Powered By Blogger

Chủ Nhật, 8 tháng 6, 2025

Siêu việt – Thế giới Sống của Bến Thi ca

Hà Hữu Nga

(PowerPoints: Dự án đọc Bến Thi ca của Thiền Zen Paul Vân Thuyết, 2025)

 “Viết là quá trình sáng tạo nên tư tưởng của mỗi chúng ta – dẫn đưa tâm trí ta hướng đến SIÊU VIỆT. Con người dừng viết là dừng tư duy” (Bến Thi ca, Lời tựa, tr.8)

“Bất cứ cái gì chúng ta có thể tưởng tượng ra, dù kỳ dị đến mấy thì nó cũng tồn tại ở đâu đó, trong những thời gian và không gian nào đó…” (Phan Chí Thành 1982, Tồn tại là gì? Bản thảo viết tay)

1. Thế giới-Sống Lebenswelt

Thế giới-Sống [Lebenswelt Life-world] được cấu thành như một vũ trụ của những gì hiển nhiên hoặc được đem đến cho [giveness], một thế giới mà các chủ thể cùng nhau trải nghiệm [Husserl E., 1970]

1.1. ‘Cấu thành’ trong Thế giới-Sống

Cấu thành [constitution] diễn ra thông qua hoạt động của một số nguồn lực kinh nghiệm nhất định, tạo ra một loại thống nhất ổn định. Thường có một khía cạnh của kinh nghiệm trải qua một loại diễn giải, một khía cạnh khác diễn giải nó, và hạng mục được cấu thành, khác biệt với các nguồn lực cấu thành. (Husserl, E. 1922; 1970)

1.2. Loại hình Cấu thành trong Thế giới-Sống

Ví dụ, một loạt các cảm giác thị giác và vận động, thông qua “hoạt hình” của cái trước tiếp cái sau, có chức năng cấu thành một vật thể mở rộng về mặt không gian (“ảo ảnh” chẳng hạn). (Husserl, E. 1922; 1970)

[Für die Interpretatión von Paul Văn Thuyết (2025) Bóng Thiên đường [Thơ], tr.111]

1.3. Cấp độ Cấu thành trong Thế giới-Sống

Các cấp độ cấu thành là những phương cách mà “ý thức mang lại ý nghĩa cụ thể” cho các đối tượng và trải nghiệm, bao gồm Cộng đồng liên chủ thể, Liên chủ thể liên cá nhân, Cấu thành chủ động liên quan đến bản ngã, Tổng hợp thụ động, và Dòng Hyletic [Hyletic Flow: sự tương tác giữa một thực thể với môi trường của nó]. (Husserl, E. 1922; 1970)

[Für die Interpretatión von Paul Văn Thuyết (2025) Kẻ du hý [Thơ], tr.318]

1.3.1. Dòng Hyletic 1

Thuật ngữ “hyletic” gốc từ tiếng Hy Lạp cổ “hylé” [ὕλη], có nghĩa là “vật chất” hoặc “gỗ”. Trong triết học, đặc biệt là hiện tượng học, “hyletic” ám chỉ vật chất thô, tiền-ý hướng tính hoặc tiền-phản ánh của kinh nghiệm, nội dung của nhận thức trước khi nó được định nghĩa hoặc hình thành; đó là “vật liệu” tạo thành cơ sở cho kinh nghiệm của chúng ta, là dữ liệu thô để ý thức tác động vào nhằm tạo ra Ý nghĩa. (Husserl, E. 1922; 1970)

[Für die Interpretatión von Paul Văn Thuyết (2025) Bức họa Siêu thực [Thơ], tr.113]

1.3.2. Dòng Hyletic 2

Dữ liệu cảm giác thô: Dữ liệu hyletic là chính những ấn tượng cảm giác, như động thái chạm nhẹ [Berührung/ touch] cảm nhận được của một bàn tay trên cánh tay bạn hoặc trải nghiệm thị giác [eidetic] về một màu sắc, trước khi chúng được đưa ra ý nghĩa hoặc diễn giải. (Husserl, E. 1922; 1970)

[Für die Interpretatión von Paul Văn Thuyết (2025) Cảm xúc [Thơ], tr.121]

1.3.3.  Dòng Hyletic 3

Nội dung vô định hình [Formless Content]: Hyle là “chất liệu” của trải nghiệm tồn tại trước khi được định hình hoặc cấu trúc bởi ý thức. Đây là một cơ sở rất quan trọng để Heidegger cấu trúc nên khái niệm Sein/Being và phân biệt nó với Dasein/being-there của Heidegger [“Sein und Zeit” Hữu thể và Thời gian]. (Husserl, E. 1922; 1970; Heidegger M. 1925 [1979]; 1928; 1976; 1977)

[Für die Interpretatión von Paul Văn Thuyết (2025) Hai khuôn mặt của vầng mây [Thơ], tr.303]

1.3.4. Dòng Hyletic 4

Cơ sở của Ý nghĩa: Sau đó các cảm giác thô này [intentionality/ Intentionalität] được tính ý hướng của ý thức “cấu thành" hoặc trao cho ý nghĩa, cho phép chúng ta trải nghiệm và hiểu thế giới sống [Life-world/Lebenwelt]. (Husserl, E. 1922; 1970)

[Für die Interpretatión von Paul Văn Thuyết (2025) Khi mặt trời già nua [Thơ], tr.380]

1.3.5. Dòng Hyletic 5

Hãy tưởng tượng ai đó đang cảm thấy một bàn tay khác “chạm” lên cánh tay của mình. Bản thân hành vi “chạm” đó chính là dữ liệu hyletic. Ta có thể diễn giải là ai đó đang định nói với mình một điều gì đó [hành động mang tính ý hướng]; và chính hành động đó mang lại Ý nghĩa cho hành vi “chạm” tay. (Husserl, E. 1922; 1970)

[Für die Interpretatión von Paul Văn Thuyết (2025) Ký ức [Thơ], tr.403]

2. Siêu việt

2.1 Siêu việt 1

Siêu việt vượt ra khỏi những giới hạn thông thường, từ này được sử dụng để mô tả trạng thái tâm trí, tôn giáo, tri thức, hoặc tình trạng vượt khỏi nhu cầu vật chất và các hiện thực hàng ngày. Trong triết học, siêu việt đề cập đến lĩnh vực của ‘tha tính’, đặc biệt là một tự ngã khác với tự ngã của tôi – vì vậy có thể nói tự ngã [Ego, the Self] về cơ bản là tự siêu việt (Heidegger M. 1925 [1979]; 1928; 1976; 1977; Moran D., 2008).

[Für die Interpretatión von Paul Văn Thuyết (2025) Lời tựa, , tr.8-9 với 6 lần dùng từ siêu việt]

2.2 Siêu việt 2

Trong các truyền thống triết học Phương Tây, tính từ siêu việt và danh từ siêu việt chuyển tải những ý nghĩa khác nhau nhưng đều có liên quan với nhau. Khái niệm siêu việt cùng với khái niệm nội tại (immanence) là một cặp thuật ngữ triết học phổ biến. Siêu việt (transcendence) thường đề cập đến một trải nghiệm với cái được quan niệm là tuyệt đối, vĩnh cửu và vô hạn. (Heidegger M. 1925 [1979]; 1928; 1976; 1977)

[Für die Interpretatión von Paul Văn Thuyết (2025) Lời tựa, tr.8-9]

2.3.1 Siêu việt luận Kant (1)

Immanuel Kant (1724-1804) sử dụng tính từ siêu việt (transcendental) để mô tả triết học phê phán của mình là “tiên nghiệm” nhằm giải thích khả tính của kinh nghiệm. Ông cũng đối sánh thuật ngữ transcendental – tiên nghiệm với thuật ngữ transcendent cái siêu việt, có nghĩa là “cái vượt xa” bất kỳ tri ​​thức khả thể nào về năng lực nhận thức của con người; trái ngược với “tiên nghiệm”, cái “siêu việt” nằm ngoài những gì mà năng lực hiểu biết của chúng ta có thể biết một cách thực chứng [positively]. (Heidegger M. 1925 [1979]; 1928; 1976; 1977)

[Für die Interpretatión von Paul Văn Thuyết (2025) Suy cảm thơ, tr.15-16]

2.3.2 Siêu việt luận Kant (2)

Theo Kant, transcendental tiên nghiệm có nghĩa là tri ​​thức về năng lực nhận thức của chúng ta liên quan đến cách thức mà các đối tượng có thể là a priori tiên nghiệm. “Tôi gọi toàn bộ tri thức là transcendental tiên nghiệm trong trường hợp nó không bị các khách thể chi phối, nhưng bị chi phối bởi cách thức mà chúng ta có thể biết về các khách thể ngay cả trước khi chúng ta trải nghiệm chúng.” [Kant I., 1998, tr. 149].

[Für die Interpretatión von Paul Văn Thuyết (2025) Lời tựa, tr.8-9].

2.3.3 Siêu việt luận và Nội tại luận Kant (3)

Chúng tôi sẽ gọi những nguyên tắc mà ứng dụng của nó hoàn toàn nằm trong giới hạn của kinh nghiệm khả thể là nội tại, và những nguyên tắc vượt qua những giới hạn này là những nguyên tắc siêu việt.” Nội tại (Immanent) và siêu việt (transcendent) ở đây được áp dụng cho lĩnh vực tri thức của con người. Những nguyên tắc nhận thức “trong giới hạn của kinh nghiệm khả thể” được gọi là nội tại; những nguyên tắc nhận thức vượt ra ngoài những giới hạn đó được gọi là siêu việt. [Kant I. 1781, p. 177].

[Für die Interpretatión von Paul Văn Thuyết (2025) Lời tựa, tr.8-9]

2.4.1 Siêu việt luận Schopenhauer (1)

Arthur Schopenhauer (1788-1860) đặc biệt nhìn nhận về thế giới qua lăng kính chủ thể tính. Lấy siêu việt tiên nghiệm của Kant làm điểm xuất phát, ông cho rằng cái thế giới mà chúng ta trải nghiệm trong không gian, thời gian và liên quan nhân quả, tồn tại dưới dạng “hiện khởi” (Vorstellung), phụ thuộc vào chủ thể nhận thức, không phải là một thế giới được coi là tồn tại tự thân. (Schopenhauer, Arthur 1861, 1918-1996, 2017)

[Für die Interpretatión von Paul Văn Thuyết (2025) Suy tưởng thi ca, tr.598]

2.4.2. Siêu việt luận Schopenhauer (2)

Hiểu biết của chúng ta về các khách thể chỉ đơn thuần là các hiện tượng, không phải là vật-tự-thân. Ông coi vật-tự-thân, bản chất bên trong của vạn vật, là Wille - Ý chí: mù quáng, vô thức, không mục đích, không tri thức, vượt không gian, thời gian, và là Nhất tính. Thế giới với tư cách Vorstellung hiện khởi, Objektivierung des Willens ‘khách thể hóa’ của Ý chí. Trải nghiệm thẩm mỹ - như làm/ thưởng thức thi ca - giải phóng ta khỏi vòng nô lệ bất tận với ý chí - căn nguyên của đau khổ. (Schopenhauer, Arthur 1861, 1918-1996, 2017)

[Für die Interpretatión von Paul Văn Thuyết (2025) Nàng duy mỹ [Thơ], tr.467; Ý chí [Thơ], tr.750 ]

2.4.3. Siêu việt luận Schopenhauer (3)

“Tri thức siêu việt là loại tri thức vượt ra ngoài mọi khả tính của kinh nghiệm, cố gắng xác định bản chất của vạn vật như chúng ở trong tự thân chúng; mặt khác, tri thức nội tại là loại tri thức giữ trong giới hạn của khả tính kinh nghiệm, vì vậy mà chỉ có thể nói về các hiện tượng” [Schopenhauer A., 1861. Parerga und Paralipomena – Phụ lục và Bỏ sót, Band 2, Kapitel 10, § 142. Berlin.] Giống Kant, Schopenhauer gọi triết học khảo sát các điều kiện khả tính của tri thức là Triết học siêu việt/ tiên nghiệm [Transzendentalphilosophie]. (Schopenhauer A. 1861, 1918-1996, 2017)

[Für die Interpretatión von Paul Văn Thuyết (2025) Suy tưởng thi ca [Essay], tr.467]

2.4.4. Siêu việt luận Schopenhauer (4)

Ngay trước Schopenhauer, Kant đã cho rằng “chúng ta không thể coi bất kỳ đối tượng nào như vật-t-thân, chỉ trong chừng mực nó là đối tượng của tri giác cảm tính, tức là như là hiện tượng, để có được tri ​​thức”. Vì vậy, đối với Kant, “vật-tự-thân” là bất khả tri/ không thể biết được (Kant I., 2012, BXXVI; Schopenhauer A., 1861, 1918-1996, 2017)

[Für die Interpretatión von Paul Văn Thuyết (2025) Lời tựa, tr.8-9]

2.4.5. Siêu việt luận Schopenhauer (5)

Vậy thì bằng cách nào, Schopenhauer khẳng định có thể biết được vật tự thân mà Kant cho là bất khả tri? Đó chính là bằng cách đồng nhất vật-tự-thân, bản chất bên trong của con người và sự vật với Wille - Ý chí. Theo ông: Thế giới là hiện khởi của tôi - đây là chân lý áp dụng cho mọi sinh thể sống và có năng lực nhận thức. Vì vậy chúng ta có thể biết nó bằng cách biết chính cơ thể của mình, đó là điều duy nhất mà chúng ta có thể biết cùng lúc cả với tư cách là một hiện tượng và là một vật-tự-thân. (Schopenhauer A., 1861, 1918-1996, 2017)

[Für die Interpretatión von Paul Văn Thuyết (2025) AZ-Siêu hình [thơ], tr.21]

2.4.6. Siêu việt/Siêu hình luận Schopenhauer (6)

Thôi thúc, thèm thuồng, vật lộn và khao khát vô tận là những đặc trưng của Ý chí. Nó bao gồm mọi tác động mù quáng của tự nhiên, và hành vi của con người. Nó sử dụng tri ​​thức để tìm ra đối tượng thỏa mãn thèm khát. Đó chính là “vật tự thân” mà Kant đã khẳng định là bất khả tri. Như vậy đối với Schopenhauer, vật-tự-thân bất khả tri của Kant đã trở thành vật-tự-thân khả tri (Schopenhauer A., 1977, §1, S.29; Schopenhauer A., 1861, 1918-1996, 2017)

[Für die Interpretatión von Paul Văn Thuyết (2025) Lời tựa, tr.8-9]

2.4.7. Siêu việt/Siêu hình luận Schopenhauer (7)

Để các hiện tượng xuất hiện, tức là để hiện khởi thì nhất thiết cần kinh nghiệm của hiện thực cảm tính, nên Schopenhauer đã áp dụng hệ mẫu nhận thức luận Kantian - tri ​​thức là chủ quan. Schopenhauer xem xét các điều kiện khả tính của tri thức và tìm kiếm các khái niệm a priori tiên nghiệm làm cho nó trở nên khả thể. Giống như Kant, Schopenhauer hiểu các khái niệm tiên nghiệm là các phạm trù của chủ thể có trước và cấu trúc nên mọi tri ​​thức. (Schopenhauer A.,1861, 1918-1996, 2017)

[Für die Interpretatión von Paul Văn Thuyết (2025) Siêu hình [Thơ], tr.577]

2.4.8. Siêu việt/Siêu hình luận Schopenhauer (8)

Schopenhauer quan tâm đến câu hỏi: Tự ngã biết được hiện thực bên ngoài như thế nào? Trong khi tri thức về thế giới đối tượng phụ thuộc vào chủ thể hiện khởi nó. Hiện thực khách quan có được sự tồn tại của nó là nhờ ở chủ thể cấu thành. Với chủ thể luận siêu việt của mình, Schopenhauer, giống như Kant coi những gì tức thời được đưa ra hoặc hiện khởi là hợp lý (Groß, von S. 1998; Schopenhauer, Arthur 1861, 1918-1996, 2017).

[Für die Interpretatión von Paul Văn Thuyết (2025) Trí tưởng tượng [Thơ], tr.579]

2.5.1. Siêu việt luận Nietzsche (1)

Siêu việt luận Friedrich Nietzsche (1844-1900) thể hiện rõ ràng nhất trong bài thơ An die Melancholie - Gửi Melancholie của ông. Vào tháng 11 năm 1869, Cosima Wagner - con gái của nghệ sĩ piano và nhà soạn nhạc nổi tiếng người Hungary Franz Liszt - là vợ của nhà soạn nhạc nổi tiếng người Đức Richard Wagner, nhờ Nietzsche tìm giúp cô món quà Giáng sinh, bản in tác phẩm Melancholie I của Albrecht Dürer cho chồng, vì Richard Wagner rất yêu thích Dürer. Nietzsche đã tìm mua được một bản sao cho cô vào tháng 6 năm 1870. Bài thơ An die Melancholie được sáng tác tại Gimmelwald vào năm 1871, khi Nietzsche đang đi nghỉ cùng em gái và người bạn là Carl von Gersdorff. (Nietzsche, Friedrich 1886; Panofsky, Erwin 1955; Sohm, Philip L. 1980)

[Für die Interpretatión von Paul Văn Thuyết (2025) Siêu nhân [Thơ], tr.577]

2.5.2. Siêu việt luận Nietzsche (2)

Melancholie I là tác phẩm điêu khắc năm 1514 của nghệ sĩ thời Phục hưng người Đức Albrecht Dürer. Chủ đề là một nhân vật nữ có cánh, buồn rầu bí ẩn hiện thân của Melancholia - U sầu. Nàng gục đầu trên tay, chăm chắm nhìn quang cảnh. Bầu trời có cầu vồng, sao chổi hoặc hành tinh và một sinh vật bay như chim, mang dòng chữ Latin Melancolia đã trở thành tiêu đề của tác phẩm. Nhờ có Melancolia I mà dòng Triết học Siêu việt có được một khái niệm nổi tiếng Daseins Abgrund Vực thẳm Cuộc đời/ Hiện sinh của Nietzsche. (Nietzsche, Friedrich 1886; Panofsky, Erwin 1955; Sohm, Philip L. 1980)

[Für die Interpretatión von Paul Văn Thuyết (2025) Tan vào Hư không [Thơ], tr.1150]

2.5.3. Siêu việt luận Nietzsche (3)

Dưới đây là khổ thứ Tư của bài thơ: 

Und wenn es nicht zu deinen Höhen schlich,
Erstorben für die fernsten Wolkenwellen,
So sank es um so tiefer, um in sich
Des Daseins Abgrund blitzend aufzuhellen.

Dù mắt ta chẳng dõi cùng tầm mi vời vợi,
Đui mù theo cuồn cuộn ngàn mây,
Thì ánh sáng cũng trầm vào lòng nó [Abgrund]
Để bừng soi Vực thẳm Cuộc đời. 

(Heidegger M. 1925 [1979]; 1928; 1976; 1977; Nietzsche, Friedrich 1886; Panofsky, Erwin 1955; Sohm, Philip L. 1980)

[Für die Interpretatión von Paul Văn Thuyết (2025) Ánh sáng Hiện sinh [thơ], tr.30]

2.5.4. Siêu việt luận Nietzsche (4)

Đúng 15 năm sau khi bài thơ ra đời, trong tác phẩm Jenseits von Gut und Böse - Bên kia Thiện Ác Nietzsche đã đưa ra một câu cách ngôn khiến người đọc không khỏi rùng mình về Vực thẳm: Und wenn du lange in einen Abgrund blickst, blickt der Abgrund auch in dich hinein - “Nếu ngươi chằm chằm nhìn vào Vực thẳm, thì Vực thẳm cũng sẽ chằm chằm nhìn lại ngươi” ((Nietzsche, Friedrich 1886; Panofsky, Erwin 1955; Sohm, Philip L. 1980)

[Für die Interpretatión von Paul Văn Thuyết (2025) Ảo giác Du hành [thơ], tr.37; Ở đáy sâu tư tưởng [thơ], tr.1016; Quy luật Tự nhiên muôn đời, [thơ], tr.1017]

2.5.5. Siêu việt luận Nietzsche (5)

Trải nghiệm nhận thức thông qua trải nghiệm xác thân theo quan niệm của Schopenhauer bằng cách Objektivierung des Willens - khách thể hóa Ý chí đã đem đến cho Nietzsche cái chân lý vĩnh hằng: Sẽ chẳng hề còn bất cứ Vực thẳm nào nếu Ngươi/ Tự ngã biết rõ rằng cái Vực thẳm hun hút của Cuộc đời kia cũng chỉ là một kết cục nhận thức được khách thể hóa từ Ý chí của ngươi mà thôi. (Nietzsche, Friedrich 1886; Panofsky, Erwin 1955; Sohm, Philip L. 1980)

[Für die Interpretatión von Paul Văn Thuyết (2025) Bài thơ Biểu hiện Siêu hình [thơ], tr.45]

2.5.6. Siêu việt luận Nietzsche (6)

Sở dĩ Nietzsche có thể dạy cho người đời kinh nghiệm đó vì 15 năm trước thay vì khách thể hóa chốc lát cái Vực thẳm Cuộc đời để chỉ chằm chằm nhìn hòng nhận thức nó, thì cái Tự ngã Nietzschean độc nhất ấy đã chủ thể hóa thành Chân lý/ Ánh sáng để vĩnh viễn bừng soi/ xóa bỏ cái vực thẳm kia. (Nietzsche, Friedrich 1886; Panofsky, Erwin 1955; Sohm, Philip L. 1980)

[Für die Interpretatión von Paul Văn Thuyết (2025) Ngọn lửa tinh thần [thơ], tr.1981]

2.6.1 Siêu việt luận Husserl (1)

Siêu việt: Trong khi ý thức siêu việt là chủ quan, thì nó cũng cố hữu là cái “siêu việt” vươn trổ và mang lại ý nghĩa cho thế giới. Thế giới, mặc dù không trực tiếp nằm “bên trong” ý thức, nhưng được trao cho và cấu thành thông qua các hành động có tính ý hướng của ý thức siêu việt. Die Welt wird durch die absichtlichen Akte des transzendentalen Bewusstseins gegeben und konstruiert. (Husserl, E. 1922; 1970)

[Für die Interpretatión von Paul Văn Thuyết (2025) Hát về cuộc đời [thơ], tr.926]

2.6.2. Siêu việt luận Husserl (2)

Đối với Husserl, “ý thức siêu việt” ám chỉ nguồn gốc chủ quan, cơ bản của mọi trải nghiệm; là lĩnh vực hành động thuần túy có tính ý hướng, tiên nghiệm mang lại ý nghĩa và cấu thành nên thế giới. Thế giới không phải là một thực tại bên ngoài, tồn tại từ trước, mà được cấu thành và ban tặng bởi các hành động của ý thức siêu việt. Ý nghĩa của thế giới không đơn giản là “ở ngoài kia” mà được tạo ra thông qua tương tác giữa ý thức và thế giới. (Husserl, E. 1922; 1970; Heidegger M. 1925 [1979]; 1928; 1976; 1977)

[Für die Interpretatión von Paul Văn Thuyết (2025) Bài thơ Trừu tượng [thơ], tr.72]

2.6.3. Siêu việt luận Husserl (3)

Ý thức siêu việt được Husserl coi là chủ thể: Husserl sử dụng thuật ngữ “ý thức siêu việt” transzendentales Bewusstsein để mô tả chủ thể của trải nghiệm, không theo nghĩa tâm lý của tâm trí cá nhân, mà là nguồn gốc phổ quát, tiền cá nhân của ý nghĩa và sự tồn tại. (Husserl, E. 1922; 1970)

[Für die Interpretatión von Paul Văn Thuyết (2025) Ý nghĩa của sự Sinh tồn [Thơ], tr.1162]

2.6.4. Siêu việt luận Husserl (4)

Tính ý hướng [Intentionalität] là một khái niệm cốt lõi của Husserl, một đặc điểm chính của ý thức siêu việt là Tính ý hướng của nó. Điều đó có nghĩa là ý thức luôn hướng đến một cái gì đó, cho dù đó là một đối tượng được nhận thức, một kịch bản tưởng tượng hay một sự kiện được ghi nhớ. (Husserl, E. 1922; 1970)

[Für die Interpretatión von Paul Văn Thuyết (2025) Bài thơ Siêu thực Biểu tượng [thơ], tr.59]

2.6.5. Siêu việt luận Husserl (5)

Quy giản hiện tượng học Phänomenologische Reduktion Quy giản hiện tượng học: Để nghiên cứu ý thức siêu việt, Husserl đã phát triển “Phép quy giản hiện tượng học”, một phương thức treo lại [epoche] mọi niềm tin về thế giới và tập trung vào chính những trải nghiệm thuần túy, trực tiếp. (Husserl, E. 1922; 1970)

[Für die Interpretatión von Paul Văn Thuyết (2025) Bài thơ Suy tưởng [thơ], tr.62]

2.6.6. Siêu việt luận Husserl (6)

Ý nghĩa trong hiện tượng học của Husserl: Trong hiện tượng học của Husserl, ý nghĩa không phải là một thực thể riêng biệt mà là một thuộc tính của các hành động có chủ đích, chủ yếu là các hành động hoặc suy nghĩ về mặt tinh thần, hướng đến các đối tượng. Theo Husserl, mọi ý thức đều là ý thức “của” một cái gì đó, nghĩa là các quá trình tinh thần của chúng ta luôn hướng đến các đối tượng hoặc sự kiện. Tính ý hướng này cho phép chúng ta nhận thức, suy nghĩ và tương tác với thế giới, định hình sự hiểu biết của chúng ta về thực tế. (Husserl, E. 1922; 1970; (Heidegger M. 1925 [1979]; 1928; 1976; 1977)

[Für die Interpretatión von Paul Văn Thuyết (2025) Bài thơ Suy tưởng [thơ], tr.62]

3. Đọc Bến thi ca bằng các điểm nhìn

Bến thi ca là một đa phối cảnh (manifold of perspectives): “Đa bội phối cảnh” [điểm nhìn] có nghĩa là nhiều quan điểm, hiểu biết hoặc diễn giải khác nhau về một điều gì đó. Nó gợi ý rằng chủ đề hoặc vấn đề đang được xem xét từ nhiều góc độ, dẫn đến sự hiểu biết phong phú và đầy đủ nhất có thể. [Für die Interpretatión von Paul Văn Thuyết (2025) Duy linh Duy mỹ Duy tình [thơ], tr.1075; Hình họa tr.1151]

Trong nghệ thuật thị giác, có bốn yếu tố phối cảnh nền tảng [fundamental perspectives] xác định cấp độ và góc nhìn của người xem trong bản phối cảnh:

i) Đường chân trời: là yếu tố xây dựng phối cảnh đại diện cho tầm mắt của người xem; đó chính là đường phân chia bầu trời và mặt đất; khi nhìn từ xa, nó có thể nằm ở chân núi và chạy ngang qua mực nước biển. (Hà Hữu Nga 1991; 2020; 2025; Hà Hữu Nga và Phùng Hoa Miên 2025)

[Für die Interpretatión von Paul Văn Thuyết (2025) Mênh mang vô định [thơ] tr.1090; Mây trôi [thơ], tr.1090; Hình họa tr.53; Hình họa tr.117]

ii) Điểm nhìn: thường được xác định trong bản đồ họa phối cảnh bằng một đường thẳng đứng vuông góc với đường chân trời; điểm nhìn nằm chính xác tại giao điểm của hai đường này; tùy thuộc vào góc nhìn trực quan của đối tượng, đường thẳng đứng xác định vị trí điểm nhìn có thể nằm ở giữa bố cục hoặc ở một trong các cạnh của nó, bên trái hoặc bên phải. (Hà Hữu Nga 1991; 2020; 2025; Hà Hữu Nga và Phùng Hoa Miên 2025)

[Für die Interpretatión von Paul Văn Thuyết (2025), Hình họa tr.27; Hình họa tr.35]

iii) Điểm biến mất là điểm trên đường chân trời mà tất cả các đường song song hội tụ khi nhìn theo phối cảnh; một số loại phối cảnh nhất định có thể yêu cầu sử dụng hai hoặc nhiều điểm biến mất; do đó các điểm biến mất có thể được định vị trên cả đường chân trời và đường thẳng đứng của điểm nhìn; tuy nhiên, điểm biến mất cũng có thể nằm ngoài cả đường chân trời và điểm nhìn. (Hà Hữu Nga 1991; 2020; 2025; Hà Hữu Nga và Phùng Hoa Miên 2025; Margolin, V. 2005; Suler John 2013)

[Für die Interpretatión von Paul Văn Thuyết (2025), Hình họa tr.56; Hình họa tr.60]

iv) Đường biến mất: thể hiện các cạnh của vật thể, là một phần của một tập hợp các đặc điểm đồ họa được gọi là các thành phần phối cảnh; nó là thành phần thiết yếu trong sơ đồ các hình dạng và không gian, mô phỏng nhận thức thị giác của mắt người; thu hẹp các đường này về phía điểm biến mất tạo ra ấn tượng thị giác về chiều sâu trong các mặt được rút ngắn của các vật thể trong phối cảnh. (Hà Hữu Nga 1991; 2020; 2025; Hà Hữu Nga và Phùng Hoa Miên 2025; Margolin, V. 2005Norling E. R., 1892, tr.3)

[Für die Interpretatión von Paul Văn Thuyết (2025), Hình họa tr.42; Hình họa tr.46]

3.1. Điểm nhìn Mắt chim

“Bird's eye point of view”, hay còn gọi là “góc nhìn từ trên cao” hoặc “góc nhìn từ trên xuống” là một thuật ngữ chỉ một góc nhìn từ trên xuống, như thể người quan sát đang là một con chim bay và đang nhìn xuống một vật thể hoặc một khu vực. (Hà Hữu Nga 1991; 2020; 2025; Hà Hữu Nga và Phùng Hoa Miên 2025; Margolin, V. 2005)

[Für die Interpretatión von Paul Văn Thuyết (2025), Hình họa tr.48]

3.2. Điểm nhìn Mắt sâu

Góc nhìn mắt sâu, còn được gọi là góc nhìn từ mắt ếch, là góc nhìn được nhìn từ dưới lên hoặc nhìn vào mặt dưới của một vật thể hoặc cảnh. Nó trái ngược với góc nhìn mắt chim.

(Armstrong, H. 2009; Hà Hữu Nga 1991; 2020; 2025; Hà Hữu Nga và Phùng Hoa Miên 2025; Lidwell, W., Holden, K., & Butler, J. 2010)

[Für die Interpretatión von Paul Văn Thuyết (2025), Hình họa tr.60; Hình họa tr.61; Hình họa tr.708]

3.3. Eidetic [Thị niệm]

Trong hiện tượng học của Husserl, “Viễn cảnh Thị niệm” ám chỉ một phương pháp để hiểu các cấu trúc thiết yếu của kinh nghiệm và bản chất mang tính thị niệm [Ý niệm hình thành/Cấu thành từ hình dạng/khối/ảnh thị giác] của thực tại. Nó bao gồm một hình thức nắm bắt trực quan các bản chất, được gọi là trực giác thị niệm, và một phương pháp được gọi là biến thể thị niệm [eidetic variation] để cô lập các Ý niệm [Essences] đó. Husserl tin rằng bằng cách kiểm tra các cấu trúc thiết yếu của kinh nghiệm thông qua thị niệm, người ta có thể có được cái nhìn sâu sắc về bản chất của thực tại.

[Für die Interpretatión von Paul Văn Thuyết (2025), Bài thơ Suy tưởng [thơ] tr.62; Hình họa tr.64; Hình họa tr.71; Hình họa tr.78; Hình họa tr.82; Hình họa tr.100; Hình họa tr.137; Hình họa tr.162; Hình họa tr.183; Hình họa tr.262; Hình họa tr.431; Hình họa tr.439; Hình họa tr.782; Hình họa tr.884; Hình họa tr.895; Hình họa tr.943]

________________________________________

Nguồn: Hà Hữu Nga (2025). Siêu việt – Thế giới sống của Bến Thi ca, PowerPoints: Dự án đọc Bến Thi ca của Thiền Zen Paul Vân Thuyết [Nxb. Đồng Nai 2025], trình bày tại Trung tâm Sách 24 Quang Trung, Hà Nội, do Sách Đông Tây và Thiền Zen Paul Vân Thuyết tổ chức, Hà Nội ngày 7/6/2025.

Tài liệu dẫn

Armstrong, H. (2009). Graphic Design Theory; Readings from the Field. New York: Princeton Architectural Press.

Groß, von Stefan (1998). Arthur Schopenhauer - Die Welt als Wille und Vorstellung (I.) Arthur Schopenhauer - Thế giới như là Ý chí và Hiện khởi, http://www.tabularasa-jena.de/ausgaben/No. 14 (1/1998).

Hà Hữu Nga (1991). Khái niệm Không gian trong Thiết kế Đồ họa. Trong Lịch sử Nghệ thuật Tiền sử, Tập bài giảng tại Trường Đại học Mỹ thuật Công nghiệp Khóa 1991-1992.

Hà Hữu Nga (2020). Mai Quỳnh Nam và những Giới hạn của cái Siêu việt. Tiếng vọng Kattigara, Thứ Ba, 1 tháng 12, 2020.

Hà Hữu Nga (2025). Ảo dị thị giác khuôn mặt của di sản đá cổ Suối Cỏ xã Mỹ Thành huyện Lạc Sơn (Hòa Bình). Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Nghiên cứu Bảo tồn và Phát huy Giá trị Di sản chạm khắc đá cổ miền núi phía Bắc Việt Nam, Thuộc Chương trình Lưu giữ các giá trị văn hóa lịch sử - VINIF, do Viện Nghiên cứu Ứng dụng Văn hóa và Du lịch tổ chức, Hà Nội tháng 1 năm 2025, Tr. 148-169

Hà Hữu Nga và Phùng Hoa Miên (2025). Di sản đá cổ từ góc nhìn thiết kế đồ họa và văn bản học. Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Nghiên cứu Bảo tồn và Phát huy Giá trị Di sản chạm khắc đá cổ miền núi phía Bắc Việt Nam, Thuộc Chương trình Lưu giữ các giá trị văn hóa lịch sử - VINIF, do Viện Nghiên cứu Ứng dụng Văn hóa và Du lịch tổ chức, Hà Nội tháng 1 năm 2025, Tr.170-192

Heidegger M. (1925 [1979]) Prolegomena zur Geschichte des Zeitbegriffs - Nhập đề về Lịch sử Thời tính cụ thể, ed. Petra Jaeger, Gesamtausgabe 20, Frankfurt am Main: Vittorio Klostermann.

Heidegger, Martin (1928). Metaphysische Anfangsgründe der Logik im Ausgang von Leibniz – Cơ sở Siêu hình của Logic từ xuất phát điểm Leibniz (Summer semester 1928), ed. Klaus Held. GA 26, § 11, p. 211).

Heidegger, Martin (1976). Von Wesen des Grundes - Luận về Bản chất của Nền móng, in Wegmarken, ed. Friedrich-Wilhelm von Herrmann, Frankfurt am Main: Vittorio Klostermann

Heidegger, Martin (1977). Sein und ZeitHữu thể và Thời gian, ed. F.-W. Hermann, Frankfurt am Main: Vittorio Klostermann.

Husserl, E. (1922). Ideen su einer reinen Phänomenologie - Ý niệm Hiện tượng luận Thuần túy, 2. Aufl. 1922, S.105.

Husserl, Edmund (1970). Die Krisis der europäischen Wissenschaften und die transzendentale Phänomenologie. Eine Einleitung in die phänomenologische Philosophie. In Husserliana. Bd. VI ed. W. Biemel, Husserliana (The Hague 1954); English translation: The Crisis of European Sciences and Transcendental Phenomenology. Translated by David Carr Evanston. Ill.

Jaspers, Karl (1932). Philosophie. 3 Bände (I. Philosophische Weltorientierung; II. Existenzerhellung; III. Metaphysik) – Triết học. 3 Tập (I. Định hướng Thế giới về Triết học; II. Giải thích Hiện sinh; III. Siêu hình học), Berlin: Springer. 

Kant I. 1781. Kritik der reinen Vernunft Zweite hin und wieder verbesserte Ausgabe, Jazzybee Verlag, p. 177.

Kant, Immanuel (1998). Critique of Pure Reason – Phê phán Lý tính Thuần túy. Edited and translated by Paul Guer and Allen Wood, Cambridge University Press, p. 149. 

Kant, Immanuel (2012). Kritik der reinen Vernunft Phê phán Lý tính Thuần túy (Zweite hin und wieder verbesserte Ausgabe), Jazzybee Verlag.

Lidwell, W., Holden, K., & Butler, J. (2010). Universal principles of design. In 125 Ways to Enhance Usability, Influence Perception, Increase Appeal, Make Better Design Decisions, and Teach through Design (2nd ed.) Beverly, MA.: Rockport Publishers.

Margolin, V. (2005). Design Studies for a New Doctorate. In S. Heller (ed.), The Education of a Graphic Designer, 2nd edn. New York: Allworth Press. Pp. 287–292.

Moran, Dermot (2008). Immanence, Self-Experience, and Transcendence in Edmund Husserl, Edith Stein, and Karl Jaspers - Nội tại, Tự nghiệm và Siêu việt của Edmund Husserl, Edith Stein và Karl Jaspers, American Catholic Philosophical Quarterly, Vol. 82, No. 2. 

Nietzsche, Friedrich (1886). Jenseits von Gut und Böse. Vorspiel einer Philosophie der Zukunft. Druck und Verlag von C.G.Naumann, Leipzig.

Norling, Ernest R., (1892, 1999). Perspective made easy. Ernest R. Norling. Originally published: New York: Macmillan, 1939, 1999.

Panofsky, Erwin (1955). The Life and Art of Albrecht Dürer (4th ed.). Princeton: Princeton University Press.

Schopenhauer, Arthur (1861). Parerga und Paralipomena – Phụ lục và Bỏ sót, Band 2, Kapitel 10, § 142. Berlin.

Schopenhauer, Arthur (1977), Die Welt als Wille und Vorstellung I – Thế giới như là Ý chí và Hiện khởi, Züricher Ausgabe.

Schopenhauer, Arthur (1818, 1996). Die Welt als Wille und Vorstellung - – Thế giới như là Ý chí và Hiện khởi, Bd. 1. Frankfurt 1996 [Orig. 1818].

Schopenhauer, Arthur (2017). Die Welt als Wille und Vorstellung - Thế giới như là Ý chí và Hiện khởi. 13. Auflage. Stuttgart/ Frankfurt am Main: Suhrkamp 2017, S. 31]

Sohm, Philip L. (1980). Dürer's 'Melencolia I': The Limits of Knowledge". Studies in the History of Art. 9: 13–32.

Suler John (2013). Negative Space. In book Perception and Imaging Edition: 4th, Publisher: Focal Press (Elsevier), pp.18-23.

Thiền Zen Paul Vân Thuyết (2025). Bến Thi ca, Nxb. Đồng Nai, Tỉnh Đồng Nai, 2025 


 

 

 

 

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét