David B. Allison
Người dịch: Hà Hữu Nga
[P.89] Giờ đây là lúc để bác bỏ những huyền thoại về tính quy nạp và cái Wesenschau Trực giác bản chất, được truyền lại, như những điểm danh dự, từ thế hệ này sang thế hệ khác...Tôi có phải là sức mạnh nguyên thủy để chiêm nghiệm, một cái nhìn thuần túy cố định sự vật ở vị trí thời gian, địa điểm cục bộ của chúng và các bản chất trong một thiên đường vô hình; liệu có phải tôi là tia sáng ấy của tri thức nảy sinh từ hư không?1
Tóm tắt
Tác giả xem lại phê phán của Derrida về hiện tượng học của Husserl, để chỉ ra cách thức mà tính mạch lạc cấu trúc của nó nảy sinh không phải từ phép quy giản thành một học thuyết cụ thể, mà là từ những đòi hỏi của một quan niệm thống nhất, cụ thể là từ những đòi hỏi do các quyết định về nhận thức luận và siêu hình học của sự hiện diện áp đặt.
Từ khóa – Giải cấu trúc – Derrida – Husserl - Ý nghĩa - Hiện tượng học - Sự hiện diện.
[P.90] Thực tế thì có một sự thật hiển nhiên khi nói rằng hầu hết các nhà bình luận của Husserl đều nhấn mạnh vào tính chất hệ thống chặt chẽ của các tác phẩm của ông. Bất chấp những thay đổi mà các “khởi đầu mới” của ông liên tục đưa ra, hầu hết các nhà phê bình đều tìm cách giải thích sự phát triển mạch lạc về mặt hình thức của tác phẩm Husserl bằng cách viện đến một chủ đề chính hoặc vấn đề. Thông thường, mục đích của những nỗ lực này không phải là gợi lên một kiến trúc khái niệm ẩn giấu mà là nhấn mạnh một trục khảo sát hiệu quả trong hệ chủ đề các suy tư rất khác biệt của Husserl. Tuy nhiên, cách tiếp cận này thường dẫn đến việc nâng cao các học thuyết cụ thể, mà mỗi học thuyết được đánh giá theo sở thích của từng học giả. Do đó, nhiệm vụ tư duy triết học thực sự của Husserl đã biến thành thứ mà Eugen Fink gọi là một loạt “triệu chứng”,2 và toàn bộ tác phẩm được đánh giá theo cái gọi là “học thuyết” của Husserl vào thời điểm đó. Hơn nữa, số lượng “ảnh hưởng” lịch sử mà tư tưởng của ông được cho là chịu ơn cũng có tỷ lệ lây lan. Do đó, cách tiếp cận phê phán đối với tư tưởng của Husserl tập trung vào các chủ đề hoặc học thuyết rõ ràng về nhận thức, bản ngã, tính liên chủ thể, bản thể học, cấu thành, logic, phép quy giản, tính lý tưởng và sự hiện thân - chưa kể đến chủ nghĩa Descartes, chủ nghĩa kinh nghiệm của Husserl hoặc sự chi ân của ông đối với Frege và Wundt.
Tuy nhiên, với việc xuất bản La Voix et le phénomène – Tiếng nói và Hiện tượng của Jacques Derrida3, trường học thuật Husserlian đã trải qua một cải biến đầy kịch tính.4 Trong công trình trên và một số văn bản tiếp theo,5 Derrida lập luận rằng sự phát triển có hệ thống của hiện tượng học Husserl được chứng minh rõ ràng nhất không phải trong khuôn khổ một vấn đề cụ thể, mà bằng cách xem xét một định kiến nhất định - cụ thể là giá trị nhận thức luận và siêu hình hiện diện - một định kiến đã hướng dẫn việc xây dựng toàn bộ tác phẩm của Husserl.6 Derrida cho rằng lý thuyết của Husserl về ý thức, chủ thể tính, khách thể tính, cấu thành, bằng chứng và logic ngấm ngầm hoặc hiển minh đều dựa trên định kiến chưa được kiểm chứng này.
[Tr.91] Đối với Derrida, tính nhất quán cấu trúc của hiện tượng học Husserl không phát sinh từ phép quy giản thành một “học thuyết” cụ thể, mà đúng hơn là từ những đòi hỏi của một quan niệm thống nhất, cụ thể là từ những đòi hỏi do các quyết định siêu hình và nhận thức luận về hiện diện áp đặt. Chính xác thì giá trị hiện diện này bao gồm những gì, cách thức nó vận hành như một định kiến tiên đề trong hệ thống triết học của ông, và những hậu quả mà nó kéo theo đối với hiện tượng học Husserl chính là chủ đề phê phán tổng quát của ông. Derrida đưa ra ba khẳng định cơ bản trong La Voix et le phénomène – Tiếng nói và Hiện tượng. Khẳng định đầu tiên là sự hiện diện về mặt thời gian thực sự đóng vai trò là tiên đề cơ bản trong học thuyết về sự biểu thị ý nghĩa của Husserl – như đã nêu trong Logical Investigations của ông, “Khảo sát 1: Biểu hiện và Ý nghĩa.”7
Khẳng định thứ hai của Derrida là những suy ngẫm tiếp theo của Husserl về tính lý tưởng, ý thức và tính khách quan liên tục dựa trên “những khác biệt cốt yếu” mà ông đã thiết lập cho việc biểu thị ý nghĩa trong First Logical Investigation – Khảo sát Logic Đầu tiên. Do đó, Derrida cần nhấn mạnh vào văn bản đầu tiên này. Thứ ba, và về đại thể, Derrida cho rằng tiên đề về hiện diện bằng cách này hay cách khác đều cũng xác định các lý giải khác nhau về hiện hữu, chân lý và ngôn ngữ, không chỉ đối với Husserl và hiện tượng học, mà còn đối với truyền thống rộng lớn hơn của triết học phương Tây nói chung theo đúng nghĩa. Khi bắt đầu bằng một lời phê bình về Logical Investigations Khảo sát Logic, Derrida có lẽ đã chọn tác phẩm quan trọng nhất, nếu không muốn nói là có ảnh hưởng nhất, của Husserl về ngôn ngữ. Diễn giải của Derrida rất ấn tượng vì ông tuyên bố rằng toàn bộ hiện tượng học được ngụ ý trong một sự phản ánh về ngôn ngữ, đó là một cuộc thảo luận về ý nghĩa, cách biểu hiện, ngữ pháp và logic - các chủ đề của Logical Investigations - sẽ dự đoán và sau đó quyết định các vấn đề “siêu việt” sắp tới. Giá trị của việc tập trung phân tích ở đây nằm ở chỗ Husserl bắt đầu các khảo sát bằng một tập hợp các “phân biệt thiết yếu”, một nhóm khái niệm thao tác hướng dẫn tư tưởng của ông một cách chặt chẽ và có hệ thống đến mục đích cuối cùng.
Derrida nhấn mạnh tầm quan trọng của những các “phân biệt thiết yếu” này, không chỉ vì chúng quyết định tiến trình và sự thống nhất về mặt cấu trúc của chính tác phẩm Husserl, mà còn vì chúng lặp lại, một cách rõ ràng và thuyết phục, chính các tiên đề của siêu hình học truyền thống. Tuy nhiên, đây chỉ là một giai đoạn lập luận, vì ông không có ý định miêu tả Husserl và hiện tượng học chỉ là một ví dụ khác trong lịch sử siêu hình học. Derrida lập luận thậm chí còn dứt khoát hơn rằng tư tưởng của Husserl chính xác là thứ hệ mẫu, trường hợp cao nhất và cuối cùng, của truyền thống này. Và cuối cùng, chính các khẳng định và kỳ vọng của truyền thống này – mà các thông số của nó được thừa nhận vô cùng rộng lớn – lại là điều mà Derrida muốn phản đối. Derrida khẳng định rằng trong suốt các tác phẩm của mình, Husserl liên tục viện dẫn những khái niệm thông thường nhất của siêu hình học phương Tây để làm nền tảng tiên đề cho hiện tượng học, và điều này thể hiện rõ từ “sự phân biệt thiết yếu” đầu tiên. Bằng thủ pháp này, một quyết định nào đó sẽ được đưa ra để diễn giải ý nghĩa của tồn tại [tr.92] theo cách cụ thể.8
Đối với Husserl và truyền thống đó, Derrida cho rằng ý nghĩa của tồn tại [being] luôn được diễn giải là hiện diện, và cách diễn giải này có hai hình thức: một cái gì đó tồn tại trong chừng mực nó tự thể hiện hoặc có khả năng tự thể hiện với một chủ thể - với tư cách là ob-objectum khách thể hiện tại của trực giác cảm tính, hoặc với tư cách một khách tính được trình bày với tư duy. Thứ hai, chúng ta nói rằng một subjectum chủ thể, hoặc tự ngã nói chung, chỉ tồn tại trong chừng mực nó tự-thể hiện, hiện diện với chính nó trong tính trực tiếp của một hành động có ý thức. Ý nghĩa trước đánh dấu cách diễn giải tồn tại [being] là [ousia, physis, v.v.] khách thể tính; ý nghĩa sau là [parousia, nous, v.v.] chủ thể tính. Việc diễn giải tồn tại với tư cách hiện diện và tự-hiện diện9 kéo theo một loạt các hệ quả triết học và sự đối lập về mặt khái niệm vẫn tồn tại cho đến ngày nay, và không ở đâu những hệ quả này lại rõ ràng hơn trong tư tưởng của Husserl. Là một phần trong dự án phê phán về giải cấu trúc,10 Derrida thảo luận [tr. 93] về nguồn cội và sự phát sinh của chuỗi này khi nó vận hành trong hiện tượng học. Trong rất nhiều đối lập về khái niệm có thể tìm thấy, có những đối lập về hyle vật chất và eidos, idea hình thức, ý tưởng, hữu hình và vô hình, thể xác và linh hồn, sinh khí và vô tri, biểu đạt và được biểu đạt.11
Do đó, từ “không có tiền đề”, việc diễn giải về tồn tại [being] như là hiện diện sẽ cung cấp cho hiện tượng học các khái niệm trục của nó. Nguyên tắc cao nhất của hiện tượng học, bằng chứng hiển nhiên, chính xác là lời kêu gọi trình hiện hoặc [e-videre] đưa ra các khách thể cho trực giác trực tiếp và tự-hiện diện. Khái niệm về ý thức siêu việt cũng không gì khác hơn là tự-hiện diện trực tiếp của cuộc sống thức tỉnh này, cõi miền của những gì vốn nguyên thủy là “của riêng tôi”. Ngược lại, các khái niệm về kinh nghiệm, thế gian, hữu hình, v.v., đối lập với cõi miền sở hữu tự-hiện diện này. Chúng cấu thành phạm vi của tha tính, cái trung gian, những gì khác với cuộc sống ý thức tự-hiện diện, v.v. Tất cả những khái niệm này đều tìm thấy sự thống nhất có hệ thống của chúng trong diễn giải về ngôn ngữ của Husserl.
Đối với Husserl, ngôn ngữ phục vụ cho tư duy khoa học và tìm thấy mô hình của nó ở mức độ khách quan khoa học cao nhất - hình thức tiên đoán logic. Và chúng ta không nên quên rằng, thông qua và xuyên qua ngôn ngữ, các tuyên bố có ý nghĩa có thể được ghi lại và truyền tải, một tập hợp học thuyết có thể được thiết lập và minh định, một cộng đồng các nhà khoa học có thể giao tiếp, bản thân khoa học trở nên khả thi. Do đó, ngôn ngữ có ý nghĩa có các quy tắc và mục đích riêng của nó; nó là một loại “ngữ pháp logic thuần túy” và nó thể hiện ý nghĩa ở dạng tiên đoán, tức là ở dạng tham chiếu khả thể đến một đối tượng. Đây là nơi Husserl đưa ra “phân biệt thiết yếu” đầu tiên của Khảo sát Logic. Trong ngôn ngữ, có hai loại biểu thị ý nghĩa khác nhau: indication chỉ dẫn và expression biểu hiện. Tuy nhiên, đối với Husserl, chỉ có một trong hai loại này - biểu hiện - là có ý nghĩa. Nói một cách chính xác, chỉ riêng biểu hiện, mới chuyển tải ý nghĩa.
Điều quan trọng là phải hiểu tại sao Derrida lại nắm bắt được sự khác biệt này. Ngôn ngữ có ý nghĩa bị giới hạn trong biểu hiện. Nhưng biểu hiện khác với chỉ dẫn như thế nào? Husserl hiểu chỉ dẫn là một vận động của empirical association liên tưởng thực nghiệm. Một dấu hiệu khả tri tượng trưng cho một thứ khác: một cách đánh dấu, một nốt nhạc, một vật thể khiến chúng ta chuyển từ thứ gì đó hiện tại sang suy nghĩ về một thứ gì đó chỉ được dự đoán hoặc mong đợi. Không có nội dung ý nghĩa nào hiện diện trong chỉ dẫn, chỉ có signifier một cái biểu đạt trống rỗng và không có gì signified được biểu đạt. Cái đó vẫn chưa xuất hiện, nó vẫn chưa được [tr.94] trình hiện. Tuy nhiên, một biểu hiện mang theo một nội dung có ý nghĩa. Ý nghĩa hiện diện với tư cách là nội dung được biểu đạt của biểu hiện. Một thứ có lẽ xa vời hơn, nhưng đối với Husserl lại đảm bảo chính cái khả tính của ngôn ngữ có ý nghĩa, là nền tảng của nó dựa trên sự diễn giải về tồn tại [being] với tư cách hiện diện. Derrida không chỉ cho rằng rằng cách diễn giải này về ngôn ngữ và ý nghĩa là bất khả, mà về cơ bản nó còn mâu thuẫn, xét theo khuôn khổ khái niệm của siêu hình học hiện diện.
Đối với Husserl, nội dung ý nghĩa của biểu hiện là lý tưởng. Một biểu hiện bao gồm một ý hướng ý nghĩa rõ ràng, có chủ đích, “làm sống động” một cái biểu đạt vô nghĩa, ví dụ, từ “tư duy” hoặc “tưởng tượng”, cái “hình thức” đơn thuần của ký hiệu thực sự được nói ra hoặc viết ra. Khi làm sống động ký hiệu thuần túy hình thức này, ký hiệu được đầu tư với ý nghĩa, và Bedeutung ý nghĩa cuối cùng là nội dung của một Deutung diễn giải, trong khi ký hiệu hoặc cái biểu đạt nói chung luôn là một ký hiệu của hoặc cho một cái gì đó. Vậy là, đối với Husserl, tất cả các yếu tố biểu hiện này đều không thật vì tất cả đều diễn ra trong tính trực tiếp của một ý thức tự-hiện diện, mà trong Logical Investigations Khảo sát Logic, ông gọi là phạm vi “đời sống tinh thần đơn độc” và sau này gọi là ý thức siêu việt.
Cái khó trong một quan niệm như vậy - và Husserl nhận ra điều này - là giao tiếp thực luôn bao gồm việc từ bỏ phạm vi đặc quyền này. Nó bao gồm việc vượt ra ngoài thế giới, để đến một lĩnh vực của sự kiện thực nghiệm. Vì lý do này, ông cho rằng biểu hiện nhất thiết phải “bện dệt” với chỉ dẫn trong mọi trường hợp giao tiếp hiệu quả. Tuy nhiên Husserl phải bảo toàn sự phân biệt giữa hai loại ký hiệu, nếu ông muốn lưu giữ vị thế lý tưởng của ý nghĩa, cái khả tính có một ý nghĩa thuần túy hiện diện và trọn vẹn. Sự phân biệt nguồn cội chỉ có thể xảy ra nếu biểu hiện có thể diễn ra hiệu quả trong tính thuần khiết của “đời sống tinh thần đơn độc”. Do đó, giao tiếp sẽ là sự tái-hiện diện những gì nguyên thủy xảy ra ở phạm vi bên trong này. Những gì “có ý nghĩa” trong giao tiếp chỉ đơn thuần được “chỉ ra” bằng các ký hiệu cảm giác, bằng các ký hiệu thực sự được nói hoặc được viết ra. Vấn đề đối với Husserl nằm ở mối quan hệ giữa biểu hiện và chỉ dẫn. Bản chất của “bện dệt” này là gì? Nếu có biểu hiện thuần túy - và do đó, ý nghĩa thuần túy - thì nó phải hoàn toàn diễn ra ở phạm vi bên trong, độc lập với chỉ dẫn: đó sẽ là một độc thoại “im lặng”. Không thể có giao tiếp có ý nghĩa tự nó trong trường hợp như vậy và theo lý giải của Husserl, giao tiếp sẽ phải trả giá bằng ý nghĩa. Nhưng nếu chỉ dẫn không chỉ đơn thuần “bện dệt” với biểu hiện, nếu nó được chứng minh là hoàn toàn cần thiết cho chính khái niệm biểu hiện, thì khả tính phân biệt ban đầu của chúng tự thân trở nên đáng ngờ. Và chính sự phân biệt này mà Derrida phản đối, cùng với các khuôn khổ mà nó dựa vào, tức là “đời sống tinh thần đơn độc” và ý nghĩa thuần túy lý tưởng, tự-hiện diện.
Đầu tiên, Derrida dành một bài phê bình dài cho lý giải của Husserl về tính lý tưởng. Ông nhấn mạnh rằng một ý nghĩa lý tưởng không bao giờ là một trình hiện thuần túy ngay từ đầu; thay vào đó, nó đã là một Vorstellung [từ dung của Husserl] tái-trình hiện cho ý thức, nó là một sản phẩm được cấu thành qua một loạt các hành động rời rạc. Đối với Husserl, cái cấu thành nên tính lý tưởng của ý nghĩa chính là khả tính được lặp lại vô số lần của nó. Rõ ràng, điều này không bao giờ hoàn thành; việc hoàn thành đó đòi hỏi [tr.95] chúng ta phải biến mất với tư cách các chủ thể hữu hạn. Trong mọi trường hợp, lý tưởng bao gồm một mối quan hệ đồng nhất tính giữa các hành động, giữa một hành động hiện tại và một hành động nằm ngoài ý thức hiện tại. Hơn nữa, chính hình thức của cái biểu đạt, đường viền cảm giác của một từ hoặc dấu hiệu, tự nó là một sản phẩm lịch sử được cấu thành. Cái biểu đạt không phải là ngẫu nhiên hay thành ngữ; nó luôn phản ánh một nguồn cội và di sản ngôn ngữ nhất định. Thêm vào đó, mỗi dịp sử dụng nó chỉ Repräsentation đại diện cho một trường hợp trong số nhiều cách sử dụng khả thể của nó; mỗi lần sử dụng đều lặp lại một cách có chọn lọc một quy ước đã tồn tại-trước. Và cuối cùng, điều gì thực sự xảy ra trong “độc thoại nội tâm” này, trong cách diễn đạt “đời sống tinh thần đơn độc” này? Cách diễn đạt không phải là một loại giao tiếp, vì không có gì để giao tiếp: ý nghĩa tự-hiện diện ngay lập tức với chủ thể nên không cần giao tiếp. Đây là loại biểu hiện nào nếu không cần phải truyền đạt bất cứ điều gì cho bất kỳ ai? Husserl nói rằng loại biểu hiện thuần túy này diễn ra hoàn toàn trong trí tưởng tượng. Do đó, độc thoại nội tâm là một Phantasievorstellung, Vergegenwärtigung tái hiện tưởng tượng. Nhưng Derrida nhắc nhở chúng ta rằng, đối với Husserl, trí tưởng tượng không bao giờ có thể thuần túy “trung lập”; nó luôn là sự biến đổi của một trải nghiệm trước đó và đặc điểm vị trí của nó luôn làm chứng cho nguồn cội trong thực tại kinh nghiệm.12 Bất kể nó được biến đổi như thế nào, thì thực tại vẫn được tái hiện trong trí tưởng tượng. Trí tưởng tượng, và do đó, độc thoại biểu cảm, chứa đầy tất cả những yếu tố mà Husserl tìm cách loại trừ khỏi nó, tất cả những tham chiếu kinh nghiệm gia nhập dưới các tiêu đề khác nhau của sự lặp lại và tái hiện. Ngay từ đầu, ngôn ngữ chắc chắn chỉ là thế này: một cấu trúc lặp lại và tái hiện. Không thể có chốn nương náu nào thoát khỏi xác định kinh nghiệm trong một cấu trúc như vậy.
Phê phán của Derrida kéo theo hai hệ quả đối với lý thuyết ngôn ngữ của Husserl: không thể có ý nghĩa “lý tưởng” thuần túy, không có sự hiện diện thuần túy của tính lý tưởng, vì tại mọi thời điểm, tính lý tưởng sẽ phải phụ thuộc vào chính những gì không hiện diện, những gì chỉ được lặp lại và tái hiện trong một hiện diện khác. Cũng không thể có phạm vi tự-hiện diện thuần túy, vì trong hành động biểu nghĩa đơn giản nhất, thì “đời sống tinh thần đơn độc” vẫn bị phá vỡ bởi tất cả những gì nằm ngoài nó, cụ thể là thế giới. Một khi điều này xảy ra, thì cái phân biệt giữa chỉ dẫn và biểu hiện không còn có thể duy trì được nữa. Không có sự hiện diện của tự-hiện diện để biểu nghĩa, chỉ còn hàng loạt tiếng dội vọng vô tận. Những gì “trình hiện” bản thân nó trong ngôn ngữ chính là cái tái hiện của không-hiện diện, mà Derrida gọi là “tha tính”, “khác biệt” hoặc “tính khác biệt”.13
[P.96] Derrida cho rằng sự phân biệt giữa chỉ dẫn và biểu hiện có vẻ như không đáng để bàn cãi, một khi chức năng quan trọng của tái hiện và lặp lại được minh định. Nhưng khi thực hiện nhiệm vụ quan trọng của việc giải cấu trúc, Derrida cho thấy toàn bộ lý thuyết ngôn ngữ của Husserl bị hủy hoại bởi một vấn đề cơ bản hơn nữa - một vấn đề dẫn trở lại hình thức hiện tượng học của bản thân trải nghiệm - vấn đề thời gian. Husserl tuyên bố rằng không cần giao tiếp trong “độc thoại nội tâm” vì, trong số những lý do khác, nó diễn ra trong một “khoảnh khắc”, trong “chớp mắt”. Theo cách giải thích này, ý nghĩa sẽ hiện diện ngay lập tức trong cùng một khoảnh khắc. Sẽ không cần phải làm trung gian cho sự trình hiện của nó bằng các dấu hiệu chỉ dẫn. Sẽ không có sự giãn nở về mặt thời gian trong quá trình này vì cái biểu đạt và cái được biểu đạt thống nhất trong một thời khắc “bây giờ”. Tuy nhiên, theo tiền đề của chính Husserl, một lập luận như vậy chắc chắn thất bại. Lý thuyết thời gian của ông ra lệnh chống lại bất kỳ khoảnh khắc “cô lập đúng giờ” nào, vì thời gian là một “pha”, một vận động liên tục của các dấu vết ghi nhớ và lưu giữ lại. Trong Hiện tượng học về Ý thức-Thời gian Nội tại,14 Husserl lập luận rằng hiện tại nhất thiết bao gồm các giai đoạn của quá khứ và tương lai dưới tiêu đề ghi nhớ và lưu giữ. Quan niệm này về thời gian phủ nhận khả tính của một “khoảnh khắc” hoặc “chốc lát” bị cô lập về mặt thời gian. Bản thân sự hiện diện của hiện tại bị chi phối bởi những gì vắng mặt hoặc chưa nhận ra. Không phải là điểm nguồn cội cho sự cấu thành, mà chính “hiện tại” được tự thân cấu thành, sản sinh và khởi nguyên từ một nguồn gốc nguyên thủy hơn của không-hiện diện. Một lần nữa, Derrida không tìm thấy cội nguồn của hiện diện hay tự-hiện diện. Những gì ông tìm thấy là một trò chơi vô căn cứ của những khác biệt phản ánh một thứ “bên ngoài và vượt khỏi” quá khứ và tương lai.15
_______________________________________
(Còn nữa…)
Nguồn: David B. Allison (2005). Derrida’s Critique of Husserl and the Philosophy of Presence. In VERITAS Porto Alegre v. 50 n. 1 Março 2005 pp. 89-99.
Notes
1 Maurice Merleau-Ponty, Le Visible et l'invisible (Paris: Editions Gallimard, 1964), Eng. tr., Alphonso Lingis, Cái hữu hình và cái vô hình (Evanston: Nhà xuất bản Đại học Tây Bắc, 1968). trang 113-116.
2 Eugen Fink, “Les Concepts opératoires dans la phénoménologie de Husserl,” trong HUSSERL: Les cahiers de Royaumont, Philosophie No. III, ed. M.-A. Bera (Paris: Éditions de Minuit, 1959), tr. 214.
3 Jacques Derrida, La Voix et le phénomène (Paris: Presses Universitaires de France, 1967), Eng. tr., David B. Allison, Lời nói và Hiện tượng (Evanston: Nhà xuất bản Đại học Northwestern, 1973).
4 Phản hồi ngay lập tức. Nhìn thấy. ví dụ, Emmanuel Levinas, “Tout Autrement,” trong L’Arc: Jacques Derrida, No. 54 (1973), trang 33-37, Gérard Granel, “Jacques Derrida et la rature de l’origine,” trong Critique, Vol. XXII, Số 246 (tháng 11 năm 1967), trang 887-905, Jean Catesson, “A propos d’une pensée de l’intervalle,” trong Revue de la Métaphysicalistes et de la Morale, No. 1 (1969), trang 74-90, và Maurice Corvez, “les nouveaux Structureistes,” trong Revue Philosophique de Louvain, Tập. 67 (Loạt III), số 96 (tháng 11 năm 1969), trang 582-605.
5 Xem. đặc biệt, Jacques Derrida, Giới thiệu về ấn bản tiếng Pháp của Edmund Husserl, L’Origine de la Géométrie (Paris: Presses Universitaires de France, 1962), trang 3-171; Eng tr., John P. Leavey, Nguồn gốc hình học: Lời giới thiệu của Edmuund Husserl (Stony Brook: Nicholas Hays, Ltd., 1978), trang 23-153. Ngoài ra, Jacques Derrida, De la Grammatologie (Paris: Ed. de Minuit, 1967), Eng. dịch., Gayatri Chakravorty Spivak, Of Grammatology (Baltimore: Nhà xuất bản Đại học Johns Hopkins, 1974), và Jacques Derrida, L’Ecriture et la différence (Paris: Éditions du Seuil, 1967), Eng. dịch., Alan Bass, Writing and Difference (Chicago: Nhà xuất bản Đại học Chicago, 1978).
6 Merleau-Ponty trước đó đã đưa ra lời chỉ trích mở rộng về vai trò của sự hiện diện trong tư tưởng của Husserl; đặc biệt là trong The Visible and the Invisible. Xem cụ thể, Chương 3, “Interrogation and Intuition,” tr. 105-129.
7 Edmund Husserl, Logische Untersuchungen, ấn bản lần thứ 1, 2 tập. (Halle: Max Niemeyer, 1900; ấn bản lần thứ 2, 1913). Eng. dịch., J.N. Findlay, Logical Investigations, 2 Vols. (New York: Humanities Press, 1970).
8 Derrida theo sự phân biệt của Heidegger giữa (a) ý nghĩa của Being, (b) từ Being, và (c) khái niệm Being. Để biết cuộc thảo luận của Heidegger về điều này, hãy xem Martin Heidegger, Sein und Zeit, ấn bản lần thứ 12 (Tübingen: Max Niemeyer, 1972), bản dịch tiếng Anh, John Macquarrie và Edward Robinson, Being and Time (New York: Harper & Row, 1972), trang 19-31.
9 Điều này không có nghĩa là Husserl hoặc các nhà tư tưởng hiện tượng học, nói chung, nhầm lẫn sự phân biệt giữa hiện diện và tự hiện diện. Đây có lẽ là sự tách biệt cơ bản nhất trong văn bản của Heidegger, Khái niệm về Kinh nghiệm của Hegel. Đối với Aristotle, “Có một khoa học (episteme) tiếp thu lý thuyết (theorein) về sự tồn tại (on) và ý nghĩa của ‘to be’, được hiểu theo chính nó (auto) (Siêu hình học, 1003a21ff., Eng. tr., Richard Hope, New York, Nhà xuất bản Đại học Columbia, 1952). Theo từ nguyên học và cách diễn giải các thuật ngữ Hy Lạp có liên quan của Heidegger, cùng với đoạn bình luận ngắn sau đây, có nội dung như sau: “Triết học ‘nhìn vào những gì hiện diện trong chừng mực nó hiện diện và do đó (nhìn vào) những gì đã chiếm ưu thế trong nó từ chính nó.’ ... Triết học chiêm nghiệm những gì hiện diện, trong sự hiện diện của nó. Sự chiêm nghiệm xem xét những gì hiện diện và cố gắng chỉ xem xét nó như vậy.” Heidegger sau đó đối chiếu sự đánh giá của Hegel đối với giai đoạn hiện đại của chủ thể, tức là parousia. Ông trích dẫn Hegel (WW, XV, tr. 328): “Chỉ đến bây giờ chúng ta mới thực sự đến với triết học của thế giới hiện đại, và chúng ta bắt đầu với Descartes. Với ông, chúng ta thực sự bước vào một sản phẩm độc lập của lý trí, và rằng ý thức về bản thân, tự ý thức, là một khoảnh khắc thiết yếu của chân lý. Ở đây, chúng ta có thể nói, chúng ta đã ở nhà; ở đây, giống như người thủy thủ ở cuối chuyến hành trình dài trên biển cả đầy bão tố, chúng ta có thể kêu lên 'Đất liền!'... Trong giai đoạn mới này, nguyên tắc là tư duy, tư duy xuất phát từ chính nó.” Heidegger thêm nhận xét sau: “Tư duy tìm kiếm fundamentum absolutum của nó trong sự chắc chắn không thể lay chuyển của chính nó về những gì nó đã nghĩ. Vùng đất mà triết học đã tự khẳng định mình kể từ đó là sự chắc chắn vô điều kiện của kiến thức.” (Khái niệm về kinh nghiệm của Hegel, dịch sang tiếng Anh, Kenley Royce Dove, New York: Harper & Row, 1970, trang 27-28.)
10 Thuật ngữ “giải cấu trúc” (déconstruction) biểu thị một dự án tư duy phản biện có nhiệm vụ là xác định, diễn đạt và “phân tách” những khái niệm đóng vai trò là tiên đề hoặc quy tắc cho một giai đoạn tư duy, những khái niệm chỉ huy sự phát triển của toàn bộ một kỷ nguyên siêu hình học. “Giải cấu trúc” có phần ít tiêu cực hơn so với các thuật ngữ “phá hủy” hoặc “đảo ngược” của Heidegger hoặc Nietzsche. Nó gợi ý rằng một số khái niệm nền tảng của siêu hình học sẽ không bao giờ bị loại bỏ hoàn toàn, ngay cả khi tầm quan trọng của chúng có vẻ như bị giảm đi đáng kể. Không có sự “vượt qua” đơn giản nào đối với siêu hình học hoặc ngôn ngữ của siêu hình học. Để trả lời câu hỏi của Jan Kott, Derrida nhận xét: “Ở đây hay ở đó, tôi đã sử dụng từ déconstruction, không liên quan gì đến sự phá hủy. Nghĩa là, nó chỉ đơn giản là vấn đề (và đây là sự cần thiết của phê bình theo nghĩa cổ điển của từ này) cảnh giác với những hàm ý, với sự lắng đọng lịch sử của ngôn ngữ mà chúng ta sử dụng - và đó không phải là sự phá hủy”. Cuộc thảo luận xuất hiện trong The Languages of Criticism and the Sciences of Man: the Structuralist Controversy, biên tập bởi Richard Macksey và Eugenio Donato (Baltimore: The Johns Hopkins University Press, 1970), trang 271. Tuy nhiên, Derrida thừa nhận rằng hệ thống tư tưởng phương Tây là hữu hạn. Nó có một số lượng hữu hạn các tiên đề và một số lượng hữu hạn các hoán vị sẽ tiếp tục tự giải quyết trong một khoảng thời gian nhất định như những khoảnh khắc cụ thể trong truyền thống này, ví dụ như các trường phái hoặc phong trào cụ thể [trang 93] của triết học. Theo nghĩa này, Derrida cũng nói về “sự hoàn thiện” của siêu hình học, điểm cuối của “sự khép kín” (clôture) cho hệ thống; xem Of Grammatology, op. cit., tr. 4-5. Nhưng công việc của giải cấu trúc không chỉ bao gồm việc chỉ ra các giới hạn cấu trúc của siêu hình học. Thay vào đó, khi phá vỡ và tháo rời nền tảng của truyền thống này, nhiệm vụ của nó là vừa thể hiện nguồn gốc của nghịch lý và mâu thuẫn trong hệ thống, trong chính các tiên đề, vừa nêu ra các khả năng cho một loại thiền mới, một loại không còn dựa trên siêu hình học của sự hiện diện. Xem thêm, Philipe Boyer, “Giải cấu trúc: le désire à la lettre,” trong Change: la destruction, Tập I, số 2 (1969), tr. 127-148.
11 Ở đây Derrida bám sát rất chặt chẽ những nhận xét của Nietzsche, trong tác phẩm năm 1886 của ông, Beyond Good and Evil, đặc biệt là trong Phần Một, “On the Prejudices of Philosophers,” và đáng chú ý là trong đoạn 20 của Phần Một. Để biết thêm về phân tích của Nietzsche về những vấn đề này, hãy xem David B. Allison, Reading the New Nietzsche (Lanham: Rowman & Littlefield, 2001), tr. 82-83.
12 Speech and Phenomena, op. cit., tr. 55.
13 Chủ đề về sự khác biệt xuất hiện dưới nhiều hình thức trong suốt quá trình phê phán sâu rộng của Derrida đối với Husserl. Ông lập luận rằng Husserl đã quá không chú ý đến giá trị cấu thành của sự khác biệt, tức là của sự không đồng nhất về mặt không gian, thời gian, cá nhân và logic. Đáng chú ý nhất, Derrida tập trung vào các vấn đề do sự khác biệt nêu ra liên quan đến sự phân biệt của Husserl giữa bên trong và bên ngoài - siêu việt và kinh nghiệm - cũng như vai trò của sự lặp lại và biểu diễn trong việc cấu thành tính khách quan ngôn ngữ và lý tưởng, và có lẽ đáng nói nhất là các vấn đề do sự khác biệt nêu ra trong sự hiểu biết của Husserl về tính thời gian. Derrida tiếp tục thảo luận về khái niệm khác biệt khi nó liên quan đến các lĩnh vực ký hiệu học, nhận thức luận và bản thể học, trong số những lĩnh vực khác. Mỗi cách sử dụng này đều bắt nguồn từ chuyển động nguyên thủy hơn của cái mà Derrida gọi là “differ[a]nce”. Derrida lấy từ mới này từ tiếng Pháp “difference”. Giống như trong tiếng Latin "differre", tiếng Pháp "différer" mang hai ý nghĩa khá riêng biệt. Một có tham chiếu đến tính không gian, như tiếng Anh "to different" - là không giống nhau, khác biệt, không giống nhau, khác biệt về bản chất hoặc chất lượng so với một cái gì đó. Điều này thậm chí còn rõ ràng hơn ở dạng cùng nguồn gốc của nó, "phân biệt". Ý nghĩa khác có liên quan đến tính thời gian, như trong tiếng Anh “to defer” – hoãn hành động đến thời điểm trong tương lai, trì hoãn hoặc hoãn lại. Trong khi Derrida giải thích ngắn gọn về thuật ngữ này trong đoạn đầu tiên của Chương 7 của Speech and Phenomena, ông dành một bài viết khá dài và quan trọng cho nó sau đó một chút, được đưa vào làm phụ lục cho bản dịch tiếng Anh của Speech and Phenomena, trang 129-60.
14 Edmund Husserl, Vorlesungen zur Phanomenologie des insideen Zeitbewusstseins, ed. Martin Heidegger (Halle: Niemeyer, 1929). Hiện tượng học về ý thức thời gian bên trong, Eng. tr., James S. Churchill (Bloomington: Nhà xuất bản Đại học Indiana, 1964).
15 Lời nói và hiện tượng, đặc biệt. trang 82-87.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét