Đánh giá lại các cuộc đi biển của Trịnh Hòa (II)
Geoff Wade
Người dịch: Hà Hữu Nga
b)
Cuộc xâm lăng Đại Việt – Cuộc đồng hóa thất bại của nhà Minh
Vào
1406, nhằm tăng cường ảnh hưởng và quyền lực của nhà Minh đối với Đại Việt (chính thể này được nhà Minh gọi là An Nam) [22], Hoàng đế 永樂
Vĩnh Lạc đã cho đưa thủ lĩnh con rối Trần Thiêm Bình về Đại Việt.
[23] Trần Thiêm Bình đã bị giết khi về đến nước. Vụ hạ sát này của người Việt
đã lập tức trở thành cái cớ cho 永樂 Vĩnh
Lạc phát động cuộc xâm lăng Đại Việt, trong khi đó kế hoạch xâm lăng đã được chuẩn bị kỹ càng từ trước.
Ông ta đã cử các tướng dày dạn trận mạc chỉ huy các hải đội, các đội hỏa khí,
các đội đánh thần tốc, các đội kỵ binh. Nhằm ngày 30 tháng 7 năm 1046, các hải
đội căng buồn từ Nam Kinh tiến đánh Đại Việt. Họ đổ bộ ở nam Trung Quốc và hợp
với các lực lượng khác tại tỉnh biên giới Quảng Tây. Các lực lượng này bao gồm
95.000 lính từ các tỉnh Triết Giang, Giang Tây, Quảng Đông, Quảng Tây và Hồ Quảng,
thêm 10.000 kỵ binh và bộ binh từ các mũi tấn công khác nhau, và 30.000 “bản
binh” Quảng Tây. [24] Lại thêm 75.000 kỵ binh và bộ binh được huy động từ Vân
Nam, Quý Châu và Tứ Xuyên. Các tỉnh Quảng Tây và Vân Nam cũng được lệnh phải
cung cấp 200.000 thạch [25] lương nuôi quân, và Vân Nam phải bố trí 10.000 lính
làm lực lượng tiếp viện. Các con số chính thức cho biết có khoảng 800.000 lính
đã được nhà Minh huy động cho cuộc xâm lược này. [26]
Hỏa
khí là một yếu tố cơ bản của cuộc xâm lăng, và ước tính có khoảng 10% số lính
được trang bị hỏa khí. Trong một bài viết mới đây, Sun Laichen đã xem xét việc
sử dụng hỏa khí của nhà Minh trong cuộc xâm lược Việt Nam. [27] Quân đội nhà
Minh còn đóng thuyền tại Việt Nam để tiếp tục các cuộc tấn công, và vào tháng
Giêng năm 1407 đã có được một chiến thắng quan trọng đối với toàn bộ chiến dịch,
khi họ chiếm được thành Đa Bang. [28] Các sử liệu còn lại đã
mô tả chi tiết cách thức các lực lượng nhà Minh cải trang ngựa của họ thành
hình sư tử để dọa voi chiến của quân Việt, và có được lợi thế của hỏa pháo bắn
mũi tên lửa. [29] Trong các tuần tiếp theo Đông Kinh của Đại Việt đã bị sụp đổ,
còn Tây Kinh thì đã bị bỏ trống cho quân Minh chiếm đóng. Vào giữa năm 1407 vua
Việt Hồ Quý Ly và con trai ông đã bị bắt, và triều đại ngắn ngủi của nước Đại
Ngu của nhà Hồ đã đến hồi kết thúc. Nhà Minh tuyên bố thắng lợi, thừa nhận lời
buộc tội 7 triệu người Việt bị giết chết trong chiến dịch đầu tiên xâm lăng Đại
Việt. [30] Vào cuối năm 1407, Giao Chỉ [31] trở thành tỉnh thứ 14 của nhà Minh,
và duy trì tình trạng đó đến năm 1428, khi các toán quân Minh bị đẩy lui và không
thể thống trị Đại Việt được nữa.
Cuộc
đồng hóa đất nước này bắt đầu một cách sốt sắng ngay lập tức, với các đội quân
xâm lược buộc người bản xứ phải phục dịch cho chúng. Tướng Minh là Trương Phụ [張輔
1375 – 1449] đã dâng tấu về triều đình “Vì hoàn
cảnh nên các đội quân từ Vân Nam, Quảng Đông, và Quảng Tây bây giờ đã phải rút
về. Họ muốn chọn binh lính An Nam để lấp vào chỗ trống”. [32] Lời thỉnh cầu đã
được chấp thuận và nhà Minh đã bắt đầu thi hành chế độ cưỡng bách quân dịch bản
xứ. Các ranh giới hành chính đã được hoạch định, các sở thuế vụ, sở diêm điền,
các trường dạy Khổng học, các sở đăng ký Phật giáo và các sở khác đã được thiết
lập, trong khi 7600 thương nhân và thợ thủ công (kể cả những người đúc súng) bị
bắt ở Đại Việt đã được đưa về kinh đô nhà Minh ở Nam Kinh ngày nay. [33] Vào
năm 1048, nhà Minh đã thành lập 472 cơ quan quân sự và dân sự tại Giao Chỉ,
[34] tất cả đều theo luật lệ nhà Minh, trong số đó nhiều ty cũng tuyển nhân
viên người Việt. Trong vòng hai năm trời, ba 市舶提舉司*
Thị bạc đề cử ty chuyên giám sát thương mại đường biển đã được thành lập tại tỉnh mới này,
phần Trung Quốc còn lại cũng chỉ có từng ấy ty. Đây là chỉ báo cho thấy khát vọng
của nhà Minh trong việc kiểm soát thương mại đường biển và khai thác lợi thế
kinh tế bằng cách kiểm soát như vậy đối với phương Nam. [35] Cách khai thác
kinh tế khác liên quan đến các loại thuế ngũ cốc, các loại thuế thường niên về
sơn mài, gỗ tấm, lông chim trả, quạt, hương, và việc đánh thuế độc quyền nghề làm vàng, bạc, sắt, muối và đánh cá, thậm chí chúng dùng cả phép 差發金/銀 sai
phát kim ngân - nộp vàng bạc thay cho lao dịch. [36] Hơn nữa các viên hoạn quan
được cử đến Giao Chỉ với nhiệm vụ thu thập bảo vật cho Hoàng đế, nhưng họ cũng
vơ vét được một số lượng tương đương cho riêng mình.
c)
Mũi nhọn thứ Ba – Các chuyến hải hành của Trịnh Hòa và sự khai hóa vùng biển
Việc
cử các sứ bộ do hoạn quan đứng đầu đến “Tây Dương” (phía tây Đông Nam Á từ
Borneo đến Ấn Độ Dương), cũng như các sứ bộ khác đến Đông Dương (nay là Philippines,
Borneo và Đông Indonesia) vì vậy mà trở thành chiếc ngạnh thứ ba của Hoàng đế
Vĩnh Lạc chĩa xuống phương Nam. Hầu hết mọi người đều chú ý đến bảy chuyến hải
hành nhưng niên đại thì lại vẫn còn phải tranh cãi với các bi ký và các văn bản
khác không phải lúc nào cũng khớp với nhau. Tuy nhiên, đây không phải là những
chuyến hải hành sớm nhất của nhà Minh xuống Đông Nam Á. Đã có sự giao tiếp thường
xuyên bằng đường biển với các chính thể Đông Nam Á trong 30 năm cuối cùng của
thế kỷ 14 dưới thời hoàng đế Hồng Vũ. Gần đây, 彭蕙 Bành Huệ đã công bố một bài viết tuyệt vời,
cung cấp một cách chi tiết các chuyến đi này [37], hầu hết do các quan chức triều
đình dẫn đầu. [38]
Thực
chất của các cuộc hải hành dưới thời Vĩnh Lạc khác với các cuộc hải hành dưới
thời 洪武帝
Hồng Vũ, hầu hết do các hoạn quan chỉ huy. Nổi tiếng nhất trong số
các sứ bộ này là Trịnh Hòa, còn được biết với cái tên 三寶 Tam Bảo. Đó là vì xung quanh viên
hoạn quan này có rất nhiều truyền thuyết vẫn còn đến ngày nay tại Đông Nam Á.
Tuy nhiên, có hàng loạt chánh sứ hoạn quan đã đến các vùng biển châu Á, bao gồm
王貴通*
Vương Quý
Thông, và 侯顯* Hầu Hiển. 張騫*
Trương Khiên và các viên hoạn quan khác rõ ràng là có nhiệm vụ đối
với các chính thể ở vùng Đông Hải và đã đưa các sứ bộ và các thủ lĩnh Bo-ni,
Pangasinan, Sulu và Luzon đến Trung Quốc. Danh mục trong phần phụ lục của bài
viết này cho thấy các viên hoạn quan được cử đi trong 30 năm đầu tiên của thế kỷ
XV, như đã được ghi lại trong 明實錄 Minh Thực lục. Danh sách này đặt
Trịnh Hòa vào loại bối cảnh riêng. Mặt khác, trong một bối cảnh rộng lớn hơn,
thực tế cho thấy một số lớn hoạn quan được cử đi trong cùng thời gian đến các
chính thể thuộc Vân Nam và Giao Chỉ, tên gọi khác của Đại Việt.
Rõ
ràng là thủy thủ của các đội tàu này thuộc nhiều dân tộc khác nhau. Nhiều thuyền
trưởng là hoạn quan Hồi giáo, các thủy thủ thường không phải là người Trung Quốc,
và đó có thể là con cháu của người Phúc Kiến. Nhiều người Ả Rập cũng có mặt
trong thủy thủ đoàn. Các nhà hàng hải có lẽ thuộc các tỉnh ven biển, còn binh
lính có lẽ thuộc các đội quân cấm vệ, và có thể bao gồm cả những nhóm người
Nguyên vùng Trung hoặc Tây Á. Các sứ bộ này, giống như cuộc xâm lược của Vĩnh Lạc
vào Vân Nam và Đại việt, có ý định thiết lập tính chính thống cho vị Hoàng đế
tiếm quyền, phô trương thanh thế của nhà Minh đối với các chính thể đã biết để
bắt họ thần phục nhà Minh và vì vậy mà đạt được một nền thái bình kiểu nhà Minh
trên phạm vi thế giới đã biết và chiếm đoạt bảo vật về dâng cho triều đình.
[39]
Để
đạt được mục đích này, các hải đội được cử đi cần phải vừa lớn, vừa hùng mạnh.
Việc đóng tàu hầu như đã được bắt đầu ngay từ khi hoàng đế Vĩnh Lạc lên cầm quyền.
Năm 1403, binh trấn Phúc Kiến đã được lệnh đóng 137 chiếc tàu đi biển. [40]
Cũng trong năm đó, nhiều đơn vị quân đội đã được lệnh đóng thêm tàu thuyền với
con số lên đến 400 chiếc. Trong năm 1405, ngay sau khi Trịnh Hòa bắt đầu chuyến
hải hành lần thứ nhất, trấn Triết Giang và các binh trấn khác được lệnh đóng
1180 con tàu đi biển. [41] Vào năm 1408, Bộ binh và Bộ công có nhiệm vụ phải
đóng 48 寳船 Bảo thuyền. [42] Các nhiệm vụ khác bao gồm việc
đóng thêm từ 50 đến 250 tàu làm cho chúng trở thành các hạm đội hùng mạnh bằng
mọi giá, [43] sao cho có thể rời khỏi Trung Quốc trong vòng vài năm mới về. Các
nguồn sử liệu cung cấp các thông tin khác nhau về số người đi theo các sứ bộ,
nhưng con số thông thường là từ 27.000 đến 30.000 người cho những sứ bộ lớn nhất.
Bên cạnh đó các sứ bộ cao cấp còn có một sứ mệnh tiêu biểu, trong đó có 100
viên sứ bộ thuộc các phẩm trật khác nhau, 93 viên chỉ huy, 104 viên cai đội và
phó cai đội cùng các lang y và các chiêm tinh gia đi theo. Theo một tài liệu
thì 26.800 trong số 27.4000 người trên các đội tàu là binh lính, quân không
chính quy, lính thiện chiến, cũng như các thủy thủ và bọn thư lại. [44]
Có
vẻ như tất cả các sứ bộ đều mang theo vật dụng nhiều hơn cho số 20.000 lính.
Trong một dẫn chiếu Minh Thực lục năm 1427, có nói đến “10.000 lính thiện chiến
đã được cử đi Tây Dương” [45] cũng cho thấy rằng một tỷ lệ lớn thành viên của
các đội tàu là lính. Và cũng giống như các lực lượng đã được cử đến Vân Nam và
Đại Việt, các đơn vị binh lĩnh này được trang bị bằng các hỏa pháo tốt nhất và
tiên tiến nhất trên thế giới vào thời đó. Họ là các quân đoàn có nhiệm vụ với
các mục tiêu chiến lược. Khía cạnh quân sự của các cuộc hải hành này cần phải
được nhấn mạnh, một phần vì những sức ép đặt lên vai các sứ bộ này trong nhiều
mối quan hệ, cả Trung Quốc và không phải Trung Quốc, đó là “các chuyến hải hành
hữu nghị”.
Để
tạo điều kiện cho các đội tàu này duy trì được phương thức thái bình nhà Minh
trong vùng lân cận và bơi qua Ấn Độ dương đến châu Phi, thì cần phải tạo ra những
vị trí dừng chân ở vùng ngày nay gọi là Đông Nam Á. Các bến bãi 官厰 quan xưởng này gồm có các đơn vị đồn
trú – với – kho tàng đã được xây dựng ở Malacca và ở cực bắc của eo Malacca gần
chính thể Samudera ở Sumatra. [46] Có thể
thấy các quan xưởng này trên các tấm bản đồ 武備志 Vũ Bị chí, có vẻ là
những tấm bản đồ đã được sử dụng hoặc đã được vẽ ra từ các cuộc hải hành trong
nửa đầu thế kỷ XV. Eo biển Malacca có lẽ tấp nập hơn trong thế kỷ XV, khi các mối
liên hệ quốc tế còn hoàn toàn phụ thuộc vào đường biển, khác với ngày nay, và
việc kiểm soát tuyến hải lộ này là bước thiết yếu đầu tiên trong việc kiểm soát
toàn vùng. Vì vậy có thể là nhà Minh đã trợ giúp cho sự phát triển của quốc gia
cảng Malacca [47] dọc theo cơ sở đường thủy của nhà Minh ở vị trí đó. Các mối
liên hệ giữa Malacca và nhà Minh vì vậy vẫn còn rất mật thiết trong hầu hết nửa
đầu thế kỷ XV. Mức độ phát triển của cảng thị Malacca, và các chính thể cảng bắc
Sumatra là một sản phẩm của các chính sách hàng hải của nhà Minh tại Đông Nam Á
trong giai đoạn đầu thế kỷ XV, vẫn cần phải được nghiên cứu thêm.
Rõ
ràng là một sức mạnh như vậy đã đóng vai trò răn đe chủ chốt, gọi là phép 震懾* chấn
nhiếp, gây kinh sợ [漢書,東方朔傳: “天下震懾,諸侯賓服”* Hán thư, Đông Phương Sóc truyện: Thiên hạ chấn nhiếp, chư hầu tân phục
– Thiên hạ kinh hãi, chư hầu quy thuận*], và phép này rất hữu dụng trong việc cổ
súy các nhân vật trị vì ngoại bang đến tận triều đình nhà Minh bày tỏ quy thuận.
Tuy nhiên, vẫn có lúc cần phải có sự hiện diện quân sự và lịch sử các chuyến hải
hành của Trịnh Hòa đã thừa mứa bạo lực khi những tên hoạn quan chỉ huy cố thực
hiện các đòi hỏi của hoàng đế nhà Minh. Các hoạt động quân sự chủ yếu gồm có:
i)
Cuộc tấn công Cựu cảng ở Sumatra năm 1407
Vào
năm 1407, Trịnh Hòa quay trở về từ chuyến hải hành đầu tiên, đem theo về một
“tên cướp biển” có tên là 陳祖義* Trần Tổ Nghĩa
bị bắt tại 舊港* Cựu cảng, được báo cáo là đã “trá hàng, nhưng lại bí mật bày mưu
kế tấn công quân đội Hoàng đế”. [48] Các hải đội nhà Minh báo cáo là có 5000
người bị giết, với 10 tàu bị đốt cháy, và 7 chiếc bị bắt giữ. Vào cuối năm đó,
nhà Minh đã công nhận chính thể 舊港* Cựu cảng. Tuy nhiên vì phần lớn người
Trung Quốc cả cựu quân nhân lẫn dân thường từ Quảng Đông và Phúc Kiến sống ở
đó, nên nó không có vẻ gì là một quốc gia cả. Hơn nữa nó lại được công nhận là
một 宣慰使司* Tuyên úy sử ty,
sử dụng cho các chính thể không do người Trung Quốc trị vì trên vùng biên giới
Trung Quốc. Người được giao cai quản vùng này là Thi Tấn Khanh, có lẽ do Trịnh
Hòa bổ nhiệm làm đại diện cho nhà Minh ở đó [施晉卿,協助鄭和航海,被封為宣慰使* Thi Tấn Khanh, hiệp trợ Trịnh Hòa hàng hải, bị phong vi tuyên úy sử
- Thi Tấn Khanh, người trợ giúp cho nhà hàng hải Trịnh Hòa đã được phong làm
Tuyên úy sử [ở Cựu cảng] *]. [49] Tại đây chúng ta đã thấy một thuộc địa của
nhà Minh ở Đông Nam Á. Các dẫn chiếu về chính thể này kết thúc vào năm 1430, hàm
ý rằng số phận của nó gắn bó với sự tiếp tục tồn tại của triều đại nhà Minh ở
Đông Nam Á, điều đó cho thấy thêm rằng các nhân vật cai quản ở đây thực sự là
các đại diện của nhà Minh. [50]
ii)
Bạo lực ở Java năm 1407
Năm
1407, khi quân đội của Trịnh Hòa đổ bộ lên đảo Java, 170 người đã bị giết trong
một cuộc đánh lộn với lực lượng địa phương. Đội quân này có vẻ như thuộc về
Majapahit, là người cạnh tranh chủ yếu với nhà Minh để bá chủ vùng biển Đông
Nam Á, hoặc là các nhóm quân Java đối kháng với Majapahit thực sự rất đáng kể.
Các sử liệu Trung Quốc cho biết binh lính Trung Quốc “đổ bộ lên đảo để buôn
bán”, “nơi đó vị vua Đông Java cai trị”, điều đó cho thấy sự can dự của người
Trung Quốc, một cách có chủ ý hoặc kiểu khác trong cuộc nội chiến của người
Java.
Để
đáp lại, nhà Minh đã đưa ra yêu sách đòi nhà vua Tây Java bồi thường. “Lập tức
trả 60.000 lạng [51] vàng bồi thường cho sinh mạng của chúng và để chuộc lại tội
lỗi nhà ngươi đã gây ra...Nếu không tuân thủ thì cũng không còn cách nào khác
là phải đưa quân đến trừng phạt tội lỗi của nhà ngươi. Ở An Nam ta cũng đã làm
như vậy”. [52] Ý nói đến cuộc xâm lược An Nam đã đề cập ở trên. [53]
(iii)
Đe dọa Miến Điện năm 1409
Vào
những năm đầu triều đại của mình, trong khi phải ganh đua với Ava-Burma để tăng
cường ảnh hưởng ở Vân Nam, Vĩnh Lạc đặc biệt quan tâm đến chính thể Mu-bang (Hsenwi).
Khi sứ bộ Mu-bang đến triều đình nhà Minh năm 1409, phàn nàn về那羅塔* Na La Tháp*
[54] thì nhà vua Ava-Burma được Vĩnh Lạc trả lời như sau: “那羅塔* Na La Tháp* có một mẩu đất bằng bàn tay mà dám cư xử thậm sai trái, thật là đứa phản phúc. Lâu nay ta đã biết
rõ về nó. Nguyên do ta không cho quân đến thảo phạt là vì ta e rằng người
ngay sẽ bị hại. Ta đã cho người mang chỉ dụ đến đòi y phải thay đổi và phải
canh cải. Nếu y không canh cải, ta sẽ lệnh cho các tướng đưa quân đến. Quân ta
sẽ đánh lên từ phía biển và khanh có thể sắp xếp kỵ binh thổ quân tấn công trên
đất liền. Kẻ hạ tiện ấy không đáng được như vậy”. [55] Dẫn chiếu này đề cập đến
lực lượng hải quân chính là nói về các đội tàu Tây Dương của viên hoạn quan chỉ
huy Trịnh Hòa, đã cùng với 王景弘* Vương Cảnh Hoằng và
侯顯* Hầu Hiển chỉ
huy một chuyến hải hành khác về phía Tây Dương. Lời đe dọa ấy của hoàng đế nhà
Minh đã nhấn mạnh đến thực chất quân phiệt và 震懾* chấn
nhiếp - gây kinh sợ của các chuyến hải hành.
(iv)
Tấn công Sri Lanka năm 1411
Có
lẽ sự kiện gây ấn tượng mạnh nhất thể hiện bản chất của các chuyến hải hành do
bọn hoạn quan chỉ huy là cuộc xâm lăng Sri Lanka năm 1411, bắt một thủ lĩnh địa
phương và đưa ông về triều đình nhà Minh, nay là Nam Kinh. Trịnh Hòa tấn công cấm
thành, bắt giữ nhà vua, triệt phá quân đội và đem nhà vua cùng gia đình hoàng
gia về triều đình. [56] Một số người cho rằng xá lợi Phật nha cũng bị lấy đi,
nhưng cho đến nay vẫn chưa thấy văn bản nào hỗ trợ cho quan điểm này. Giống như
kịch bản đã xảy ra tại Vân Nam, nhà Minh đã dựng lên một ông vua bù nhìn để thế
chỗ nhà vua đã bị bắt, có lẽ điều đó có lợi cho nhà Minh. [57] Quan binh Trung
Quốc quay về từ Sri Lanca đã được tưởng thưởng giống như sau cuộc xâm lăng Đại
Việt năm 1406, đã cho thấy mục đích của các đội quân này. [58]
(v)
Tấn công và bắt giữ Sultan Iskandar của Samudera năm 1415
Thêm
một ví dụ nữa về các mục đích và phương pháp của các chuyến hải hành vào năm
1415, khi Sultan Iskandar
[米蘇拉*
Mễ Tô Lạp] người được cho là “trùm của các băng đảng Samudera” đã
bị Trịnh Hòa bắt giữ và đưa từ Sumatra về Trung Quốc. Trong khi các sự kiện ấy
xả ra hay không xảy ra vào các năm 1414 và 1415 vẫn còn mơ hồ vì các nguồn sử liệu mâu
thuẫn với nhau, [59] thì có vẻ như Trịnh Hòa và quân đội của ông ta đã tự mình xía
vào cuộc nội chiến tại bắc Sumatra, hỗ trợ cho phe không thù địch với nhà Minh và
dấn sâu vào cuộc chiến chống lại bên kia. Hơn nữa chúng ta còn thấy một ví dụ về
chuyến hải hành chủ yếu hành động như một đạo quân nhằm áp đặt một nền thái
bình kiểu nhà Minh vào các vùng ngày nay là Đông Nam Á và Ấn Độ Dương.
(vi) Bạo lực ở Ayudhya
Trong
東西洋考 Đông Tây
dương khảo năm 1618, 張燮 Trương Tiếp đã khẳng định rằng Trịnh
Hòa đã hạ lệnh san bằng ít nhất là một ngôi tháp ở Ayudhya
vào đầu thế kỷ XV. Văn bản này cho biết, ở mục “Mốc giới”: “Tháp tây: tháp này
không có ngọn tháp. Người ta nói là khi bọn man dân [60] lần đầu xây dựng, đã
làm một ngọn tháp đẹp. Tuy nhiên Trịnh Hòa đã ra lệnh san phẳng nó và sau đó, mặc
dù cố gắng, nhưng man chúng không thể làm lại được như cũ”.
(vii)
Các bạo lực khác
費信 Phí Tín
cho biết rằng người Mogadishu hay sinh sự, bằng cách nói rằng có mối bất đồng với người
Trung Quốc, trong khi thiên truyện của 羅懋登 La Mậu Đăng được công bố vào năm 1597: 三寶太監西洋記通俗演義* Tam Bảo thái giám Tây Dương kí thông tục diễn nghĩa dường như có cơ sở nào đó
trong các sự kiện của các chuyến hải hành, cũng lưu ý về cách thức mà các đội
quân Trung Quốc sử dụng súng thần công để chống lại ngôi thành có tên là Lasa,
trên bán đảo Ả Rập, và đã tham gia bằng mọi thủ đoạn độc ác vào các vụ thảm sát trong
suốt tuyến hải hành.
___________________________________
Nguồn:
Geoff Wade
2004. The
Zheng He Voyages: A Reassessment, In The ARI Working Paper Series is published electronically by the
Asia Research Institute of the National University of Singapore, October 2004.
Tác giả: Geoff Wade (韋傑夫 Vi Kiệt
Phu)
là một sử gia chuyên về các diễn giải lịch sử Trung Quốc – Đông Nam Á và biên
niên sử so sánh, đặc biệt là công trình cơ sở dữ liệu Southeast Asia in the
Ming Shi-lu [明實錄 Minh Thực lục*]:
An Open Access Resource, cung cấp cho người đọc hơn 3000 tài liệu
tham khảo về Đông Nam Á được dẫn từ biên niên sử đời nhà Minh; ông cũng vừa chủ
biên bộ sách đồ sộ China and Southeast Asia (Routledge, 2009), gồm 6 tập
khảo sát các công trình nghiên cứu có ảnh hưởng lâu dài về các mối quan hệ Đông
Nam Á – Trung Quốc.
Tài liệu
dẫn
22
More usually Annam. The polity of Đại Việt (the Great Viet) in the early 15th
century was nowhere near as large as the modern Vietnam. It was centred on the
Red River Valley and controlled some territory to its north and to the south.
Not far to its south lay the large Austronesian polity of Champa and to its
west lay the Tai polities.
23
Ming Tai-zong shi-lu, juan 52.6a-7a. Chen Tian-ping (Trần Thiên Bình)
was a Vietnamese defector who claimed descent from the former Trần rulers.
24
These were non-Chinese troops under the “native offices” of Guang-xi, and
likely people who are today called Zhuang and Yao.
25 A shi is approximately equivalent to a hectolitre.
26 Ming Tai-zong shi-lu, juan 60.1a-4a. This figure of
8000,000 cited in the Ming shi-lu may well be an exaggeration. Whitmore
claims a figure of 215,000 was more likely. See John K. Whitmore, Vietnam, Hồ
Quý Ly and the Ming (1371-1421) (New Haven, Connecticut: Yale Centre for
International and Area Studies, 1985), p. 89.
27 Sun Laichen, Chinese Military Technology and Dai Viet
1390-1497, ARI Research Institute Electronic Working Paper No. 11,
September 2003. www.ari.nus.edu.sg/ See especially pp. 6-11 for the use of firearms by the
invading Ming armies.
28 Situated to the west of modern-day Hanoi.
29 Ming Tai-zong shi-lu, juan 62.3a-b. See also Whitmore, Vietnam,
Hồ Quý Ly and the Ming, pp. 91-92.
30 Ming Tai-zong shi-lu, juan 68.3b-7a.
31 The new name of the occupied Đại Việt.
32
Ming Tai-zong shi-lu, juan 67.3b-4a, dated to the equivalent of 26 June
1407.
33
Ming Tai-zong shi-lu, juan 71.6a.
34
Ming Tai-zong shi-lu, juan 80.3b-4a.
35
The importance of Vietnamese maritime trade in this period is underlined in
Momoki Shiro, “Đại Việt and the South China Sea Trade: From the 10th to the
15th Century,” in Crossroads, Vol 12, No. 1 (1998).
36
Tobias Rettig has drawn comparisons with the opium, alcohol and salt monopolies
implemented by the French in Vietnam more than 450 years later.
37
Peng Hui (彭蕙), “Ming-dai Hong-wu nian-jian chu-shi Nan-yang shi-jie yan-jiu”
(Research on the diplomatic missions sent to the Nan-yang during the Hong-wu
reign), Dong-nan-ya yang-jiu 2004 No 1 pp. 80-86. My thanks to Liu Hong
for drawing this article to my attention.
38
From Peng Hui’s article, we note only three eunuch envoys to Southeast Asia
over the approximately 30 years of the Hong-wu reign -- Chen Neng (陳能)
to Annam in 1378, and Zhao Da (趙達)and
Song Fu (宋福)to Siam in
1395.
39
The eunuchs sent to Jiao-zhi (the occupied Đại Việt) and Burma by the Ming
emperors were also engaged in collection of precious stones, gold and pearls. A
later reference from 1459 suggests that the obtaining of gold was a major task
of the eunuch-led voyages. See Ying-zong shi-lu, juan 307.3b.
40
Ming Tai-zong shi-lu, juan 19.
41
Ming Tai-zong shi-lu, juan 43.3b.
42
Ming Tai-zong shi-lu, juan 279.1a.
43
Anthony Reid has provided, by way of comparison, a note that the Dutch East
India Company-Verenigde Oostindische Compagnie (VOC), generally considered the
inventor of a very different kind of trade-based empire, sent 181 ships from
the Netherlands to Asia between its foundation in 1602 and 1620, providing an
average of 10 ships per year of 480 tons each. The number of people on board averaged
111 per ship over the period 1602-10 and 162 per ship in 1610-20. See J.R.
Bruijn, F.S. Gaastra and I. Schöffer, Dutch-Asiatic Shipping in the 17th and
18th Centuries - Vol. I (Den Haag, 1987), pp. 174, 144.
44
J.V.G. Mills, Ma Huan: Ying-yai Sheng-lan, ‘The Overall Survey of the
Ocean’s Shores’ [1433],
Cambridge,
published for the Hakluyt Society by Cambridge University Press, 1970. See pp.
31-32.
45
Xuan-zong shi-lu, juan 26.2a.
46
Samudera was a major entrepot-polity located near the modern the port city of
Lhokseumawe in Aceh.
47
The rise of the entrepot-polity of Malacca began in the early 15th century. The
chronological collocation between its rise and the Ming voyages was no
coincidence. It is obvious that the military support provided by the Ming
forces allowed Malacca to disregard the threats posed to new polities at this
time by both Majapahit in Java and Ayudhya in what is today Thailand.
48 Tai-zong shi-lu, juan 71.1a.
49 Tai-zong shi-lu, juan 71.5a.
50 Another likely instance of such an arrangement was Brunei. Following the death of the Brunei ruler Ma-na-re-jia-na-nai (Maharajadhirat?) in China in 1408, his son Xia-wang was sent back to the country with Chinese escorts who remained in Brunei for close to two years. At the same time, Majapahit was warned not to require Brunei to submit camphor as tribute. It is worthy of attention that Palembang and Brunei were major trade-based entities on the furthest boundaries of the Majapahit empire, areas where the Ming was trying to impose its dominance.
51 A Chinese unit of weight, often referred to as a “Chinese ounce”. During the Ming, it averaged 37 grams.
52 Tai-zong shi-lu, juan 71.6a-b.
53 The methods of the later European colonial armies in Asia, demanding compensation from the vanquished following their own military adventures, might be seen as useful comparative examples of such imperial opportunism.
54 The phonetics suggest Nawrahta, but this name does not accord with existing lists of Burman rulers.
55 Tai-zong shi-lu, juan 94.5b.
56 Tai-zong shi-lu, juan 116.2a-b.
57 Tai-zong shi-lu, juan 130.1b-2a.
58 Tai-zong shi-lu, juan 118.4a.
59 For a likely romantic account of the origins of Su-gan-la, see the account of Samudera in Ying-yai sheng-lan. This has been translated in J.V.G. Mills’ Ma Huan,Ying-yai Shen-lan, pp. 116-17.
60 A reference to the inhabitants of Ayudhya.
48 Tai-zong shi-lu, juan 71.1a.
49 Tai-zong shi-lu, juan 71.5a.
50 Another likely instance of such an arrangement was Brunei. Following the death of the Brunei ruler Ma-na-re-jia-na-nai (Maharajadhirat?) in China in 1408, his son Xia-wang was sent back to the country with Chinese escorts who remained in Brunei for close to two years. At the same time, Majapahit was warned not to require Brunei to submit camphor as tribute. It is worthy of attention that Palembang and Brunei were major trade-based entities on the furthest boundaries of the Majapahit empire, areas where the Ming was trying to impose its dominance.
51 A Chinese unit of weight, often referred to as a “Chinese ounce”. During the Ming, it averaged 37 grams.
52 Tai-zong shi-lu, juan 71.6a-b.
53 The methods of the later European colonial armies in Asia, demanding compensation from the vanquished following their own military adventures, might be seen as useful comparative examples of such imperial opportunism.
54 The phonetics suggest Nawrahta, but this name does not accord with existing lists of Burman rulers.
55 Tai-zong shi-lu, juan 94.5b.
56 Tai-zong shi-lu, juan 116.2a-b.
57 Tai-zong shi-lu, juan 130.1b-2a.
58 Tai-zong shi-lu, juan 118.4a.
59 For a likely romantic account of the origins of Su-gan-la, see the account of Samudera in Ying-yai sheng-lan. This has been translated in J.V.G. Mills’ Ma Huan,Ying-yai Shen-lan, pp. 116-17.
60 A reference to the inhabitants of Ayudhya.
Tham vọng bành trướng và tính tham lam là bản chất của Hán tộc.
Trả lờiXóaMột trong vài mục đích của tôi khi dịch những bài liên quan đến người Hán và ĐNA, trong đó có VN của chúng ta như bài này, tôi cũng muốn người đọc thấy rõ điều bạn QT đã nói ở trên.
XóaThân
HHN