Jessica Marian
Người dịch: Hà Hữu Nga
[Tr.217] Cuốn sách Glas (1974) của Jacques Derrida được viết hoàn toàn trên hai cột song song, cột bên trái tập trung vào việc đọc các tác phẩm tuyển chọn của G. W. F. Hegel, triết gia thế kỷ XIX về cái mà Derrida gọi là “savoir absolu” (tri thức tuyệt đối), và cột còn lại, bên phải, tập trung vào một tuyển chọn tiểu thuyết và các vở kịch của Jean Genet, một trong những tác giả được cho là ngoài lề nhất của Pháp, một “kẻ phản bội, kẻ trộm, kẻ chỉ điểm, kẻ hèn nhát và kẻ kỳ quặc” tự nhận.1 Glas [Trong tác phẩm của Jacques Derrida, từ “Glas” có nghĩa kép; đó là từ tiếng Pháp có nghĩa là “hồi chuông”, cụ thể là tiếng chuông báo hiệu cái chết hoặc đám tang; tuy nhiên, Derrida sử dụng “Glas” theo cách chơi chữ với từ tiếng Đức “Glas”, có nghĩa là “thủy tinh”; nghĩa kép này là một phần không thể thiếu trong cấu trúc và lập luận của cuốn sách “Glas” của ông, trong đó ông đặt các bài đọc về Hegel và Jean Genet bên cạnh nhau, tạo ra một văn bản vừa là bình luận triết học vừa là một thí nghiệm giải cấu trúc.HHNG] là một trong những văn bản mang tính thử nghiệm nhất về phong cách của Derrida, bằng cách bỏ qua các tiêu chuẩn lập luận tuyến tính và trích dẫn để thiên về một cách tiếp cận dựa trên các yếu tố như chơi chữ, cộng hưởng thính giác và ngắt quãng hoặc bổ sung văn bản được gọi là “judase”. Glas thường được nhóm với Éperons: les styles de Nietzsche – Mấy chóp Phong cách Nietzsche (1978) và La Carte postale: de Socrate à Freud et au-delà – Tấm thiệp từ Socrates đến Freud và Bọn khác (1980) là những văn bản gần như đương thời được viết theo phong cách phi truyền thống, có hơi hướng văn chương. Trong bài bảo vệ luận án năm 1980, Derrida đã định vị nhóm ba tác phẩm này bằng một “cuộc theo đuổi liên tục […] cái dự án văn tự học”, “tiếp tục khuyếch trương những nỗ lực trước đó”, đồng thời ám chỉ đến nhu cầu thực sự phải cố gắng phát triển một phong cách và hiệu suất viết khác, hướng đến các “cấu hình văn bản ngày càng ít tuyến tính, hợp lý và theo chủ đề, thậm chí là các hình thức đánh máy táo bạo hơn, sự giao thoa của các tập hợp, sự pha trộn của các thể loại hoặc các phương thức, những thay đổi giọng điệu […], châm biếm, tái định tuyến, ghép nối, v.v.”2
[Tr.218] Trong bài viết này, tôi đọc Glas với mục đích khám phá chính xác mối liên hệ giữa dự án triết học của Derrida và phong cách thử nghiệm cao độ của Glas—tôi cho rằng phong cách của Glas gắn bó mật thiết với dự án triết học của ông. Thông qua việc khám phá trò chơi khoáng trương về chữ và tên gọi của Derrida, động thái của ông hướng tới ý nghĩa hàm ngụ, lập luận hàm ý, phi tuyến tính và việc không/sử dụng sai các thông lệ chuẩn mực về trích dẫn và tham chiếu học thuật, tôi cho rằng Glas dàn dựng một nỗ lực để tránh khả tính của một văn bản hoàn chỉnh, khép kín và một lập trường triết học tuyệt đối, hơn nữa nỗ lực tránh cái tuyệt đối này đòi hỏi phải có cách viết khác biệt ấy. Tôi cho rằng Glas được tạo dựng phong cách xung quanh việc “trảm thủ” siêu ngôn ngữ thông qua việc “nhúng chìm” và “trích xuất” nhịp nhàng các yếu tố còn lại hoặc bị loại trừ vào và ra khỏi văn bản.3 Glas thường không được coi là một tác phẩm cực kỳ quan trọng trong sự nghiệp của Derrida, nhưng nó đã là chủ đề của một số công trình học thuật xuất sắc. Nhiều cách đọc Glas có xu hướng chỉ tập trung vào cột Hegel hoặc chỉ chuyên cột Genet. Đáng chú ý, những tác phẩm này thường được các học giả về Hegel hoặc Genet biên soạn, thay vì các học giả về Derrida. Peter Krapp đã tóm tắt ngắn gọn hiện tượng này, lưu ý các bộ sưu tập tác phẩm chính về phía Hegel và Genet: ông viết, “[c]ác đóng góp cho Hegel sau Derrida […] hầu như bỏ qua Glas viết về Genet, trong khi các văn bản được tập hợp trong một ấn bản đặc biệt về Genet cho môn Pháp học của Đại học Yale […] cố xoay xở để gạt Hegel ra.”4 Về cơ bản, không có gì sai với những cách tiếp cận này; chắc chắn Glas là một tác phẩm phê bình về cả Hegel và Genet, ngay cả khi là một tác phẩm có phong cách đặc biệt, vốn phải có một vị trí trong các loại hình học thuật về những nhân vật này và mời gọi những phản hồi về cách đọc mà nó đưa ra về những nhân vật đó.
Với phạm vi tương đối rộng của Glas, chắc chắn cũng cần phải cục bộ hóa và tập trung vào một số khía cạnh nhất định của tác phẩm. Nhiều nhà bình luận trong số này đã trình bày những cách đọc cực kỳ sâu sắc về (một phần) Glas và đáng khen là đã tham gia vào Glas theo cách cân nhắc, mà không, như Geoffrey Bennington đã nói, “hoảng loạn về ‘trò chơi chữ hỗn cuồng ấy’.”5 Tuy nhiên, một số bài viết tập trung vào cột Hegel dường như đã làm như vậy trên cơ sở khẳng định ngầm rằng cột Hegel là duy nhất đáng đọc; người ta bị ấn tượng bởi sức mạnh mà Stuart Barnett và Simon Critchley liên tục tìm cách khẳng định rằng Glas “không phải là một bài tập tự thỏa mãn trong trò chơi- tự-do về văn bản” mà đúng hơn—và lưu ý về ngôn ngữ đạo đức—“một cuộc kiểm tra nghiêm ngặt và chi tiết về Hegel”,6 một “lối lao động đọc sách sùng mộ”, và một “văn bản khổ hạnh sâu xa”.7 Trong khi đó, một số phân tích tập trung vào cột Genet của Glas có xu hướng, ít nhiều có ý thức, rút ra sự tương đương trực tiếp giữa “chiến lược văn bản” của Genet và Derrida,8 với kết quả ít nhiều ngầm định [tr.219] là họ chắc chắn đặt Derrida về phía Genet. James Creech đặt vấn đề nghi ngờ “Glas là một thành tựu trí tuệ tuyệt vời […] bởi vì nó rất phù hợp với chính [cái] dự án của Genet”.9 Vấn đề với việc tuyển chọn chỉ tập trung vào một trong hai cột của Glas không chỉ là một nửa văn bản bị che khuất, mà còn cản trở việc xem xét đầy đủ hơn về cách các cột liên quan đến nhau. Tôi quan tâm theo đuổi việc xem xét như vậy về mối quan hệ giữa các cột với nhau và đặc biệt quan tâm đến các judase của văn bản, thường bị bỏ qua trong các thảo luận về Glas, và tôi tin đó là một địa chỉ quan trọng để trình bày mối quan hệ này.
Trong bài luận Countersignature – Tín hiệu phản hồi (2004), Derrida sử dụng nghĩa kép của từ tiếng Pháp ‘contre’ (gần giống với ‘against’ phản lại/chống lại trong tiếng Anh) “có thể đánh dấu cả sự đối lập, trái ngược, mâu thuẫn, tính gần gũi, tiếp xúc-gần”.10 Derrida giải thích, “[o]ne có thể là ‘against’ [‘contre’] kẻ mà ta phản đối (ví dụ như ‘kẻ thù công khái’ của ai đó)”, và cũng có thể là ‘against’ [‘contre’] kẻ ngay bên cạnh ta, kẻ ‘chống lại’ ta, kẻ mà ta động chạm hoặc tiếp xúc”.11 Mối quan hệ đồng thời này giữa sự đối lập và chạm vào hoặc dựa vào có thể được mở rộng để xem xét mối quan hệ giữa hai cột của Glas. Thật vậy, Derrida gợi ý đến thế, khi viết rằng “nghĩa kép sâu thẳm sâu [n]ày của ‘counter’ [‘contre’] […] tất nhiên đang vận hành trong Glas, […] giữa hai cột, cột Genet và cột Hegel—và những ống xi-phôn [judas] của chúng”, “vì đôi khi hai cột mâu thuẫn với nhau […] nhưng đôi khi chúng lại không mâu thuẫn mà nhắm mắt làm ngơ nhau.”12 Điều đáng nói trong bài viết này không phải là xem xét mối quan hệ của Derrida với Hegel hay cuộc gặp gỡ của Derrida với Genet. Thay vào đó, tôi quan tâm đến việc xem xét cách thức mà các cột của Glas liên quan đến nhau như thế nào và tôi theo đuổi việc phân tích cách thức mà công trình triết học Glas gắn liền mật thiết với phong cách sáng tác và viết của nó.
Chơi chữ và Tên gọi
Việc Genet lấy họ của mẹ mình là một điểm được nhắc lại nhiều lần trong suốt cột bên phải của Glas. Genet được sinh ra năm 1910 bởi Camille Gabrielle Genet, hai mươi hai tuổi, một phụ nữ độc thân thường được mô tả là một nữ gia sư hoặc một gái mại dâm, và một người cha không rõ danh tính; Genet bị bỏ rơi khi mới ba mươi tuần tuổi chứ không phải chỉ vài ngày sau khi sinh và do đó lấy họ của mẹ mình. Vì lý do này, Derrida mô tả câu chuyện về ngày sinh của Genet như một “cuộc thụ thai vô nhiễm [tr.220].”13 Derrida liên tục sử dụng sự giống nhau của tên ‘Genet’ và loài cây có tên là ‘genêt’, “một loài cây có hoa màu vàng (sarothamnus scoparius, genista; cây chổi sể tây, genette, genêt-à-balais, có độc tính và là cây thuốc […]).”14 Derrida viết rằng “tên của người mẹ sẽ là […] tên của một loài cây hoặc một loài hoa, ngoại trừ một chữ cái […] cho hình dấu mũ.”15 Trong tiếng Anh, cây bụi thường xanh này được gọi là ‘Scotch broom’ hoặc ‘common broom’ (vì hình dáng giống chổi của nó). Do đó, ‘genêt’ được coi là mật danh phổ biến hoặc không thích hợp của ‘Genet’—“nó không thích hợp vì nó phổ biến”16—tất nhiên, theo một nghĩa khác, bản thân nó đã là một cái tên không thích hợp, vì nó không phải là tên của người cha. Derrida lưu ý đến việc Genet thường xuyên đặt tên cho các nhân vật của mình theo tên các loài hoa và viết rằng ở nơi mà “cái tên họ thích hợp trở lại […] những bông hoa, thì những bông hoa này bị cắt ra khỏi người mẹ.”17
Tương tự, Hélène Cixous và Catherine Clément cũng nhấn vào sức mạnh của người mẹ-nữ quyền trong các văn bản của Genet: “Những gì được khắc ghi dưới tên của Jean Genet, trong vận động của một văn bản tự chia tách, tự xé thành từng mảnh, tự chặt lìa, tự tập hợp, tự nhớ lại, là một nữ quyền sinh sôi nảy nở, mang tính mẹ.”18 Drucilla Cornell viết rằng “[tr]ong Glas, bà [người mẹ] được khắc ghi trong cái tên của Jean Genet, bông hoa đang nở”19 và đối chiếu điều này với “những tuyên bố cao đạo của Hegel về vị trí của Phụ nữ trong hệ thống của ông”, do đó Glas được hiểu là trình bày “trong cột thứ hai các mẩu văn bản của Genet tách rời chính phép dựng đứng đồng nhất tính nữ mà Hegel cố gắng kiên nhẫn đảm bảo.”20 Thật vậy, Cornell đã chỉ rõ “[c]ó lẽ chưa bao giờ thấy một cuộc giải cấu trúc nào cẩn thận hơn về chủ thuyết dương vật-trung tâm của Hegel hơn là cuộc giải cấu trúc được đưa ra cho chúng ta trong Glas của Derrida.”21
Đánh giá như vậy về cọc Hegel không phải là không có cơ sở. Thông qua cam kết kéo dài với trường hợp đầu tiên, khái niệm về gia đình, đặc biệt là gia đình Cơ đốc giáo được tập trung ở Chúa Ba Ngôi của Cha-Con-Thánh thần, và trường hợp thứ hai, với việc Hegel [hiểu sai] huyền thoại Antigone, Derrida nhấn mạnh một khuynh hướng trong văn bản của Hegel mà trong trường hợp đầu, hoàn toàn loại trừ phụ nữ và họ mẹ, còn trong trường hợp thứ hai, tạo dựng một đồng nhất tính nữ lý tưởng phụ thuộc và củng cố việc loại trừ phụ nữ khỏi vị thế-chủ thể. Derrida gợi ý rằng mô hình gia đình Cơ đốc giáo có thể là “mẫu mực cho thần học bản thể tư biện”.22 Mối quan hệ thân thuộc chính yếu của gia đình Cơ đốc giáo là giữa cha và con trai, với yếu tố thứ ba cần thiết của nó, cái tinh thần. Tinh thần của Kitô giáo là quan hệ cha/con, “mối quan hệ cha con, con trai với cha”, do đó, cái “Tinh thần là cái toàn thể”, nó hình thành nên mối quan hệ mà trong đó gói ghém mọi điều khoản tham chiếu [tr.221].23 Glas suy ngẫm về việc lý thuyết hóa gia đình Kitô giáo mang tính tư biện này trong phần lớn một trăm trang sách—vẫn cố định tập trung vào mối quan hệ cha-con trai. Trái ngược hoàn toàn với việc tập trung mở rộng vào người mẹ ở phía bên kia của trang sách, vị trí của người mẹ đối với tam vị gia đình thánh thiện này trở nên nổi bật vì sự vắng mặt của bà, cũng là việc loại trừ của bà. Sau đó ở cột bên trái, chuyển hướng phân tích sang xem xét cách đọc Antigone của Hegel. Như Patricia Jagentowicz Mills đã viết, “Diễn giải của Hegel về vở kịch Antigone của Sophocles là trung tâm để hiểu vai trò của phụ nữ trong hệ thống Hegel.”24 Thật vậy, đối với Hegel, Antigone trở thành hình tượng mang tính hệ mẫu của vị thế phụ nữ và trách nhiệm độc nhất của phụ nữ đối với cuộc sống gia đình đạo hạnh.25 Cách diễn giải Antigone của Hegel nhấn mạnh một loạt đối lập kết cặp, “luật thánh/luật đời, gia đình/thành phố, phụ nữ/nam giới”26 và đặc biệt nhấn mạnh vào mối quan hệ thuần khiết, vô tính giữa chị em gái và anh em trai, một điểm mà Derrida rất quan tâm (vì những lý do sẽ ngày càng rõ ràng hơn trong bài viết này).
Một trong những tuyên bố chính của Hegel về Antigone (và một tuyên bố đáng chú ý mâu thuẫn với hầu hết các nghiên cứu về Antigone) là nàng không bao giờ rời khỏi phạm vi gia đình vì “[t]hực trạng phát triển ý thức của con người bên ngoài gia đình là cụ thể, giới hạn ở đàn ông. Phụ nữ không bao giờ có thể khao khát [...] cá nhân tính; nàng không thể đạt tới tính đặc thù”.27 Antigone, mô hình của vị thế nữ nói chung, được định vị là không có khả năng là chủ thể tính cá nhân; vậy là, nói chung phụ nữ bị loại khỏi tư cách chủ thể trong hệ thống Hegel. Do đó, hệ thống Hegel, như được trình bày trong Glas, là một hệ thống được định hình theo quan điểm nam quyền, hoàn toàn phù hợp với quan điểm của người cha (và người con trai) — phụ nữ và người mẹ hoặc bị loại trừ hoàn toàn, hoặc được kiến tạo như một đối tượng lý tưởng chung theo cách chỉ tái lập và nhắc lại thân phận bị loại trừ của họ. Trên cơ sở đó, Cornell đã diễn giải hai cột Glas là cuộc dàn dựng một loại giải cấu trúc phép biện chứng Hegelian và tái khắc ghi về người mẹ thông qua những bông hoa của Genet, việc thực hành vở diễn “[c]ú đổ nhào của Hegel”, theo đó “[t]hần dương vật sụp đổ và kéo theo đó, vang lên lời khẳng định rằng tính cương cứng của nó đã bầu chọn nó làm cái biểu đạt siêu việt.”28
Người ta nhận ra rằng chữ ký của Derrida đã xuất hiện nhiều lần trong Glas. Gayatri Chakravorty Spivak nhắc đến “[m]ảnh vụn của các từ d […] nằm rải rác khắp các trang”29 và thực sự nhiều nhà bình luận đã nhận ra sự cộng hưởng về mặt thính giác giữa ‘Derrida’ và các từ và cụm từ như ‘déjà’/đã,rồi, ‘derriere’/sau, phía sau, ‘debris da’/mảnh vụ ‘da’/tất nhiên, đã đành, ‘de dos’, ‘da’, ‘Dionysos Erigone Eriopétale Réséda’, cũng như cách chơi chữ viết tắt tên người tình của Genet, Jean Decarnin, J.D., và ký hiệu của déjà, D.J.30 Tuy nhiên, có vẻ như ít nhà bình luận Glas nhận thấy rằng những ẩn danh này của cái tên Derrida xuất hiện hầu như chỉ ở cột bên phải của văn bản [tr.222]—cột Genet.31 Tuy nhiên, vì cột Genet có liên hệ chặt chẽ với giới tính nữ và tên của người mẹ, nên có vẻ như điều quan trọng cần nhớ là ‘Derrida’ không chỉ là Jacques Derrida mà còn là tên của một người cha, Haïm Aaron Prosper Charles (Aimé) Derrida. Như chúng ta đọc thấy ở một judase trong cột Hegel, “Tôi là cha tôi, con trai tôi và chính tôi. Tên tôi là cha tôi”.32 Thật vậy, cột Genet kết thúc (trong chừng mực chúng ta có thể nói rằng nó “kết thúc” khi không có dấu chấm hết) bằng một chữ ký như vậy của tên người cha—“Hôm nay, ở đây, bây giờ, những mảnh vỡ của [débris de]”.33 Do đó, những từ cuối cùng của cột Genet thực sự được tạo ra theo tên của người cha.
Hơn nữa, ngay cả khi diễn ngôn chung của cột Hegel lúc đầu có vẻ loại trừ triệt để yếu tố nữ tính, và đặc biệt là yếu tố bên mẹ, tôi cho rằng thực tế có tên của các bà mẹ rải rác khắp nơi. Derrida khẳng định ở phần đầu của cột bên trái rằng “Để làm việc trên/trong danh nghĩa của Hegel, để xây dựng nó […] Tôi đã chọn dựa vào một chủ đề […] Đó là luật của gia đình: của gia đình Hegel, của gia đình trong Hegel, của khái niệm gia đình theo Hegel.”34 Những gì tiếp theo trong phân tích của Derrida dường như đều tập trung nhiều vào hai mục sau trong danh sách đó, “gia đình trong Hegel” và “khái niệm gia đình theo Hegel”. Như đã đề cập, có việc tập trung vào tư tưởng gia đình Cơ đốc giáo cụ thể thông qua mối quan hệ cha-con với việc loại trừ người mẹ và một thảo luận thêm về hình tượng-phụ nữ lý tưởng của Hegel, Antigone, được xây dựng cụ thể theo vai trò và bổn phận gia đình của nàng. Nhưng câu hỏi đầu tiên và thường xuyên được nêu ra trong toàn bộ cột bên trái của Glas là “rốt cuộc, những gì còn lại, ngày nay, đối với chúng ta, ở đây, bây giờ, của một Hegel?”35; đây vừa là câu hỏi về di sản của Hegel, vừa là câu hỏi về những gì còn sót lại bên ngoài hệ thống Hegel.
Trong khuôn khổ này, Derrida đã tái giới thiệu các khía cạnh về tiểu sử và cái riêng tư vào quá trình xem xét hệ thống của Hegel, ông thực sự [tái] giới thiệu “gia đình của Hegel”. Trong khi việc xem xét mối liên hệ giữa thần học bản thể tư biện và mô hình gia đình Kitô giáo đã hoàn toàn loại trừ Người Mẹ, tức là Đức Mẹ Đồng Trinh Maria, thì Derrida lại chèn một judas [HHN chú: Trong Glas của Derrida, nhân vật “judas” không chỉ đơn thuần là kẻ phản bội trong Kinh thánh mà còn là một khái niệm phức tạp, nhiều lớp; đó là cái tên mà Derrida sử dụng để khám phá các chủ đề về sự phản bội, ham muốn và sự bất ổn của ý nghĩa, đặc biệt là trong bối cảnh cấu trúc của văn bản và mối quan hệ của nó với các nhân vật như Hegel và Genet.] ghi chú về nhiều Maries hoặc Marias [hoặc Marys] trong cuộc đời của Hegel: “Marie Magdelan là tên đầu tiên của mẹ ông [Maria Magdalena Louisa, tên khai sinh là Fromm], Marie là tên của con gái ông [Susanna Maria] và vợ ông [Maria Helena Susanna].”36 Judas này tiếp tục mô tả cách thức mà Hegel, trong một chuyến đi Dresden năm 1821, đã xem một bức tranh có tựa đề Madonna of Burgomaster Meyer, trong đó “[ô]ng luôn coi bản gốc—mà ông thường xem ở Berlin—là bản sao còn bản sao mà ông vừa thấy ở Dresden lại là bản gốc.”37 Judas ấy cũng trích dẫn ngắn gọn từ một lá thư do Hegel viết [tr.223] năm 1822: “Chào buổi sáng, Maria thân mến, từ ánh nắng của Marianburg, tức là Magdeburg, người hầu gái [Magd] của bà là Đức Mẹ Maria, là người đã được Giáo hội dâng hiến cho cả ngôi Thánh đường. ‘[…] Ra khỏi Magdeburg còn khó hơn là vào đó […]’.”38 Khi hướng sự chú ý đến một loạt các Marie, Maria và Mary trong cuộc đời của Hegel, theo một nghĩa nào đó, judas này đã “phản bội” lời bàn thảo xung quanh mối quan hệ thân thuộc giữa cha và con trai bằng cách buộc phải đưa trở lại mối quan hệ bên họ mẹ. Hơn nữa, Derrida chơi chữ về mối quan hệ đồng âm của “Mehr” [tiếng Đức: “nhiều hơn”] và “mère” [tiếng Pháp: mẹ]. Việc đưa ra khái niệm “more này [deises Mehr – this More]”, Derrida viết “Mehr này không tự tính đến, không thể đưa ra phép tính khách quan, cho một giải thích lam man […] Mối quan hệ mà nó gia nhập mà không bao giờ thuộc về nơi đó, không phân tích nào có thể giải thích theo cách so sánh với phép loại suy. Không có tuyên bố giải thích (Erklärung) nào có thể nói ở đây, ‘cái này bằng cái kia’.”39
Có vẻ như những bình luận này về cái Mehr kia cũng có thể làm cho la mère liên quan đến hệ thống Hegel: bà ấy gia nhập một mối quan hệ mà không bao giờ thuộc về nó (bà ấy không thuộc về nó vì bà ấy đã bị loại trừ); đó là nơi có thể nói là cha bằng vai với con trai,40 không có tuyên bố giải thích nào như vậy có thể nói ‘bà ấy bằng vai với cái kia’. Hơn nữa, việc liên kết cái mère với khái niệm thặng dư này có liên quan đến câu hỏi về phần còn lại—và những gì vẫn bị loại trừ và nằm ngoài mô hình gia đình Kitô giáo/Hegelian chính xác là người mẹ. Sau đó trong cột Hegel, một lối chơi tương tự được thực hiện với các từ “Materie” (tiếng Đức, vật chất) và “mater” (tiếng Latin, mẹ).41 Do đó, trong cột Hegel, cột liên kết chặt chẽ với người cha, chế độ gia trưởng và chủ thuyết dương vật-trung tâm, có thể tìm thấy các bản [tái] ký đáng chú ý về nhà ngoại và nữ quyền. Những gì chúng ta thấy sau đó là Derrida đánh dấu bằng tên người cha trong cột Genet và tên của [những] người mẹ có thể thấy trong cột Hegel. Các khuôn khổ chính của sự công nhận và phân tích đã bị đảo ngược—mối quan hệ của hai cột trái ngược nhau, với tư cách đối lập nhau, bắt đầu xuất hiện như một mối quan hệ đối lập, tính gần gũi hoặc chạm vào nhau.
Ham muốn, Bái vật giáo và Hàm ý Tình dục
Có thể xác định được một hiệu ứng tương tự đối với khái niệm ham muốn khi nó hoạt động trong hai cột của Glas và các judase thông qua một loạt hàm ý ít nhiều ngầm định do Derrida rút ra. [Tr.224] Hệ thống Hegelian được cho là quy cho mọi thứ một vị trí thích hợp—điều này mở rộng đến cách thức mà Hegel xử lý sự khác biệt về giới tính. Derrida viết rằng, trong Hegel, “‘[s]ự tách biệt của hai giới tính’ thể hiện một cấu trúc tách biệt thật sự độc đáo”42; thực ra khác biệt về giới tính được bản chất hóa theo các đặc điểm thể chất của các cơ quan sinh dục. Sự khác biệt về các đặc điểm thể chất của hai giới tính hoạt động như một cơ sở hợp lý rõ ràng cho một loạt hệ thống phân cấp về giới. Tính “vẫn phong kín” của các cơ quan sinh dục nữ có liên hệ trực tiếp với tính thụ động của nữ giới theo cách mà “‘[â]m vật là cảm giác bất hoạt dược nói chung’”; trong khi đó, đối với cơ quan sinh dục nam “bản chất nằm ở sự khác biệt”, ở sự khác biệt của nó với cơ quan sinh dục nữ “thờ ơ”, bất hoạt dược.43
Cơ quan sinh dục nam chủ động phân biệt chính nó; do đó, “[k]hác biệt về giới tính tái tạo sự đối lập theo thứ bậc của tính thụ động với hoạt động, của vật chất với hình thức.”44 Sự khác biệt về giới tính được khắc phục thông qua giao hợp: “Giao hợp làm giảm bớt sự khác biệt.”45 Hơn nữa, giao hợp tiến triển cụ thể thông qua hôn nhân, “Cái Einssein bản thể-một của những cặp phối ngẫu”46 chính xác là “Thủ tiêu Aufhebung khác biệt về giới tính.”47 Hôn nhân gắn liền với gia đình—“hôn nhân là khoảnh khắc đầu tiên của gia đình”48—và với chế độ một vợ một chồng, một điểm mà Derrida liên tục nhấn mạnh, trích dẫn nhiều đoạn trong Rechtsphilosophie - Triết học Pháp quyền: “‘Hôn nhân, và về bản chất là chế độ một vợ một chồng, là một trong những nguyên tắc tuyệt đối mà Sittlichkeit đời sống đạo đức của một cộng đồng phụ thuộc vào’”, và, “‘Về bản chất, hôn nhân là chế độ một vợ một chồng’.”49 Tất nhiên, điều này phù hợp theo nhiều cách với mối liên hệ của hệ thống Hegelian với gia đình Cơ đốc giáo. Do đó, liên quan đến vấn đề ham muốn, người đàn ông gia đình Cơ đốc giáo duy lý Hegel được coi là đang thúc đẩy một hệ thống vốn dị-tính-luyến, dị-tính-luyến-định chuẩn và lại chủ trương dương vật-trung tâm luận.
Ngược lại, Genet, tên tội phạm và kẻ đồng tính, trưng bày vô số mảnh vỡ phát triển thành “một lý thuyết hoặc một sự kiện tương đương chung: của các chủ thể […] của các khuôn khổ, của những điều trái ngược được trao đổi không hồi kết”.50 Derrida mô tả những người bạn tù trong những câu chuyện tù tội của Genet “những kẻ thẳng đơ, giống nhau và thay thế cho nhau trong im lặng như những chữ cái trên trang giấy, chữ này thay thế chữ kia, chữ này thay cho chữ kia”.51 Do đó, cột Genet của Glas làm nổi bật sự lưu thông của mọi đối tượng mà không có vị trí thích đáng nào, tính thay thế của các đối tượng không có bản chất. Tính thay thế và lưu thông chung này được liên kết trong Glas với sự phân mảnh của ham muốn và vô số người tình, trái ngược hoàn toàn với quan niệm của Hegel về nhất tính đạo đức của ham muốn đạt được thông qua giao hợp/hôn nhân một vợ một chồng.
Không giống như Hegel, ham muốn của Genet không dẫn đến sự khuất phục duy lý của khác biệt thông qua hôn nhân—ngược lại, Derrida trích dẫn Genet cho rằng, “‘[p]hấn khích của tôi [émoi] [tr.225] là sự dao động từ này sang kia’, sự thay thế chưa quyết định giữa hai các biểu nghĩa [...] đối lập.”52 Do đó, ham muốn này cũng là một ham muốn phi dương vật—nó không được cấu trúc xung quanh một đối tượng đơn lẻ và thiết yếu mà theo sự lưu thông của vô vàn mảnh vỡ có thể thay thế được. Theo nghĩa này, ham muốn kỳ quặc của Genet được đưa lên hàng đầu như một ham muốn “phi lý”. Một lần nữa, sự tương phản giữa Hegel và Genet được hiểu là một phần của quá trình chung nhằm giải cấu trúc hệ thống Hegelian, ví dụ như Clare Blackburn đã thảo luận về cách thức mà “tính bất hợp pháp, tội phạm, đồng tính luyến ái và khuynh hướng vagabond ma cà bông của Genet đối lập với các giá trị Hegelian về gia đình, xã hội dân sự [định chuẩn dị tính] và Cơ đốc giáo” có thể “làm mất ổn định sự vững chắc hiển minh [...] của hệ thống”.53
Tuy nhiên, một lần nữa, tôi cho rằng ham muốn không chỉ được mô tả theo cách đơn giản như vậy trong Glas, thật ra ham muốn lý trí của Hegel bị suy yếu bởi sự xâm nhập của các yếu tố trong cuộc sống cá nhân và riêng tư của Hegel và tính phi lý rõ ràng trong ham muốn của Genet lại dựa trên trò chơi thay thế vô hạn bị thách thức bởi vấn đề bái vật giáo. Giữa chừng cuộc thảo luận về cách diễn giải Antigone của Hegel, văn bản bị ngắt quãng, bởi mười hai trang trích đoạn từ các bức thư của Hegel, như một tên judas khác. Những lá thư được gửi đến nhiều nhân vật: người bạn thân thiết của gia đình ông là Nanette, vị hôn thê/người vợ Marie, và người bạn đồng thời là nhà thần học Friedrich Immanuel Niethammer. Những lá thư đầu tiên được gửi đến Nanette Endel, được giới thiệu trong một đoạn ngắn gọn là “người phụ nữ trẻ sống trong ngôi nhà của gia đình. Nếu người ta tin vào nhận xét của Bourgeois [Bernard Bourgeois, một học giả nổi tiếng người Pháp về Hegel], thì cô ấy ‘đã truyền cảm hứng [cho Hegel] bằng một cảm tình có lẽ là yêu đương […]’ […] Nana luôn có thể đóng vai người chị em.”54
Gợi ý này nổi bật tới mức cực đoan trong tập thư tuyển chọn; Hegel viết, “Tôi biết ơn em xiết bao vì […] thiện chí bù đắp cho tôi cuộc trò chuyện bằng thư về việc để mất đi tình bầu bạn của em […] một số phận miễn cưỡng dồn ép trói buộc tôi vào đó. Nhưng nó đã bị khuất phục bởi sức mạnh trí tưởng tượng của tôi […] âm thanh giọng nói của em, cái nhìn dịu dàng của đôi mắt em, và tất cả những gì mà cuộc đời kiêu hãnh hơn mọi từ ngữ được viết ra”.55 Tiếp theo: “Tôi bị tứ phía vây bọc bởi những đồ vật gợi nhớ đến em”56; “Ngay khi tôi thôi buộc em phải ngoan đạo, thì mọi chuyện đã kết thúc”57; “Em có mọi lý do để cho rằng những mối quan hệ lâu dài hơn với tôi làm em thoải mái hơn nhiều và mang lại cho em niềm vui lớn hơn”58; “Chắc chúng ta [tr.226] đã quá say mê khiêu vũ—hệt như buổi tối trước khi ra đi và kể từ đó, em đã quay cuồng trong các vũ điệu kia.”5 Tiếp theo là những bài thơ Hegel viết cho vị hôn thê Marie của mình. Terry Pinkard, người viết tiểu sử của Hegel, đã mô tả những bài thơ này khá hay; những bài thơ “hẳn không phải là nền tảng cho danh tiếng của Hegel trong lịch sử tư tưởng; ngược lại, đó chỉ là một phong cách bán lãng mạn, ít nhiều nhàm chán”.60 Hegel sử dụng hình ảnh phượng hoàng để tượng trưng cho tình yêu như sự kết hợp của hai người dẫn đến một tính cách và cam kết chung; “phượng hoàng tượng trưng cho chính con đường mà những gì chia cắt hai kẻ yêu nhau tan biến khi tình yêu đích thực tiếp lấy và lần hồi tái thiết chính bản thân nó.”61
_______________________________________
(Còn nữa…)
Nguồn: Jessica Marian (2015). Styling against Absolute Knowledge in Derrida's Glas, In Parrhesia 24 · 2015 · 217-238
Note
1. Jean Genet, Funeral Rights. Trans. Bernard Frechtman. New York: Grove Press, 1994, 157.
2. Jacques Derrida, “The Time of a Thesis: punctuations” Philosophy in France Today. Ed. Alan Montefiore. Trans. Kathleen McLaughlin. Cambridge: Cambridge University Press, 1983, 46.
3. C.f. Jacques Derrida, Glas. Trans. John P. Leavey and Richard Rand. Lincoln: University of Nebraska Press, 1986, 115b.
4. Peter Krapp, Déjà vu. Aberrations of Cultural Memory. Minneapolis: University of Minnesota Press, 2004, 200.
5. Geoffrey Bennington, Legislations: the Politics of Deconstruction. London: Verso, 1994, 114.
6. Stuart Barnett, “Introduction: Hegel Before Derrida” Hegel After Derrida. Ed. Stuart Barnett. London: Routledge, 1998, 33.
7. Simon Critchley, “A Commentary Upon Derrida’s Reading of Hegel in Glas” Hegel After Derrida. Ed. Stuart Barnett. London: Routledge, 1998, 224. (Emphasis in original.)
8. Ian Magedera, “Seing Genet, Citation and Mourning; a propos Glas by Jacques Derrida” Paragraph 21:1 (1998, 40).
9. James Creech, “Outing Jean Genet” Genet: In the Language of the Enemy. Ed. Scott Durham. Yale French Studies 91 (1997, 129).
10. Jacques Derrida, “Countersignature”. Trans. Mairéad Hanrahan. Paragraph 27:2 (2004, 11).
11. Derrida, “Countersignature”, 11.
12. Derrida, “Countersignature”, 19.
13. Derrida, Glas, 34b.
14. Derrida, Glas, 35b.
15. Derrida, Glas, 34b.
16. Derrida, Glas, 183b
17. Derrida, Glas, 98b.
18. Hélène Cixous and Catherine Clément, The Newly Born Woman. Trans. Betsy Wing. Minneapolis: University of Minnesota Press, 1986, 84.
19. Drucilla Cornell, Beyond Accommodation: Ethical Feminism, Deconstruction and the Law. Lanham: Rowman and Littlefield, 1999, 153.
20. Cornell, Beyond Accomodation, 153.
21. Cornell, Beyond Accomodation, 153.
22. Derrida, Glas, 33a.
23. Derrida, Glas, 31a.
24. Patricia Jagentowicz Mills, “Hegel’s Antigone” Feminist Interpretations of G. W. F. Hegel. Ed. Patricia Jagentowicz Mills. University Park: The Pennsylvania State University Press, 1996, 59.
25. Mills, “Hegel’s Antigone”, 59.
26. Derrida, Glas, 142a.
27. Mills, “Hegel’s Antigone”, 84; also see Derrida, Glas, 188a-191a.
28. Cornell, Beyond Accomodation, 155.
29. Gayatri Chakravorty Spivak, “Glas-Piece: A Compte Rendu” Diacritics 7:3 (1977, 24).
30. John P. Leavey, Jr., “This (then) will not have been a book…” GLASsary. Ed. John P. Leavey, Jr. Lincoln: University of Nebraska Press, 1986, 112-22; Spivak, “Glas-Piece”, 24; Geoffrey Hartman, Saving the Text: Literature, Derrida, Philosophy. Baltimore: Johns Hopkins University Press, 1981, 32,
33, 94, 103; Marie Maclean, Name of the Mother: Writing Illegitimacy. London: Routledge, 1994, 209; and many others.
1. I owe this insight to a comment made by Mairead Hanrahan at the London Graduate School’s 2014 Summer Academy.
32. Derrida, Glas, 24a.
33. Derrida, Glas, 262b.
34. Derrida, Glas, 4a.
35. Derrida, Glas, 1a.
36. Derrida, Glas, 61ai.
37. Derrida, Glas, 61ai.
38. Derrida, Glas, 61ai.
39. Derrida, Glas, 67.
40. See Derrida, Glas, 24a.
41. Derrida, Glas, 70a.
42. Derrida, Glas, 110a.
43. Derrida, Glas, 111-12a.
44. Derrida, Glas, 113a.
45. Derrida, Glas, 111a.
46. Derrida, Glas, 131a.
47. Derrida, Glas, 131a.
48. Derrida, Glas, 124a.
49. Derrida, Glas, 124a.
50. Derrida, Glas, 43b.
51. Derrida, Glas, 38b.
52. Derrida, Glas, 190b.
53. Clare Blackburn, “(Up) Against the (In) Between: Interstitial Spatiality in Genet and Derrida”
Parrhesia 3 (2007, 30).
54. Derrida, Glas, 151ai.
55. Derrida, Glas, 152ai.
56. Derrida, Glas, 152ai.
57. Derrida, Glas, 153ai.
58. Derrida, Glas, 154ai.
59. Derrida, Glas, 155ai.
60. Terry Pinkard, Hegel: A Biography. New York: Cambridge University Press, 2000, 296.
61. Derrida, Glas, 297.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét