản là sự tái-kích hoạt của cái noema, chứ không phải là sự phủ định của nó. Phép quy giản là một sản phẩm sân khấu và ảo tưởng tạo ra cái siêu việt/tiên nghiệm tách biệt với kinh nghiệm, do đó đặt ra siêu việt mà không có kinh nghiệm vì sự trung gian của nó trở thành một tiên đề không mạch lạc. Cái vấn đề liên quan đến một lý giải siêu việt/tiên nghiệm về cấu thành là ở chỗ nó không giải thích được tạo sinh/sáng thế cũng như sản xuất và duy trì siêu hình. Siêu-hiện tượng học của Derrida, với lý giải của ông về différance và khả tính lặp lại như các điều kiện khả thi cho hiện tượng học, đưa ra một lý giải như vậy. Khả tính lặp lại là nguyên lý mà phép quy giản bị phủ định và cho phép—chính xác là điều khiến cái siêu việt/tiên nghiệm, kinh nghiệm và sự phân chia giữa chúng có thể giải cấu trúc được vì nó cho phép sự phủ định của chính nó và thực hiện sự lặp lại của chính nó. Chính nguyên lý lặp lại trong khả tính đảo ngược của phép quy giản và khả năng đồng thời cho phép nó làm cho cái siêu việt/tiên nghiệm và kinh nghiệm có thể giải cấu trúc được.
Điều này đưa chúng ta đến một lĩnh vực gây bất đồng của Derrida đối với Husserl. Husserl nhấn mạnh vào sự phân biệt cứng nhắc giữa cái siêu việt/tiên nghiệm và kinh nghiệm để thể chế hóa chủ nghĩa duy tâm siêu việt/tiên nghiệm [tr.145] của ông như là điều kiện khả tính cho tri thức. Tuy nhiên, theo Derrida, sự phân biệt này là không mạch lạc vì cái siêu việt/tiên nghiệm được tạo ra bằng một ảo tưởng tách biệt với cái kinh nghiệm chỉ thông qua chuyển động phân biệt của cái dấu vết và thông qua chuyển động của khả tính lặp lại. Cái siêu việt không là gì ngoài sản phẩm sân khấu của nó thông qua cái kinh nghiệm mà nó thể hiện chính nó; do đó, trong khi Husserl đặt định sự phân biệt giữa siêu việt/tiên nghiệm và kinh nghiệm như là hữu thể luận và mang tính bản chất, thì Derrida đã chỉ ra rằng phép quy giản hiện tượng học sẽ không thể diễn ra nếu điều này là như vậy. Thay vào đó, Derrida chứng minh rằng sự khác biệt giữa cái siêu việt/tiên nghiệm và kinh nghiệm là một sự khác biệt được dịch là hư không; đó là một sự khác biệt vốn nghịch lý là tính giống hệt vì nó không phân tách bất cứ điều gì và không phân biệt bất cứ điều gì. Chính sự khác biệt được dịch là hư không đó chia cách giữa cái siêu việt/tiên nghiệm và kinh nghiệm, tạo điều kiện cho phép quy giản hiện tượng học, nếu sự khác biệt đó mang tính hữu thể luận hoặc bản chất thì phép quy giản hiện tượng học sẽ không thể diễn ra. Do đó, Derrida xem xét aporia cơ bản của siêu hình học Husserl—sự phân biệt cơ bản và cứng nhắc mà Husserl đặt ra là hữu thể luận và bản chất sẽ không cho phép quy giản hiện tượng học diễn ra nếu nó thực sự chân. Giải thích của Derrida về sự khác biệt được dịch là không có gì và không phân biệt bất cứ điều gì, và nghịch lý thay không phải là sự khác biệt mà là sự giống nhau, giải thích cho chính các điều kiện khả tính của phép quy giản hiện tượng học và sáng thế/tạo sinh siêu việt.
6. Différance and Khả tính lặp lai
Theo truyền thống, cái siêu việt/tiên nghiệm được đặt định là nguồn gốc và xuất xứ duy nhất của cái kinh nghiệm. Tuy nhiên, điều này không nói lên điều gì về cấu thành động giữa cái siêu việt/tiên nghiệm và kinh nghiệm tạo điều kiện cho mối quan hệ của chúng. Nó không giải thích cho sự chuyển động của sự khác biệt tiên nghiệm giữa các phạm trù siêu hình này, hoặc cái dấu vết, cho phép cấu thành siêu việt-kinh nghiệm. Derrida truy dấu điều kiện khả tính cho mối quan hệ siêu việt/tiên nghiệm-kinh nghiệm tới différance, hoặc sự khác biệt tiên nghiệm và hư không, khoảng cách hoặc đứt đoạn vốn chia tách cái siêu việt và kinh nghiệm. Sự khác biệt tiên nghiệm chứa đựng một aporia: nghịch lý thay, đó là sự khác biệt vốn giống nhau vì nó chia tách hư không. Sự khác biệt này được dịch thành hư không cho phép khoảng trung gian của cái siêu việt/tiên nghiệm trong phép quy giản kinh nghiệm và hiện tượng học, nếu sự khác biệt này mang tính bản thể hoặc bản chất thì phép quy giản hiện tượng học sẽ không thể diễn ra và cái siêu việt sẽ không thể tạo điều kiện trở thành trung gian trong cái kinh nghiệm. Do đó, sự phân biệt của Husserl giữa cái siêu việt và kinh nghiệm như một sự phân chia hữu thể luận và bản chất trở thành một sự phân biệt không mạch lạc vì những lý do trên. Như Derrida lập luận, sự khác biệt siêu việt-kinh nghiệm, hay différance, mang tính chức năng hơn là bản chất. Dấu vết của những dấu vết lặp lại này tạo ra cả cái siêu việt và kinh nghiệm trong [tr.146] vận động tái tạo của khả tính lặp lại. Sự khác biệt a priori tiên nghiệm giữa cái siêu việt và kinh nghiệm được dịch là không có gì, hay différance, duy trì siêu hình học thông qua việc duy trì cấu thành động của chúng như là khả tính lặp lại. Différance được dịch là sự tái tạo của hư không này, hay sự khác biệt a priori tiên nghiệm tách biệt cái siêu việt và kinh nghiệm, cho tạo điều kiện cho sản xuất siêu hình và phân đôi a priori tiên nghiệm giữa hiện diện và không-hiện diện.
Thay vì cái siêu việt là thành phần duy nhất cấu thành nên cái kinh nghiệm, do đó Derrida lập luận rằng sự khác biệt a priori tiên nghiệm, hay différance, duy trì sản xuất siêu hình học. Do đó, tri thức khách quan hay khoa học có thể hình dung ra thế giới-sống thông qua trung gian của cái siêu việt trong cái kinh nghiệm, hay différance và khả tính lặp lại, thay vì thông qua sự duy trì duy nhất của cái siêu việt/tiên nghiệm. Thay vào đó, mối quan hệ lặp lại giữa cái siêu việt và kinh nghiệm, hay khả tính lặp lại, duy trì siêu hình học và cho phép sản xuất siêu hình học diễn ra. Cái siêu việt/tiên nghiệm xuất hiện thành đời sống trong thế giới thuần túy thông qua sự phân biệt ảo tưởng thông qua vận động của cái dấu vết, như một sự khác biệt so với chính nó với tư cách là dấu hiệu ban đầu. Điều này đã được thảo luận trước đó như là sự tái-kích hoạt của noema thông qua sự lặp lại của nó. Derrida mô tả sự khác biệt giữa cái siêu việt và kinh nghiệm như là một sự khác biệt vốn không là gì cả: Vì phạm vi của trải nghiệm tâm lý thuần túy bao gồm toàn bộ phạm vi của cái mà Husserl gọi là trải nghiệm siêu việt. Tuy nhiên, bất chấp sự kết hợp hoàn hảo này, vẫn tồn tại một sự khác biệt cơ bản, sự khác biệt không có điểm chung nào với bất kỳ sự khác biệt nào khác, một sự khác biệt thực tế không phân biệt bất cứ điều gì, một sự khác biệt không tách biệt bất kỳ trạng thái, kinh nghiệm, biểu đạt ý nghĩa xác định nào - nhưng lại là một sự khác biệt không làm thay đổi bất cứ điều gì, lại thay đổi tất cả các dấu hiệu, và trong đó chứa đựng khả tính của một câu hỏi siêu việt. Nghĩa là, bản thân sự tự do. Do đó, một sự khác biệt cơ bản, mà nếu không có nó, thì sẽ không có sự khác biệt nào khác trên thế giới có ý nghĩa hoặc có cơ hội xuất hiện theo đúng nghĩa.
Nếu không có khả tính và sự công nhận về cái Verdoppelung nhân lên như vậy, mà tính nghiêm ngặt của nó không dung thứ cho tính nhân lên, nếu không có khoảng cách vô hình này được duy trì giữa hai hành động của cái epoché tình trạng treo lại, thì hiện tượng học siêu việt sẽ bị phá hủy từ tận gốc rễ. Ở trên, chúng ta thấy Derrida giải thích về sự khác biệt tiên nghiệm, différance. Derrida đặt định différance như là sự khác biệt nguyên thủy giữa cái siêu việt và cái kinh nghiệm không là gì cả, nó chuyển dịch thành khoảng cách cơ bản, sự chậm trễ hoặc trì hoãn của ý nghĩa vốn trở thành cái dấu vết của những dấu vết có thể lặp lại khởi lên vận động phân biệt của hiện diện và vắng mặt, siêu việt và kinh nghiệm, triết học và phi triết học thông qua vận động của différance và khả tính lặp lại. Sự khác biệt này không phân biệt bất cứ điều gì, không tách biệt bất cứ điều gì, nhưng chuyển dịch thành dấu vết nguyên thủy hoặc sự khác biệt mà từ đó tất cả các dấu vết và sự khác biệt tiếp theo tạo ra sự phát sinh siêu việt và kinh nghiệm. Như Derrida lập luận, sự khác biệt hoặc dấu vết a priori tiên nghiệm này là điều kiện khả tính của cả cái siêu việt và kinh nghiệm khi nó chuyển dịch thành vận động sinh sản hoặc Verdoppelung sự nhân lên của dấu vết này hoặc cái hư không phân biệt cái siêu việt và kinh nghiệm vốn tạo ra sản phẩm siêu hình thông qua vận động của khả tính lặp lại, hoặc sự lặp lại của cái siêu việt trong cái kinh nghiệm với một sự khác biệt.
Do đó, điều kiện khả tính cho hiện tượng học trở thành [tr.147] dấu vết liên tục này hoặc sự khác biệt tiên nghiệm vốn hư không, một sự khác biệt so với dấu hiệu ban đầu như là sự lặp lại của cùng một thứ. Cái hư không này phân biệt cái siêu việt và cái kinh nghiệm trở thành thứ tạo điều kiện cho phép quy giản lược hiện tượng học: Cái hư không này phân biệt những điểm tương đồng, cái hư không này mà không có nó thì không có lời giải thích nào, tức là không có ngôn ngữ nào, có thể được phát triển tự do để phục vụ cho chân lý mà không bị biến dạng bởi một số tiếp xúc thực tế, cái hư không này mà không có nó thì không có câu hỏi siêu việt nào có thể được mở ra, có thể nói cái hư không này nảy sinh, khi toàn bộ thế giới bị trung hòa trong sự tồn tại của nó và bị quy giản thành hiện hữu hiện tượng của nó. Lối vận hành này giống như hoạt động phép quy giản siêu việt; trong mọi trường hợp, nó không thể giống với phép quy giản triết học-hiện tượng học; đúng hơn, nó là một loại quy giản quang ảnh-hiện tượng học; hướng tới việc thiết lập một pheno concept khái niệm hiện tượng thành một photo concept khái niệm quang ảnh; và cuối cùng dẫn tới một khái niệm-từ mới được thiết lập theo một hình thức nghĩa đen mới của một Ý niệm về cơ chế-quang ảnh. “Photo-mechanism” Cơ chế-quang ảnh là một loại động lực học ‘epoché’ đúng hơn là Photo Dynamics - Quang ảnh-Động học. Cái hư không phân biệt cái siêu việt và cái kinh nghiệm được dịch thành dấu vết, hay différance, trở thành điều kiện tiên nghiệm của triết học phát sinh từ phép quy giản siêu việt. Đó là khả năng cái siêu việt có thể được quy giản thành cái kinh nghiệm hoặc hiện tượng, hoặc cái không phân chia chúng, cho phép vận động tái tạo của cả cái siêu việt và cái kinh nghiệm trong quá trình sản xuất siêu hình thông qua tính lặp lại. Cái siêu việt không tồn tại bên ngoài sự tái tạo ảo tưởng của nó thông qua cái kinh nghiệm. Sự khác biệt tiên nghiệm được dịch thành cái hư không phân chia cái siêu việt và cái kinh nghiệm tạo điều kiện cho phép quy giản hiện tượng học. Tính lặp lại chuyển dịch thành sự lặp lại của cái siêu việt trong cái kinh nghiệm như một sự khác biệt so với dấu hiệu ban đầu, theo lập luận của Derrida, rất nghịch lý, lại là một khác biệt vốn hư không và phân chia hư không.
Différance được chuyển dịch là sự khác biệt a priori tiên nghiệm, hoặc sự khác biệt siêu việt, tuy nhiên sự phân biệt của nó chứa đựng một aporia bí lối vì nó là một sự khác biệt được chuyển dịch là hư không hoặc chia tách hư không; vì cái siêu việt không tồn tại bên ngoài cái kinh nghiệm, cái lý tưởng không tồn tại bên ngoài lịch sử và cái hiện thực, bản ngã siêu việt không tồn tại bên ngoài bản ngã kinh nghiệm, cũng hệt như cái siêu việt là hư không bên ngoài cái lịch sử và các trầm tích mà nó thể hiện chính mình trong đó. Différance, như Derrida phát biểu, là sự giống nhau nhưng không giống hệt nhau. Đây là aporia bí lối của siêu hình học—sự khác biệt giữa cái siêu việt và kinh nghiệm chuyển dịch một cách nghịch lý thành tính giống hệt, bởi vì cái siêu việt là cái kinh nghiệm, và không thể tồn tại bên ngoài nó với tư cách là khả tính lặp lại hoặc sự lặp lại với một khác biệt so với dấu hiệu ban đầu, mà những gì chúng ta đã thảo luận ở chương trước là tái kích hoạt của noema thông qua sự lặp lại.
__________________________________
(Còn nữa…)
Nguồn: Roy Manas (2010). Transforming of Husserlian Phenomenology, Filosofía UIS, Volumen 9, Número 1, Enero - junio de 2010, pp. 131 – 157.
References
Husserl, E. (1931). Ideas: General Introduction to Pure Phenomenology. Translated by- Gibson, New York: MacMillan Co.
Kolakowski, Leszek (1987). Husserl and the Search for Certitude, University of Chicago Press.
Kolakowski, Leszek (2004). For What Tomorrow. A Dialogue with Elisabeth Roudinesco. Stanford University Press 2004.
Hubert L. Dreyfus & Paul Rabinow (1983). Michel Foucault: Beyond Structuralism and Hermeneutics, The University of Chicago, USA: Press.
Hubert L. Dreyfus & Paul Rabinow (1973) Speech and Phenomena, and Other Essays on Husserl’s Theory of Signs. (1973). Trans. by David B. Allison, Evanston: Northwestern University Press.
Stiegler, Bernard. Derrida and Technology: Fidelity at the Limits of Deconstruction and the Prosthesis of Faith, Nacques Derrida and the Humanities, In: Tom Cohen (ed.), (ISBN 0-521-62565-3).
Ströker, Elisabeth (1993). Husserl’s Transcendental Phenomenology, Stanford: Stanford University Press.
Dreyfus, Hubert (ed.) (1982). Husserl, Intentionality, and Cognitive Science, Cambridge, MA: MIT Press.
Dreyfus, Hubert (1982), Noema and Meaning in Husserl, Phenomenology and Philosophical Research, 50: 263-271.
Dreyfus, Hubert (1982), Husserl’s Theory of the Intentionality of Consciousness, in: Dreyfus (ed.) 1982.
Schütz, Alfred (1966). The Problem of Transcendental Intersubjectivity in Husserl,” In: Collected Papers III, The Hague: Nijhoff.
Norris, Christopher (1982). Deconstruction: Theory and Practice.
Thomas, Michael (2006). The Reception of Derrida: Translation and Transformation.
Eyes of the University: Right to Philosophy 2, trans. Jan Plug (Stanford: Stanford University Press, 2004).
Of Grammatology, trans. Gayatri Chakravorty Spivak: Johns Hopkins University Press (1976)
Lawlor, Leonard (2002). Derrida and Husserl: The Basic Problem of Phenomenology, Indiana: Indiana University Press.
Stephen W. Hawking (1992). A Brief History Of Time. Bantam Press, Transworld Publishers Ltd. Great Britain.
Stephen W. Hawking (1992). The Theory Of Everything. Publisher: Phoenix Books.
Roy, Manas (2008). Derrida’s Philosophical Déconstruction, Transcendent Philosophy Journal, Vol.9, Dec.2008 edition, pp.237-246.
Roy, Manas (2010). Phenomenological Existentialism, Think, Vol.9, Issue 24, pp 51-63, Published by: The Royal Institute of Philosophy; Cambridge University Press, U.K.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét