Todd McGowan
Người dịch: Hà Hữu Nga
Bằng cách nhận ra mối liên hệ giữa giải cấu trúc và hiện tượng học, bài luận này cho rằng chúng ta có thể nhìn thấy giải cấu trúc đã nhắm chệch mục tiêu siêu hình học, do đó tạo ra khả tính quay trở lại với các câu hỏi siêu hình học và các nhà tư tưởng siêu hình học, đặc biệt là Hegel.
[Tr.95] Jacques Derrida giải cấu trúc không chỉ một số nhân vật nhất định trong lịch sử triết học mà còn toàn bộ truyền thống triết học phương Tây. Nhưng để hiểu đúng tầm với của giải cấu trúc, người ta phải xem xét nguồn gốc của nó, các nguồn gốc vốn không tập trung vào truyền thống siêu hình học mà cụ thể là vào hiện tượng học. Như nhiều người ủng hộ giải cấu trúc đã nhận ra, việc xác định sự xuất hiện của giải cấu trúc trong hiện tượng học Husserl cho phép chúng ta nắm bắt tốt hơn về dự án giải cấu trúc. Một người chủ trương học thuyết này, Joshua Kates, giải thích rằng “hiện tượng học không chỉ trở thành lò rèn tạo ra các công cụ giải cấu trúc, mà trong đó […] ngay từ đầu Derrida đã khám phá ra động cơ cho nỗ lực hoàn toàn độc đáo này” (xvi, nhấn mạnh của Kates). Mặc dù chống lại các văn bản của chính Husserl, nhưng dự án của Derrida cũng là dự án của Husserl.
Tuy nhiên, theo quan điểm của tôi, ý nghĩa của giải cấu trúc vẫn nằm trong quỹ đạo của hiện tượng học, ngay cả khi Derrida cố gắng mở rộng nó hơn nữa (như ông sẽ làm trong suốt [tr.96] sự nghiệp tri thức của mình). Những vấn đề lớn mà giải cấu trúc giải quyết—chẳng hạn như việc thiếu nguồn gốc thuần túy và bất khả tính của hiện diện—là những vấn đề cụ thể đối với hiện tượng học, chứ không phải, như Derrida ngụ ý, đối với siêu hình học. Không phải ngẫu nhiên mà những cú giải cấu trúc lý thuyết hấp dẫn nhất của Derrida lại diễn ra khi ông đề cập đến hiện tượng học, mà bản thân nó vốn là một nỗ lực để tư duy vượt khỏi siêu hình học hiện diện. Tôi cho rằng, chính nỗ lực vượt khỏi siêu hình học của hiện tượng học đã giải phóng những khó khăn và aporias bí lối lý thuyết dẫn đến giải cấu trúc. Mặc dù - hoặc có lẽ là vì - giải cấu trúc xuất hiện từ hiện tượng học, nên về cơ bản đó là giải cấu trúc của hiện tượng học, chứ không phải của siêu hình học, và việc hiểu rõ điều này cho phép chúng ta quay ngược trở lại với những câu hỏi siêu hình học mà hai thế kỷ tư tưởng gần đây dường như đã giải quyết xong xuôi.
Nếu rõ ràng là giải cấu trúc nhắm vào siêu hình học vì những tội lỗi của hiện tượng học và nếu siêu hình học không phải là một dự án hòa giải hay làm chủ, thì dự án cấp bách về mặt chính trị không phải là giải cấu trúc của siêu hình học mà lại là cuộc tái cấu trúc bản thân nó. Tôi cho rằng dự án siêu hình, ít nhất là khi nó thể hiện ở những nhân vật đỉnh cao của Chủ nghĩa duy tâm Đức (Kant, Fichte, Schelling và Hegel), đã nắm bắt được bất khả tính của sự hiện diện thuần túy và bác bỏ đồng nhất hóa giữa being/ bản thể với presence/hiện diện. Hiện diện—và đây chính là nguyên do mà Derrida nỗ lực giải cấu trúc nó—sẽ là khoảnh khắc hòa giải, khoảnh khắc khi (thông qua, chẳng hạn, hành động biết) sự chia rẽ trong hiện hữu biến mất. Chính khả tính suy đoán siêu hình—suy đoán về các nền tảng—phụ thuộc vào việc chấp nhận sự chia rẽ trong hiện hữu. Plato thừa nhận điều này khi ông chia thế giới thành các ý tưởng và xuất hiện [appearance], mặc dù sau đó ông cố gắng hàn gắn chia tách này bằng cách từ chối cấp cho các xuất hiện bất kỳ vị thế hữu thể học nào. Nhưng với sự phân biệt giữa sự vật khi nó xuất hiện và vật tự thân, Kant đưa ra lý thuyết về sự chia tách trong bản thể mà không có lượng giá trung gian nào có thể hàn gắn được. Mặc dù đặc biệt bác bỏ the thing in itself/vật tự thân, nhưng Fichte, Schelling và Hegel đều vẫn kiên định trong quan niệm Kantian về bản thể, đó là lý do tại sao Robert Pippin có thể thảo luận về “sự hoàn thành dự án của Kant của Hegel” thay vì lật đổ hoặc đảo ngược nó (16).
Các nhà duy tâm luận Đức sau này không chỉ chấp nhận sự chia rẽ Kantian mà còn nhấn mạnh vào nó thậm chí còn hơn cả bản thân Kant. Thông qua quan niệm về tri thức tuyệt đối của mình, Hegel khẳng định một cách nghịch lý tính bất khả khắc phục của sự vắng mặt ám ảnh being/bản thể. Cho dù chúng ta hiểu biết đến mức nào, thì lý thuyết về cái tuyệt đối vẫn có đó, chúng ta sẽ luôn phải đương đầu với một giới hạn đối với tri thức của mình xuất phát từ việc being/tồn tại không có đồng nhất tính với chính nó. Trong chương cuối của Wissenschaft der Logik - Khoa học Logic, Hegel lưu ý, “Ý niệm tuyệt đối the absolute idea […] ẩn chứa sự đối lập cực đoan nhất bên trong” (735). Nếu ý niệm tuyệt đối đại diện cho điểm cuối của dự án siêu hình, [tr.97] thì dự án đó không hướng đến mastery/ưu quyền tính, mà là thừa nhận bất khả tính của một mastery/ưu quyền tính tối hậu. Nó bao gồm việc với đến điểm mà tri thức tự làm suy yếu chính nó và phơi bày sự thiếu hụt của chính nó. Như Slavoj Žižek chỉ ra, “Cái Tuyệt đối của Hegel cũng không ‘tuyệt đối’ theo nghĩa ngây thơ là đạt được tự-đồng nhất tính trọn vẹn: nó không kết thúc mà mãi mãi bị kẹt trong một vòng tròn tự tái tạo lặp đi lặp lại vĩnh cửu” (216). Cái tuyệt đối, là điểm cuối của suy đoán siêu hình, đại diện cho một nỗ lực thừa nhận sự thất bại cố hữu của suy đoán này đánh dấu điều kiện khả tính của nó. Đây không phải là bức tranh điển hình về siêu hình học được trình bày bởi hiện tượng học và giải cấu trúc.
Mặc dù Derrida ghi nhận Hegel đã đạt đến ngưỡng của giải cấu trúc, ông không thừa nhận mức độ mà ý niệm tuyệt đối làm suy yếu bất kỳ quan niệm nào về tự-đồng nhất tính. Nỗ lực của ông nhằm vượt qua siêu hình học, theo gót Heidegger, bắt nguồn từ việc coi siêu hình học (và ý niệm tuyệt đối) ngang bằng với tự-đồng nhất tính trọn vẹn. Quan điểm này không xem xét cái cách mà ý niệm tuyệt đối của Hegel cung cấp lời giải thích cho suy đoán siêu hình học, vốn liên kết nó với sự chia tách hữu thể học. Bạo lực siêu hình học cơ bản chống lại cái làm nảy sinh hiện tượng học phản ứng lại là bạo lực chống lại thời gian. Siêu hình học có địa vị thấp hơn thời gian tính và do đó quy giản vận động không ngừng của thời gian, mà tri thức không thể nắm bắt, thành những khoảnh khắc hiện diện, mà tri thức có thể nắm bắt. Hiện tượng học đại diện cho nỗ lực thoát khỏi phép quy giản thời gian thành tri thức này, và rõ ràng từ phân tích ban đầu của Derrida về quỹ đạo tư duy của Husserl trong Das Problem der Genese in Husserls Philosophie - Vấn đề Sáng thế trong Triết học của Husserl rằng ông hiểu hiện tượng học theo những khuôn khổ này. Vào giữa sự nghiệp triết học của mình (thời điểm ông viết tập đầu tiên của Ideas), Husserl gặp phải một trở ngại chính xác là vì, theo Derrida, ông chưa hoàn toàn dựa trên kinh nghiệm về thời gian tính. Derrida tuyên bố rằng “Chính vì Husserl vẫn chưa đặt thời gian tính nguyên thủy vào cốt lõi của các mô tả của mình nên phép biện chứng của sự thống nhất và tính đa dạng đã thất bại và cùng với đó là toàn bộ dự án siêu việt” (90). Trong tác phẩm tiếp theo của mình, Husserl sẽ tiến tới việc sửa chữa vấn đề này và sự phát triển của hiện tượng học sẽ được đánh dấu bằng nhận thức ngày càng tăng về thời gian tính nguyên thủy của chúng ta và nỗ lực suy tư vượt khỏi siêu hình học hiện diện.
Hiện tượng học lấy điểm khởi đầu là sự thất bại siêu hình học trong việc giải quyết tính ưu tiên của kinh nghiệm trong quá trình hiểu về being/ bản thể. Siêu hình học bắt đầu bằng các câu hỏi về tri thức về bản thể và không bao giờ đặt câu hỏi về cách bản thể phát sinh như một đối tượng khả thể của tri thức. Trong hiện tượng học, như Emmanuel Levinas đã nhình nhận, “các vấn đề khác nhau của tri thức được quy giản thành vấn đề cách thức mà các đối tượng được ý thức cấu thành” (126). Các nhà hiện tượng học bắt đầu bằng kinh nghiệm để hiểu bản thể hơn là hiểu kinh nghiệm theo quan niệm của họ về [tr.98] bản thể. Mặc dù họ khác nhau theo nhiều phương cách quan trọng, nhưng các nhà lý thuyết này đều có chung niềm tin rằng siêu hình học từ Plato trở đi đã loại bỏ kinh nghiệm cùng thời gian tính, và kết quả là một quan niệm giả định về bản thể, trong đó các phạm trù cứng nhắc của tư duy được phép xác định bản chất của bản thể. Tư tưởng siêu hình học không nắm bắt được thời gian tính vốn có của bản thể, nhưng hiện tượng học khắc phục điều này bằng cách ưu tiên thời gian ở mọi bước ngoặt. Như Heidegger lưu ý trong Die Grundprobleme der Phänomenologie Các vấn đề Cơ bản của Hiện tượng học, “thời gian là chân trời mà từ đó một thứ gì đó giống như bản thể trở nên dễ hiểu. Chúng ta diễn giải bản thể thông qua thời gian” (16-17). Khả năng tiếp cận và hiểu bản thể của chúng ta phụ thuộc vào nhận thức của chúng ta về thời gian tính thiết yếu của nó. Trước khi tiếp cận bản thể về mặt lý thuyết, chúng ta trải nghiệm nó thông qua thời gian.
Trái ngược với cách thức mà Derrida tự trình bày, giải cấu trúc hình thành không phải để phản ứng với sự đồng nhất siêu hình của bản thể với sự hiện diện, mà là phản ứng với nỗ lực ưu tiên trải nghiệm của hiện tượng học. Nỗ lực tiếp cận trải nghiệm trực tiếp này mở ra khả tính giải cấu trúc cho hiện tượng học vì trải nghiệm tạo ra ảo tưởng về tính tức thời và sự hiện diện thuần túy mà suy đoán siêu hình không làm được. Ngay cả khi siêu hình học đạt đến một quan niệm nào đó về chân lý, thì nó vẫn nhất thiết phải làm như vậy thông qua hình thức tư duy, đó là lý do tại sao chân lý siêu hình, từ Plato đến Hegel, đồng nghĩa với Ý niệm. Tư duy làm trung gian cho mọi khẳng định siêu hình, và chính vốn từ vựng của siêu hình học chứng thực cho nhận thức về bước trung gian này. Ngay cả khi người ta thừa nhận sự tồn tại độc lập của Ý niệm, thì nó vẫn đòi hỏi bước trung gian của tư duy để nhà tư tưởng có thể hình dung ra nó. Siêu hình học vận hành bằng nhận thức ngầm về bản chất trung gian của chân lý, một nhận thức trở nên rõ ràng trong tư tưởng của Hegel. Ngược lại, hiện tượng học lấy tính tức thời của trải nghiệm làm lý tưởng của mình. Chân lý không được tìm thấy bằng cách tư duy thông qua các lớp trung gian mà bằng cách bóc tách các lớp trung gian này để khám phá những gì xảy ra trong trải nghiệm trần trụi.
Hiện tượng học đòi hỏi giải cấu trúc vì nỗ lực tiếp cận trải nghiệm của nó nhất thiết phải liên quan đến một lý tưởng về sự hiện diện thuần túy mà cuối cùng chứng minh là không thể trụ vững được. Tư tưởng của Derrida bắt đầu bằng ảo tưởng về tính tức thời mà hiện tượng học truyền bá: tác phẩm sớm nhất và thuyết phục nhất của ông không nhắm vào Plato, Kant hay Hegel, mà là Husserl. Giải cấu trúc của siêu hình học mà nhờ đó Derrida được biết đến chủ yếu là kết quả nỗ lực của ông nhằm hiểu rõ thứ chướng ngại vật cơ bản của hiện tượng học vấp vào lịch sử triết học trước đó. Vấn đề không phải là một dư lượng siêu hình học ám ảnh hiện tượng học, mà là nỗ lực của hiện tượng học nhằm vượt qua siêu hình học theo hướng trải nghiệm dựng lên một lý tưởng về hiện diện mà siêu hình học đã có thể tránh được. Bằng cách cô lập hiện tượng học như là mục tiêu thích hợp của quá trình giải cấu trúc, thành tựu của siêu hình học—đỉnh cao là tri thức tuyệt đối Hegelian—sẽ trở nên rõ ràng.
[Tr.99] Trong tập thứ hai của Logische Untersuchungen Khảo sát Logic, Husserl định nghĩa hiện tượng học là một lý thuyết dành riêng cho trải nghiệm. Trong khi triết học về phương diện lịch sử đã nỗ lực nhằm hiểu rõ bản thể, thì hiện tượng học lại đại diện cho lời chối từ nhìn nhận bản thể bên ngoài phạm vi kinh nghiệm của nó. Ông tuyên bố, “Theo đó, hiện tượng học là lý thuyết về các kinh nghiệm nói chung, bao gồm tất cả các vấn đề, dù là thực tại (reellen) hay ý hướng tính, được đưa ra trong các kinh nghiệm và rõ ràng có thể khám phá được trong chúng” (343). Ngay cả trong tác phẩm tương đối sớm nhấn mạnh tầm quan trọng của cấu trúc logic này, Husserl vẫn ưu tiên cho kinh nghiệm. Tư duy của ông chuyển hướng đột ngột sau hai tập Logische Untersuchungen Khảo sát Logic vì ông vẫn chưa tìm ra cách tiếp cận phù hợp với kinh nghiệm.
Vấn đề chính đối với hiện tượng học là giải phóng kinh nghiệm khỏi gánh nặng của tri thức vốn làm biến dạng và che giấu nó với chúng ta. Husserl nhận ra rằng cấu trúc logic, thay vì cấu thành kinh nghiệm của chúng ta, lại đại diện cho một rào cản khác đối với nó. Kinh nghiệm của chúng ta có một khả năng cấu thành nó bên ngoài các lớp trung gian làm ô nhiễm tư duy của chúng ta về kinh nghiệm này. Ban đầu nó không có trung gian, mặc dù chúng ta tiếp cận nó thông qua đủ mọi loại trung gian. Tôi trải nghiệm những cuốn sách trên bàn làm việc của mình, và sau đó suy nghĩ của tôi trung gian hóa kinh nghiệm đó với tri thức mà tôi có, chẳng hạn, về nội dung của những cuốn sách, có tác dụng làm biến dạng mối quan hệ ban đầu bằng cách tô vẽ cho tính tức thời của nhận thức ban đầu. Quá trình biến dạng này diễn ra sâu sắc nhất trong trường hợp phản ánh triết học về thực chất hoặc bản chất của những cuốn sách, và kết quả là tôi hoàn toàn không thể lần tìm được chúng xuất hiện như thế nào với tư cách là đối tượng của ý thức. Tiền đề chính của hiện tượng học là tồn tại một kinh nghiệm không có trung gian và chúng ta có thể tiếp cận nó, và còn ở chỗ có sự khác biệt giữa thái độ tự nhiên mà tôi có đối với các đối tượng và thái độ lý thuyết. Đây là sự khác biệt mà Hegel, với tư cách là một nhà siêu hình học, đã bác bỏ.
Để chống lại tác động của tri thức đối với việc thấu hiểu của chúng ta về kinh nghiệm, Husserl trong các tác phẩm sau này của mình đã phát triển cái mà ông gọi là phép quy giản hiện tượng học, bỏ ngoặc thức tri thức và quan niệm có trước mà chúng ta mang vào trải nghiệm để cho phép chúng ta hiểu được bản chất thực sự của kinh nghiệm đó. Phép quy giản này đóng vai trò như một biện pháp đối phó với vai trò mà lý thuyết nắm giữ trong việc định hình sai lệch kinh nghiệm. Theo Husserl trong Cartesianische Meditationen - Suy ngẫm về Cartesian, “giải thích hiện tượng học không làm gì khác ngoài việc giải thích ý nghĩa mà thế giới này dành cho chúng ta, trước bất kỳ quá trình triết lý nào, và rõ ràng là chỉ lấy từ kinh nghiệm của chúng ta—một ý nghĩa mà triết học có thể khám phá nhưng không bao giờ thay đổi, và, vì quy luật thiết yếu, không phải vì cái yếu kém của chúng ta, đòi hỏi (trong trường hợp bất kỳ kinh nghiệm thực tế nào) những chân trời cần phải được minh định từ nền tảng” (151, nhấn mạnh của Husserl). Mặc dù ý nghĩa trực tiếp của kinh nghiệm nhất thiết trở nên mờ nhạt bởi các lý thuyết, nhưng ban đầu nó diễn ra theo cách không pha tạp và phi lý thuyết. Toàn bộ dự án về hiện tượng học như một sự điều chỉnh đối với siêu hình học dựa trên niềm tin rằng có một ý thức tiền-lý thuyết và người ta có thể tiếp cận nó.
[Tr. 100] Sai lầm siêu hình học, theo cách nhìn nhận của Husserl, không phải là đồng nhất hóa bản thể với hiện diện mà thay vào đó là không suy nghĩ đầy đủ về khả tính hiện diện trong kinh nghiệm. Siêu hình học đánh mất chính nó trong sự trung gian của tri thức và lý thuyết, do đó rơi vào trạng thái mù quáng trước nguồn gốc kinh nghiệm của mọi tri thức. Ý tưởng không tạo nên hình dạng cho cuộc sống; chúng đại diện cho các lớp trầm tích che giấu cuộc sống. Nhưng phép quy giản hiện tượng học cung cấp cho chúng ta khả tính quay trở lại với sự cho sẵn thuần túy của các đối tượng đối với ý thức, như thể những đối tượng này có thể được đem cho mà không đồng thời được lý thuyết hóa. Cuộc cách mạng triết học của Husserl đưa chúng ta thoát khỏi cái chết của sự trung gian siêu hình học để trở về với cuộc sống thuần túy của kinh nghiệm. Luận án của Derrida, Le problème de la genèse dans la philosophie de Husserl Vấn đề về Sáng thế trong Triết học của Husserl, lấy điểm khởi đầu là sự bất lực của Husserl trong việc lý thuyết hóa thành công một kinh nghiệm nguyên gốc thuần túy. Như ở đây Derrida đã lập luận, nguyên gốc luôn bị ô nhiễm bởi một yếu tố phi-nguồn cội. Thay vì một nguồn cội thuần túy, người ta tìm thấy một cấu trúc lý thuyết thông báo về tính cho sẵn của các đối tượng đối với ý thức, luôn luôn đã ở đó và cuối cùng là không thể vượt qua. Nếu không có một cấu trúc lý thuyết nguyên gốc, người ta thậm chí không thể phân biệt được các đối tượng trong không gian và thời gian. Do đó, có sự trung gian, hay những gì vào thời điểm đó Derrida gọi là biện chứng, ở mọi cội gốc. Nỗ lực của Husserl nhằm tiếp cận kinh nghiệm phi-trung gian cuối cùng lại tiết lộ sự vắng mặt của chính kinh nghiệm như vậy. Trong La Voix et le Phénomène – Tiếng nói và Hiện tượng, vấn đề trung tâm của hiện tượng học Husserl trở nên rõ ràng hơn. Ở đây, Derrida nhận ra bất khả tính của nhiệm vụ mà Husserl đặt ra cho chính mình. Bất kỳ kinh nghiệm nào mà Husserl tiếp cận sẽ luôn bị vấy bẩn bởi một số quan niệm hoặc tri thức có trước nào đó thông báo cho kinh nghiệm đó. Quan niệm hiện tượng học về kinh nghiệm dựa trên một ý tưởng không thể bảo vệ được về sự hiện diện, không thể bảo vệ được vì sẽ luôn có không hiện diện nhất định không thể chia tách khỏi kinh nghiệm hiện tại.
Vấn đề không phải ở chỗ Derrida chỉ trích sự thất bại của Husserl là không đủ tính hiện tượng học mà ở chỗ ông nắm bắt cách thức mà một lý tưởng về sự hiện diện thuần túy ám ảnh dự án hiện tượng học ngay từ đầu. Derrida tuyên bố, “hiện diện của hiện tại được nhận thức chỉ có thể xuất hiện theo đúng nghĩa khi nó liên tục kết hợp với không-hiện diện và không-nhận thức, bằng ký ức và kỳ vọng chính (ghi nhớ và bảo vệ retention & protention). [HHN chú: “Husserl sử dụng các thuật ngữ protentions và retentions cho các ý hướng tính neo tôi vào một môi trường. Chúng không chạy từ một cái tôi trung tâm, mà từ tự thân trường nhận thức của tôi, có thể nói như vậy, kéo theo chân trời retentions ghi nhớ của riêng nó, và cắn vào tương lai bằng các protentions lưu giữ của nó. Tôi không trải qua một loạt các trường hợp của bây giờ, những hình ảnh mà tôi lưu giữ và khi đặt cạnh nhau, tạo thành một đường thẳng. Với sự xuất hiện của mỗi khoảnh khắc, khoảnh khắc trước đó trải qua một sự thay đổi: Tôi vẫn cầm nó trong tay và nó vẫn ở đó, nhưng nó đã chìm xuống dưới mức các hiện tại; để giữ lại nó, tôi cần phải vượt qua một lớp thời gian mỏng. Nó vẫn là khoảnh khắc trước đó, và tôi có khả năng tái hợp nó như nó vừa mới xảy ra bây giờ; tôi không bị cắt đứt khỏi nó, nhưng nó vẫn không thuộc về quá khứ trừ khi có điều gì đó thay đổi, trừ khi nó bắt đầu phác thảo bản thân chống lại, hoặc phóng chiếu lên hiện tại của tôi, trong khi một khoảnh khắc trước đó nó là hiện tại của tôi. Khi khoảnh khắc thứ ba đến, khoảnh khắc thứ hai trải qua một biến đổi mới; từ việc là một ghi nhớ nó trở thành sự ghi nhớ của một ghi nhớ, và lớp thời gian giữa nó và tôi dày lên”. Merleau-Ponty, Maurice (2005). Phenomenology of Perception, Routledge. HHNG]. Những sự không nhận thức này không được thêm vào, cũng không tình cờ đi kèm với cái bây giờ thực sự được nhận thức; về cơ bản và nhất thiết chúng được gia nhập vào khả tính của nó” (64, nhấn mạnh của Derrida). Trong nền tảng của nó, dự án hiện tượng học vận hành với một quan niệm về kinh nghiệm hiện tại mà nó không thể duy trì. Nỗ lực quay trở lại với hiện diện này sẽ luôn mắc kẹt ở những gì không hiện diện mà vẫn thông báo cho hiện tại. Vì không có khoảnh khắc hiện diện thuần túy, nên có một giới hạn không thể quy giản đối với phép quy giản hiện tượng học.
[Tr.101] Đối với Derrida, việc hiện tượng học không tự thích nghi với trung gian và vắng mặt là dấu hiệu của một dư lượng siêu hình vẫn tồn tại trong hiện tượng học. Nhưng Husserl ưu tiên kinh nghiệm trái ngược hoàn toàn với ưu tiên siêu hình học của các ý niệm. Bằng cách lấy ý niệm này làm điểm khởi đầu không thể vượt qua, siêu hình học có thể nắm bắt được vai trò của trung gian trong việc cấu thành tính tức thời và vai trò của vắng mặt trong việc cấu thành hiện diện. Thay vì dẫn đến khẳng định về bản thể như là hiện diện, siêu hình học, đặc biệt là trong triết học của Hegel, cố gắng khẳng định tính bất khả quy giản của vắng mặt trong bản thể. Chủ nghĩa duy tâm Đức, không đánh dấu đỉnh cao của tự-đồng nhất tính siêu hình, là cái epoché treo lại mà sự khẳng định ấy về vắng mặt đạt đến thành quả. Lần đầu tiên nó trở nên rõ ràng trong tư duy của Immanuel Kant. Theo quan điểm của truyền thống hiện tượng học, Kant nắm giữ một vị trí đặc quyền với tư cách tiền bối, kẻ dự đoán tính trung tâm mà thời gian sẽ nắm giữ trong hiện tượng học. Mặc dù Kant không đi đủ xa trong nỗ lực ưu tiên thời gian, nhưng ông đã đem đến một bước tiến đáng kể theo đúng hướng, mặc dù các nhà triết học như Fichte và Hegel sau đó sẽ thực hiện một bước thoái bộ. Thông qua quan niệm của mình về sức mạnh siêu việt của trí tưởng tượng, Heidegger lập luận trong Kant und das Problem der Metaphysik - Kant và Vấn đề siêu hình học, Kant coi tính thời gian là vị trí quyết định trong sự hiểu biết của ông về chủ thể tính. Theo Heidegger, “sức mạnh siêu việt của trí tưởng tượng là thời gian nguyên gốc” (131). Dưới hình thức sức mạnh siêu việt của trí tưởng tượng, tính thời gian tạo ra khả tính hiểu biết. Thông qua công thức này, Kant thúc đẩy sự bác bỏ mang tính hiện tượng học về siêu hình học.
Nhưng Heidegger cho rằng Kant vẫn là một nhà siêu hình học chừng nào ông còn từ bỏ sức mạnh siêu việt của trí tưởng tượng và nhường vị trí của nó cho sự hiểu biết. Điều này xảy ra khi Kant sửa đổi Die Kritik der reinen Vernunft - Phê phán Lý tính Thuần túy ở lần xuất bản thứ hai. Trong lần xuất bản đầu tiên, Kant coi tính thời gian là cơ sở cho hành động biết, trong khi ở lần xuất bản thứ hai, sức mạnh cấu trúc của sự hiểu biết đạt được vị trí đặc quyền. Bản sửa đổi của Kant tái hiện sức mạnh bạo lực đối với thời gian mà truyền thống siêu hình duy trì khi nó quy thời gian phụ thuộc vào tri thức và hiện diện. Đối với Heidegger, đây chỉ đơn giản là một cuộc trốn chạy hiện sinh khỏi những hàm ý đáng lo ngại của tính thời gian cội nguồn của chúng ta. Tính thời gian này chống lại tri thức—nó là sức mạnh của cái chưa biết—và Kant mất liên lạc với điểm kháng cự này khi ông nắm lấy tri thức bằng cái giá phải trả là thời gian. Hành động quay lưng lại với sức mạnh siêu việt của trí tưởng tượng ngụ ý cú quay lưng lại với sự thừa nhận những giới hạn của ưu quyền làm chủ nảy sinh từ tri thức. Một khi Kant vận động theo hướng này, thì ngay cả những nỗ lực của ông nhằm nhấn mạnh vào những giới hạn của tri thức cũng nhất thiết phải bao gồm những khẳng định ngầm về ưu quyền làm chủ. Theo cách hiểu phổ biến nhất, sự chia tách giữa sự vật như nó xuất hiện và vật tự thân mà Kant thiết lập chỉ phản ánh khẳng định của ông về giới hạn của tri thức con người [tr.102]. Vấn đề với khẳng định này, như ngay cả những nhà phê bình đầu tiên của Kant cũng nhận ra, là ở chỗ chính việc thừa nhận vật tự thân là bất khả tri gợi ý cho tri thức về nó mà tuyên bố ấy phủ nhận. Để biết rằng vật tự thân là bất khả tri, trên thực tế Kant phải biết điều gì đó về nó. Do đó, khẳng định của ông về sự khiêm nhường của tư duy trở thành một lời tuyên bố vô tình về vẻ kỳ vĩ của tư tưởng.
Ngay cả khi siêu hình học cố gắng khiêm nhường và giới hạn bản thân trong một giới hạn rõ ràng, thì nó cũng vẫn kết thúc bằng việc mở rộng bản thân và ưu quyền làm chủ của mình. Như Hegel đã nhiều lần chỉ ra, việc thừa nhận một giới hạn đối với tư duy không đơn giản như việc đặt định một vật tự thân mà tư duy không thể tiếp cận được. Nhưng loại phê phán này về vật tự thân và mối liên hệ của nó với ưu quyền làm chủ về mặt triết học đã không giải thích được vai trò cấu trúc của nó trong kinh nghiệm của chúng ta. Vật tự thân không chỉ đơn thuần là bất khả tính đối với chủ thể theo nghĩa phủ định; đó là điều không thể dung để cấu thành lĩnh vực kinh nghiệm khả thể. Kinh nghiệm của chúng ta được cấu thành thông qua khoảng cách giữa xuất hiện và vật tự thân, và nếu không có khoảng cách này – bằng cách tiếp cận trực tiếp với sự vật - chúng ta sẽ không thể trải nghiệm được gì cả. Giống như các nhà hiện tượng học, Kant cố gắng hiểu cấu trúc kinh nghiệm của chúng ta và các điều kiện khả tính của nó. Nhưng ông dành phần lớn thời gian của Die Kritik der reinen Vernunft - Phê phán Lý tính Thuần túy để thảo luận về các vấn đề mà tư duy gặp phải khi nó vượt quá giới hạn, điều này dường như có giá trị hoàn toàn phủ định liên quan đến việc thấu hiểu kinh nghiệm.
Như vậy có nghĩa là, việc khám phá những hạn chế của tư duy trong Transzendentale Dialektik - Biện chứng Siêu việt có vẻ khác biệt với việc khám phá những gì cấu thành nên kinh nghiệm trong Transzendentale Ästhetik Thẩm mỹ Siêu việt. Trong đó, Kant chỉ ra phạm vi thích hợp của tư duy, và trong Transzendentale Dialektik - Biện chứng Siêu việt, ông vạch rõ những gì xảy ra khi tư duy đi chệch khỏi phạm vi này. Nhưng hạn chế về tư duy mà Kant khám phá ra trong Transzendentale Dialektik - Biện chứng Siêu việt không chỉ đơn thuần là diễn giải thêm về phạm vi thích hợp của tư duy trong các phần trước. Thay vào đó, việc khám phá ra những hạn chế của tư duy tạo thành điều kiện khả tính để thiết lập phạm vi của tư duy. Vật tự thân hoạt động như một vắng mặt tạo điều kiện cho mọi kinh nghiệm về hiện diện. Kinh nghiệm của chúng ta phụ thuộc vào sự chia tách giữa các xuất hiện và vật tự thân vì việc tiếp cận trực tiếp với vạn vật sẽ khiến mọi kinh nghiệm trở nên vô nghĩa.Ý nghĩa kinh nghiệm của chúng ta xuất phát từ niềm tin cần thiết của chúng ta cho rằng các đối tượng kinh nghiệm đó có một ý nghĩa nào đó mà vẻ ngoài của chúng che giấu. Nghĩa là, mọi đối tượng đều đại diện cho một đối tượng tiềm năng của khát vọng trong chừng mực nó vẫn bị chia tách nội tại giữa cách nó xuất hiện và cách nó tồn tại tự thân. Sự chia tách này không đòi hỏi người ta phải đặt ra một loại vật tự thân—và các nhà tư tưởng sau này sẽ không làm như vậy—nhưng nó biện minh cho việc Kant ghi nhớ vật tự thân như một thứ gì đó hơn là một cử chỉ triết học ngây thơ. Nó thậm chí còn tìm thấy tiếng vang trong tuyên bố của Alain Badiou cho rằng “để suy nghĩ về bất cứ điều gì, bất kể điều gì, thì nó phải bị chia tách thành hai”(6). Vật tự thân là một cách khái niệm hóa chia tách này, vốn được Hegel vừa duy trì vừa chỉnh sửa.
__________________________________
(Còn nữa…)
Nguồn: Todd McGowan (2013). The Presence of Phenomenology: Hegel and the Return to Metaphysics. In Mosaic 46/1 (March 2013)
Tác giả: Todd McGowan sinh năm 1967, là một học giả điện ảnh, triết gia và giáo sư tiếng Anh người Mỹ tại Đại học Vermont, nơi ông giảng dạy lý thuyết điện ảnh và văn hóa. Ông nghiên cứu về Hegel, phân tâm học và chủ nghĩa hiện sinh, và sự giao thoa của những dòng tư tưởng này với điện ảnh. McGowan là tác giả của hơn 15 cuốn sách, biên tập viên của loạt Film Theory in Practice từ Bloomsbury và đồng biên tập của loạt Diaeresis tại Northwestern University Press với Slavoj Žižek và Adrian Johnston. Tác phẩm của McGowan được mô tả là “Chính trị của Todestrieb Death Drive Động lực của Cái chết”.[4] McGowan đồng dẫn chương trình podcast Why Theory với Ryan Engley.[5] Trong Emancipation After Hegel (2019), Todd McGowan trình bày “một Hegel cấp tiến mới”, loại bỏ công thức khét tiếng của phép biện chứng là “luận đề, phản đề, hợp đề”, McGowan cho rằng mâu thuẫn không phải là sự đối lập của phản đề với luận đề, mà xảy ra khi một vị trí tuân theo logic nội tại của chính nó và phơi bày sự phân chia bên trong của nó. Theo McGowan, lý thuyết phân tâm học của Freud “cung cấp một sự bổ sung lý thuyết cho Hegel”. Bằng cách khái niệm hóa vô thức, Freud nhìn nhận tính chủ thể thông qua một mâu thuẫn mà nó không thể loại bỏ.
Works Cited
Badiou, Alain. Theory of the Subject. Trans. Bruno Bosteels. New York: Continuum, 2009. Print.
Critchley, Simon. “A Commentary Upon Derrida’s Reading of Hegel in Glas.” Hegel After Derrida. Ed.
Stuart Barnett. New York: Routledge, 1998. 197-226. Print.
Derrida, Jacques. Dissemination. Trans. Barbara Johnson. Chicago: U of Chicago P, 1981. Print.
_____ . Glas. Trans. John P. Leavey Jr. and Richard Rand. Lincoln: U of Nebraska P, 1986. Print.
_____ . Of Grammatology. Trans. Gayatri Chakravorty Spivak. Baltimore: Johns Hopkins UP, 1997. Print.
_____ . Margins of Philosophy. Trans. Alan Bass. Chicago: U of Chicago P, 1982. Print.
_____ . The Problem of Genesis in Husserl’s Philosophy. Trans. Marian Hobson. Chicago: U of Chicago P, 2003. Print.
_____ . Specters of Marx: The State of Debt, the Work of Mourning, and the New International. Trans. Peggy Kamuf. New York: Routledge, 1994. Print.
_____ . Speech and Phenomena and Other Essays on Husserl’s Theory of Signs. Trans. David B. Allison. Evanston: Northwestern UP, 1973. Print.
_____ . Writing and Difference. Trans. Alan Bass. Chicago: U of Chicago P, 1978. Print.
Fichte, J.G. The Science of Knowledge. Trans. Peter Heath and John Lachs. New York: Cambridge UP, 1982. Print.
Hartman, Geoffrey. “Homage to Glas.” Critical Inquiry 33 (2007): 344-61. Print.
Hegel, G.W.F. The Phenomenology of Spirit. Trans. A.V. Miller. Oxford: Oxford UP, 1977. Print.
_____ . Science of Logic. Trans. George di Giovanni. Cambridge: Cambridge UP, 2010. Print.
Heidegger, Martin. The Basic Problems of Phenomenology. Trans. Albert Hofstadter. Bloomington: Indiana UP, 1982. Print.
_____ . Kant and the Problem of Metaphysics. 5th ed. Trans. Richard Taft. Bloomington: Indiana UP, 1997. Print.
Henrich, Dieter. Hegel im Kontext [Hegel in Context]. Frankfurt, DE: Suhrkamp, 1971. Print.
Husserl, Edmund. Cartesian Meditations: An Introduction to Phenomenology. Trans. Dorion Cairns. Boston: Kluwer, 1991. Print.
_____ . Logical Investigations. Vol. 2. Trans. J.N. Findlay. New York: Routledge, 2002. Print.
Kant, Immanuel. Critique of Pure Reason. Ed. and trans. Paul Guyer and Allen W. Wood. Cambridge: Cambridge UP, 1998. Print.
Kates, Joshua. Essential History: Jacques Derrida and the Development of Deconstruction. Evanston: Northwestern UP, 2005. Print.
Kimmerle, Heinz. “On Derrida’s Hegel Interpretation.” Hegel After Derrida. Ed. and trans. Stuart Barnett. New York: Routledge, 1998. 227-38. Print.
Kojève, Alexandre. Introduction à la lecture de Hegel. Paris: Gallimard, 1947. Print.
Levinas, Emmanuel. The Theory of Intuition in Husserl’s Phenomenology. 2nd ed. Trans. André Orianne. Evanston: Northwestern UP, 1995. Print.
Malabou, Catherine. The Future of Hegel: Plasticity, Temporality, and Dialectic. Trans. Lisabeth During. New York: Routledge, 2005. Print.
Pippin, Robert B. Hegel’s Idealism: The Satisfactions of Self-Consciousness. Cambridge: Cambridge UP, 1989. Print.
Vieillard-Baron, Jean-Louis. “Les paradoxes de l’éternité chez Hegel et chez Bergson.” Les études philosophiques 4 (2001): 517-30. JSTOR. Web. 15 Dec. 2011.
Žižek, Slavoj. Living in the End Times. New York: Verso, 2010. Print.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét