Mirja Hartimo
Người dịch: Hà Hữu Nga
Các khoa học đều mang tính giáo điều, chúng là những khoa học đòi hỏi “sự phê phán” - và đích thực là sự phê phán mà bản thân chúng về cơ bản không có khả năng thực hiện; mặt khác, khoa học đó có chức năng duy nhất là thực hiện sự phê phán tất cả các khoa học khác và đồng thời, phê phán chính nó thì không gì khác hơn là hiện tượng học (Ý niệm I, §62).
Nhưng đối với chúng ta, những người đang phấn đấu hướng tới một logic cấp tiến, thì thái độ của triết học siêu việt của Kant đối với logic hình thức là điều đặc biệt đáng quan tâm (Logic Hình thức và Siêu việt, 265/258)
Tóm tắt: Bài viết này tìm cách làm rõ những nhận xét phê phán của Husserl về quan điểm logic của Kant bằng cách so sánh các quan điểm tương ứng của họ về logic. Trong Logic Hình thức và Siêu việt (1929, §100) của mình, Husserl chỉ trích Kant vì không đặt ra những câu hỏi siêu việt về logic hình thức, mà thay vào đó lại gán cho nó một Außerordentliche Apriorität “tiên nghiệm tính phi thường”. [Trong triết học của Kant, “phán đoán a priori tiên nghiệm phi thường” - còn gọi là “phán đoán a priori tiên nghiệm tổng hợp” - là một phán đoán vừa mang lại tri thức độc lập với kinh nghiệm [a priori tiên nghiệm] vừa chứa đựng thông tin mới về kinh nghiệm [tổng hợp]. Ngược lại, phán đoán phân tích là a priori vì chúng chỉ giải thích các khái niệm của phán đoán và không cung cấp những hiểu biết mới. HHN] Ông cho rằng lý do cho thái độ không phê phán của Kant đối với logic nằm ở quan điểm của Kant về logic hướng đến cái chủ thể tính, thay vì quan tâm đến một “‘thế giới’ của các Khách thể lý tưởng”. Bài báo lập luận rằng khiếu nại của Husserl bắt nguồn từ thực tế là, đối với Kant, logic chung là về các quy luật suy luận [reasoning]. Mặt khác, Husserl cho rằng logic hình thức nên mô tả các cấu trúc hình thức. Husserl khẳng định rằng nếu Kant có một khái niệm toàn diện hơn về logic, thì ông sẽ nghĩ đến việc nêu ra những câu hỏi phê phán về cái cách mà logic là khả thể. Mặc dù theo một nghĩa nào đó, Kant chỉ trích logic của thời đại mình, nhưng đây không phải là ý nghĩa mà Husserl muốn nói [tr.2]. Husserl cho rằng logic nên chịu sự phê phán siêu việt. Bản thân sự phê phán như vậy không thể sử dụng các hình thức phán đoán hoặc tam đoạn luận của logic, thậm chí không phải là phương pháp “suy luận” [schliessende] nói chung, mà phải mang tính mô tả. Bài báo kết thúc bằng cách mô tả cái cách thức mà với nó quan điểm về logic của Husserl là mang tính phê phán và bằng một so sánh ngắn gọn với “quan điểm phê phán về logic” của Charles Parsons. Người ta sẽ lập luận rằng, khi kết hợp, hai cách tiếp cận này có thể giúp xây dựng một quan điểm phê phán khả thi về logic cần thiết cho các cuộc thảo luận đương đại về các nền tảng và vị thế của logic.
1. Giới thiệu
Là một dạng triết học siêu việt, hiện tượng học của Husserl chia sẻ thái độ phê phán của Kant đối với các khoa học. Giống như Kant, Husserl yêu cầu đặt ra các câu hỏi phê phán về các điều kiện khả tính của khoa học. Thật vậy, lời phàn nàn chính của Husserl về Kant là Kant không đủ phê phán: hệ thống của ông [Kant] chắc chắn có thể được mô tả, theo nghĩa chung, được định nghĩa là một trong những “triết học siêu việt”, mặc dù nó còn lâu mới đạt được nền tảng thực sự cấp tiến của triết học, tổng thể tính của tất cả các ngành khoa học. (Crisis, §27) Husserl cho rằng Kant không mở rộng các câu hỏi siêu việt của mình, “làm thế nào X có thể” cho tất cả các ngành khoa học. Đặc biệt là Logic, bị loại trừ khỏi quá trình đặt câu hỏi mang tính phê phán. Trọng tâm lời chỉ trích Kant của Husserl trong tác phẩm Logic Hình thức và Siêu việt (Formale und Transzendentale Logik 1929, sau đây gọi tắt là FTL)2 giai đoạn chín muồi của ông là ở chỗ Kant đã không đặt ra những câu hỏi siêu việt về logic hình thức:
Mặc dù Kant vượt trội hơn nhiều so với những người cùng thời của mình, và mặc dù triết học của ông vẫn là nguồn kích thích sâu sắc đối với chúng ta, nhưng tính chất nửa vời trong quá trình ông phát triển triết học siêu việt hệ thống được thể hiện qua thực tế là, mặc dù chắc chắn ông không coi logic hình thức (được coi là tam đoạn luận, logic ‘reine und allgemeine’ thuần túy và tổng quát của Kant) chủ yếu là sự tồn tại vô giá trị về học thuật, giống như chủ nghĩa kinh nghiệm Anh hoặc, lại cũng giống như chủ nghĩa kinh nghiệm (liên quan đến các phần [tr.3] của logic mà nó chấp nhận), tước đi ý nghĩa đích thực đặc biệt của ngành học đó bằng cách Umdeutung tái diễn giải về tính lý tưởng của nó theo phương pháp tâm lý học, ông vẫn không đặt ra bất kỳ câu hỏi siêu việt nào về nó, mà thay vào đó, ông gán cho nó một Außerordentliche Apriorität “tiên nghiệm tính phi thường”, là thứ tôn nó lên trên những câu hỏi như vậy. (FTL, 265/258)
Không tham chiếu đến bất kỳ đoạn văn chính xác nào ở Kant, Husserl xác định quan điểm của Kant về logic tổng quát và thuần túy là nguyên do Kant loại trừ nó khỏi bất kỳ khảo sát siêu việt nào. Giải thích của Husserl là Kant đã không nhìn thấy điều này vì ông đã không đánh giá cao tầm quan trọng của các hình thái lý tưởng và đặc biệt là vị trí của chúng như là phạm vi chủ đề của logic. Do đó, Kant không thể đặt ra những câu hỏi siêu việt về nó: Logic thuần túy có phạm vi chủ đề của nó là các hình thái lý tưởng. Nhưng chúng phải được nhìn thấy rõ ràng và bestimmt gefaβt sein dứt khoát phải được lĩnh hội, theo đúng nghĩa những khách thể tính lý tưởng, trước khi có thể đặt ra những câu hỏi siêu việt về chúng và về logic thuần túy. (FTL, 265/258) Theo quan điểm của Husserl, logic chủ yếu quan tâm đến các lý thuyết hình thức về các đối tượng trừu tượng, do đó nó ngang hàng với các khoa học thực nghiệm. Thật vậy, thông qua logic, ông muốn nắm bắt các cấu trúc thuần túy chung của các lý thuyết tiên đề (xem Hartimo 2018). Theo đó, đối với Husserl, nguồn gốc của logic nằm ở Plato và ở hình học, chứ không phải ở tam đoạn luận và Phân tích Hậu nghiệm của Aristotle (FTL 1/1). Cũng lấy cảm hứng từ Leibniz, Bolzano và Lotze, Husserl cho rằng tính lý tưởng của các hình thái mà logic quan tâm là “đặc điểm của một ‘thế giới’ riêng biệt, khép kín của các đối tượng lý tưởng” (FTL, 267/261). Husserl cho rằng, nếu Kant nhận ra điều này, ông sẽ không giới hạn phạm vi được giải thích bởi câu hỏi siêu việt của ông về “khoa học tự nhiên có thể như thế nào” đối với các đối tượng thực nghiệm, mà sẽ nhận thấy nhu cầu giải thích cả thế giới của các khách thể tính lý tưởng (tức là các đối tượng trừu tượng, theo cách nói đương đại).
Nói một cách ngắn gọn, trong FTL, Husserl cho rằng Kant đã không đưa logic vào phạm vi phê phán siêu việt vì ông không nhận ra phạm vi thích hợp của cái trừu tượng, hay cái mà ông gọi là “lý tưởng”, lãnh địa logic. Trong khi đối với Kant, logic tổng quát là về các quy luật suy lý, thì quan điểm của Husserl về logic hình thức bao gồm các đối tượng hình thức mà nó đề cập đến. Mặc dù có thể tranh luận xem liệu Kant có nghĩ rằng có các đối tượng hình thức [toán học] hay không (xem [tr.4] Parsons 2012, 43-49), thì quan điểm của Husserl về logic lại bao gồm cả toán học cấu trúc trừu tượng. Trong khi Kant, theo quan điểm của Husserl, sử dụng logic tổng quát theo nhiều cách để xác định phạm vi và giới hạn của lý tính, thì Husserl lại cho rằng logic cũng phải chịu sự phê phán siêu việt. Đây cũng là hướng lập luận của Husserl trong FTL. Đầu tiên, ông trình bày quan điểm của mình về logic hình thức. Sau đó, ông đứng vào vị trí để xem xét các điều kiện khả tính của nó, vốn là những gì ông thực hiện trong phần thứ hai của cuốn sách, về logic siêu việt. Cuối cùng, quan niệm của Husserl về logic siêu việt, vốn rất khác với quan niệm của Kant về nó, lại thể hiện loại phê phán mà logic hình thức nên gánh chịu. Chắc chắn, “phê phán” ở đây có nghĩa là đã phải chịu những câu hỏi siêu việt “làm sao X có thể xảy ra”. Trong phần sau, tôi sẽ cố gắng làm rõ quan điểm của Husserl. Trước tiên, tôi sẽ giải thích phê phán của ông đối với logic tổng quát của Kant bằng cách trình bày chi tiết về những khác biệt trong các khái niệm tương ứng của họ về logic. Cuối cùng, tôi sẽ mở rộng quan điểm phê phán về logic mà Husserl cho rằng chúng ta nên áp dụng. Đây cũng sẽ là điểm khởi đầu hữu ích cho một cuộc thảo luận về quan điểm phê phán logic trong các cuộc tranh luận đương đại về nền tảng và vị thế của logic. So sánh với quan điểm phê phán về logic của Parsons ở phần cuối bài viết giúp hiểu rõ hơn quan điểm về logic của Husserl và phát triển các hướng dẫn chung cho một lối phê phán logic đương đại có liên quan.
2. Husserl về Kant và Logic Thuần túy và Tổng quát
Trong lời cáo buộc của mình cho rằng logic tổng quát đang hướng tới cái chủ thể trong Kant, Husserl có vẻ như đang ám chỉ đến quan điểm của Kant về vấn đề logic tổng quát là về tư duy, trong khi Husserl cho rằng logic tổng quát nên là về đối tượng của tư duy. Theo nghĩa này, quan niệm của Husserl về logic tổng quát của Kant có vẻ đúng: Kant viết rằng logic tổng quát liên quan đến “các quy tắc tư duy tuyệt đối cần thiết, mà không có chúng thì không có việc sử dụng nào về các hiểu biết diễn ra” (A52/B76). Nó là tổng quát, vì “nó trừu tượng hóa khỏi mọi nội dung của nhận thức về sự hiểu biết và về sự khác biệt của các đối tượng của nó, mà không liên quan gì ngoài hình thức thuần túy của tư duy” (A54/B78). Là thuần túy, vì “nó không có các nguyên tắc kinh nghiệm, do đó nó không rút ra được gì từ tâm lý học” (A54/B78). Logic thuần túy và tổng quát của Kant là tiên nghiệm, thuần túy, tổng quát và độc lập với tâm lý học kinh nghiệm. Tuy nhiên [tr.5] nó liên quan đến cái chủ thể tính trong quan điểm của Husserl, vì nó liên quan đến tư duy, tức là về các hành vi chủ quan, chứ không phải về các cấu trúc khách quan. (Để biết thêm chi tiết về quan điểm logic của Kant, hãy xem bài viết của Kjosavik về chủ đề ấy trong cùng số Tạp chí này). Có phần gây tranh cãi, Husserl quy cho nó cái lập trường logic Aristotle-Kinh viện: “Liệu thứ logic khiếm khuyết không thể diễn tả được này có phải là loại mô hình mà chúng ta nên cố gắng bắt chước không? Chẳng ai vui vẻ chấp nhận ý tưởng đẩy khoa học trở lại quan điểm về thứ logic Aristotle-Kinh viện, vốn có vẻ như là cái cách giải quyết của Kant, vì chính ông nói rằng logic đã có đặc điểm của một khoa học khép kín kể từ thời Aristotle.” (Dẫn luận, §58)
Lời ta thán này về quan điểm của Kant về logic có vẻ như, ngay cả trong mắt của Husserl, là quá đáng. Theo Kant, logic tổng quát là một khoa học “ngắn ngủn và khô khan”, “giống như các trình bày có phương pháp của một học thuyết về các yếu tố của sự hiểu biết chắc chắn phải như vậy” (A54/B78), như Kant đã nói một cách chí lý. Husserl trích dẫn câu này và thêm một nhận xét: “Mọi người đều quen thuộc với các bài giảng của Kant do Jäsche xuất bản và biết rằng chúng đáp ứng được yêu cầu đặc trưng này ở mức độ đáng ngờ đến thế nào” (Prolegomena §58). Tương tự như vậy, trong đoạn trích dẫn ở trên, Husserl khen ngợi Kant vì không coi logic hình thức là “sự tồn tại kinh viện vô giá trị” không giống như những người theo chủ nghĩa kinh nghiệm Anh (FTL 265/258). Do đó Husserl nhận thức được một thực tế là Kant không chỉ đơn giản áp dụng trạng thái logic từ sách giáo khoa thời của ông.3
Theo nghĩa này, quan điểm của Kant về logic cũng có thể được coi là “phê phán”, nhưng khái niệm “phê phán” này rõ ràng không phải là cùng một ý nghĩa siêu việt với “phê phán” mà Husserl quan tâm. Bất kể Kant có cho rằng logic chung thực sự đã đạt đến trạng thái cuối cùng của việc cấu thành học thuyết thuần túy về lý trí hay không, và ở mức độ nào, thì Kant vẫn thấy không cần phải cung cấp cho nó các nền tảng siêu việt. Kant đã hỏi làm thế nào toán học thuần túy trở nên khả thể, làm thế nào khoa học tự nhiên thuần túy trở nên khả thể và làm thế nào siêu hình học nói chung trở nên khả, nhưng ông không hỏi làm thế nào logic thuần túy [tr.6] trở nên khả. Do đó, theo quan điểm của Husserl, triết học phê phán của ông không mở rộng đến quan điểm của ông về logic thuần túy và logic chung.4
Diễn giải chi tiết hơn của Husserl cho thấy tính tổng quát mà cấp độ thảo luận của ông về logic của Kant đạt tới. Husserl cho rằng việc Kant không nhận thấy nhu cầu về nền tảng siêu việt của logic cũng cho thấy món nợ ân tình ngầm của Kant đối với Hume, mà trên thực tế “là người đầu tiên nắm bắt được vấn đề cụ thể phổ quát của triết học siêu việt” (FTL, 257). Nhưng trong khi Hume nêu ra vấn đề siêu việt về cấu thành thế giới, ông đã không nhìn thấy vấn đề siêu việt của sự cấu thành các khách thể tính lý tưởng và đặc biệt là về tính lý tưởng logic (FTL, 266-267/259-260). Điều này cho thấy Hume chấp nhận một cách không nghi ngờ các mối quan hệ của các ý tưởng, mà sau đó Kant đã áp dụng trong phản ứng của mình đối với Hume (FTL 267/260): “Hume hướng phê phán của ông vào kinh nghiệm và thế giới được trải nghiệm, nhưng lại chấp nhận tính không thể bác bỏ trong mối quan hệ của các ý tưởng (mà Kant quan niệm là analytisch Apriori Cái tiên nghiệm phân tích). Kant đã làm như vậy với phản-vấn đề của mình: Ông đã không biến Cái tiên nghiệm phân tích của mình thành một vấn đề.” (ibid.)
Theo quan điểm của Husserl, bất chấp các khác biệt của họ, Hume và Kant vẫn có chung một niềm tin tương tự vào mối quan hệ của các ý tưởng và analytisch Apriori Cái tiên nghiệm phân tích, tương ứng. Theo quan điểm của Husserl, loại phụ thuộc không thể nghi ngờ này vào logic cũng đã gây họa cho truyền thống duy lý kể từ Descartes, và nó cũng vẫn được duy trì trong số các triết gia siêu việt sau Kant (xem, đặc biệt là Crisis §§21, 25, 30). Husserl cho rằng nó đã dẫn Kant đến việc sử dụng “một phương pháp schliessende suy luận mang tính kiến tạo, huyền thoại” thay vì “một phương pháp erschliessende bộc lộ hoàn toàn trực quan” (Crisis, §30). Theo quan điểm của Husserl, Kant tuy nhiên đã tiến gần đến sử dụng phương pháp erschliessende bộc lộ hoàn toàn trực quan trong phép diễn dịch-A, trong đó Kant đã cố gắng [tr.7] một nền tảng trực tiếp, một nền tảng đi xuống các nguồn gốc ban đầu, chỉ để lại gần như ngay lập tức mà không đi đến các vấn đề nền tảng thực sự sẽ được mở ra từ khía cạnh được cho là tâm lý này. (Crisis, §28)5
Theo quan điểm của Husserl, logic chung, các hình thức phán đoán và tam đoạn luận của nó, không nên được giả định một cách chắc chắn trong một phê phán về tri thức. Một phê phán cấp tiến cũng không nên sử dụng suy luận hoặc các “diễn dịch” logic. Nhắc lại việc Frege viện dẫn đến các giải thích cũng như sự phân biệt giữa nói-trình bày của Wittgenstein, thì chỉ trích này của Husserl bắt nguồn từ quan điểm của ông cho rằng triết học siêu việt thích hợp với việc tìm cách minh định logic bằng mô tả các nguồn trực quan của nó (LI 1, §§1-7). Vì lý do này, khoa học và logic bị loại khỏi phương pháp hiện tượng học trong các “phép quy giản” hiện tượng học, như đã mô tả trong Ideas I. Mô tả hiện tượng học không nên giả định trước về chúng và sử dụng chúng nhưng phải xem xét tính cho trước và cấu thành của chúng (Ideas I, §59).6 Tuy nhiên, theo quan điểm của Husserl, Kant thực hiện chính xác điều này. Ông giả định logic chung và các diễn dịch [deductions] logic khi xây dựng quan điểm của mình về cái apriori tiên nghiệm. Do đó, phương pháp suy luận [schliessende] này dẫn đến “các cấu trúc huyền thoại” hoặc “các khái niệm kiến tạo về nguyên tắc chống lại sự minh định tối hậu” (Crisis, §57).7
3. Husserl về Logic Hình thức
Về mặt logic, người hùng của Husserl là Leibniz và nỗ lực của ông trong khoa học phổ quát mathesis universalis: tóm lại, Leibniz có trực giác của thiên tài: ông đã thấy trước những thành quả tuyệt vời nhất mà logic phải ghi nhận kể từ thời Aristotle, lý thuyết xác suất [theory of probabilities] và phân tích toán học về các đối số (tam đoạn luận và phi tam đoạn luận - syllogistic and non-syllogistic) [tr.8]. Các phép phân tích đối số lần đầu tiên trở nên thuần thục vào nửa sau thế kỷ XIX. Thông qua Combinatoria [Dissertatio de Arte Combinatoria Luận án về Nghệ thuật Kết hợp] của mình, ông cũng là cha đẻ về mặt trí tuệ của Pure Theory of Manifolds lý thuyết thuần túy về các đa tạp, một ngành học gần với logic thuần túy và trên thực tế là một với nó. (Prolegomena, §60 Với mathesis universalis của Leibniz là ý tưởng dẫn đạo, quan điểm của Husserl về logic thuần túy bao trùm hơn nhiều so với tam đoạn luận hoặc bất kỳ lý thuyết suy luận nào khác. Nó cũng bao gồm lý thuyết thuần túy về các đa nguyên tính [Vielheitslehre], lý thuyết thuần túy về số, v.v., và cuối cùng là các lý thuyết về các lý thuyết như vậy, như lý thuyết đa tạp Riemannian, lý thuyết mở rộng Grassmann, lý thuyết tập hợp Cantor (Prolegomena §68,70).
Logic của Husserl bao gồm tất cả toán học ngay cả trong quan điểm trưởng thành của ông, như được thể hiện trong FTL.8 Trong đó, logic được hình dung là sự kết hợp của lý thuyết về các phán đoán [HHNga chú: Husserl gọi là ‘logic apophantic’- từ “apophantic” trong tiếng Hy Lạp cổ đại ἀποφαντικός/ apophantikós, có nghĩa là “tuyên bố” hoặc “phân loại”; nó có gốc động từ ἀποφαίνειν/apophainein, có nghĩa là “hiển hiện, trưng bày, tuyên bố”; động từ này được hình thành từ apo-ἀπό-, có nghĩa là “xa, cách”, và φαίνειν/phainein, có nghĩa là “trưng ra”; hậu tố “(-ικός/-ikos hậu tố tính từ phổ biến trong tiếng Hy Lạp; do đó, “apophantic” có nghĩa chung là “bao gồm một tuyên bố” hoặc “liên quan đến một tuyên bố phân loại”; Logic Apophantic xử lý các dạng mệnh đề hoặc trạng thái của các sự việc bằng cách hỏi xem trong các dạng nào các đối tượng có thể được hình dung như là các trạng thái của các sự việc như vậy và sau đó các quy luật nào cho sự tồn tại của các trạng thái của các sự việc là hợp lệ theo phẩm chất các dạng của chúng. HHN] và một bản thể học chính thức. Thay vì khái niệm hẹp về phán đoán trong logic truyền thống, Husserl đếm trong số các hành động phán đoán cũng có các hành động thu thập, đếm, sắp xếp trật tự và kết hợp toán học (FTL, 112/107; 269/262). Do đó, theo Husserl, lý thuyết phán đoán thuần túy thuộc về “không chỉ toàn bộ tam đoạn luận, xét về nội dung cốt lõi của nó, mà còn (như chúng ta sẽ trình bày) nhiều ngành khác, cụ thể là các ngành ‘phân tích’ toán học hình thức” (FTL, 60/55). Trong chừng mực các đối tượng của các hành vi phán đoán này là những khách thể tính thuần túy, trừu tượng, thì chúng cũng được bao gồm trong khái niệm “logic hình thức” của Husserl. Thật vậy, logic hình thức bao gồm hữu thể luận hình thức, với tư cách là một lý thuyết apriori tiên nghiệm hình thức về các đối tượng bao trùm toàn bộ toán học thuần túy, kể cả toán học phi-apophantic. Loại toán học này bao gồm phân tích truyền thống, lý thuyết tập hợp, lý thuyết tổ hợp và hoán vị, số đếm hoặc thứ tự thuộc các cấp độ khác nhau, lý thuyết đa tạp, v.v. [die traditionelle formale “Analysis” der Mathematiker, die Mathematik der Mengen, der Kombinationen und Permutationen, der Anzahlen (der Modi des Wieviel), der Ordinalzahlen verschiedener Stufe, der Mannigfaltigkeiten] (FTL, 81/77)]. Những anh hùng gần đây hơn của Husserl trong sự phát triển của logic là Riemann và Hilbert. Nhờ cách tiếp cận tiên đề của Hilbert, một khái niệm được định nghĩa rõ ràng về một dạng hoàn chỉnh của một lý thuyết đã đạt được vào khoảng đầu thế kỷ (FTL, §31). Đến lượt mình, lý thuyết đa tạp của Riemann đã cung cấp một lý thuyết hình thức phổ quát về các dạng đa tạp như vậy [tr.9]. Với nó, sự phát triển của toán học hiện đại theo hướng trừu tượng hóa ngày càng tăng lên đến đỉnh điểm trong việc “cũng tiếp tục xem các dạng hệ thống như vậy là các đối tượng toán học” (FTL, 97/93). Quan điểm của Husserl về logic hình thức cuối cùng bao gồm cả các cấu trúc hình thức và mối quan hệ của chúng với nhau.
Husserl cho rằng thành tựu lớn nhất của ông trong FTL là ở chỗ ông đã minh định được mối quan hệ giữa logic hình thức và toán học hình thức (FTL, 15/11). Sau khi phân tích mở rộng về điều này, Husserl kết luận rằng không có sự khác biệt nào khác giữa toán học và logic hình thức ngoài những điều sau: Khái niệm đầy đủ về logic hình thức bao gồm các cân nhắc về chân lý và do đó là “mối quan tâm logic” đối với thế giới thực sự tồn tại.9 Do đó, logic hình thức đi kèm với việc chia thành ba cấp độ. Đây là ngữ pháp logic thuần túy, logic phi-mâu thuẫn và logic-chân lý. Ở các cấp độ logic khác nhau, các loại bằng chứng khác nhau luôn được tìm kiếm: ngữ pháp logic thuần túy hướng đến bằng chứng theo nghĩa chung nhất [Evidenz im weitesten Sinne], logic phi-mâu thuẫn hướng đến bằng chứng về tính khác biệt [Deutlichkeit], và cuối cùng là chân lý hướng đến tính minh bạch [Klarheit], đòi hỏi chạm trán với thế giới (để biết chi tiết, hãy xem Heffernan 1989, đặc biệt là §7, 144-153). Những bằng chứng này là lý tưởng định chuẩn cho các thực tiễn. Sự khác biệt giữa toán học và logic hình thức là chúng được hướng dẫn bởi các lý tưởng định chuẩn khác nhau: Toán học chỉ quan tâm đến tính ngữ pháp và phi-mâu thuẫn, trong khi logic hình thức, được hình thành đầy đủ, cũng bao gồm cái mà Husserl gọi là ‘logic của chân lý’, ngoài ngữ pháp logic thuần túy và logic phi-mâu thuẫn. Do đó, toán học chỉ quan tâm đến hai loại bằng chứng đầu tiên, trong khi logic hình thức quan tâm đến cả ba loại.
Nguồn gốc của bằng chứng về tính khác biệt nằm ở nhất tính hài hòa của kinh nghiệm khả thể, trong đó nội dung của các phán đoán có sự gắn kết của các vấn đề trong [tr.10] nhất tính tổng hợp của kinh nghiệm [der synthetischen Einheit der Erfahrung], cũng được gọi là vũ trụ của kinh nghiệm khả thể [ein Universum möglicher Erfahrung], hoặc một phạm vi thống nhất của kinh nghiệm [ein einheitliche Erfahrungssphäre, ein einheitliches sachliches Gebiet] (FTL, §§89b). Theo quan điểm hậu Tarskian hiện tại, nguồn gốc của tính khác biệt dường như nằm ở sự tồn tại của một “mô hình” được cung cấp bởi nhất tính tổng hợp của kinh nghiệm như vậy. Theo Husserl, ý nghĩa của toán học là phấn đấu cho các lý thuyết phi-mâu thuẫn và xây dựng các "mô hình" cho chúng để có được bằng chứng riêng biệt về sự hài hòa của nhất tính tổng hợp của kinh nghiệm đang được đề cập. Chân lý, bị loại trừ khỏi lợi ích của các nhà toán học, đối với Husserl có nghĩa là “một phán đoán được minh định bằng cách phê phán chính xác - được minh định bằng cách phù hợp với các khách thể tính phạm trù tương ứng “tự thân chúng”, như được đưa ra bằng cách có bằng chứng về bản thân chúng” (FTL, 132/127). Do đó, bằng chứng về tính minh xác liên quan đến một cuộc chạm trán với thế giới thực, do đó đi ra ngoài phạm vi hình thức để đến với thế giới. Điều này có thể diễn ra theo hai cách, hoặc trực tiếp, bằng cách áp dụng các lý thuyết (như trong toán học ứng dụng, ví dụ, hình học hoặc cơ học), hoặc thông qua một “liên kết chuyển tiếp”, là một lý thuyết phán đoán trong đó các hình thái phức tạp có thể được quy giản thành các phán đoán cơ bản về các đối tượng (FTL §§83-84).
Trong cả hai trường hợp, mục tiêu cuối cùng của logic hình thức là đạt tới hoàn thành thông qua nhận thức về các đối tượng riêng lẻ và các phán đoán về chúng. Người ta có thể nghĩ rằng, với việc đưa các phạm vi lý thuyết vào khái niệm logic hình thức của mình, Husserl đã tiến gần đến việc chế định được một thứ gì đó giống như quan niệm Tarskian về hệ quả logic vậy. Tuy nhiên, Husserl hoàn toàn không quan tâm đến việc nắm bắt khái niệm về giá trị tính của việc suy lý. Ông coi các lý thuyết suy luận, tam đoạn luận và cả phép lặp thừa, là các lý thuyết riêng biệt trong logic phi-mâu thuẫn. Ông không tìm kiếm một lý thuyết bao quát về suy luận hay công thức về hệ quả logic. Không có lý thuyết suy luận nào mà ông đề cập lại đóng vai trò hệ thống trong quan điểm của ông về suy lý. Thay vào đó, mối quan tâm chính của ông là mô tả đầy đủ và toàn diện các loại cấu trúc khác nhau và các mối quan hệ của chúng với nhau. Đặc điểm này trong quan điểm của ông về logic có thể được nắm bắt một cách hữu ích thông qua sự phân biệt của Hintikka (2003) giữa hai vai trò mà logic có thể chiếm chỗ trong toán học. Trong khi chức năng diễn dịch nhấn mạnh vào thực hành toán học như là chứng minh định lý, thì chức năng mô tả của logic lại nhằm mục đích mô tả các cấu trúc được minh họa bằng các mô hình lý thuyết dự định [tr.11]. Rõ ràng là mối quan tâm của Husserl nằm ở phần sau: Logic là về việc mô tả các cấu trúc hình thức chứ không phải về suy lý. Kant có lẽ sẽ không coi đây là logic đúng đắn, ít nhất cũng không phải là logic tổng quát đúng đắn, có chức năng diễn dịch chứ không phải chức năng mô tả.
Logic hình thức như được mô tả ở trên có thể được chuyển đổi thành một ngành học định chuẩn - “công nghệ” (FTL, 35/31). Husserl đã giải thích điều này chi tiết hơn trong Prolegomena Dẫn luận (1900) của mình: “Một chút suy ngẫm sẽ làm sáng tỏ vấn đề. Mọi quy luật của logic thuần túy đều cho phép chuyển đổi (hiển nhiên là bên trong), có thể là tiên nghiệm, cho phép người ta hiểu ra một số mệnh đề nhất định về bằng chứng bên trong, một số điều kiện nhất định của bằng chứng bên trong, từ nó. Các nguyên tắc kết hợp của mâu thuẫn và phần giữa bị loại trừ chắc chắn là các đương lượng của mệnh đề: một và chỉ một trong hai phán đoán mâu thuẫn lẫn nhau có thể biểu hiện bằng chứng bên trong. (Prolegomena §49) Các chuyển đổi dựa trên tương quan chung giữa mệnh đề ‘A là chân’ và ‘Bất kỳ ai cũng có thể phán đoán A phải là chân theo cách hiển nhiên bên trong’ (Prolegomena §49). Quá trình này giả định việc thiết lập các đề xuất chung, để hướng tới một giá trị định chuẩn, một ý tưởng hoặc mục tiêu cao nhất, một số đặc điểm nhất định được đề cập đến mà việc sở hữu chúng đảm bảo tính phù hợp với giá trị định chuẩn đó hoặc đặt ra một điều kiện không thể thiếu của giá trị định chuẩn. (Phần mở đầu §11)
_____________________________________
(Còn nữa…)
Nguồn: Hartimo M. (2019). Husserl on Kant and the Critical View of Logic, In Interdisciplinary Journal of Philosophy Inquiry.
Notes
1 Tôi muốn cảm ơn Frode Kjosavik, Øystein Linnebo, Fredrik Westerlund, Sara Heinämaa và Ofra Rechter đã có nhiều
bình luận giá trị về các phiên bản trước của bài báo này.
2 Tôi sẽ tham chiếu đến FTL với số trang để số đầu tiên là bản gốc tiếng Đức và số thứ hai là bản dịch tiếng Anh. Để tham chiếu đến tất cả các phiên bản bằng tất cả các ngôn ngữ cùng một lúc, các tham chiếu đến các tác phẩm khác của Husserl là số phần thay vì số trang.
3 Có rất nhiều bằng chứng cho thấy Kant không chỉ đơn giản áp dụng trạng thái logic của thời đại mình. Ngay cả khi ông tuyên bố rằng với sự trợ giúp của công sức của các nhà logic học, ông đã có thể trình bày một bảng hoàn chỉnh về các chức năng thuần túy của sự hiểu biết, ông đã thêm một nhận xét phê phán rằng công sức của các nhà logic học vẫn "vẫn chưa hoàn toàn thoát khỏi khuyết điểm" (Prol. §39). Tuy nhiên, loại ‘phê bình’ này không được tính là phê bình siêu việt về logic, theo kiểu “làm sao X có thể xảy ra?”, vốn là mối quan tâm của Husserl.
4 Trong các cuộc thảo luận đương đại, một lời phê bình tương tự đối với Kant đã được Sher đưa ra (2016, 241-242). Bà là người bảo vệ một quan điểm phê phán khác về logic: “Thật thú vị và khó hiểu khi một nền tảng triết học có hệ thống cho logic hiếm khi được thử nghiệm. Điều tôi nghĩ đến là một nền tảng lý thuyết thống nhất, tập trung vào bản thân logic hơn là vào toán học, khoa học hoặc ngôn ngữ tự nhiên. Một nền tảng như vậy sẽ mang tính phê phán và giải thích, và nó sẽ đặc biệt quan tâm đến tính chân thực của logic. Liên quan đến mối quan tâm này, nó sẽ xem xét một cách phê phán các đặc điểm cơ bản của logic, các nhiệm vụ mà logic được thiết kế để thực hiện, nguồn gốc của sự thật và sự sai lầm của các tuyên bố logic và siêu logic, các cơ sở mà các lý thuyết logic nên được chấp nhận (bị bác bỏ hoặc sửa đổi), các cách thức mà các lý thuyết logic vừa bị hạn chế vừa được kích hoạt bởi tâm trí con người một mặt và thế giới mặt khác, các mối quan hệ giữa logic và các ngành liên quan (ví dụ: toán học), tính chuẩn mực của logic, v.v.” (ibid., 239).
5 Trong Ideas I, Husserl cũng tuyên bố tương tự rằng trong A-deduction của mình, Kant hoạt động hoàn toàn trong hiện tượng học siêu việt, nhưng Kant đã hiểu sai lĩnh vực đó là tâm lý và do đó đã từ bỏ nó (Ideas I, §62).
6 Chắc chắn, triết học hiện tượng học của Husserl không bị giới hạn trong các mô tả hiện tượng học siêu việt mà sử dụng các loại phương pháp khác nhau, bao gồm cả lập luận.
7 Trong Erste Philosophie [1925] Husserl trình bày chi tiết hơn về ý nghĩa của “các cấu trúc huyền thoại”: “Natürlich müssen wir von vornherein alle dem phänomenologischen Transzendentalismus, und damit dem tiefsten Sinn und Recht des Kantischen, broadstreitenden, in der schlechten Wortbedeutung 'metaphysischen' Bestandstücke der Vernunftkritik (wie die Ding-an-sich-Lehre, die Lehre vom mindus archetypes, die Mythologie der transzendentalen Apperzeption oder des ‘Bewuβtseins überhaupt” usw.) übergehen und seinem mythischen Begriffe des Apriori den phänomenologsich geklärten Begriff des allgemeinen Wesens und Wesesgesetzes substituieren… “ “Tất nhiên, ngay từ đầu chúng ta phải bỏ qua mọi thành phần của sự phê phán lý tính, theo nghĩa hẹp của từ này, là ‘siêu hình’ và mâu thuẫn với thuyết siêu việt hiện tượng học, và do đó là ý nghĩa sâu sắc nhất và đúng đắn của thuyết siêu việt Kantian, và thay thế khái niệm huyền thoại của tính tiên nghiệm bằng khái niệm được minh định về mặt hiện tượng học của bản chất phổ quát và quy luật về bản chất…” (Husserl 1956, 235).
8 Theo đánh giá của chính Husserl, FTL là tác phẩm “trưởng thành nhất” của ông, mặc dù “quá cô đọng” (Schuhmann 1977, 484-485).
9 Husserl viết: “một toán học hình thức, được thu gọn lại thành sự tinh khiết được mô tả ở trên, có tính hợp pháp riêng của nó và rằng, đối với toán học, trong mọi trường hợp không cần thiết phải vượt ra ngoài sự tinh khiết đó. Tuy nhiên, cùng lúc đó, một bước tiến lớn về mặt triết học đã được thực hiện bởi sự hiểu biết rằng sự giản lược hạn chế như vậy của logic toán học (logic hình thức, khi nó đã đạt đến sự hoàn chỉnh phù hợp với bản chất của nó) —tức là sự giản lược của nó thành một phép phân tích thuần túy của phi mâu thuẫn—về cơ bản là sự giản lược của nó thành một khoa học không liên quan gì ngoài các giác quan apophantic, liên quan đến Apriori thiết yếu của riêng chúng, và theo cách này, ý nghĩa thích hợp của 'toán học hình thức', toán học mà mọi ý định logic thực sự (tức là: mọi ý định thuộc về một lý thuyết khoa học) vẫn còn xa lạ—toán học của các nhà toán học—cuối cùng cũng trở nên rõ ràng về cơ bản. Đây chính là sự phân biệt hợp pháp duy nhất giữa logic hình thức và toán học hình thức đơn thuần” (FTL, 146/140-141).
References with abbreviations:
FTL Husserl, Edmund (1974). Formale und transzendentale Logik: Versuch einer Kritik der logischen Vernunft (1929). Husserliana XVII. Ed. P. Janssen. The Hague: Martinus Nijhoff. English translation: Formal and Transcendental Logic, translated by Dorion Cairns. Martinus Nijhoff. The Hague. 1969.
Ideas I Edmund Husserl (1976). Ideen zu einer reinen Phänomenologie und phänomenologischen Philosophie. Erstes Buch: Allgemeine Einführung in die reine Phänomenologie. Husserliana III. Ed.
K. Schuhmann. The Hague: Martinus Nijhoff. English Translation: Ideas pertaining to a pure phenomenology and to a phenomenological philosophy, translated by F. Kersten. Kluwer, Dordrecht, Boston, London.1982.
LI 1-6. Edmund Husserl. Logische Untersuchungen. Zweiter Band. Untersuchungen zur Phänomenologie und Theorie der Erkenntnis. Husserliana XIX, Edited by Ursula Panzer. Martinus Nijhoff. The Hague, 1984. English translation Logical Investigations, translated by J. N. Findlay. Volumes One & Two. Humanities Press. New York, 1970.
Prolegomena Edmund Husserl (1975). Logische Untersuchungen. Erster Band. Prolegomena zur reinen Logik. Husserliana XVIII. Ed. E. Holenstein. The Hague: Martinus Nijhoff. English translation in Logical Investigations, translated by J. N. Findlay. Volume One. Humanities Press. New York, 1970.
Crisis Husserl, Edmund (1976). Die Krisis der europäischen Wissenschaften und die transzendentale
Phänomenologie: Eine Einleitung in die phänomenologische Philosophie (1936). Husserliana VI.
Ed. W. Biemel. The Hague: Martinus Nijhoff. English translation: The Crisis of European Sciences
and Transcendental Phenomenology. An Introduction to Phenomenological Philosophy.
Translated by David Carr. Evanston: Northwestern University Press, 1970.
A/B Kant, Immanuel. (1998). Critique of Pure Reason. Edited and translated by Paul Guyer and Allen W. Wood. New York: Cambridge University Press.
Prol Kant, Immanuel. (1977). Prolegomena to any Future Metaphysics. Translated by Paul Carus, revised by James W. Ellington. Indianapolis/Cambridge: Hackett Publishing Company.
Further References
Hartimo, Mirja (2018). “Husserl on completeness, definitely.” Synthese 195, 2018: 1509–1527.
Hartimo, Mirja (Forthcoming). “Constitution and Construction” to appear in Weiss, Christina (ed.). Constructive Semantics – Meaning in Between Phenomenology and Constructivism. Logic, Epistemology and the Unity of Science Series. Springer.
Heffernan, George (1989). Isagoge in die phänomenologische Apophantik. Eine Einführung in die phänomenologische Urteilslogik durch die Auslegung des Textes der Formalen und transzendentalen Logik von Edmund Husserl. Dordrecht, Boston, London: Kluwer Academic Publishers.
Hintikka, Jaakko (2003). The Principles of Mathematics Revisited. Cambridge: Cambridge University Press. [1996]
Husserl, Edmund (1956). Erste Philosophie (1923/24). Erster Teil, kritische Ideengeschichte. Husserliana volume VII, edited by Rudolf Boehm. Haag: Martinus Nijhoff.
Parsons, Charles (2012). “Arithmetic and the Categories.” In: From Kant to Husserl. Cambridge, Mass.: Harvard University Press: 42-68.
Parsons, Charles. (2015). “Infinity and a Critical View of Logic.” Inquiry 58/1: 1-19.
Schuhmann, Karl (1977). Husserl-Chronik, Denk- und Lebensweg Edmund Husserls. The Hague: Martinus Nijhoff.
Sher, Gila (2016). Epistemic friction: an essay on knowledge, truth, and logic. Oxford University Press.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét